|
Post by Oshin on Jun 24, 2004 13:25:50 GMT -5
Vai trò của DHA đối với cơ thể Cá biển là nguồn thực phẩm giàu DHA Trong nhiều loại thực phẩm người ta thường nói đến DHA, đặc biệt là sự quảng bá về sữa có chứa DHA của một số hãng sữa nước ngoài. Vậy DHA là gì, vai trò của chất này đối với cơ thể và bổ sung DHA như thế nào là vấn đề mà nhiều người tiêu dùng còn chưa rõ. DHA là gì? DHA là acid béo không no cần thiết, có tên gọi đầy đủ là DocosaHexaenoicAacid, một acid béo thuộc nhóm acid béo omega-3 Ngoài ra, thuộc nhóm này còn có các tiền tố DHA, đó là acid béo alpha-linolenic (ALA) và eicosapentaenoic acid (EPA). Ngoài acid béo thuộc nhóm omega-3, còn phải kể đến acid béo không no omega-6 (arachidonic acid-AA). Những acid béo không no cần thiết này cơ thể con người không tự tổng hợp được mà phải đưa vào cơ thể từ nguồn thực phẩm. Vai trò của DHA DHA cần thiết cho phát triển hoàn thiện chức năng nhìn của mắt, sự phát triển hoàn hảo hệ thần kinh. Nghiên cứu trên động vật thí nghiệm thấy DHA có nồng độ cao trong tổ chức thần kinh như võng mạc mắt, tổ chức não. Ở người trưởng thành, DHA có tác dụng giảm cholesterol toàn phần, triglyceride máu, LDL-cholesterol (cholesterol xấu) gây vữa xơ động mạnh - căn nguyên bệnh nhồi máu cơ tim. Nếu thiếu DHA trong quá trình phát triển, trẻ sẽ có chỉ số thông minh IQ thấp. Một nghiên cứu theo dõi trẻ từ lúc mới sinh tới 8-9 tuổi, người ta thấy trẻ được bú sữa mẹ và chế độ ăn đủ DHA có chỉ số IQ cao hơn 8,3 điểm so với những trẻ ít hoặc không được bú sữa mẹ và không được cung cấp đầy đủ DHA. Bổ sung DHA bằng cách nào? Với thai nhi: Chế độ ăn trước và trong khi có thai rất quan trọng đối với tình trạng dự trữ các acid béo không no cần thiết (EFAs) cho thai nhi. Ðặc biệt trong 3 tháng cuối thai kỳ, trung bình một ngày thai nhi cần 2,2g EFAs/ngày cho sự phát triển hệ thần kinh và mạch máu. Các trẻ đẻ non và sơ sinh bình thường đòi hỏi phải cung cấp đủ DHA bởi chúng không có khả năng chuyển tiền tố DHA từ dầu thực vật hay các thức ăn thay thế sữa mẹ khác sang DHA. Sữa mẹ cung cấp đủ EFAs cho trẻ, vì vậy việc cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu và cho bú kéo dài tới 24 tháng là rất quan trọng. Trong sữa mẹ từ 40-45 ngày sau khi sinh DHA chiếm 0,3%, AA: 0,4% và DPA: 0,2%. Trong những trường hợp đặc biệt trẻ không được bú mẹ thì phải lựa chọn các thức ăn thay thế sữa mẹ có bổ sung các acid béo nói trên. DHA có nhiều trong dầu cá, cá và thủy sản. DHA cần thiết cho sự phát triển hoàn hảo võng mạc mắt và não bộ trẻ em. Việc ăn cá, thủy sản thường xuyên sẽ cung cấp cho cơ thể đủ DHA. Nhóm acid béo omega-3 còn có tác dụng bảo vệ cơ thể chống lại các bệnh tim mạch, đột quỵ và giảm viêm khớp. Quan sát dịch tễ học cho thấy những vùng dân cư, những nước tiêu thụ dầu thực vật thì tỷ lệ tử vong do bệnh tim giảm. Alpha-linolenic acid có vai trò đặc biệt trong giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch. Những người thường xuyên ăn dầu thực vật giàu alpha-linolenic acid ít có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột quỵ so với những người có chế độ ăn ít các acid béo này. TS. Nguyễn Thị Lâm (Viện Dinh dưỡng)
|
|
|
Post by Robot on Jul 15, 2004 23:48:17 GMT -5
Công dụng kích thích tình yêu của một số loại thức ăn Đời sống tình yêu của bạn có vẻ "xuống cấp"? Đừng lo! Hãy kiến tạo nó lại từ... nhà bếp. Ăn uống là cách tốt nhất giúp bạn kích hoạt tiềm năng trong đời sống tình dục của mình.1. Những thức ăn dành cho chuyện yêu đương Chọn các loại thức ăn chứa nhiều hoạt chất hóa học, làm tăng khả năng tiết hormone trong cơ thể. Chúng sẽ khiến bạn cảm thấy hạnh phúc hơn trong đời sống vợ chồng. Đồng thời, những loại thức ăn này còn giúp bạn giảm ức chế và trở nên đáng yêu hơn: . Hạt tiêu cay: Giúp tăng hoạt động của tim và gây tiết mồ hôi. . Chuối: Tạo cảm giác dễ chịu ở não, tăng thêm cảm xúc. 2. Thức ăn giúp tăng sản xuất hormone tình yêu Loại thức ăn này giúp kích hoạt sự giải phóng các hormone tình dục như testosterone, tăng dự trữ năng lượng. Ngoài ra, chúng còn làm tăng lượng máu đến các cơ quan sinh dục và khiến cơ thể bạn trông hấp dẫn hơn: . Tôm và các sinh vật biển: Kích hoạt tuyến giáp, làm tăng thêm sức sống. . Chocolate và caffeine: Gây hưng phấn. . Gừng: Lưu thông máu đến cơ quan sinh dục ở nam và nữ. . Quả olive: Quả xanh giúp đàn ông thêm nam tính. Quả đen kích thích phụ nữ hướng tới tình dục nhiều hơn. . Cà chua: Rất hiệu quả trong việc kích thích. . Táo: Tăng năng lượng cho cơ thể, kích thích niềm đam mê. . Măng tây: Chứa nhiều kali, phốt-pho, calcium và cả vitamin E, rất có ích cho việc sản xuất hormone tình yêu và làm tăng năng lượng. 3. Những thức ăn làm tăng khả năng tính dục Theo dân gian, các món ăn như thịt dê, trừu, bò, chim sẻ, giá đậu, lươn, rắn, rùa, chuột đồng... rất có ích trong việc tăng cường tính dục cho nam giới. Phần bạn, thử ăn kẹo hương cam thảo và dưa chuột xem. Hiệu quả tức thì! Hành, hẹ, quế chi, hồi... giúp nữ giới tăng thêm khoái cảm. Trong khi đó, mùi vị của quả anh đào và thịt nướng lại ức chế ham muốn ở phụ nữ. Công dụng kích thích của những loại thức ăn kể trên không thể hiệu quả ngay tức khắc và không hoàn toàn phù hợp với người bị trục trặc về tình dục. Tuy nhiên, những chất kích thích tự nhiên này không gây hại. Điều quan trọng nhất của sự ham muốn chính là ở bộ não. Nếu cả hai cùng làm thức ăn và nghĩ rằng điều đó đem lại hạnh phúc, chắc chắn bạn sẽ được như ý. TS BÙI MẠNH HÀ (TT&GĐ )
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 12:18:36 GMT -5
Những thực phẩm làm rãng chắc và ðẹp
Hàm rãng trắng làm nụ cýời của bạn gái thêm tự tin. Không phải chuyên ðánh rãng mỗi ngày bao nhiêu lần mà chính các thực ðõn sẽ quyết ðịnh bạn có hay không ðýợc nụ cýời sáng chói ấy.
