|
Post by Robot on Apr 7, 2004 9:14:20 GMT -5
Ai nghe tiếng khóc anh hề? Mạc Can Đó là tiếng khóc không ai nghe được, rỉ ra bên trong trái tim nhỏ bé đầy thương tổn của anh hề tuổi mười sáu, con trai chủ gánh xiệc Sạc Lô Trần. Tuyệt kỹ của gánh xiệc là màn phóng dao, bốn tám lưỡi trong một suất diễn. Người phóng dao là anh Hai, có vóc dáng, gương mặt, và phong thái của một hoàng tử, nhưng là một hoàng tử bị đọa đày. Người đứng trước tấm ván chờ những lưỡi dao là cô Tư mà nếu ở nhà người khác hẳn còn chơi búp bê. Đặc biệt nhất là người đứng đỡ tấm ván, anh Ba, tức "người cõi trên", mỗi ngày phải thấu cảm nỗi sợ hãi của cô em bé bỏng, luôn dự cảm về một tai nạn bi thảm tất yếu xảy ra. Trái tim nhỏ bé của chú hề con dõi theo bước lưu diễn của gia đình, quan sát cha mẹ, anh em, xóm làng, trời đất, và cả những gì không trông thấy bằng mắt trong nỗi dày vò đau đớn: "Tôi chào đời vào một buổi chiều tàn, mà buổi chiều nào không buồn, nó là lúc chết của một ngày... Tuổi thơ ấu của anh em tôi chầm chậm trôi theo những dòng sông vui buồn, trong cơ khổ đói khát...". Đời giang hồ của thứ nghệ sĩ đói rách không cho những đứa trẻ có được những gì bình thường nhất của một gia đình. "Rất thường một đêm tôi có tới hai ba giấc ngủ chập chờn, một ở nơi này lúc trời khuya chờ xe tải tới chở gánh hát đi, và hai ba khi tới một nơi nào đó lúc trời tù mù chưa sáng hẳn... Chưa hề có một cái gối, tôi luôn gác đầu lên khuỷu tay rồi ước mơ. Tôi mơ nhiều nhứt là được tới trường học, mà suốt cuộc đời trôi sông lạc chợ của tôi, tôi thường thấy ở nhiều thị trấn hay những làng quê, đó là ngôi trường với tiếng trống thôi thúc vui tai". Trong gia đình thì mỗi người là một tâm trạng đầy u uẩn. Người cha "rất dạn chuyện ăn nói, tiếng Tây tiếng Tàu tiếng Miên ông biết mỗi thứ một chút, ngoài ra còn những chuyện tiếu lâm ngắn làm mấy cô gái nghe nhằm phải đỏ mặt... Cha tôi là một trong những kịch sĩ bẩm sinh, ông đóng vai của chính ông, với nhiều sáng tạo, và đã đi vào những giai thoại của khán giả bình dân". Còn người mẹ, "người ta nói một lần dọn nhà đã khó, chúng tôi hơn một ngàn lần dọn nhà", mỗi lần đến chỗ diễn mới lại "lụm cụm ráp cái ghế bố, sau đó bà đi ra sau rạp hát, đặt vài cục gạch làm ông lò... Suốt đời mẹ không hề có một cái bếp lò nguyên vẹn, nó cũng vẫn chỉ là vài cục gạch u đầu sứt trán". Nhưng chính người đó đã bỏ ống heo theo kiểu "bà đập một cái lỗ nhỏ dưới bụng nó" rồi "tiện tặn dán cái bụng nó lại bằng giấy báo, khi nào heo ăn no bà chỉ có việc xé mảnh giấy báo đó... Tôi thấy con heo đất này từ hồi còn nhỏ xíu cho tới khi tôi trở thành một ông già, nó vẫn ở cạnh mẹ tôi nhưng bà vẫn nghèo... Bao năm mẹ vẫn dành dụm bằng cách đó".
