|
Post by Robot on Nov 13, 2004 13:37:23 GMT -5
Món ăn chữa bệnh Khi bị cảm, bạn có thể ăn canh gà giải cảm, hoặc say sóng tàu xe chỉ cần nhai lát gừng là đỡ hẳn... Đôi khi những mẹo vặt trong văn hóa ẩm thực lại có tác dụng như những "thức ăn vị thuốc", nếu không chữa được bệnh thì cũng có ích cho sức khỏe!
1. Canh gà
Ở Ai Cập, thầy thuốc và triết gia Moshe ben Maimon (tức Maimonides) khuyên những ai có bệnh về đường hô hấp thì nên ăn canh gà. Gần chúng ta hơn, năm 1993, BS Stephen Rennard đã thực hiện một công trình nghiên cứu tác dụng của món canh gà trên qui mô nhỏ ở phòng thí nghiệm. 7 năm sau, kết quả công trình nghiên cứu của Rennard được công bố trên báo chí: canh gà (chicken soup) - dù nấu ở nhà hay mua đóng hộp sẵn ở siêu thị - đều tỏ ra có tác dụng ức chế hay giảm tính di động của bạch cầu trung tính - nhóm bạch cầu có chức năng bảo vệ cơ thể, chống nhiễm trùng. Canh gà còn giúp cải thiện được khả năng bù nước và tình trạng dinh dưỡng của cơ thể cũng như đem lại cho người ăn sự thoải mái về tâm lý và thể chất khi đang bệnh.
2. Nước cam vắt
Theo chuyên viên tiết thực Melinda Hemmelgarn - điều phối viên tại Trung tâm Truyền thông Dinh dưỡng trường Đại học Missouri, hiện nay nhiều người bị cao huyết áp chỉ vì họ thiếu cả kali (potassium) lẫn calci (calcium) trong bữa ăn; và khuyên mọi người nên uống mỗi ngày 1 ly cam vắt vì nó có tác dụng hạ huyết áp.
Nếu là sản phẩm công nghiệp, nên chọn loại nước cam vắt có tăng cường calci. Trong các loại trái cây ở nước ta, chuối cũng đem lại rất nhiều kali... Mỗi ngày, chúng ta nên ăn 1 quả cam vào buổi sáng và 1 quả chuối vào buổi chiều.
3. Nho đỏ (hay tím sẫm)
Uống nước ép nho đỏ hay tím sẫm nguyên chất 100% (chứ không phải nho xanh) khoảng 1 ly mỗi ngày sẽ rất tốt cho chức năng tim. Theo ý kiến của BS Jane E.Freedman, phụ tá giáo sư về nội khoa và dược lý trường Đại học Georgetown và là người chủ trì chính một công trình nghiên cứu mới công bố năm 2002 trong báo Circulation (Tuần Hoàn): Uống nước ép nho như vậy vừa tạo ảnh hưởng trực tiếp lên phản ứng đông máu (blood clotting), vừa làm tăng nồng độ các chất kháng ôxy hóa và làm giảm các gốc tự do trong hệ tim mạch. So với nước ép bưởi, cam, cà chua và táo, nước ép nho đỏ có hoạt tính kháng ôxy hóa mạnh gấp 3 lần. Phân tích sơ khởi các chất trong thành phần nước ép nho đỏ cho thấy nó cũng chứa những hoạt chất được tìm thấy trong trái nam việt quất (cranberry) có hiệu quả phòng tránh các bệnh nhiễm trùng đường tiểu). Hiện nay nước ta đã trồng được nho đỏ và giá khá rẻ, do đó khuyên bạn nên dùng vì rất có lợi cho sức khỏe.
|
|
|
Post by Robot on Nov 13, 2004 13:37:46 GMT -5
4. Nước ép nam việt quất
Dùng 1 ly nước ép trái nam việt quất (cranbertry juice) hay một nắm trái khô mỗi ngày sẽ thanh toán được các chứng nhiễm trùng đường tiểu. Theo bà Amy Howell, PhD, một nhà khoa học tại Trung tâm Marucci chuyên nghiên cứu trái việt quất (Blueberry) và nam việt quất (Cranberry) thuộc Trường Đại học Rutgers, các hoạt chất trong trái nam việt quất có tác dụng ngăn cản không cho vi khuẩn xâm phạm được lớp niêm mạc lót hệ thống ống dẫn đường tiểu... Loại tương đương ở Việt Nam là trái dâu tằm, cũng có màu đỏ sậm và hiện được đông y đề cao với tác dụng chống thấp khớp, đau lưng, nhức mỏi...
5. Những loại trái mọng tím như sim
Việt quất có màu tím như sim tốt cho những ai nổi gân (tĩnh mạch) xanh dưới da. Theo BS Luis Navarro - người sáng lập và là Giám đốc Trung tâm trị liệu tĩnh mạch ở New York: Việt quất tốt cho hệ tuần hoàn vì hàm chứa các chất flavonoid - là những hoạt chất giúp cho thành tĩnh mạch thêm vững chắc và các mao quản bớt rạn nứt. Những sắc tố có tên proanthocyanidin và anthocyanidin - đem lại màu xanh tím đặc trưng cho các loại trái mọng như sim - sẽ giúp tăng cường tính bền chắc cho hệ thống mạch máu nói chung. Theo BS Navarro: "Thời gian tốt nhất để bắt đầu chăm sóc đôi chân của bạn là trước khi chúng có vấn đề về tuần hoàn tĩnh mạch. “Ăn đúng những trái cây bổ ích sẽ đem lại cho đôi chân bạn năng lực và sức mạnh cần thiết để đẩy lui chứng bệnh giãn nở tĩnh mạch (to ward off varicose veins)".
6. 1/3 chén rau xanh/ngày rất tốt cho người cao tuổi
Để giảm thiểu nguy cơ "mắt kém" do lão hóa làm suy thoái điểm vàng (võng mạc) - là nguyên nhân gây mù lòa "không đảo ngược được" (irreversible blindness) ở người trên 65 tuổi, BS nhãn khoa Robert Abel có lời khuyên các cụ nên ăn nhiều rau xanh. Chất Lutein, là hoạt chất chủ yếu trong các loại rau lá xanh đậm như rau bó xôi (spinach), cải xanh (kale) và phần lá của củ cải có lợi cho mắt vì có tác dụng như một màng lọc ánh sáng (acting as a light filter), bảo vệ mắt không bị các tia nắng làm tổn thương và có tính kháng ôxy hóa, bảo vệ cho mắt không bị các tổn thương do lão hóa. Theo BS Abel - thành viên của Ban cố vấn Vụ thông tin về Lutein: Cơ thể không có khả năng sản xuất ra được lutein, nên bắt buộc ta phải ăn nhiều thực phẩm giàu lutein hoặc uống thêm những viên lutein bổ sung mới duy trì được nồng độ tối ưu về chất này trong mắt. Chưa có khuyến cáo chính thức về lượng lutein cần thiết, song một công trình nghiên cứu năm 1994 tại Trường Đại học Harvard cho thấy khoảng 6mg - tương đương với lượng lutein hàm chứa trong khoảng 1/3 chén rau bó xôi luộc sẽ có tác dụng tốt. Còn nếu mỗi ngày không nạp vào được lượng lutein ấy, thì uống 1 viên đa sinh tố với lượng lutein tương đương.