Nýớc trà: Giàu fluor - một chất rất cần cho rãng, hàm lýợng khoảng 0,3 mg trong một tách nýớc trà. Trà còn tham gia vào việc hình thành rãng, tãng cýờng lớp men bảo vệ, chống các vi khuẩn; giúp những vùng men rãng yếu tái nhận nguyên tố kim loại, tránh tạo ra những chỗ sâu.
Mỗi ngày, bạn uống ba tách trà là ðủ. Nếu uống quá nhiều, rãng có nguy cõ giảm ðộ trắng. Có thể cho một chút sữa vào trà ðể giảm tác ðộng tạo màu của tanin trong trà.
Cà rốt: Nguồn cung cấp Vitamin A, làm rãng phát triển thuận lợi và chắc khỏe hõn. Ngoài ra, nó còn giúp lợi mau liền khi bị tổn thýõng, giảm tình trạng chảy máu lợi.
Cá: Các loại cá béo nhý cá thu, cá mòi, cá hồi... chứa nhều vitamin D - nhân tố giúp cõ thể hấp thụ canxi, có lợi cho cốt rãng và men rãng.
Rau quả nhiều vitamin C: Vitamin C giúp khắc phục chứng chảy máu rãng và rãng bị lung lay.
Kẹo cao su không ðýờng: Loại kẹo này làm tãng tiết nýớc bọt lên gấp 3 lần, giúp chống vi khuẩn và những axit tác ðộng xấu tới rãng. Ngoài ra, nó còn làm ẩm ýớt niêm mạc ðể bảo vệ những chỗ lợi yếu.
Một số nýớc khoáng, trai, sò, ốc, cam, bắp cải, trứng: Những thực phẩm này cũng chứa các chất cần thiết cho sự phát triển và vững chắc của rãng.
(Theo Thế Giới Phụ Nữ )
|
|
|
Post by Robot on Jul 23, 2004 1:12:45 GMT -5
Món ãn Huế dýới góc ðộ y dýợc học
Các món ãn của Huế, từ món “bát trân” chốn cung ðình cho ðến canh rau “tập tàng” trong giới bình dân, ðều phảng phất mùi vị và hình bóng của các cây thuốc. Ngýời Huế ðã biết kết hợp các cây thuốc trong những món ãn hằng ngày một cách khá nhuần nhuyễn và khoa học.
Ngýời xýa lập luận: từ ngũ hành sẽ có ngũ vị (cay, chua, ðắng, mặn, ngọt), ngũ sắc (trắng, ðen, xanh, ðỏ, vàng); chúng liên quan ðến hoạt ðộng của ngũ tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) của con ngýời. Vì vậy, món ãn nào cân bằng ðýợc âm dýõng ngũ hành thì sẽ ðiều hòa ðýợc lục phủ ngũ tạng, từ ðó giúp phòng tránh và ðiều trị ðýợc các bệnh tật. Các nhà nghiên cứu ðã xem xét dýợc tính của một số món ãn ðặc thù vùng Huế và nhận thấy chúng ðã vận dụng khéo léo và nhuần nhuyễn quy luật âm dýõng, ngũ hành, kết hợp một cách khoa học các thực phẩm có tác dụng dýợc lý khác nhau.
Các món chè
Ðậu quyên: Contal ania assamica Benth, ðiều trị ðau thần kinh tọa cõ nãng, thấp khớp, ðau lýng, ðau nhức thần kinh...
Ðậu ván (bạch biển ðậu, bạch ðậu): Lablab vulgaris Sav L, bổ tỳ, giải ðộc, ðiều trị rối loạn tiêu hóa, hạ khí...
Hạt sen: Nelumbo nucifera Gaertn, ðiều trị di tinh, mộng tinh, tim hồi hộp, tiêu nhiều, mất ngủ...
Hoàng tinh (bình tinh, củ cây cõm nếp): Polygonatum kingianum Coll và Hemol, bổ phổi, giải nhiệt, kích thích thể dịch, bồi dýỡng cõ thể...
Khoai mài (hoài sõn, củ mài): Dioscorea Persimilis Prain và Burk, ðiều trị suy nhýợc cõ thể, ho, tiêu nhiều, di tinh, bệnh ðýờng ruột...
Nhãn lồng (long nhãn): Euphorialongana Lamk, ðiều trị thần kinh suy nhýợc, mất ngủ, hoảng hốt...
Canh rau tập tàng
Món này ðýợc chế biến từ các loại rau hoang dại mọc quanh nãm ở vùng Huế, gồm:
Cúc tần ô (cải cúc): Crysanthemum coronarium L, chứa tinh dầu thõm, nhiều vitamin A, B và C, có tác dụng ðiều trị ho, ðau mắt, nhức ðầu mãn tính.
Lá dâu tằm: Morus alba L., chứa caroten, vitamin C, cholin, adenin, chữa cảm sốt, cảm cúm, trị ho, an thần, bổ dýỡng, chống lão suy.
Lá lốt: Piper lolot, tên thuốc Ðông y là Tất bát, tính ấm, vị cay, mùi thõm ðặc biệt, có tác dụng ðiều trị phong thấp, nôn mửa, ðầy hõi, tiêu chảy do lạnh. Trong lá lốt có nhiều tinh dầu tạo nên hýõng vị thõm ngon của bát canh rau tập tàng.
Lá mồng tõi: Brasella rubsa L, chứa nhiều vitamin A3, B3, sắt, saponin. Rau mồng tõi ðỏ hay mồng tõi tía ðều có tác dụng hạ nhiệt, lợi tiểu và nhuận tràng, ðiều trị ðỏ mắt và viêm nhiễm.
Lá sung (lá sân): Zanthoxylum nitiolum, có nhiều tinh dầu, vị cay, có tác dụng ðiều trị nôn mửa, ðầy hõi, ðau bụng do lạnh, làm tãng hýõng vị cho món canh.
Lá vông nem: Erythrina india Lamk, tên thuốc là Hải ðồng bì. Lá chứa alkaloid và erythrine, có tác dụng an thần, gây ngủ, sát trùng, nhuận tràng, lợi tiểu, chống dị ứng.