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 9:14:44 GMT -5
Trái tim cậu trai mười sáu lang thang trên các tầng mây, rồi lại rơi xuống mặt đất ngổn ngang mối lo cơm áo. Chiều nào cậu cũng vẽ mặt hề, với cái mũi đỏ chót, cái miệng cũng đỏ ngoác lên tận mang tai, ngồi trên chiếc xe ngựa, hai bên treo hai tấm quảng cáo, đánh trống, nhăn mặt nhíu mày làm trò khỉ... "Dọc đường tôi đi, mấy đứa con nít chạy theo trêu chọc: "Ê ê thằng hề hộc máu, thằng hề con lưng gù". Chú hề nhỏ chỉ biết giãi bày cùng em gái: "Anh không muốn vẽ mặt hề đi rao bảng, mắc cỡ quá !". Nhưng cơm áo không cho phép người ta chọn lựa. Cô em nhỏ "có khuôn mặt xanh xao tội nghiệp được phủ một lớp phấn trắng dày, và một màu hồng giả tạo trên má... Mà nào phải son phấn gì cho tốt. Màu đen từ lọ chảo pha với dầu dừa, màu trắng là bột màu nước nấu với lòng trắng hột vịt, còn màu đỏ có khi là bao nhang. Da mặt của các nghệ sĩ càng ngày càng thâm xịt như miếng thịt trâu qua buổi chợ chiều"... "Hàng thượng hạng là đám con nít, nhiều đứa để đầu ba vá, lem luốc, ở truồng, la hét, chen lấn giành chỗ... Khán giả người lớn là mấy bà già trầu xách giỏ đi chợ, là đàn ông trọng tuổi đầu búi tó củ hành, rồi các cô gái trẻ bên cạnh chàng trai làng...". Chú hề nhỏ căm ghét trò phóng dao đã tước mất nụ cười của cô em út, khiến cô lúc nào cũng chui vào góc tối với tràng chuỗi trên tay: "Trò phóng dao du nhập vào đây từ một nơi người ta ăn thịt người, nơi mà người ta quen việc phóng dao tiêu diệt con mồi". Nhưng chú phải dính chặt với tấm ván, như một định mệnh, một hình phạt: "Tôi lớn không nổi vì đói và mất sức. Nhiều năm ròng rã trôi qua, khi tôi cố lớn được một chút, tôi vác nó, tôi cõng nó như một món nợ đời. Em gái tôi thở dài khi thấy tôi mỗi năm thêm một tuổi mà hình vóc vẫn vậy, gần như người lùn, cằn cội xác xơ...". Câu chuyện về một gánh xiệc rong được kể bằng những hồi tưởng đầy những chi tiết cực kỳ sống động, như một cuốn phim đồng hiện cả quá khứ và hiện tại, chen vào những độc thoại đầy chất nhân sinh bi đát. Câu chuyện đã kết thúc không có hậu: bi kịch đã xảy ra đúng như dự cảm của chú hề nhỏ, gánh xiệc rã đám, gia đình ly tán. Anh Hai hoàng tử bất thành duyên nợ cùng con gái ông chủ rạp, sau đó biệt tích, trở thành tướng cướp, lãnh án tử hình. Cô em út trở thành cô gái già sợ sệt, trốn tránh cuộc đời trong một góc nghĩa trang. Anh hề nhỏ cũng trôi dạt, già đi theo quá khứ đầy ám ảnh của gia đình. Mạc Can đã vẽ lại hồi ức của anh hề nhỏ một thời xa xưa nhưng khiến bao người nhớ lại chính tuổi thơ tuổi trẻ của mình, chạnh lòng nhận ra có biết bao cuộc đời bên ngoài tô son trát phấn mà bên trong đầy ắp bi kịch riêng tư: kẻ đem tiếng cười cho người khác thì mỗi ngày nước mắt cứ âm thầm nhỏ giọt, tự mình mình biết, tự mình mình hay. Mỗi ngày trôi qua trong lòng họ như thể đang phải lần một xâu chuỗi quá dài "nhưng cuộc đời là một xâu chuỗi có nhiều hạt lớn hạt nhỏ, hạt xấu hạt tốt, hạt cười hạt khóc, hạt hạnh phúc và vô phúc, nó là xâu chuỗi vô thường". Phải chăng đó chính là tổng kết không vui nhưng độ lượng về cuộc đời sắc không này, của một con người đã âm thầm vượt qua quá nhiều trải nghiệm ? Ngô Thị Kim Cúc (*) Đọc Tấm ván phóng dao, tiểu thuyết dự thi của Mạc Can, NXB Hội Nhà văn, 2004.
|
|
|
Post by Robot on May 21, 2004 15:06:03 GMT -5
Người đi tìm bí mật của Hội An lộng gió
TT - Xếp lại những dự án trị giá bạc tỉ ở xứ người, chàng thanh niên 27 tuổi quảy balô với lỉnh kỉnh máy móc thiết bị, lang thang trên những ngả đường Hội An, quyết tâm tìm cho được những bí ẩn của gió.