7. Thức ăn giàu tinh bột trị nhức đầu
Với những người hay bị đau nửa đầu (migraine), nên tránh một số thực phẩm thường "gây nhức đầu" (trigger foods) như sản phẩm từ sữa, sô-cô-la, trứng, các trái có múi tép (citrus fruits), thịt, lúa mì, các quả hạch (nuts) và đậu phộng, cà chua, hành tây, bắp, táo và chuối. Theo BS Neal Barnard, tác giả cuốn Thức ăn chống đau (Foods that fight pain), với chứng bệnh migraine, một điều khá nghịch lý là chính những thức ăn được xem là “thủ phạm” có khi lại làm... bớt nhức đầu. Chẳng hạn chất caffein, có thể làm một số người uống vào nhức đầu, nhưng một số người đang nhức đầu uống vào thì bớt hẳn. Bạn cũng có thể bớt nhức đầu nhờ các thức ăn giàu tinh bột (starchy foods) như bánh mì nướng (toast), bánh qui (crackers), khoai tây, là những thức ăn có khả năng làm giảm nhức đầu hay buồn nôn, thậm chí có thể rút ngắn hẳn cơn đau nửa đầu khi đã bị đau.
8. Gừng trị say sóng tàu xe
Những người hay bị say sóng tàu xe thường ngại đi xa. Nhưng BS Barnard đã có tin vui trấn an họ: Theo các nghiên cứu mới đây, người ta đã chứng minh là gừng có tác dụng làm giảm chứng buồn nôn và nôn do say sóng tàu xe hiệu quả hơn cả thuốc dimenhydrinate (Dramamine), thường hay được uống để khắc phục chứng say sóng tàu xe. Để giúp bao tử được "êm", BS Barnard khuyên nên uống 1/2 đến 1 muỗng cà phê (khoảng 1-2g) bột gừng (powdered ginger). Các cửa hàng thuốc cũng thường bán những viên nang gelatin sẵn chứa liều bột gừng cho dễ uống. Chỉ cần uống 2 viên nang khoảng 30 phút trước khi lên xe là đạt yêu cầu.
9. Ăn hạnh nhân để không bị lú lẫn
Chỉ cần ăn một vốc khoảng 2 ounces hạnh nhân (almonds), có thể sẽ giúp bạn không bị bệnh lú lẫn (Alzheimer) tấn công. Trong một công trình nghiên cứu do các Viện y tế Quốc gia Hoa Kỳ thực hiện, các tác giả đã khám phá là vitamin E trong hạnh nhân có tác dụng như một chất kháng ôxy hóa (antioxidant), có khả năng làm giảm tiến trình suy thoái não bộ do lão hóa.
(Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Robot on Nov 16, 2004 9:33:56 GMT -5
Các loại nước ép trái cây tốt nhất Hiệp hội Khoa học Australia đã nghiên cứu về công dụng của các loại nước ép trái cây và kết luận, loại đồ uống này rất tốt cho sức khỏe, nhất là trong điều kiện thời tiết khô và nóng bức. Dưới đây là những loại nước ép trái cây thuộc hàng “top ten” mà các chuyên gia ẩm thực Australia khuyên dùng.
Nước xoài ép
Nước ép trái xoài là “kho” vitamin A, C, E. Ba loại vitamin này có tác dụng rất tốt trong việc chống lại những gốc tự do gây bệnh, làm trì hoãn tiến trình lão hóa. Một ly nước xoài cung cấp 16% nhu cầu về chất sắt mỗi ngày ở phụ nữ.
Nước cam tươi
Một ly nước cam tươi khoảng 160 ml sẽ cung cấp được 75 kcal và hơn 50% nhu cầu trong ngày về vitamin C cho phụ nữ. Loại flavonoid có trong nước cam sẽ kết hợp với vitamin C, giúp tăng cường hệ miễn dịch và bảo vệ mao mạch. Nước cam tươi còn là nguồn cung cấp phong phú thiamine và folate. Thiamine tham gia vào quá trình tổng hợp năng lượng, còn folate giúp gia tăng chất lượng máu, ngăn ngừa những khiếm khuyết như bệnh nứt đốt sống ở bào thai.
Nước ép cà rốt
Một ly nước ép cà rốt 160 ml cung cấp 64kcal. Nó có hàm lượng cao các chất kali, magiê, canxi và là nguồn cung cấp beta-carotene, carotenoid tuyệt hảo để từ đó cơ thể chuyển hóa thành vitamin A, giúp tăng cường thị lực về ban đêm và giảm nguy cơ bệnh đục thủy tinh thể. Ngoài ra, những chất chống oxy hóa trong carotenoid còn giúp giảm nguy cơ bị ung thư phổi, dạ dày và bàng quang.
Nước ép cà rốt còn chứa một chất chống oxy hóa hữu hiệu khác là acid alphalipoic, giúp tăng cường khả năng của vitamin A, C, E trong việc loại bỏ những gốc tự do độc hại khỏi cơ thể.
Nước ép cà chua
Nước ép cà chua là nguồn cung cấp vitamin A và C rất tốt, giúp vô hiệu hóa các gốc tự do gây nên bệnh ung thư, tim mạch và lão hóa da.
Cà chua còn là nguồn lycopene phong phú. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc dùng nhiều cà chua có thể làm giảm đến 48% nguy cơ bị bệnh tim. Qua tổng kết của 72 công trình nghiên cứu gần đây, người ta cũng khám phá lycopene có tác dụng đặc biệt hữu hiệu trong việc giảm nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến.
Nước ép nho đỏ
Nước ép nho đỏ có khả năng chống lão hóa tuyệt hảo; chứa những flavonoid tương tự như trong rượu vang đỏ, giúp mở rộng mạch máu và tăng cường lượng máu chảy đến bề mặt da. Chất quenetin trong nước nho đỏ có tác dụng ngăn ngừa sự kết tụ máu, phòng chống được bệnh tim mạch.
Trong phòng thí nghiệm, chất resveratrol trong nước nho đỏ đã được chứng minh có những hoạt tính kháng ung thư.
Nước ép táo
Nước ép táo rất thơm ngon và chứa một số vitamin, nhiều nhất là vitamin C. Một ly 160 l cung cấp 61 cal và gần 50% nhu cầu bổ sung dưỡng chất hằng ngày ở nhóm tuổi 19-50. Tuy nhiên, so với những loại nước ép trái cây khác, nước ép táo có ít vitamin và khoáng chất hơn.
Nước ép bưởi
Đây là nguồn cung cấp beta - carotene, một chất chống oxy hóa hữu hiệu, có thể làm giảm nguy cơ của nhiều loại ung thư. Bưởi đào chứa lycopen giúp giảm thiểu nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt, phổi, dạ dày, tuyến tụy, ruột, vú... Lycopen cũng giúp ngăn ngừa sự hình thành những cục huyết khối, do đó giúp giảm thiểu nguy cơ bệnh tim mạch và đột quị.
Nước ép dứa
Nước ép quả này chứa rất nhiều vitamin C. Men bromelain trong dứa được xem là có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa, giảm triệu chứng sổ mũi, giúp mau lành những vết thương nhỏ, đặc biệt là căng nhức cơ, bong gân. Những nghiên cứu mới đây cho thấy bromelain có tác dụng làm giảm hiện tượng sưng phồng, bầm giập và đau đớn đối với những sản phụ trải qua các phẫu thuật nhỏ trong khi sinh. Bromelain cũng có thể giúp giảm triệu chứng của bệnh hen, đau thắt ngực, viêm phế quản.
(Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Robot on Nov 17, 2004 12:02:50 GMT -5
Các nguyên liệu từ cây sen có thể chế biến thành những món ăn ngon và rất có lợi cho sức khỏe. Dưới đây xin giới thiệu vài món ăn có nguyên liệu từ sen. Cơm gói lá senCác chất trong lá sen có thế làm giảm cholesterol một cách rõ rệt, điều trị hội chứng rối loạn lipid máu và giảm béo. Lá sen làm huyết lưu thông, sức khỏe chóng hồi phục. Cách làm: Chiên cơm, sau đó cho các nguyên liệu chả lụa, đậu pípo, cà-rốt, hạt sen tươi, thịt xá xíu, tôm sú luộc chín, sắc hạt lựu và gia vị vào trộn đều với nhiệt độ. Xào đến khi nào cơm ráo, cho hành lá vào, nêm nếm cho vừa ăn. Lá sen mang hấp khoảng 1 phút cho dịu lại, sau đó cho cơm vào lá sen gói lại. Cắt lá sen trang trí cho đẹp, đặt bông sen lên trên, ăn kèm với nước tương. Gỏi ngó senNgó sen giúp khử nhiệt, ăn đều ngó sen sẽ tăng sức khỏe. Cách làm: Luộc tôm sú, bóc vỏ và thịt nạc đùi đã sắt sợi mỏng. Sau khi trộn tôm và thịt nguội với ngó sen đã cắt sẵn, hành tây, cà rốt, rau răm, thêm một ít nước mắm, đường và nước cốt chanh vào và ít nước mắm ớt. Sau đó trộn đều để khoảng 5 phút cho ngấm, bày ra đĩa. Củ sen hầm thịtCủ sen chứa nhiều chất dinh dưỡng như các protein và vitamin C. Củ sen chưa nấu chín có thể làm giảm nhiệt bên trong mạch máu và làm giảm thâm tím. Củ sen nấu chín có thể giúp tăng cường chức năng tim và dạ dày, có tác dụng tốt cho giấc ngủ tốt. Cách làm: Củ sen gọt vỏ, cắt khúc ngâm trong nước có pha chanh để củ sen hết mùi bùn và không bị thâm. Hầm giò heo cho nhừ, tiếp tục cho củ sen vào hầm khoảng 10 phút, nêm nếm cho vừa ăn, cho thêm một ít đường cho dịu nước hầm. Dùng nóng. Chè hạt senChè hạt sen Hạt sen là vị thuốc bổ dưỡng có tác dụng kích thích ăn ngon, hấp thụ tốt các chất dinh dưỡng, dưỡng thần, tăng khí huyết cả 12 kinh mạch, giúp ngủ ngon, chóng phục hồi sức khỏe. Cách làm: Hạt sen rửa sạch bỏ vào nồi nấu lửa nhỏ cho mềm. Sen mềm thì nêm đường cho vừa ăn. (Theo CNTD)
|
|
|
Post by Robot on Dec 10, 2004 13:17:48 GMT -5
Mật ong ngăn chặn được ung thư
Mật ong và sữa ong chúa có thể trở thành vũ khí lợi hại chống lại bệnh ung thư trong tương lai không xa. Các nhà khoa học Croatia mới phát hiện ra rằng 2 chất trên cùng với một loạt sản phẩm do ong làm ra có thể ngăn chặn và tiêu diệt tế bào ung thư ở chuột.
Tiến sĩ Nada Orsolic và cộng sự tại Đại học Zagreb (Croatia) đã tiến hành tìm hiểu tác dụng ngăn chặn và chữa trị ung thư của mật ong, sữa ong chúa cũng như các sản phẩm từ ong khác như keo, nọc ong.
Họ đã tiêm tế bào ung thư vào cơ thể chuột để tạo ra các khối u ở chúng. Sau đó, những con chuột được tiêm từng loại sản phẩm từ ong trước, cùng và sau khi tiêm tế bào ung thư.
Kết quả cho thấy, ở những con chuột được tiêm sữa ong chúa trước khi tiêm tế bào ung thư, sự phát triển của khối u đã bị chặn lại. Tuy nhiên, tiêm sữa ong chúa sau khi tiêm tế bào ung thư lại kích thích sự phát triển của các khối u. Trong khi đó, tiêm sữa ong chúa cùng lúc với tế bào ung thư có tác dụng ngăn chặn sự di căn của ung thư. Tiêm mật ong vào các khối u làm giảm đáng kể sự lây lan của ung thư.
Khi tiêm keo ong hoặc axit caffeic, một chất có trong keo ong, các chuyên gia nhận thấy sự lây lan của ung thư ở dưới da đã giảm đáng kể và thời gian sống của chuột được kéo dài hơn.
Hiện các nhà khoa học chưa rõ tại sao các sản phẩm từ ong lại có thể tấn công tế bào ung thư. Tuy nhiên, họ cho rằng rất có thể các hóa chất trong các sản phẩm từ ong gây ra hội chứng tự chết ở tế bào hoặc hội chứng chết hoại của tế bào ung thư. Hai khả năng khác là chúng làm giảm lượng phân tử gốc có chứa oxi độc hại trong tế bào, dịch lỏng của cơ thể hoặc kích thích hệ miễn dịch tấn công khối u.
Như vậy, có thể thấy các sản phẩm từ ong, đặc biệt là sữa ong và keo ong, có các đặc tính chống ung thư rất quý. Việc dùng mật ong rất có lợi trong việc ngăn ngừa và tiêu diệt khối u, nhóm nghiên cứu kết luận.
Việt Linh (theo BBC)
|
|
|
Post by Robot on Dec 12, 2004 13:34:47 GMT -5
Ăn gì để giảm cholesterol?
Để sử dụng “mỡ tốt”, khi trộn salad ta nên dùng các loại dầu ăn như dầu lúa mạch, dầu đậu nành và hạt dẻ nhằm cung cấp thêm chất Omega 3. Để nấu ăn, nên dùng dầu olive (cho acid béo đơn, không no) và dầu bắp.
Nếu lượng cholesterol tăng không quá cao thì phương pháp điều trị ban đầu là có thể dùng một chế độ ăn hợp lý để điều chỉnh dần mà không cần dùng thuốc. Việc thay đổi chế độ ăn trong 3-5 tháng có thể làm giảm 10-15% lượng cholesterol trong máu. Chế độ ăn được khuyên dùng không phải là ăn kiêng khắt khe, mà chỉ dùng nhiều những thức ăn có lợi hơn cho sức khỏe.
Các loại thịt
Liều lượng mỡ trong thịt tùy thuộc vào loài động vật và vị trí miếng thịt.
Thịt cừu: Tất cả đều béo.
Thịt bò: Không nên hầm hay nấu lẩu. Nên dùng beefsteak hay thịt đùi, thịt sườn cắt lát mỏng.
Thịt lợn: Không chọn thịt nọng và cốt-lết, có thể ăn thịt đùi và jambon.
Thịt bê: Nói chung đều ít mỡ.