Rau ngót (bồ ngót): Sauropus androgynus Lour. Merr, có nhiều vitamin, muối khoáng, lipid và glucid. Tỷ lệ protid trong rau týõng ðýõng với một số loại ðậu giàu ðạm.
Rau má: Centella asiatica. Urb., vị ngọt, hõi ðắng, tính bình; có tác dụng giải ðộc, giải nhiệt, thông tiểu, lợi sữa. Những nghiên cứu gần ðây cho thấy rau má còn có tác dụng chữa bệnh về gan và phổi.
Rau sam: Portulaca oleraceae L., chứa vitamin A, B, C, PP, glucosid, saponin, glucid, caroten, sắt, canxi. Rau sam có tác dụng kháng sinh, ức chế trực trùng E.coli, lỵ và thýõng hàn.
Rau khoai lang: Ipomea batatas L., có tác dụng nhuận tràng do chứa nhiều chất tẩy. Trong ngọn non dây khoai lang ðỏ có một chất gần giống insulin, có khả nãng ðiều trị bệnh ðái tháo ðýờng.
Lá bát bát trâu: Tricosanthes cucumerina L., có tác dụng nhuận tràng, kích thích tiêu hóa.
Chỉ cần 5-7 loại rau nói trên là ðã ðủ ðể có món canh; có thể kết hợp với nấm tràm, quả mýớp ngọt... ðể làm tãng hýõng vị và tính bổ dýỡng.
|
|
|
Post by Robot on Jul 23, 2004 1:13:53 GMT -5
Rau sống
Bạc hà: Mentha arvensis L., trị cảm sốt, ãn uống khó tiêu, ho, viêm nhiễm ðýờng hô hấp trên, sát trùng da và niêm mạc.
Tía tô: Perilla frrutescens L. Breit, phòng chống cảm cúm, ãn uống khó tiêu, ngộ ðộc thức ãn, chữa ho, nôn mửa do ãn phải thức ãn mát lạnh.
Diếp cá: Houttuynia cordata Thunb, giải nhiệt, hạ sốt, trị lòi dom, ðỏ mắt, viêm họng, khử mùi tanh.
Rau cải: Brassica juncea L., tiêu ðàm, trị ho, chữa ðầy bụng.
Rau mùi (ngò ): Corian drum sativum L., vị cay, tính ôn, có tác dụng kích thích tiêu hóa, long ðàm, tãng tiết sữa.
Chuối chát (chuối sứ, chuối hột): Musa brrachycarpa Back., kích thích tiêu hóa, trị bệnh ðýờng ruột, phòng chống tiêu chảy.
Vả: Ficus roxburghii, Wall, kích thích tiêu hóa, phòng chống tiêu chảy.
Rau quế (húng quế ): Ocimum basilicum L, chữa cảm sốt, giúp ra mồ hôi, ãn uống không tiêu, ðau dạ dày, ðau rãng, thông tiểu tiện.
Khế: Averrhoa carambola L, vị chua và ngọt, tính bình, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, làm tiết nýớc bọt, trừ phong thấp, giảm ðau, hạ sốt.
Rau rãm: Polygonum odoratum Lour, kích thích tiêu hóa, chữa no hõi, ðầy bụng, lợi tiểu, chống nôn.
Các món ãn trong ngày Tết Ðoan Ngọ
Theo tập quán, ngýời Huế thýờng làm thịt vịt, chè kê, bánh ú tro... trong dịp Tết Ðoan Ngọ. Ðây cũng là những món ãn rất có ý nghĩa về phýõng diện y dýợc học.
Thật vậy, theo triết lý y học Ðông phýõng, trong ngày Tết Ðoan Ngọ, hỏa khí (thuộc dýõng) của trời ðất và trong cõ thể của con ngýời ðều lên ðến tột bực. Muốn cân bằng âm dýõng ðể phòng tránh bệnh tật thì nên ãn thịt vịt vì vịt thuộc âm, tính mát. (theo lý luận âm dýõng thì thân mình vịt thấp lè tè, ði lại chậm chạp, sống dýới bùn nýớc nhiều hõn trên cạn nên thịt vịt có tác dụng bổ âm rất tốt).
Tháng 5 âm lịch là tháng Ngọ, thuộc hỏa, phýõng nam nên nằm vào quẻ Ly: “Ngoại thiệt trung không” (ngoài tuy rất nóng mà trong lại lạnh). Vì thế, khi làm món thịt vịt, phải xát kỹ với rýợu gừng và ãn với nýớc chấm gừng ðể giúp chống lại cái lạnh bên trong cõ thể.
Món chè kê giúp bổ tỳ dýõng, góp phần bồi bổ cho những ngýời tỳ vị hý hàn hoặc mạng môn hỏa suy kiệt do dùng nhiều món ãn, thức uống mát lạnh trong mùa viêm nhiệt. Theo lý luận của y học phýõng Ðông, hạt kê nhỏ nên chứa nhiều nãng lýợng hõn các loại ngũ cốc khác, có tác dụng mạnh với tỳ vị.
Bánh ú tro làm bằng gạo nếp, có nhiều glucid và lipid hõn gạo tẻ. Khi chế biến, bánh lại ðýợc ngâm trong nýớc tro bếp nên làm gia tãng lýợng kali, vừa có tác dụng lợi tiểu vừa góp phần làm mạnh cõ tim Theo thuyết âm dýõng ngũ hành, tim thuộc hỏa nên dễ bị ảnh hýởng của khí hậu nóng nực và suy yếu. Vì vậy, dùng bánh ú tro trong dịp Tết Ðoan Ngọ là rất phù hợp.
Các nguyên liệu trong những món ãn kể trên ðýợc kết hợp rất khéo. Chỉ qua món rau sống, chuối chát ãn với thịt lợn luộc, ta cũng nhận thấy ðầy ðủ ngũ vị: cay (bạc hà), chua (khế ), ðắng (chuối chát), mặn (nýớc mắm), ngọt (vả ). Các món chè cũng ðầy ðủ ngũ sắc: ðậu ðen, ðậu ðỏ, ðậu xanh, kê (vàng), ðậu ván (trắng). Do ðó, chúng ðều có ðủ ðiều kiện ðể ði vào lục phủ, ngũ tạng.
BS Ðoàn Vãn Quýnh, Sức Khoẻ & Ðời Sống
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 11:22:31 GMT -5
Vị thuốc từ trứng gà ngâm giấm
Trứng gà ngâm giấm ăn trở thành vị thuốc, có tác dụng chữa một số bệnh như viêm loét dạ dày, viêm da thần kinh, ngứa da trâu... Cách làm cũng đơn giản.