Bí kíp sống chung với... nóng
Phần mở đầu luận văn thạc sĩ kiến trúc của Võ Trọng Nghĩa thế này: “Máy điều hòa nhiệt độ đang được sử dụng ngày một nhiều ở những nước nhiệt đới. Nhưng hàng trăm năm trước, những khu đô thị đông dân cư ở khu vực này đâu có máy điều hòa, vậy người ta phải làm cách nào đó để có thể sống chung với... nóng”.
Và anh giới thiệu với hội đồng khoa học một mô hình “sống chung với nóng” có một không hai trên thế giới: kiến trúc mái nhà của phố cổ Hội An. Sau hơn hai giờ bảo vệ, đề tài “Ảnh hưởng của hình thức mái nhà truyền thống ở Hội An đến việc thông gió” được trao giải luận văn xuất sắc nhất của Đại học Tổng hợp Tokyo, Nhật Bản, danh hiệu mà chưa có người nước ngoài nào làm được từ trước đến nay.
Lần đầu tiên đến Hội An, Nghĩa leo lên nóc khách sạn và kêu lên “Ôi trời ơi!” khi nhìn thấy kiến trúc lạ lùng của các mái ngói tại đây. Mái nhỏ rồi mái to nối lại với nhau chứ không làm liền một mái to, tạo thành chỗ trũng ở giữa. “Đó là điều mà dân kiến trúc sợ nhất, vì nó là tác nhân hàng đầu gây dột nước”. Sao lại như thế nhỉ, Nghĩa trằn trọc mấy đêm liền. Chẳng còn bản vẽ nào nguyên gốc, anh lân la xin vào nhà người dân để nghiên cứu.
“Điểm thú vị nhất trong quá trình tìm hiểu là mình phát hiện ông bà mình ngày trước tính toán cực siêu. Chắc chắn là không dùng máy móc như bây giờ, nhưng họ biết được hướng đi của gió, nó sẽ lướt trên mái nhà nhỏ, chạm vào đỉnh mái và tách ra làm nhiều phần. Sẽ có một phần gió chạy lên, còn đa phần là chạy xuống. Và hay nhất là tính sao cho toàn bộ phần gió chạy xuống đó vào hết ở mái nhà phía sau. Thế là chẳng cần quạt, cả gian nhà cứ lồng lộng gió từ sông Hoài thổi vào, tha hồ mát...” - anh giải thích.
Nhưng để có được một câu giải thích ngắn gọn như trên, chàng kiến trúc sư này phải mất hơn năm trời phân tích, thử nghiệm và tìm cách chứng minh. Hôm bảo vệ luận văn, Nghĩa mang đến một mô hình gió thật lạ: nhà cổ thu nhỏ, nhiệt độ đúng kiểu là 35 độ C và gió muốn nhìn thấy được thì phải có màu. Và cái màu đó được làm bằng hơi của... nước đá khô.
“Vừa rẻ tiền lại mang vừa đủ hơi ẩm, bật quạt và điều chỉnh đúng tốc độ gió nữa là xong”, anh chàng xoa hai bàn tay có những ngón dài vào nhau. Tập luận văn thạc sĩ nói có bấy nhiêu chuyện nhưng dài tới 200 trang toàn số liệu và bản vẽ, “khoa học mà...”.
Nhưng đó mới là... “môđen” nhà đầu tiên của Hội An, dành cho những ngôi nhà nằm ngay trung tâm phố. Miền đất đặc biệt này còn có những gian nhà có một mặt nhìn ra sông. “Cái này thì đúng là tuyệt. Chẳng có một tay kiến trúc nào làm mái lớn mái nhỏ như người Hội An cả. Nhưng chính cái mái diệu kỳ này làm cho áp suất trong nhà thấp, gió luôn có lối thoát. Thế là vừa mát mẻ, lại vừa không sợ... trúng gió”.