Thịt ngựa: Cũng ít mỡ, có thể dùng.
Gà tây, thỏ hay thịt rừng là những loại thịt lý tưởng nếu chúng ta nấu với mỡ ít béo và không ăn da.
Các loại sữa
Kem của sữa đem lại chất béo có hại.
Các loại phomat mềm như camenbert chứa ít chất béo hơn loại cứng.
Yaourt có nửa kem hay hoàn toàn kem đều có chứa canxi.
Các loại cá
Hãy chọn cá béo ở biển lạnh vì chúng rất giàu Omega 3 (maquereau, lươn, cá nục, cá hồi) hoặc các loại cá hơi béo (cá trích, cá mè, cá cơm). Tất cả các loại cá đều nghèo acid béo có hại. Một vài loại như cá hồi đại dương chứa rất nhiều Omega 3.
Ăn cá giúp tránh được tình trạng đông máu cục bộ hoặc nghẽn mạch máu. Cá rất tốt cho tim với điều kiện không chế biến bằng cách chiên, chỉ nên hấp cách thủy hoặc nướng.
Trái cây và rau quả
Nên dùng nhiều mỗi ngày vì chúng có chứa các chất chống oxy hóa, chống lại gốc tự do, bảo vệ cơ thể. Tuy nhiên, những người bị bệnh tiểu đường không nên dùng nhiều các loại trái cây ngọt có chứa đường (nhãn, mít, sầu riêng...).
Các chất xơ dễ tan trong nước có nhiều trong rau, lúa mì và táo. Nó hạn chế chất mỡ đi vào máu và giữ lại trong đường tiêu hóa. Ngoài ra chúng còn giữ lại acid mật (acid này sẽ tạo ra cholesterol ở gan).
Nếu bạn tham dự một buổi tiệc có món thịt đùi hầm bơ và phomat, món tráng miệng làm bằng sữa nguyên chất... thì cũng đừng quá lo lắng, chỉ lưu ý sau đó hãy trở lại với thói quen ăn uống thường ngày. Thật sự không cần thiết phải uống quá nhiều nước và đi bộ kéo dài, mà hãy tuân thủ theo nguyên tắc ăn uống như trên.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Dec 14, 2004 7:55:55 GMT -5
Vai trò của chất xơ trong dinh dưỡng hợp lý
Dưa leo - một loại rau xanh là nguồn cung cấp chất xơ tốt nhất cho cơ thể
Chất xơ là các polysacclarides không tiêu hóa được khi ăn, bao gồm các chất như cellulose, pectin, lignin... có trong các loại thức ăn thực vật là rau, củ, quả. Tùy theo độ phân tán trong nước mà chất xơ được chia thành 2 loại là tan và không tan. Tất cả các thức ăn thực vật đều có cả 2 loại chất xơ này. Thực phẩm chứa nhiều chất xơ là các loại rau, trái cây, đậu đỗ, ngũ cốc nguyên xơ.
Theo bảng thành phần dinh dưỡng thực phẩm Việt Nam của Viện Dinh dưỡng 2000, thức ăn chứa nhiều chất xơ cellulose được sắp xếp theo thứ tự từ nhiều đến ít như sau:
- Nhóm ngũ cốc: cám gạo mè, bánh mè đen, khoai mì, khoai lang, đậu xanh, đậu đũa, đậu rồng, đậu đen, đậu nành, hạt đậu cô ve, mè đen.
- Nhóm rau: măng khô, nấm mèo, rau câu, măng tre, rau má, bắp chuối, đu đủ xanh, cải soong, xương rồng, bồ ngót, rau dền, rau lang, cải trắng, cần ta, rau muống.
- Nhóm trái cây: chuối khô, vú sữa, thanh long, sầu riêng, cam, cái dừa, mít dại, nhãn, nho khô.
Tuy chất xơ không sinh năng lượng như các chất bột đường, đạm và béo nhưng nó có vai trò rất quan trọng trong dinh dưỡng hợp lý nhờ tác dụng của nó với các chức năng sau:
+ Với ruột già: Chất xơ có tác dụng chống táo bón nhờ khả năng giữ nước làm phân mềm và tăng khối lượng phân làm kích thích nhu động ruột. Ngoài ra, chất xơ ở ruột già có tác dụng tăng khả năng lên men của vi khuẩn ruột già với các polysaccharides, sinh ra các acid chuỗi ngắn là nguồn năng lượng cho tế bào niêm mạc già.
+ Với cholesterol máu: Chất xơ có tác dụng làm giảm cholesterol máu do làm giảm hấp thu cholesterol vào máu nhờ tác dụng gắn với acid mật trong ruột làm giảm nhũ tương hóa chất béo của thức ăn. Đồng thời chất xơ làm tăng thải acid mật nên lại kích thích tạo acid mật từ cholesterol, do đó giảm cholesterol trong cơ thể (acid mật được tạo từ cholesterol).
+ Với đường máu: Chất xơ làm giảm đáp ứng đường máu sau khi ăn nhờ tính nhầy và thể tích phân tử lớn. Chất xơ bao quanh thức ăn ở ruột làm men tiêu hóa khó tiếp xúc với thức ăn, và thức ăn không được tiêu hóa khó được hấp thu. Đồng thời chất xơ lưu lại trong dạ dày lâu tạo cảm giác no làm cho ăn ít đi.
+ Với sự điều chỉnh cân nặng: Chất xơ có tác dụng giảm cân nhờ những tính chất trên: giảm hấp thu chất béo, tạo cảm giác no lâu giúp ta ít thèm ăn và ức chế men tiêu hóa giảm tốc độ tiêu hóa thức ăn.
Vì những tác dụng trên nên nếu khẩu phần ăn thiếu chất xơ thì sẽ gây những hậu quả không tốt như táo bón. Táo bón lâu ngày gây giãn trực tràng, trĩ và nguy cơ ung thư đại tràng cao. Ăn nhiều gây béo phì với những hậu quả của nó là tiểu đường, bệnh tim mạch.
Vậy chúng ta nên ăn uống như thế nào cho hợp lý: Tức đủ chất dinh dưỡng và chất xơ ?
Theo khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng quốc gia, mỗi ngày một người lớn cần ăn khoảng 35 loại thực phẩm khác nhau, trong đó đảm bảo trên 400 gram rau và trái cây.
Những trường hợp thường không đủ lượng rau và trái cây là:
* Ăn hàng, ăn tiệm, cơm hộp do công tác, du lịch.
* Người già khả năng nhai kém.
* Trẻ em.
* Người bệnh - đặc biệt là những người phải ăn qua ống thông.
Những trường hợp này chúng ta cần phải bổ sung chất xơ từ những chế phẩm công nghiệp như những loại nước giải khát có chất xơ - dạng nước hay bột. Tuy nhiên người tiêu dùng nên lưu ý thêm các thành phần dinh dưỡng khác có trong các loại sản phẩm này như muối, đường, kali... để chọn lựa loại phù hợp nhất đối với sức khỏe của mình.