Trứng gà là thức ăn và cũng là một vị thuốc quý. Các thành phần dinh dưỡng như chất đạm (protein), chất béo, chất đường, chất khoáng và các sinh tố... trong trứng gà được "pha trộn" với tỷ lệ cực kỳ hợp lý. Về mặt trị liệu theo Đông y, trứng gà có vị ngọt, tính bình, có tác dụng tư âm nhuận táo, dưỡng huyết an thai, dùng để bổ dưỡng, chữa ho khan, khản tiếng, mắt đỏ họng đau, thai động không yên, sản hậu miệng khát, kiết lỵ, bỏng ...
Giấm là gia vị thông dụng và cũng được sử dụng như một vị thuốc trong Đông y từ hơn 2.000 năm trước. Theo Đông y, giấm có vị chua, đắng, tính ấm. Có tác dụng tiêu thực, tán ứ, giải độc, sát trùng, chỉ huyết (cầm máu). Trong Đông y, giấm có thể dùng riêng, có thể sử dụng để sao tẩm hoặc phối chế với các vị thuốc khác. Trứng gà ngâm với giấm là một dạng phối chế như vậy, và có thể chữa được một số bệnh.
Cách chế biến thông thường như sau:
Lấy 5 quả trứng gà tươi, rửa sạch vỏ bằng cồn rồi lau khô, cho vào lọ rộng miệng đã sát trùng, đổ thêm 1 lít giấm tốt, đậy kín nút, để vào chỗ tối, ngâm trong bảy ngày đêm. Sau đó loại bỏ vỏ trứng, quấy cho nước trứng (lòng trắng và lòng đỏ) hòa tan đều với giấm là có thể dùng được.
Cách sử dụng để chữa bệnh:
Chữa cao huyết áp, làm giảm mỡ máu, làm mềm thành mạch máu (chống xơ vữa) và chữa viêm loét đường tiêu hóa: Mỗi ngày dùng 3 lần mỗi lần 2 thìa canh.
Chữa viêm da thần kinh, ngưu bì tiên (ngứa da trâu):
Triệu chứng: Trên da nổi lên từng đám sần sùi, dày cộp, khô, đóng vảy cạy tróc vụn, giống như da trâu, kèm theo ngứa từng cơn, nên gọi là "ngưu bì tiên" (ngưu bì = da trâu, tiên = ngứa).
Hằng ngày dùng bông sạch chấm nước trứng ngâm giấm bôi vào những chỗ da bị bệnh 4-5 lần, mỗi lần bôi 1-2 phút. Cần chú ý bôi thuốc đều đặn không gián đoạn. Nói chung, sau 1-2 ngày, là chỗ da bị bệnh đã bong vẩy, không còn ngứa kịch liệt như trước hoặc hết ngứa hẳn.
Đối với một số bệnh đường tiêu hóa, còn có thể sử dụng trứng theo một số cách khác:
- Chữa dạ dày viêm, đau: Có thể dùng trứng theo hai phương pháp sau:
(1) Trứng đốt rượu: Dùng 200 ml cồn hoặc rượu trắng cao độ đổ vào một cái bát hoặc dụng cụ chịu nhiệt, cho một quả trứng gà sống vào, châm lửa đốt cho cồn hoặc rượu cháy hết, sau đó bóc trứng ăn, sau khi đốt, thường trứng vẫn "lòng đào" (lòng đỏ còn hơi lỏng).
(2) Trứng trộn gừng rán: Gừng tươi 30 gam thái nhỏ, trứng gà 1 quả, đập ra, trộn đều với gừng, sau đó dùng 30 ml dầu thực vật rán chín; chia làm 3 phần ăn trong ngày.
Chữa viêm ruột cấp, kiết lỵ: Lấy 5-10 quả trứng gà (có thể dùng trứng vịt), dùng kim nhỏ đục một số lỗ nhỏ ở đầu quả trứng, rồi đem ngâm trong giấm 7-10 ngày. Mỗi ngày lấy một quả trứng đã ngâm giấm luộc ăn.
(Theo Tri Thức Trẻ)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 6:43:41 GMT -5
Ăn nhiều dầu thực vật, cá giảm nguy cơ sỏi mật
Một chế độ ăn uống kiểu Địa Trung Hải, tức có nhiều dầu thực vật, quả hạch và cá, đặc biệt là cá ngừ và cá hồi, không chỉ giúp chống bệnh tim và tiểu đường, mà còn có tác dụng giảm nguy cơ sỏi mật.
Một nghiên cứu được các nhà khoa học thuộc Trường Y khoa Harvard (Mỹ ) thực hiện trên 45.000 đàn ông trong 14 năm cho thấy những người ăn nhiều chất béo chưa bão hòa có trong các loại thực phẩm này có thể giảm được 20% nguy cơ mắc bệnh sỏi mật. Các nghiên cứu trước đây cho thấy những chế độ ăn uống nhiều chất béo bão hòa và carbohydrate tinh chế làm tăng rủi ro mắc bệnh sỏi mật. Hiện chưa rõ chế độ ăn uống kiểu Địa Trung Hải có tác dụng ngừa sỏi mật ở phụ nữ hay không, nhưng theo các nhà nghiên cứu dạng sỏi mật ở phụ nữ khác với đàn ông, do đó cần nghiên cứu thêm về mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và nguy cơ sỏi mật ở họ.
Th. Quyên (Theo Reuters)
Ăn nhiều rau quả ngừa được sỏi mật Sỏi mật là bệnh gặp ở mọi nơi, mọi lứa tuổi, ở cả nam và nữ. Việc điều trị bệnh khá phức tạp cho dù đã có máy móc hiện đại. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu gần đây, ăn uống theo chế độ nhiều rau ít thịt có thể giúp bạn ngăn chặn được bệnh này.
Trong một nghiên cứu kéo dài 14 năm, tiến sĩ Chung-Jyi Tsai và cộng sự tại Đại học Kentucky (Mỹ ) đã theo dõi 45.000 nam giới ở độ tuổi trung niên trở lên. Tất cả được chẩn đoán là không bị sỏi mật vào thời điểm bắt đầu tiến hành nghiên cứu.
"Trong các thí nghiệm trên động vật, các chất béo chưa bão hòa có khả năng ngăn chặn sự hình thành sỏi mật nhiều hơn so với chất béo hòa tan. Giờ đây, chúng tôi đang kiểm tra điều này trên cơ thể người", Chung-Jyi Tsai nói.
Các chuyên gia yêu cầu những người tham gia trả lời 131 câu hỏi về thói quen ăn uống vào năm 1986. Sau đó, cứ 2 năm một lần họ lại phải trả lời những câu hỏi tương tự. Trong suốt 14 năm, các nhà nghiên cứu liên tục hỏi họ có bị sỏi mật hay không.
Kết quả cho thấy có 20% đối tượng tham gia nghiên cứu thường xuyên ăn chất béo chưa bão hòa. Khẩu phần ăn hằng ngày của họ chủ yếu là rau quả và dầu thực vật. Trong khi đó, số người thường xuyên tiêu thụ chất béo bão hòa cũng chiếm 20%. Ở những người chủ yếu dùng chất béo không bão hòa, nguy cơ hình thành sỏi mật giảm 18% so với đối tượng kia.