|
|
|
Post by Robot on May 21, 2004 15:10:24 GMT -5
Công thức của gió Hội An Mái nhà gấp khúc của phố cổ Hội An Đầu tháng năm Nghĩa về nước, bắt đầu một cuộc tìm kiếm gió với qui mô lớn hơn: vì sao cả khu vực phố cổ đều mát? “Rõ ràng là tất cả mọi thứ ở đây đều được đặt đúng nơi, đúng chỗ và có tính toán một cách toàn diện. Chẳng hạn ở các góc đường đều có một giếng nước, các con đường đều được bố trí theo một qui luật nhất định mà bây giờ gọi là qui hoạch đô thị để bất cứ nơi nào cũng có độ luân chuyển không khí cao nhất...”. Một mình Nghĩa đi khắp nơi, đo đạc, hỏi han, ghi ghi chép chép mãi và gầy hết mấy ký vì những thông số đặc biệt này. “Sao trước nhà, giữa nhà, sau nhà đều có gió mát?”; “Sao đầu đường có độ ẩm cao, giữa đường lại chẳng thấy chút độ ẩm nào mà vẫn mát?”; “Sao nhà nào cũng có vườn giữa?”; “Sao nhà cổ luôn thông suốt từ trước ra sau?”… Nghĩa quay cuồng với hàng loạt câu hỏi, những bí mật mà chẳng có tài liệu nào có thể giải đáp được. Anh gõ cửa từng ngôi nhà, xin phép đủ các kiểu để được vào trong nhà dân cân đo đong đếm... gió. Gặp Nghĩa tại sân bay khi chuẩn bị về Nhật, anh cười rất tươi: “Tớ đã nhờ được các anh ở Trạm Khí tượng thủy văn Quảng Nam hỗ trợ trong việc đo các số liệu và phân tích bản đồ chuyên dụng. Đã đoán ra nguyên lý của Hội An lộng gió rồi, nhưng đường còn dài, tớ sẽ trở lại nhiều lần nữa để hoàn thành cái bí kíp về gió tuyệt vời nhất trên đời của Hội An…”. TRẦN VŨ NGUYÊN Chat cùng Võ Trọng NghĩaVõ Trọng Nghĩa hiện lên trên màn hình webcam với khuôn mặt hiền lành và giọng nói đặc nguyên phong vị Quảng Bình. Nghĩa cười: “Hơi khó nghe thật, nhưng mình chẳng muốn sửa tí nào, cứ trọ trẹ như thế cho đỡ nhớ nhà”. Sinh ra ở Lệ Thủy, Quảng Bình nơi gió hun người và nắng cháy da ấy, những ngày cấp I Nghĩa học bài, làm bài trên lưng bò ngay khi vừa bước ra khỏi trường làng. Tối mịt về đến nhà, lại có hàng loạt công việc không tên của một gia đình đông con đang chờ “thằng út”... Lớn một chút, Nghĩa trở thành một lao động “bình đẳng” với anh chị trong nhà, nghĩa là cũng đi làm ruộng, cũng vào núi chặt củi để đổi gạo. Rồi Nghĩa đậu một lúc ba trường đại học. “Tớ chọn kiến trúc chứ không chọn xây dựng hay bách khoa, vì lúc đó tớ chỉ muốn xây được những ngôi trường chẳng bao giờ sập như ngôi trường ngày xưa thôi...”. Nghĩa lên đường sang Nhật theo một học bổng khi vừa tròn 20 tuổi. Đó là năm 1996. Năm 1999, Võ Trọng Nghĩa được nêu tên trang trọng trong lễ tuyên dương của trường khi giành giải vàng cuộc thi thiết kế nhà của Tập đoàn Suzuki. Năm 2000, đồ án kiến trúc của Nghĩa được giải thưởng đồ án xuất sắc nhất trường và được giới thiệu tại triển lãm kiến trúc toàn Nhật Bản. Năm 2001, đến ba lần Nghĩa mang về giải thưởng đồ án xuất sắc nhất trong bốn kỳ thi của Trường đại học Công nghiệp Nagoya. Lúc ấy, Nghĩa “nổi như cồn” vì chưa có người nước ngoài nào “oai” đến thế. Năm 2002, Nghĩa tiếp tục lên bục nhận giải luận án tốt nghiệp xuất sắc nhất của Trường Nagoya. Tiếp tục có tác phẩm dự treo tại triển lãm kiến trúc toàn quốc và nhận thêm giải thưởng lớn kiến trúc sinh viên của Hội Kiến trúc sư Nhật Bản vùng Toukai trong cuộc bình chọn cuối năm. Năm 2003, anh tiếp tục giành giải thưởng luận văn đặc biệt của Hội Kiến trúc sư Rotary. Đến năm 2004, Nghĩa tốt nghiệp thạc sĩ với giải thưởng luận văn xuất sắc nhất của Trường đại học Tokyo. “Cả một quá trình phấn đấu không có điểm dừng chân nào cả. Cứ làm, làm và làm, y như cái thời chặt củi ở nhà vậy. Đến giờ có người hỏi mới cảm nhận được tình yêu mà mình dành cho kiến trúc, cho nghệ thuật lớn hơn tất cả những giải thưởng mà mình đã đạt được”. Nghĩa bấm tổ hợp phím Ctr-Alt-G khi thấy chúng tôi nãy giờ im lặng ngồi nghe anh nói. Màn hình rung lên một tiếng keeng...