BS NGUYỄN THỊ HOA (Trưởng khoa Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi đồng 1, TP Hồ Chí Minh) - Theo Thanh Niên
|
|
|
Post by Robot on Jan 2, 2005 9:52:18 GMT -5
Những thực phẩm tốt cho tóc
Hãy ăn nhiều những thực phẩm giàu sắt vì đây là thành phần chủ yếu giúp mọc tóc. Tuy nhiên, bạn nên chọn những loại thức ăn chứa sắt mà cơ thể dễ hấp thu. Chẳng hạn, sắt trong thịt cá dễ hấp thụ hơn là trong ngũ cốc, rau khô, hoa quả và các sản phẩm sữa.
Các thực phẩm giàu chất sắt gồm cacao, thịt thỏ, thịt gia cầm, đậu nành, lúa mì, thịt bê, lươn, tim bò, thịt bò, lạc, lòng đỏ trứng. Ngoài việc chọn thức ăn giàu loại sắt dễ hấp thu, bạn còn nên bổ sung vitamin C để kích thích cơ thể tiếp nhận sắt; hạn chế dùng trà, cà phê vì chúng có tác dụng ngược lại.
Keratin (một loại đạm) cũng là thành phần chủ yếu cấu tạo nên tóc. Để cơ thể tổng hợp được chất này một cách dễ dàng, bạn nên ăn các thức ăn giàu chất đạm. Thịt, cá và rau đều chứa đạm, vậy bạn nên ưu tiên loại thực phẩm nào đây? Các protein nguồn gốc động vật tốt cho tóc hơn là các đạm thực vật; bởi tóc của bạn rất cần tới một thành phần có tên là axit amin huỳnh. Người ta tìm thấy các axit này chủ yếu trong thịt. Tuy nhiên, các loại thịt kém chất lượng lại có ít axit amin huỳnh. Ngoài ra, thịt càng mỡ, hàm lượng đạm càng ít. Vì vậy, bạn nên ăn các loại thịt cá nạc chất lượng cao.
Kẽm là một nguyên tố vi lượng không thể thiếu trong quá trình tổng hợp protein và phân chia tế bào. Thiếu kẽm, bạn sẽ có nguy cơ rụng tóc. Những nguồn thực phẩm cung cấp nhiều kẽm nhất là sò huyết, hải sản, thịt và gan. Nếu bạn không hay ăn những đồ này, có thể thay thế bằng lúa mì non, pho-mát, hạt dẻ.
Nhóm vitamin B cũng đóng vai trò quan trọng trong sức khỏe của tóc. Chúng giúp cho chân tóc thêm khỏe và tham gia vào quá trình sản xuất keratin. Vitamin B1 có nhiều trong men thực phẩm, lúa mì non, thịt lợn nạc, lạc, giăm bông, đậu đỏ, xúc xích. Vitamin B2 có nhiều trong men thực phẩm, gan. Vitamin B3 có nhiều trong men thực phẩm, cà phê hòa tan, lạc, gan chín, cá ngừ, thịt gia cầm, cá hồi hun khói. Vitamin B6 có nhiều trong men thực phẩm, cá hồi, khoai tây.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Jan 12, 2005 10:51:48 GMT -5
Dầu oliu giảm nguy cơ bị ung thư vú TTO - Thực đơn ăn chay giàu dầu oliu dường như có thể giảm nguy cơ bị ung thư vú, các nhà khoa học ở Chicago cho biết. Chìa khóa của vấn đề này là thành phần axít oleic có trong dầu oliu.
Một số nghiên cứu trước đây tiến hành trên phụ nữ đã cho thấy ăn chay có thể giảm nguy cơ bị ung thư vú, nhưng chưa có dữ liệu không phù hợp và không có những bằng chứng mạnh mẽ cho thấy dầu oliu có thể giảm nguy cơ bị ung thư.
Các chuyên gia đã biết ở những bệnh nhân có khả năng bộc phát ung thư cao, số lượng gene Her-2/neu xuất hiện nhiều và khoảng 30% ở những người bị ung thư vú. Thí nghiệm của các chuyên gia ở ĐH Northwestern cho thấy axít oleic trong dầu oliu không chỉ ngăn chặn hoạt động của gene Her-2/neu mà còn làm tăng hiệu quả của thuốc điều trị ung thư, herceptin, có thể giúp bệnh nhân kéo dài sự sống.
Bác sĩ Javier Menendez, phụ trách nghiên cứu cho biết: "Phát hiện của chúng tôi giúp củng cố thêm bằng chứng cho những nghiên cứu về dịch tễ học để chứng minh thực đơn ăn chay có hiệu quả chống lại ung thư vú, bệnh tim và sự lão hóa".
Tuy nhiên, "Đây mới chỉ là nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và rất cần nhiều công việc khác để xác định có hay không tầm quan trọng của chúng đối với nguy cơ bị ung thư vú ở phụ nữ", giáo sư Tim Key, quyền giám đốc viện nghiên cứu ung thư Anh, Oxford cho biết.
Mỗi năm có hơn một triệu trường hợp bị ung thư vú. Trong năm 1998, ung thư vú là nguyên nhân dẫn đến 1,6% số lượng tử vong của phụ nữ, báo cáo của trung tâm nghiên cứu ung thư ở Lyon, Pháp cho biết.
T.L (Theo BBC News, Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Jan 14, 2005 12:43:24 GMT -5
Bột cari có thể chữa bệnh Alzheimer
Loại hợp chất mang lại màu vàng cho bột cari cũng có thể phá vỡ những chất độc xâm hại bộ não của bệnh nhân Alzheimer.
Các nhà khoa học tìm thấy curcumin, một thành phần của cây nghệ mang lại màu vàng cho bột cari, có thể giảm sự tích tụ của protein beta-amyloid trong não chuột già thường xuyên ăn cây nghệ. Ngoài ra, khi các nhà nghiên cứu bổ sung một lượng curcumin nhỏ vào protein beta-amyloid của con người trong ống nghiệm, hợp chất đã làm cho các protein không kết khối và ngăn chặn sự hình thành sợi tinh bột tạo nên bệnh Alzheimer.
Sự tích tụ protein beta-amyloid trong não là một trong những dấu hiệu của bệnh Alzheimer.
Kết quả đã chứng tỏ bột cari vừa có thể điều trị Alzheimer vừa giảm nguy cơ phát triển bệnh, tác giả nghiên cứu Gregory M. Cole tại Đại học California, Mỹ, nhận định. "Vấn đề cần tìm hiểu chính là cần một lượng bao nhiêu để điều trị bệnh Alzheimer và chúng có thực sự an toàn ở người già?", ông nói.
Từ lâu curcumin đã được sử dụng như một loại thuốc truyền thống ở Ấn Độ, và nay nó đang được nghiên cứu như một liệu pháp tiềm năng điều trị ung thư. Nghiên cứu trên động vật đã cho thấy hợp chất này có thể điều trị bệnh đa xơ cứng và xơ nang.