"Có nhiều yếu tố quyết định việc hình thành sỏi mật: hút thuốc, uống rượu, lười vận động cơ thể, sinh đẻ nhiều lần và thừa cân. Tuy nhiên, việc dùng chất béo bão hòa có mối quan hệ hoàn toàn độc lập với sự xuất hiện sỏi mật, không phụ thuộc vào các yếu tố khác", Tsai tuyên bố.
Theo các nhà nghiên cứu thì ở cấp độ phân tử, lượng chất béo mà chúng ta lấy vào cơ thể có thể gây tác động đến việc hình thành sỏi mật bằng nhiều cách. Chẳng hạn, khi lượng chất béo ở một số tế bào tăng lên, chúng sẽ trở nên nhạy cảm với insulin - chất có tác dụng làm giảm sự hình thành sỏi mật. Ngoài ra, chất béo bão hòa có chứa nhiều cholesterol, chất có vai trò quan trọng trong việc hình thành sỏi mật.
Phát hiện này đã ủng hộ những kết quả của một số nghiên cứu trước đây. Đó là một nghiên cứu của các nhà khoa học Hy Lạp cho thấy việc dùng nhiều dầu ô liu, vốn chứa nhiều chất béo chưa bão hòa có tên axit oleic, có thể làm giảm xác suất bị sỏi mật. Một nghiên cứu khác vào năm 1995 của các nhà khoa học Israel và Ảrập phát hiện thấy người Ảrập ăn nhiều chất béo chưa bão hòa nhiều hơn các dân tộc khác trên thế giới và có tỷ lệ bị sỏi mật thấp hơn.
Việt Linh (Theo Healthday)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 7:37:11 GMT -5
Ăn nhiều gia vị - Lợi hay hại ? Tỏi, hành, ớt... là các món gia vị hầu như không thể thiếu trong các bữa cơm. Không chỉ có tác dụng trang trí, tạo mùi thơm hay kích thích sự ngon miệng mà chúng còn có chức năng chữa bệnh.
Nói đến công dụng của hành, dân gian có câu tục ngữ: "Trăm thứ canh không hành không ngon". Từ xa xưa, hành đã được xem là loại gia vị không thể thiếu trong bếp núc. Từ canh bầu, canh cá nấu riêu hay phở... nếu thiếu hương vị của hành thì món ăn đó khó mà ngon được. Theo từ điển Cây thuốc Việt Nam của tác giả Võ Văn Chi, hành có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm toát mồ hôi, lợi tiểu, tiêu viêm... Tây y cho hành có tính chất lợi tiêu hóa, chống thối, chống ung thư. Hạt hành có tác dụng bổ thận, làm sáng mắt. Không những thế, hành còn có công dụng chữa bệnh cảm lạnh, đau đầu, nghẹt mũi, khó tiêu và các bệnh lên men đường ruột hoặc nghẽn ruột do giun đũa. Hành dùng ngoài (nghiền nát, bôi ngoài da) chữa chứng giảm niệu, phỏng, viêm mủ da, chứng phát ban và làm các vết thương mau liền sẹo. Ngày nay, y học đã chứng minh hành và tỏi có thể trị bệnh ung thư. Tỏi cũng thuộc họ hành, có vị cay, tính ấm. Tỏi có tác dụng sát trùng, giải độc, làm lợi tiểu và có thể dùng để trị bệnh cảm mạo, lỵ amíp, lỵ trực khuẩn, viêm ruột, ăn uống không tiêu, mụn nhọt. Do tỏi là chất kích thích cơ thể và điều hòa chức năng chủ yếu như các rối loạn gan và các tuyến nội tiết nên được điều chế làm thuốc chữa bệnh tiểu đường, phòng ngừa trạng thái ung thư, trị bệnh đau màng óc, xơ cứng động mạch, cao huyết áp... Từ nhiều thế kỷ trước ở Ai Cập, người ta đã dùng rượu ngâm tỏi để uống chữa bệnh thấp khớp, bệnh tim mạch (huyết áp cao hoặc thấp, hở van tim), bệnh phế quản (viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản), bệnh tiêu hóa (ăn khó tiêu, viêm tá tràng, loét dạ dày). Rượu tỏi không có tác dụng phụ mà lại có hiệu quả cao.
Loại gia vị khác được dùng theo thói quen là ớt. Hầu như trong bữa cơm nào của người Việt Nam cũng có ớt. Có nhiều người, nếu không có ớt là không thể ăn cơm ngon được. Cũng theo từ điển Cây thuốc Việt Nam, ớt thuộc họ cà, có vị cay, tính nóng. Quả ớt có tính chất kích thích dạ dày và lợi tiểu, có thể dùng trị tiêu chảy, sốt rét. Lá ớt có vị đắng, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, lợi tiểu nên thường dùng để trị sốt, trúng phong bất tỉnh và phù thũng. Rễ ớt dùng ngoài trị bệnh nẻ da. Trong Tây y, ớt thường được chỉ định dùng trong các trường hợp lên men ruột, tiêu chảy, kiết lỵ, nôn mửa không cầm được, xuất huyết tử cung, viêm thanh quản...
Rõ ràng, các loại gia vị trên không chỉ giúp các bà nội trợ tô điểm hay tạo mùi thơm cho các món ăn mà còn có tác dụng phòng chữa bệnh cho mọi người trong gia đình. Về mặt dinh dưỡng, tiến sĩ-dược sĩ Nguyễn Hữu Đức, Trường Đại học Y-Dược TP Hồ Chí Minh cho biết, các gia vị như hành, tỏi và ớt... giúp tăng tiết acid dịch vị làm cơ thể tiêu hóa tốt hơn, giúp ta ăn ngon miệng hơn. Tuy nhiên, những người có hệ tiêu hóa yếu, bị viêm loét dạ dày - tá tràng không nên dùng các gia vị này.
Ngọc Trang Các bà nội trợ có thể dự trữ các gia vị trên để có thể điều trị bệnh cho gia đình trong những trường hợp sau:
- Bệnh viêm mũi, nghẹt mũi: đâm vài củ hành để vào ly. Chế nước sôi vào, trùm loa giấy lên, đưa người bệnh hít vào mũi.
- Bệnh cảm mạo, nhức đầu: củ hành tươi 30 gam, gừng 10 gam sắc uống. Cách khác: dùng 3 củ hành sống, 3 lát gừng, 10 gam tía tô, ít muối, có thể thêm 1 quả trứng gà gia vào bát cháo nóng ăn giải cảm.
- Ung nhọt, áp xe viêm tấy: giã dập tỏi, đắp 15-20 phút (không nên để lâu làm phỏng da). Có thể trộn với ít dầu vừng để đắp.