|
|
|
Post by Robot on Jun 3, 2004 17:23:56 GMT -5
Người cao tuổi mê tranh thiếu nhi! Bác sĩ Trần Hữu Nhơn, sinh năm 1946, Trưởng Khoa Nội Tổng hợp 1 Bệnh viện Nhi Đồng 2, TPHCM, có một bộ sưu tập tranh thiếu nhi hàng trăm bức do ông sưu tầm từ hơn 5 năm nay. Gương mặt lúc nào cũng hớn hở đón khách, bác sĩ Trần Hữu Nhơn cho biết: “Vì muốn trang trí khoa cho vui tươi, xóa đi cái u uất, tâm trạng không vui của gia đình bệnh nhân và các bệnh nhi nên tôi đã nghĩ ra cách trang trí tranh ở hành lang và các phòng. Đối tượng phục vụ chủ yếu là trẻ con nên trang trí tranh người lớn làm sao con nít hiểu, con nít chỉ hiểu tranh con nít mà thôi...”. Dẫn tôi dạo quanh một vòng giới thiệu bộ tranh vừa mới sưu tập được, bác sĩ Trần Hữu Nhơn nói: “Muốn xem và hiểu tranh thiếu nhi ta phải thả lỏng tâm hồn, không còn vướng bận một điều gì của công việc và cơm áo gạo tiền thì mới hiểu được tranh trẻ”. Chỉ tôi bức tranh mà ông tâm đắc: Bức tranh mà tôi chỉ phì cười vì chẳng có người lớn nào hình dung ra được ý đồ của họa sĩ nhí này: Con trâu nằm nhai rơm, trẻ chăn trâu thả diều. Nhưng để nhìn thấy được cánh diều đang bay trước gió, tác giả đã vẽ luôn một khuôn mặt lật ngược và cái cổ cắm giữa hai ngã rẽ của mái tóc”. Bác sĩ Nhơn cho rằng tranh này là bất hủ. Hay bức tranh năm người bạn đang tắm sông nhưng mặc nguyên quần áo vì cô giáo dạy ra đường phải lịch sự nên phải bận quần áo chứ không ở trần truồng... Niềm đam mê sưu tập tranh thiếu nhi của bác sĩ Trần Hữu Nhơn có cách đây 5 năm từ khi một người bạn tổ chức vẽ tranh thiếu nhi nhân ngày 1-6 sau đó bán tranh giúp trẻ em nghèo. Một số tranh không bán được người bạn mang tặng lại bác sĩ Nhơn. Ban đầu chỉ để xem chơi, dần về sau những nét vẽ ngộ nghĩnh “không giống ai” đã thu hút bác sĩ Nhơn... Đến nay bộ sưu tập tranh của ông đã có trên 300 bức. Niềm đam mê tranh của bác sĩ Nhơn tăng lên gấp bội vì hơn 200 bức tranh ông trang trí ở khoa được các bệnh nhi rất thích. Mỗi khi trẻ khóc, lúc cho trẻ ăn... các phụ huynh của các bệnh nhi thường bồng các em xem tranh. Việc đam mê tranh thiếu nhi cũng chẳng tốn kém bằng chơi tranh của các danh họa nên số tiền tích lũy được của bác sĩ Nhơn có thể vừa mua tranh và làm cả việc thiện. Bài - ảnh: Trung Phương
|
|
|
Post by Robot on Jul 6, 2004 23:06:28 GMT -5
Cậu bé nhặt banh và... Einstein
TT - Mọi chuyện cứ như đùa, khi Lâm chìa ra một chiếc kính hiển vi do bạn tự làm với giá... 4.000 đồng. Nhưng chẳng phải chỉ có bấy nhiêu, cậu bé làm nghề nhặt banh tennis này còn mang theo cả một... túi những phát minh của mình để giới thiệu.