M.T. (theo Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Jan 19, 2005 12:09:09 GMT -5
Hải sâm, thực phẩm và vị thuốc quýTrong những năm gần đây, các nhà khoa học có xu hướng quay về nghiên cứu động thực vật trên cơ sở khai thác kinh nghiệm y học cổ truyền nhằm tạo ra các chế phẩm tăng lực giàu hoạt chất sinh học nguồn gốc tự nhiên. Các chế phẩm này được gọi là các "thực phẩm chức năng" (functional food) hay "thực phẩm - thuốc" (alicaments), vừa có giá trị dinh dưỡng cao vừa có giá trị dược liệu quý như nhung hươu, rắn, rùa, yến, hải long, hải mã... Trong đó không thể không kể đến hải sâm, một động vật biển đã được sử dụng hàng trăm năm nay với tác dụng bổ dưỡng, hồi phục sức khỏe và tăng cường sinh lực. Hải sâm - vị thuốc quý trong "tứ đại danh thái" Hải sâm có tên khoa học là Stichopus japonicus selenka, là một loại động vật không xương sống, sống ở biển, trên đáy cát hoặc san hô chết, tập trung nhiều nhất ở độ sâu 2-5m, hay gặp ở vùng vịnh và những nơi có nhiều đá ngầm. Hải sâm phân bố ở vùng biển Đông châu Phi, Đông Ấn Độ, Tây và Nam Thái Bình Dương. Ở nước ta, có khá nhiều ở vùng biển Khánh Hòa (Hòn Khói, Hòn Đôi, Hòn Tai, Hòn Rùa, Hòn Tre, Hòn Miễu...), đảo Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu... Theo y học cổ truyền, hải sâm vị mặn, tính ấm, vào được kinh Tâm, Tỳ, Thận và Phế, có công dụng bổ thận ích tinh, dưỡng huyết nhuận táo, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như tinh huyết hao tổn, hư nhược, liệt dương, di tinh, mộng tinh, tiểu tiện nhiều lần, táo bón... Các y thư cổ như Bản thảo tùng tân, Bản thảo nhiếp yếu, Bản thảo cầu nguyên, Dược tính khảo, Cương mục thập di, Tùy tức cư ẩm thực phổ, Dược tính chỉ nam... đều đã nói đến hải sâm với những kiến giải khá sâu sắc. Ví như sách Dược tính chỉ nam đã viết: "Hải sâm bổ được thận kinh, ích được tinh tủy, tiêu được đờm dãi, giữ gìn điều nhiếp được tiểu tiện, có tính tráng dương đạo, sát được trùng, chữa được những chứng lở có sâu, lại giáng được hỏa, bổ ích cho thận, thông lợi được tràng vị, nhuận được chỗ táo kết, chữa được mọi chứng hư lao, ốm yếu gầy còm". Tựu trung lại, theo quan điểm của y học cổ truyền, hải sâm có công dụng khá phong phú: (1) Bổ ích cường tráng, đặc biệt tốt đối với các trường hợp tinh huyết hư tổn. (2) Bổ thận điền tinh, thích hợp với các trường hợp di tinh, liệt dương, tiểu tiện nhiều lần về đêm. (3) Tư âm nhuận táo, dùng rất tốt cho những người bị táo bón, tiêu khát (tiểu đường). (4) Lợi niệu thoái hoàng, thích hợp cho những trường hợp bị phù thũng nguyên nhân do thận và bệnh lý vàng da do các nguyên nhân khác nhau. (5) Bổ huyết, thường dùng cho các trường hợp thiếu máu. (6) Kháng ung, thường dùng để điều trị hỗ trợ cho các trường hợp ung thư. Bởi vậy, từ xa xưa, hải sâm đã được coi là một trong "tứ đại danh thái" (bốn loại thực phẩm nổi tiếng) cùng với óc khỉ, tay gấu và yến sào của ẩm thực cổ truyền phương Đông và được mệnh danh là "nhân sâm của biển cả". Về mặt thực phẩm, nhiều y gia coi thịt hải sâm là một trong tám món ăn “cao lương mỹ vị” nổi tiếng (bát trân) của phương Đông cùng với yến sào, bào ngư, vây cá...
|
|
|
Post by Robot on Jan 19, 2005 12:09:36 GMT -5
Nghiên cứu về hải sâm của y học hiện đại
Theo kết quả nghiên cứu của dinh dưỡng học hiện đại, hải sâm là một trong những loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng hết sức phong phú. Các nhà khoa học Trung Quốc ước tính cứ 100g hải sâm khô có chứa 75,6g protein, cao gấp 5 lần so với thịt lợn nạc và 3,5 lần so với thịt bò, chỉ số này ở hải sâm Việt Nam là 63,23-67,22g. Trong hải sâm còn có hàm lượng cao các acid amin quý như lysine, proline, arginine, histadine, acid glutamic, thionine, leucine, isoleucine, acid aspartic, tyrosine... và nhiều nguyên tố vi lượng như P, Cu, Fe, Mn, Zn..., đặc biệt là Se - một chất giải độc kỳ diệu, làm vô hiệu hóa các kim loại nặng đi vào cơ thể qua đường ăn uống như Pb, Hg để thải ra nước tiểu. Ngoài ra, trong thành phần hải sâm còn có các loại vitamine như B1, B2, B12, C..., hormone testosteron và progesteron, các chất có hoạt tính sinh học như lectin, saponin glucoside (các glucoside triterpen), trong đó có 2 loại saponin là Rg (gây hưng phấn thần kinh, chống mỏi mệt và tăng cường thể lực) và Rh (có tác dụng ức chế tế bào ung thư ).
Kết quả nghiên cứu dược lý học hiện đại cho thấy, hải sâm có tác dụng tăng cường sức đề kháng và nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, ức chế quá trình sinh trưởng và di căn của các tế bào ung thư; Chống mệt mỏi cơ bắp, duy trì trạng thái hoạt động cao; Chống lão hóa; Tăng cường hoạt động của thần kinh và tăng phản xạ, ổn định tâm lý; bổ sung các yếu tố tạo máu, tăng tuần hoàn máu, cải thiện khả năng hấp thu oxy và chống mệt mỏi cơ tim; Xúc tác các phản ứng enzyme, thúc đẩy quá trình chuyển hóa và hấp thu, tăng sinh tổng hợp protein. Hơn nữa, do chứa rất ít lipid (1,35-3,05%) và hầu như không có cholesterol nên hải sâm là loại thực phẩm bồi bổ lý tưởng cho những người bị rối loạn lipid máu và bị các bệnh lý động mạch vành tim.
Hải sâm và những bài thuốc phối hợp
Để đạt được mục đích vừa làm thực phẩm bổ dưỡng, vừa làm thuốc chữa bệnh, người ta thường phối hợp dùng hải sâm với một số thực phẩm hoặc vị thuốc khác chế biến thành các món ăn - bài thuốc rất độc đáo. Ví dụ như, để chữa viêm loét dạ dày tá tràng, dùng ruột hải sâm để trên ngói đất, sấy thật khô rồi nghiền thành bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 0,5-1g.
Chữa đái tháo đường, dùng hải sâm 2 con, trứng gà 1 quả, tụy lợn 1 cái, ba thứ đem hấp chín rồi ăn, cách 1 ngày dùng 1 lần.
Chữa thiếu máu, dùng hải sâm và đại táo (bỏ hạt) lượng bằng nhau, đem sấy khô rồi tán thành bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 9g với nước ấm hoặc dùng hải sâm 1 con đem hầm với mộc nhĩ lượng vừa đủ và một chút đường phèn, ăn trong ngày.
Chữa ho ra máu do lao phổi, dùng hải sâm 500g, bạch cập 250g, quy bản 120g, ba thứ sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 15g với nước ấm.