- Ho lâu không khỏi: tiêu 6 hạt tán nhỏ, quả thận lợn 1 đôi cắt miếng. Nấu lấy nước uống.
(Trích từ điển Cây thuốc Việt Nam - Võ Văn Chi)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 8:21:58 GMT -5
Ăn uống để có trí nhớ tốt
Thỉnh thoảng, bạn vẫn quên một vài công việc cần làm hay quên câu chuyện xảy ra cách đây chưa lâu. Các nhà khoa học khuyên bạn nên thực hiện đúng 4 nguyên tắc sau. 1. Không nên bỏ bữa vì bỏ bữa làm đường trong máu thấp, não không đủ năng lượng để làm việc dẫn đến tình trạng mất tập trung. Ngoài ra, cần chú ý đến chất lượng bữa ăn, phải đầy đủ tinh bột, thịt, cá, rau, đậu...
2. Nên dùng các loại dầu thực vật như dầu mè, dầu đậu nành, dầu hướng dương vì chúng rất tốt cho các hoạt động của hệ thần kinh.
3. Nên uống thêm 1-2 ly sữa mỗi ngày vào các bữa phụ và bữa tối trước khi ngủ để tăng thêm năng lượng và dinh dưỡng. Sữa giúp bạn duy trì sức khỏe, bền bỉ và tránh được cảm cúm, suy nhược, rối loạn tiêu hóa.
4. Để có trí nhớ tốt, còn phải lưu ý đến ngủ, nghỉ ngơi đầy đủ, xen kẽ với vận động thể lực tốt và có phương pháp học tập, tư duy hợp lý. Tránh học dồn, đợi gần đến kỳ thi mới thức khuya học, hoặc lạm dụng các chất kích thích như trà, cà phê, thuốc lá.
(NLĐ )
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 8:34:56 GMT -5
Dinh dưỡng theo bệnh lý
Khi cơ thể bị bệnh, bạn cần tuân thủ chế độ ăn uống hợp lý để nhanh phục hồi sức khoẻ và tinh thần thoải mái. Cần lưu ý một số bệnh lý thông thường kèm chế độ ăn phù hợp như sau:
1. Mệt mỏi Nguyên nhân: Tiêu thụ ít hàm lượng carbohydrate trong quá trình ăn kiêng. Việc tiêu thụ không đủ chất sắt hoặc nước cũng gây mệt mỏi.
Cách chữa: Ăn nhiều thức ăn có hàm lượng carbohydrate đa dạng để phục hồi năng lực cơ thể và tinh thần minh mẫn mà vẫn giữ trọng lượng cơ thể lý tưởng. Bổ sung thêm thực phẩm giàu chất sắt như rau bina và cháo bột yến mạch, uống tối thiểu 8 ly nước/ngày.
2. Buồn chán
Nguyên nhân: Do tiêu thụ không đủ hàm lượng chất béo omega 3 từ cá hoặc các vitamin B, đặc biệt là axit pholic, vitamin B6 và B12 tạo nên tâm trạng buồn tẻ, xuống tinh thần...
Cách chữa: Ăn từ 2-3 khẩu phần cá/tuần, ăn thêm 2 khẩu phần rau xanh có lá xanh đậm hoặc rau đậu mỗi ngày (để bổ sung axit pholic) và các thực phẩm giàu vitamin B6 như chuối, măng tây, rau đậu, ngũ cốc nguyên hạt.
3. Bụng đói liên tục
Nguyên nhân: Chế độ ăn kiêng bất hợp lý có ít calo, carbohydrate và/hoặc protein; bỏ bữa điểm tâm và các bữa ăn khác hoặc quá ít thực phẩm giàu chất xơ. Có thể do tiêu thụ thức ăn có nhiều đường, chất béo chỉ làm tăng thể trọng chứ không no.
Cách chữa: Sắp xếp lại bữa ăn sáng, trưa, chiều, xế và tối hợp lý. Đồng thời kết hợp theo tỷ lệ ít protein và nhiều chất xơ kèm đủ carbohydrate mỗi bữa ăn và cả bữa xế. Ngoài ra, ăn thêm nhiều thực phẩm chứa chất xơ như rau, trái cây, xúp được nấu bằng nước luộc thịt và các món hầm.
4. Lãnh cảm
Nguyên nhân: thường bỏ bữa điểm tâm hoặc tiêu thụ ít antioxydant và vitamin E gây chấn thương tâm lý, giảm trí nhớ.
Cách chữa: Cần ăn nhiều thực phẩm giàu hàm lượng antioxydant và vitamin E như trái cây, đặc biệt là nho đen, đào, mận tươi, cam và rau, đặc biệt là cải xoắn, củ cải đường và rau dền.
5. Khi viêm tấy, lo lắng
Nguyên nhân: Do bỏ ăn, bữa ăn không tiêu thụ đủ calo, uống nhiều chất có caffein như cà phê gây lo lắng, bồn chồn.
Cách chữa: Tiêu thụ tối thiểu 1.800-2.000 calo/ngày và tập trung thực phẩm có chất lượng cao để cung cấp năng lượng cho cơ thể và giúp trao đổi chất được chuyển hóa tốt. Nếu không thể duy trì cơ thể phù hợp với lượng calo phục hồi sức khoẻ hãy cố gắng thể dục thay vì cắt giảm hàm lượng calo. Cần bổ sung thực phẩm thiên nhiên để tăng cường sức khoẻ tốt hơn dùng chất kích thích như cà phê. Những chất chứa caffein làm cơ thể chậm chạp hơn đến 15 tiếng và gây mất ngủ.
6. Khi say sưa và thèm ăn
Nguyên nhân: Tuân thủ chế độ ăn kiêng quá ngặt nghèo, thường bỏ bữa ăn và ăn vặt nhiều kẹo hoặc bữa xế có quá nhiều chất béo. Uống quá nhiều thức uống chứa caffein và rượu cũng gia tăng say sưa và thèm ăn.
Cách chữa: Thay đổi chế độ ăn kiêng hợp lý: ăn vặt với trái cây tươi thay ăn kẹo. Tuy nhiên cần tránh bỏ ăn bằng ăn thành nhiều bữa nhỏ một vài lần/tuần. Không uống hơn 3 tách cà phê hoặc đồ uống chứa caffein/ngày.
7. Khó chịu trước kỳ kinh nguyệt
Nguyên nhân: Tiêu thụ quá ít canxi và magie hoặc quá nhiều đường gây buồn rầu, ủ rũ, lo lắng, sợ hãi, đau đầu, thèm ăn...Ngoài ra, tiêu thụ ít calo gia tăng buồn rầu quá mức.
Cách chữa: ăn bớt đường, bổ sung thực phẩm giàu canxi như sữa không béo, sữa chua, các sản phẩm từ đậu nành có nguồn canxi cao. Ngoài ra, ăn thêm thực phẩm giàu magie như ngũ cốc nguyên hạt, hạt dẻ và rau đậu, ăn đủ hàm lượng calo.