“Chỉ cần một cái điện thoại, chế biến một tí xíu là thành cái khóa cửa ngay. Đầu tiên là nối nguồn điện của máy với một nam châm điện. Sau đó là thiết kế một thanh sắt làm chốt cửa. Rồi, bây giờ phải đăng ký dịch vụ chỉ nhận cuộc gọi từ một hoặc vài số nhất định của người trong nhà. Như vậy khi gọi vào số của cái khóa cửa thì nó sẽ nạp điện cho nam châm, hút thanh sắt về phía mình và... xin mời vào”. Đó là ý tưởng mà Lâm “khuyến mãi” cho chúng tôi sau khi giới thiệu sản phẩm kính hiển vi của mình.
“Nguyên lý của cái kính này là xem ngược, cái tiêu bản phải để sát vào mắt, chiếu đèn xe máy cách chừng 5m và chỉnh độ gần xa của cái kính lúp để thấy rõ nhất” - vừa nói cậu bé vừa thoăn thoắt tháo lắp những đoạn... ống nước nhựa và chiếc kính lúp dành cho trẻ em.
Một anh bạn nghiên cứu về quang học cầm cái kính và... ngưỡng mộ: “Một hiện tượng quang học bình thường thôi, nhưng chưa ai làm như thế cả. Kể cũng thú vị”. Lâm bảo cậu ta đã mang cái kính hiển vi của mình đến chào hàng ở tiệm chuyên doanh nhưng đi đến đâu cũng bị từ chối vì “giống đồ chơi trẻ con quá...”.
Hai năm trước, mẹ con Mai Sỹ Xuân Lâm từ Sa Đéc, Đồng Tháp khăn gói lên thành phố. Học hết lớp 12 trường bổ túc văn hóa, Lâm xin được một chân nhặt banh cho sân tennis nằm trong bệnh viện quân đội. Sáng đến khuya, trong khi đôi chân đuổi theo những quả bóng lăn thì đầu óc cậu trai lại vướng bận những chuyện rất vĩ mô. “Em cũng không biết sao nữa, mẹ nói em khùng, mấy chú trong sân banh cũng nói em khùng khi nghe những ý tưởng của em... Nhưng em tin là có ngày em sẽ trở thành nhà phát minh”.
Và Lâm bắt đầu hành trình trở thành nhà phát minh bằng việc... nhịn ăn. “Chỉ cần 2.000 đồng là có thể vô mạng đọc tin được hơn nửa tiếng, đủ để biết chuyện thế giới đang diễn ra như thế nào”, Lâm kể vanh vách những website chuyên đề mà mình hay xem. Nhưng cứ nhịn ăn để vô mạng và suy nghĩ thì không còn sức để... nhặt banh và sáng tạo, Lâm xin vào làm ở một tiệm Internet gần nhà cho tiện việc... nghiên cứu. Cậu trai 18 tuổi này chấp nhận “cày” mọi thứ, từ việc giữ xe cho khách, lau chùi máy đến nhiều việc không tên khác...
“Đọc xong bài báo “Thông khùng và vũ trụ” (TT) là em tìm anh Thông khùng liền, hai anh em trao đổi nhiều thứ lắm. Em mong ngày anh Thông bay vào vũ trụ cũng là ngày em trở thành một nhà phát minh như Einstein”, Lâm đẩy cặp kính cận lên, cười hiền lành mà mắt ánh lên niềm đam mê khó tả...
T.V.NGUYÊN
|
|
|
Post by Oshin on Jul 23, 2004 22:53:07 GMT -5
Huy chương vàng toán quốc tế Lê Hùng Việt Bảo: Chàng trai của điểm số đỏ
TT - Gia đình, bạn bè của Việt Bảo đến bây giờ vẫn còn buồn cười khi nhắc lại một câu chuyện vui: năm lớp 11, có người hỏi trong lớp chuyên toán của Bảo có bao nhiêu bạn gái, Bảo trả lời rất thật “không nhớ, vì chưa... đếm bao giờ”.
Vậy mà dường như chỉ có toán học mới làm Bảo bộc lộ hết mình. Ba mẹ Bảo đều là giảng viên ĐH Bách khoa Hà Nội. Cô Việt Uyên - mẹ Bảo - nhớ lại: “Bảo tỏ ra say mê môn toán ngay từ khi bắt đầu đi học với một lý do rất ngộ nghĩnh: học toán dễ nhất trong các môn học”.
Do ba mẹ sang công tác tại CHLB Đức nên từ năm lớp 1 - 3 Bảo học ở Đức (vì thế Bảo có vốn tiếng Đức kha khá, sau nhiều năm đến giờ vẫn có thể đọc sách được). Môn toán sớm trở thành môn học hứng thú đối với Bảo, nhưng theo Bảo, chương trình toán tiểu học của Đức dễ quá nên Bảo được ba mẹ kèm học thêm bằng sách toán chương trình học ở VN.