Chữa suy nhược thần kinh do thận hư (đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, tai ù tai điếc, mất ngủ, di tinh, xuất tinh sớm), dùng hải sâm 30g ninh với gạo nếp 100g thành cháo, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Để chữa cao huyết áp và vữa xơ động mạch, dùng hải sâm 50g hầm nhừ, chế thêm một chút đường phèn, ăn trong ngày.
Chữa chứng táo bón do âm hư, dùng hải sâm 30g, đại tràng lợn 120g làm sạch, mộc nhĩ đen 15g, ba thứ đem hầm nhừ, chế thêm gia vị, ăn liên tục trong nhiều ngày.
Chữa chứng đau lưng và suy giảm trí nhớ do thận hư, dùng hải sâm 30g, xương sống lợn 60g, hạch đào nhân 15g, ba thứ làm sạch, hầm nhừ, chế đủ gia vị, ăn trong nhiều ngày.
Chữa chứng dương nuy (liệt dương), dùng hải sâm 20g hầm với thịt dê 100g, ăn trong ngày; Chữa liệt dương, di tinh, tinh lạnh do thận hư, dùng hải sâm 480g (sao thơm), hạch đào nhân 100 hạt, thận dê 4-6 đôi, đỗ trọng 240g, thỏ ti tử 240g, ba kích 124g (sao với nước cam thảo), kỷ tử 120g, lộc giác giao 120g, bổ cốt chi 120g (sao muối), đương quy 120g, ngưu tất 120g (sao dấm), quy bản 120g (sao dấm), tất cả sấy khô, tán thành bột rồi luyện với mật ong làm thành viên hoàn, mỗi viên nặng chừng 9g, mỗi ngày ăn 3 lần, mỗi lần 3 viên.
Để chữa động kinh, dùng nội tạng hải sâm sấy khô, nghiền thành bột, mỗi lần uống 12g với rượu vàng, liên tục trong nhiều ngày.
Chữa trĩ xuất huyết, dùng hải sâm lượng vừa đủ đem đốt tồn tính, mỗi lần dùng 1,5g hòa với a giao 6g trong nước sôi cho tan rồi uống, mỗi ngày uống 3 lần.
Theo SK&ĐS
|
|
|
Post by Robot on Jan 23, 2005 11:18:32 GMT -5
10 thứ rau quả giúp trẻ lâu
Sự kỳ diệu của các loại rau quả là đem đến cho các bạn gái sức khỏe và tuổi trẻ bằng các loại vitamin tự nhiên. Chúng khiến cho quá trình lão hóa của bạn chậm lại và khiến cho làn da luôn mịn màng, nếp nhăn biến mất và vóc dáng cân đối, nhanh nhẹn. Có ít nhất 10 loại rau quả đem đến điều kỳ diệu ấy.
1. Bắp cải: Nhất là cải thảo, chứa những chất chống bệnh dạ dày và ung thư vú. Khi ăn, không nên nấu nhừ.
2. Cà chua: Chứa chất lycopene, duy trì sự năng động cả về tinh thần lẫn thể chất. Có thể ăn cà chua sống, cà chua nấu, hoặc nước cốt cà chua đều rất tốt vì chất lycopene không bị phân hủy khi chế biến.
3. Rau dền: Chứa chất lutein chống lão hóa, đồng thời có cả acid folic giúp hoạt động của não và mạch máu.
4. Cải xanh: Có thể giảm nguy cơ ung thư bởi có chứa rất nhiều chất chống lại các hóa chất hữu cơ gốc tự do.
5. Cà rốt: Chứa nhiều beta carotene là chất miễn dịch rất tốt.
6. Súp lơ: Có chất ngăn chặn sự rối loạn hormone ở phụ nữ, tránh dẫn đến bệnh ung thư vú.
7. Hành tây và tỏi: Chứa nhiều chất quercetin giữ không cho lượng cholesrol tấn công mạch máu.
8. Quả bơ: Với chất gultahione "làm sạch" lượng chất béo bị oxy hóa trong ruột.
9. Cam, quýt, chanh, bưởi: Cũng có rất nhiều chất chống oxy hóa như gultahione...
10. Nho: Nhất là loại nho tím, chứa nhiều trong vỏ và hạt chất quercetin. Chất này giúp điều chỉnh nồng độ cholesterol và chống hiện tượng máu dồn cục.
Theo TT Y dược VN
|
|
|
Post by Oshin on Jan 31, 2005 11:26:21 GMT -5
Mâm ngũ quả ngày Tết Dù ở thành phố hay nông thôn, dù nhà khá giả hay nghèo khó, trên bàn thờ ngày Tết cổ truyền của mọi gia đình nước ta đều có mâm ngũ quả để thờ cúng tổ tiên. Quan niệm về mâm ngũ quả ở mỗi vùng, mỗi địa phương và mỗi hoàn cảnh cũng khác nhau; Có khi chỉ gồm hai, ba loại quả, nhưng cũng có khi tới hàng chục loại khác nhau.
Mối liên hệ giữa ngũ quả và ngũ hành
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 trạng thái vật chất cấu tạo nên vũ trụ.
Kim màu trắng, mộc màu xanh, thủy màu đen, hỏa màu đỏ, thổ màu vàng. Mâm ngũ quả cũng lung linh năm sắc màu đó.
Các quả thường được bày vào dịp Tết là: Bưởi, chuối, hồng, cam, quýt, quất, xoài, táo, đào, na (mãng cầu), đu đủ, dưa hấu... Tất cả đều là sản phẩm được tạo nên bởi sự giao hòa của trời đất (càn khôn), là kết quả lao động của con người.
Trong những ngày Tết, ai cũng muốn tỏ lòng biết ơn trời đất tổ tiên nên bày mâm ngũ quả thờ cúng để “báo” tổ tiên những thành quả của năm qua, mong muốn năm mới sẽ thành công hơn.
Khi chưng mâm ngũ quả, người cao niên thường chọn các quả có ý nghĩa như: Quả bưởi tròn ý nói sự đầy đủ, sung túc; Quả na nhiều hạt ngụ ý sự sum vầy đông con cháu; Quả quất tượng trưng cho người quân tử; Quả đu đủ là sự cầu mong của những gia đình nghèo được “đủ ăn”.
Theo các nhà dược liệu và thầy thuốc Đông y thì mâm ngũ quả cũng là một tập hợp của nhiều vị thuốc.
Tác dụng chữa bệnh của một số loại quả trong mâm ngũ quả
* Quả bưởi (quả bòng): người Thái gọi là cọ phúc, thuộc họ cam quýt - Rutaceae.
- Lá bưởi có tác dụng chữa cảm (dùng cùng một số lá khác để nấu nồi thuốc xông chữa cảm sốt).
- Vỏ bưởi dùng chữa đầy chướng bụng, bí tiểu.
- Vỏ hạt bưởi có chất pectin để cầm máu.
- Múi bưởi giúp giải khát, dùng tốt cho người tiểu đường.
- Hoa bưởi có hương thơm đặc biệt, dùng ướp trà và một số thực phẩm.
* Đu đủ: còn có các tên là phiêu mộc, phan qua thụ, mắc hung.
Quả chín có tác dụng bổ dưỡng, rất tốt cho trẻ em và người cao tuổi, người mới khỏi bệnh.
Đu đủ xanh chứa chất papain có tác dụng phân giải tế bào, giúp nấu thịt chóng mềm. Rễ đu đủ dùng làm thuốc cầm máu.