(STNT)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 8:44:32 GMT -5
Lợi ích của sữa chua Sữa chua có lợi cho sức khoẻ. Sữa được coi là thực phẩm chủ yếu trong nhiều thể kỷ qua. Loài người đã sớm nhận thấy sữa có thể khuấy làm bơ và cho lên men nhờ các vi khuẩn để tạo thành món pho mát, sữa chua. Tất cả những món trên đều là những cách để bảo tồn một số hoặc gần như trọn vẹn các dưỡng chất trong sữa theo thời gian. Sữa chua là một món ăn cổ xưa của một nước châu Âu. Ngoài việc cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể, sữa chua còn được xem như một thức ăn rất tốt cho sức khoẻ. Sữa chua được tạo lên men nhờ một vi khuẩn đặc biệt họ Lactobacteriacae. Có một số vi khuẩn sống trong sữa chua, đặc biệt là vi khuẩn Lactobacillus Acidophilus và Bifidobacterra. Khi ăn sữa chua, cả hai loại vi khuẩn này sinh sôi trong ruột và bảo vệ chống lại các yếu tố gây bệnh, chúng có lợi cho trong một số hiện tượng rối loạn tiêu hoá do sử dụng quá nhiều thuốc kháng sinh trong điều trị một số bệnh như ung thư, bệnh gan, thận... Một số vi khuẩn được sử dụng trong sản xuất sữa chua có khả năng làm giảm nồng độ LDL trong máu. Bên cạnh đó, sữa chua còn có tác dụng chống lão hoá, hạn chế rối loạn đường ruột, giảm loét dạ dày, chống loãng xương... Có ý kiến cho rằng, những thức ăn chua có hại cho người loét dạ dày - hành tá tràng vì nó làm tăng lượng axít dễ gây viêm loét nặng hơn. Thế nhưng, nhiều nghiên cứu đã chứng minh dùng sữa chua lại có ích trong việc phòng và chữa bệnh dạ dày. Số lượng và nồng độ axít có trong sữa chua là không đáng kể so với lượng axít trong dịch vị. Ngược lại, axít lactic trong sữa chua lại có tác dụng kìm hãm sự phát triển của Helicobacterpylori, thủ phạm gây viêm loét dạ dày. Hơn nữa, những vi khuẩn lên men chua sẽ bám vào niêm mạc đường tiêu hoá cạnh tranh thức ăn và chỗ bám tiết ra chất kháng sinh tự nhiên, tăng cường miễn dịch tại chỗ, kìm hãm sự phát triển của H.Pylori, giúp cơ thể người loại trừ vi khuẩn có hại này. (Theo TGPN, Sổ Tay Gia Đình)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 8:46:50 GMT -5
Vì sao không nên ăn trứng sống? Nhiều người cho rằng ăn trứng gà sống rất có lợi cho sức khoẻ, thực tế chưa hẳn là như vậy. Quan điểm thích ăn trứng gà sống cho rằng như thế mới giữ được chất là sai lầm vì:
1. Lòng trắng trứng có một loại protein kháng sinh vật tố. Sau khi ăn, protein kháng sinh vật tố có thể kết hợp với sinh vật tố trong cơ thể người tạo một hỗn hợp ổn định, khiến thành ruột không hấp thụ được chất sinh vật tố. Nếu kéo dài sẽ gây những bệnh thiếu dinh dưỡng như rụng tóc hoặc viêm chân tóc từng phần.
2. Trong trứng gà thường có một số vi trùng. Trứng gà để lâu hoặc của gà ốm thường có vi trùng ký sinh. Người ăn vào dễ phát sinh bệnh tật. Hơn nữa, trong lòng trắng trứng gà có chất kháng sinh tơrípxin chỉ tiêu hủy sau khi nấu chín.
3. Trứng gà sống là dạng vật chất bán thể lỏng, sau khi ăn sống, thời gian lưu lại trong dạ dày và đường ruột ngắn, diện tích tiếp xúc trứng sống với dịch tiêu hóa nhỏ hơn trứng chín, protein không được hấp thụ bị bài tiết ra ngoài. Ngược lại, trứng gà chín hầu như được hấp thụ hết.
(Theo Văn Hóa)
|
|
|
Post by Oshin on Nov 7, 2004 10:28:46 GMT -5
Khẩu phần ăn: Cần cân đối đạm động vật và đạm thực vật Đạm động vật có giá trị dinh dưỡng cao hơn so với đạm thực vật; nhưng nó lại có một số hợp chất mà khi chuyển hóa, chúng tạo thành các sản phẩm độc hại cho cơ thể như urê, axit uric...
Chất đạm là thành phần cơ bản của cơ thể sống, tham gia cấu trúc tế bào và là yếu tố tạo hình chính của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Một số protid đặc hiệu có vai trò đặc biệt quan trọng, tham gia vào thành phần các men, nội tiết tố, kháng thể và những hợp chất khác. Các acid amin là thành phần chính của phân tử protid. Giá trị dinh dưỡng của protid được quyết định bởi sự liên kết, số lượng và chất lượng của các acid amin.
Qua quá trình tiêu hóa, chất đạm trong thức ăn được phân giải thành các acid amin. Chúng được hấp thu từ ruột vào máu rồi tới các tổ chức để tổng hợp thành phân tử protid đặc hiệu của cơ thể người. Một số acid amin được gọi là thiết yếu vì khi thiếu nó, sự phát triển của cơ thể sẽ bị ảnh hưởng. Cơ thể lại không tự sản xuất được chúng mà phải lấy từ thức ăn. Còn các acid amin không thiết yếu là loại có thể thay thế, cơ thể tự tổng hợp được nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu nên vẫn phải lấy từ thực phẩm.
Nhìn chung, đạm thực vật (trong đậu đỗ, ngũ cốc, khoai củ...) có giá trị sinh học kém hơn do thiếu một hay nhiều acid amin thiết yếu, hoặc các acid amin được sắp xếp không cân đối. Còn đạm động vật (trong thịt, cá, trứng, hải sản...) tuy nhiều acid amin thiết yếu nhưng lại không thuần nhất mà thường ở dưới dạng liên hợp như Nucleoprotein (là hợp chất của một hoặc vài phân tử protid với các acid nucleic), Lipoprotein (là phức hợp của protid với chất béo như phospholipid, cholesterol...). Trong quá trình chuyển hóa, chúng sẽ tạo ra các sản phẩm độc hại cho cơ thể như urê, acid uric, nitric, nitrat, cholesterol... Nồng độ acid uric nếu tăng cao trong máu sẽ gây bệnh gút. Lượng nitric, nitrat cao trong máu sẽ phối hợp với các gốc tự do để tạo thành chất gây ung thư nitrosamin. Còn lượng cholesterol máu cao là yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch, dẫn đến nhồi máu cơ tim, vỡ mạch máu não.