Khi về nước, Bảo trở thành học sinh giỏi nhất của lớp A chuyên toán Trường THCS Nguyễn Trường Tộ (Hà Nội). Giải thưởng đáng kể đầu tiên về môn toán của Bảo là giải nhì toán thành phố Hà Nội năm học lớp 9.
Trở thành HS khối phổ thông chuyên toán của ĐH Khoa học tự nhiên (thuộc ĐHQG Hà Nội), toán học đã thật sự trở thành một phần và có lẽ là phần quan trọng nhất trong cuộc sống của Bảo. Ngoài những bài tập trong chương trình, Bảo tự mày mò vào Internet tìm đọc thêm tài liệu, nghiên cứu tìm hiểu thêm các dạng bài tập mới.
Đối với Bảo, khi đã học toán thì không còn giới hạn thời gian hay phạm vi kiến thức, cũng không có sự hài lòng với chính bản thân mình. Chính vì vậy ngay khi mới học lớp 11, Bảo đã chững chạc có mặt trong đội tuyển VN tham dự Olympic toán năm 2003 tại Tokyo, mang về cho đất nước một tấm HCV với điểm số tuyệt đối 42/42.
Năm nay lại tiếp tục giành giải nhất trong kỳ thi HSG quốc gia với điểm số tuyệt đối 40/40, luôn dẫn đầu trong số 43 HS tham dự vòng thi chọn đội tuyển dự thi quốc tế và tiếp tục giành HCV Olympic thứ hai. Hai năm liền Bảo có món quà ý nghĩa nhất để mừng tặng sinh nhật mẹ - người đã nỗ lực vun xới cho năng khiếu, triển vọng của Bảo.
Tấm HCV thứ hai của Bảo làm nức lòng gia đình, thầy cô và bạn bè. Chỉ riêng Bảo lại hơi “ỉu” vì lần này “đã không làm trọn vẹn một bài toán dạng tổ hợp nên không đạt điểm tuyệt đối” như năm trước.
Nhưng các bạn đừng nghĩ cuộc sống của Bảo chỉ có toán và toán thôi nhé! Năm lớp 12 vừa qua, bận rộn với các kỳ thi quốc gia và quốc tế như vậy nhưng Bảo vẫn đạt danh hiệu HSG toàn diện, môn văn đạt điểm tổng kết trên 8.0. Để có thể lướt net phục vụ việc học hỏi thêm về toán học, Bảo rất siêng năng học tiếng Anh. Và một cách học tiếng Anh khá hiệu quả đối với Bảo là... xem hoạt hình.
Còn một điều ít ai biết - vì Việt Bảo chẳng kể với ai bao giờ, Bảo vẫn đang chăm chỉ học chơi đàn piano, cũng say mê không kém gì học toán, lại còn khẳng định có sự liên hệ mật thiết giữa toán học và âm nhạc đấy!
Nhịp sống trẻ đã có trao đổi ngắn cùng Việt Bảo:
* Ngay khi đang học lớp 11 đã được chọn vào đội tuyển, đi thi quốc tế lần đầu Bảo đã giành được HCV với số điểm tuyệt đối. Điều này có tạo áp lực trong các cuộc thi năm nay không?
- Mình chỉ cảm thấy áp lực thật sự, hơi lo lắng trước khi bước vào kỳ thi quốc tế ở Hi Lạp. Đó là cảm giác không biết có vượt qua được chính mình hay không. Còn trước đó, ở kỳ thi chọn HSG quốc gia, các vòng thi chọn đội tuyển, mình chỉ nghĩ đến vòng thi kế tiếp thôi, làm sao vượt qua được với thành tích tốt nhất mình có thể làm được.
* Được tuyển thẳng vào ĐH, Bảo quyết định chọn trường nào?
- Mình đã đăng ký tuyển thẳng vào khoa toán, Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG Hà Nội).
* Lựa chọn như vậy tức là Bảo dự định sẽ gắn bó với ngành toán lý thuyết? Tại sao Bảo không chọn những ngành học đang được ưa chuộng hiện nay như công nghệ thông tin chẳng hạn?
- Trước mắt, mình sẽ học tập ở hệ cử nhân tài năng của Trường ĐH Khoa học tự nhiên. Ước mơ của mình là sẽ trở thành một nhà toán học. Có thể vất vả, khó khăn hơn những ngành nghề khác, nhưng mình không đắn đo, e ngại khi theo đuổi điều say mê nhất.