Hoa đu đủ hấp đường phèn làm thuốc chữa ho cho trẻ em khàn tiếng.
Ở châu Phi, dân gian còn dùng lá đu đủ để chữa khối u.
* Quả hồng: tên khác là thị đinh.
- Tai quả hồng còn có tên Thị đế dùng chữa khí nghịch - nấc.
- Thị sương là chất đường tiết ra từ quả hồng; dùng chữa đau rát họng, khô họng.
- Thị tất là nước ép từ quả hồng xanh, dân gian dùng chữa cao huyết áp.
* Hồng xiêm: (hình như di thực từ Thái Lan nên có tên này).
Tên khác: Tầm lửa, Sacoche, Saboche. Tên khoa học: Sapota achras.
- Nhựa hồng có tác dụng kích thích tiêu hóa.
- Vỏ quả chữa tiêu chảy
* Chuối: là loại quả giàu dinh dưỡng, tốt cho người cao tuổi và trẻ em bị táo bón. Không dùng chuối cho người tiểu đường. Chuối hương phối hợp bột lòng đỏ trứng gà dùng chữa trẻ suy dinh dưỡng.
Như vậy, mâm ngũ quả là tâm sự gửi gắm của mỗi gia đình, nói lên lòng biết ơn trời đất, tổ tiên, ước muốn đầy đủ và sung túc, hòa hợp như năm sắc màu của thiên nhiên trong ngũ hành.
Theo SK&ĐS
|
|
|
Post by Robot on Feb 5, 2005 14:57:22 GMT -5
Dinh dưỡng & sắc đẹp
Quan niệm về vẻ đẹp người phụ nữ của mỗi cá nhân, mỗi thời đại tuy có khác nhau, nhưng nhìn chung - ngoài sự cân đối, hài hòa về đường nét - còn là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố như cơ thể khỏe mạnh, cân đối, tâm hôàn thanh cao... trước nay, các chuyên gia dinh dưỡng và thẩm mỹ đều đã thống nhất dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng đôái với các yếu tố nói trên.
Vai trò của dinh dưỡng đối với sắc đẹp
Phụ nữ phải quản lý, chăm lo bữa ăn gia đình; Chăm sóc, nuôi dưỡng con cái để con ngoan, khỏe mạnh và nên người. Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, chăm lo bữa ăn gia đình và nuôi con là một bài toán khó, trở thành trách nhiệm nặng đè lên vai người mẹ. Làm tròn hai nhiệm vụ trên, người phụ nữ gần như không còn thời gian để chăm lo cho sức khỏe của mình.
Dinh dưỡng tốt có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển cân đối của cơ thể, giúp dáng đi nhanh nhẹn, da dẻ hồng hào, răng trắng bóng, tóc mượt mà, ánh mắt lanh lợi...; Đồng thời tạo cho con người cảm giác khỏe mạnh, dễ chịu... Tất cả các yếu tố trên tổng hợp thành sự hài hòa về vẻ đẹp. Người phụ nữ muốn giữ được sức khỏe, vẻ đẹp và sự tươi trẻ thì phải ăn đủ, nghĩa là không thừa và cũng không thiếu.
Ăn thừa dễ dẫn đến béo phì, cơ thể mất cân đối nên không thể đẹp. Ngược lại nếu ăn thiếu, người sẽ gầy yếu, xanh xao, chân tay khẳng khiu... cũng không đẹp được.
Nhiều người hiểu lầm là muốn tăng hoặc giảm cân thì phải ăn nhiều hoặc giảm mỡ và thịt. Tuy nhiên, nguồn thực phẩm làm tăng cân chính là chất bột, chất ngọt, vì vậy muốn tăng cân phải ăn nhiều cơm, ngô, khoai; còn muốn giảm cân thì chỉ cần giảm đi mỗi bữa một bát cơm và giảm ăn bánh kẹo.
Các chuyên gia da liễu thường coi làn da là tấm gương phản ánh tình trạng bộ máy tiêu hóa. Ăn uống đủ, tiêu hóa tốt, không táo bón thì da dẻ mịn màng. Hiện nay, người ta nhắc nhiều đến vai trò bảo vệ da của các acid béo không no, còn được gọi là vitamin F, có nhiều trong các loại dầu ăn. Bữa ăn có ngô, đậu tương, vừng, lạc, cá... sẽ giúp cơ thể có đủ chất bảo vệ da, giúp da mịn màng, giữ được độ căng và đàn hồi cần thiết, tạo nên sự trẻ trung, tươi đẹp. Cũng cần chú ý đừng ăn quá mặn, vì ở người ăn mặn, mi mắt sẽ có những túi giữ nước lại, mắt như bị phù, lờ đờ, nặng nề, làm mất vẻ hấp dẫn của đôi mắt - cửa sổ tâm hồn.
Trong các chất dinh dưỡng cần thiết để giữ vẻ đẹp, đứng hàng đầu là chất đạm. Nếu phụ nữ ăn thiếu đạm, cơ xương sẽ phát triển kém, người thiếu máu xanh xao, kinh nguyệt không đều, da khô, tóc xơ, môi nhợt nhạt, luôn có cảm giác mệt mỏi, vóc người gầy yếu, dáng đi uể oải. Điều này cũng dễ hiểu vì da, tóc, móng chân, móng tay, cơ xương, máu, các men, các nội tiết tố... đều do chất đạm tạo thành. Do vậy, thiếu đạm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ sự phát triển và hoạt động của cơ thể.
Nói đến đạm, nhiều người thường nghĩ ngay đến thịt, cá, trứng, sữa. Tất nhiên, trong bữa ăn cần bảo đảm một tỷ lệ nhất định thịt cá, nhưng chúng ta thường quên rằng chất đạm trong khẩu phần ăn của ta hiện nay chủ yếu là do gạo cung cấp, vì thế cần chú ý đảm bảo chất lượng gạo. Gạo không được xát quá trắng và cần được bảo quản tốt, không để bị mốc, mọt, không để lẫn quá nhiều sạn, thóc. Cần chú ý sử dụng các loại đạm thực vật như lạc, đậu tương và đậu các loại. Cá và các loại thủy sản có nhiều ở sông biển, ao hồ, ruộng đồng nước ta là nguồn đạm rất tốt, cần được khai thác và tận dụng.
Rau quả có nhiều vitamin, chất khoáng, chất xơ, ảnh hưởng quan trọng đến quá trình tiêu hóa, hấp thu và chuyển hóa của cơ thể; từ đó giúp cơ thể khỏe mạnh và cân đối. Rau quả còn giúp cơ thể tránh được nhiều căn bệnh như tê phù, khô mắt, viêm da...
Chúng ta cần biết cách chế biến và bảo quản rau để giữ được các loại vitamin. Rau mua về nếu bảo quản không đúng cách sẽ bị mất bớt vitamin, có khi mất tới một nửa, nhất là vitamin C rất dễ bị phá hủy. Trước khi ăn, phải nhặt sạch rau và rửa ngay, không ngâm rau quá lâu trong nước. Rửa xong mới thái và nấu. Nên ăn ngay khi còn nóng; Vì nếu thái rồi mới rửa, nấu xong không ăn ngay, hâm nóng nhiều lần thì vitamin sẽ bị phá hủy gần hết.
|
|