Vì vậy, bạn thực hiện chế độ ăn cân đối giữa đạm động vật và đạm thực vật nhằm hạn chế việc sinh ra các yếu tố bất lợi cho sức khỏe và nâng cao vai trò của chất đạm. Trước đây, nhiều tài liệu cho rằng lượng protid động vật nên chiếm 50-60% nhưng gần đây, các nhà khoa học cho rằng đối với người trưởng thành, tỷ lệ thích hợp là 25-30%, ở trẻ em là 50-70%.
Nhiều loại thực vật có tỷ lệ đạm rất cao. Trong 100 g đậu đỗ có 21-25 g protid, riêng đậu nành có tới 35-40 g. Chỉ số này ở vừng lạc là 21-27 g, cao hơn thịt bò (18 g). Tuy nhiên, giá trị sinh học của đạm trong đậu đỗ, vừng, lạc, ngũ cốc thấp hơn trong thịt, cá, trứng, tôm, cua... nên sự hấp thu cũng kém hơn. Nếu khéo phối hợp, bạn sẽ có một nguồn đạm rất phong phú, có giá trị sinh học cao và an toàn với cơ thể. Để đảm bảo cân đối chất đạm, bữa ăn phải đa dạng và có tỷ lệ hợp lý.
Trong các thực phẩm giàu đạm, nên ưu tiên đậu nành và cá. Các sản phẩm từ đậu nành không chỉ có tỷ lệ đạm cao gấp đôi thịt bò mà còn chứa nhiều acid béo không no, canxi và chất isoflavone (khi vào cơ thể sẽ chuyển thành genistein giúp phòng ngừa ung thư ).
Còn cá có gần như đầy đủ các acid amin cần thiết, hàm lượng cao hơn thịt. Đạm của cá tươi lại dễ tiêu hóa và hấp thu hơn so với thịt... Chất béo của cá chủ yếu là acid béo không no có hoạt tính sinh học cao, rất cần cho hoạt động của gan, não, tim và các tuyến sinh dục (khi thiếu sẽ gây rối loạn chức năng). Cá cũng là nguồn cung cấp vitamin A, D, B quan trọng, lại giàu canxi và các nguyên tố vi lượng như đồng, coban, kẽm, iod. Tỷ số canxi/phospho ở cá cân đối hơn thịt.
(Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Oshin on Nov 7, 2004 10:34:05 GMT -5
Phân biệt nấm ăn và nấm độc Nấm độc là nấm có độc tố, không ăn được. Có loại nấm chứa độc tố gây chết người (Amatina phalloides, A.verna...), chỉ cần ăn 50g nấm tươi có thể làm chết ngay một thanh niên trẻ, khỏe mạnh mà không có thuốc nào cứu chữa được. Một số loại nấm ăn vào gây nhiều bệnh về tiêu hóa, gan, thận, thần kinh..., nếu ăn nhiều, không được điều trị kịp thời dễ gây tử vong. Có một số nấm tiết độc tố ra môi trường sinh trưởng như đất, phân, nước... Các loại rau, củ trồng trên môi trường đó cũng sẽ bị nhiễm độc.
Phân biệt nấm độc và nấm ăn
Nhiều người quen ăn nấm, nhất là nấm hoang dã, đã có kinh nghiệm, cùng với các cơ sở nghiên cứu đã đúc kết thành bài học như sau:
Không ăn nấm có màu sắc sặc sỡ, có mùi thơm hấp dẫn vì nấm này thường là nấm độc; không ăn các loại nấm hoang dại lúc còn non, vì lúc còn non chúng rất giống nhau (giống cúc áo), khó phân biệt; không ăn loại nấm khi cắt, vết cắt có rỉ ra chất trắng như sữa; không ăn nấm quá già, nấm có nghi ngờ, không rõ địa chỉ... Cũng có những loại nấm độc giống nấm ăn (nấm trồng), rất khó phát hiện nhưng nếu quan sát kỹ sẽ thấy gốc có bao và có vòng cổ.
Nấm ăn: an toàn phụ thuộc vào người bán
Nấm ăn giàu chất dinh dưỡng, có khả năng điều trị và kháng bệnh, không có chống chỉ định, vì nấm ăn đã được chọn lọc lâu năm vừa bằng kinh nghiệm, vừa bằng khoa học thực nghiệm và được trồng nơi an toàn. Nhưng nấm ăn có nhiều đạm, đường, đương nhiên nấm ăn cùng chung số phận với các loại thực phẩm khác, cũng bị vi khuẩn xâm nhập, ôi, mốc, lên men... Hiện nay nấm ăn còn hiếm nên ít thấy hiện tượng ngộ độc nấm ăn. Nấm trồng trên các nguyên liệu bẩn, tưới nước bẩn, môi trường chung quanh nhiễm bẩn (kim loại nặng, nitơrít, chất có phóng xạ...) nấm có thể hấp thụ chất độc chứa trong quả thể.
Tuy nhiên, trong các điều kiện trên nấm rất kém phát triển, nên người trồng nấm buộc phải trồng trong môi trường sạch. Hiện nay ngoài thị trường, nấm ăn sẽ cùng có "mẫu số chung" với loại thực phẩm khác, "mẫu số chung" đó là lương tâm và lợi nhuận của thương nhân, nghĩa là nấm độc sẽ được xếp hàng với cá nóc, với thịt ướp phoócmôn, với rau quả bảo quản bằng hóa chất độc hại... Chắc chắn ngoài thị trường sẽ có hiện tượng đưa nấm độc (loại dễ lẫn với nấm ăn) đánh lừa những người nội trợ không sành về nấm.
Một lời khuyến cáo chung là không nên ăn nấm không rõ nguồn gốc, còn nghi ngờ, chỉ nên ăn những loại nấm có địa chỉ rõ ràng, hoặc tự trồng hoặc là sản phẩm của các cơ sở trồng nấm, chuyên kinh doanh nấm ăn.
BS Nguyễn Văn Chất (HNM)
|
|
|
Post by Robot on Nov 9, 2004 8:15:58 GMT -5
Những loại thực phẩm cần cho từng phần cơ thể
Não: cà rốt, bông cải, cá, trái cây và rau xanh giàu chất chống oxy hóa.
Mắt: các loại thức ăn giàu vitamin C, E và sắc tố vàng (lutein).
Phổi: các loại thực phẩm giàu beta carotene (xoài, cà rốt, bí đỏ, rau dền và ớt).
Tim: trái cây, rau xanh, các loại hạt, cá, thịt nạc, thực phẩm ít chất béo, các loại rau.
Xương: sữa, những loại rau có lá màu xanh thẫm, hạnh đào, mè và hạt hướng dương.
Da: những loại thực phẩm chất giàu beta carotene. Ruột: những thực phẩm giàu chất xơ.
Ngoài ra, một nghiên cứu còn phát hiện mỗi ngày ăn 10g chất xơ, nguy cơ mắc bệnh tim mạch giảm 14%.
NGUYỄN HIỀN (Theo Reader's Digest)
|
|