* Điều gì ảnh hưởng lớn nhất trong quá trình học tập, giúp Bảo đạt đến thành công hôm nay?
- Đó là một lời nhắc nhở của mẹ ngay từ khi Bảo còn học THCS. Mẹ nói: “Phải làm tất cả các bài chính khóa ở trường trước khi làm những việc khác”. Nhờ câu nói đó của mẹ, mình tự hiểu phải luôn nắm vững những kiến thức cơ bản trước và không nên chủ quan, coi thường những kiến thức cơ bản, dù là đơn giản nhất.
THANH HÀ
Lần đầu tiên VN có mặt tại Olympic toán quốc tế là cuộc thi lần 15 năm 1974. Đến cuộc thi lần 45 (được tổ chức tại Athens, Hi Lạp, từ ngày 6 đến 19-7 vừa qua) đội tuyển HS VN đã đánh dấu tròn 30 năm có mặt ở cuộc thi Olympic toán quốc tế bằng một thành tích rực rỡ nhất: cả sáu thành viên đội tuyển đều giành được huy chương với bốn HCV và hai HCB.
Thành tích này đã đưa đội tuyển VN giành được vị trí thứ tư toàn đoàn trong tổng số 85 quốc gia và khu vực tham dự cuộc thi, chỉ đứng sau ba cường quốc là Trung Quốc, Mỹ và Nga.
Riêng Lê Hùng Việt Bảo với tấm HCV thứ hai đã trở thành người thứ năm lập thành tích giành liên tiếp hai HCV Olympic toán quốc tế sau các bậc đàn anh như Ngô Bảo Châu, Ngô Đắc Tuấn, Đào Hải Long...
|
|
|
Post by Oshin on Jul 23, 2004 22:57:09 GMT -5
Gặp lại Trịnh Xuân Thuận
TT - GS Trịnh Xuân Thuận đã công bố 120 công trình trên các tạp chí khoa học chuyên ngành và các kỷ yếu hội nghị khoa học quốc tế. Đặc biệt, 10 cuốn sách dày dặn của anh rất được hoan nghênh ở châu Âu và Bắc Mỹ; một số cuốn được dịch ra 16 thứ tiếng.
Chính Tổng thống Pháp F. Mitterrand đã mời anh cùng giáo sư Trần Văn Khê “tháp tùng” như một “nhịp cầu hữu nghị” trong chuyến sang thăm VN năm 1994, mặc dù biết anh Thuận không mang quốc tịch Pháp.
Tôi xem danh sách ban cố vấn quốc tế của cuộc Gặp gỡ Việt Nam lần 5 sắp khai mạc vào đầu tháng 8-2004 tại Hà Nội thấy có tên anh. "Phải chăng lần này anh về nước với mục đích chính là dự cuộc gặp gỡ này?" - tôi hỏi giáo sư Trịnh Xuân Thuận ngay khi tình cờ gặp lại anh sau bốn năm xa cách, ở phố cổ Hà Nội, tại một cửa hàng... chả cá!
- Đó cũng là một trong những công việc chính mà tôi phải làm trong gần một tháng ở Hà Nội - anh Thuận nói - Ngoài ra còn nhiều việc khác nữa: trao đổi ý kiến với một số vị lãnh đạo các ngành khoa học và giáo dục trong nước nhằm nhanh chóng mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa các viện nghiên cứu và trường đại học lớn ở Mỹ và VN.
Tôi cũng sẽ nói chuyện với các bạn trẻ yêu khoa học ở Hà Nội (lúc 9g sáng 29-7-2004 tại hội trường C2 Trường đại học Bách khoa) về Đi tìm nguồn cội - Big Bang và sau đó, như đã nói chuyện với các bạn trẻ ở TP.HCM.
Theo tôi nhớ, hình như anh đã từng nghe tôi nói chuyện, cũng về đề tài này, tại thành phố Blois, hồi chúng ta cùng dự Gặp gỡ Blois, do anh Trần Thanh Vân tổ chức vào mùa hè năm 1998 ở miền trung nước Pháp?
Lần này tôi về nước theo lời mời của giáo sư Nguyễn Văn Hiệu ở Viện Khoa học tự nhiên và công nghệ VN, nên có nhiều thời gian hơn. Do vậy mới có thể nhẩn nha dạo chơi phố xá, ăn chả cá, bún thang! Ồ, cái món chả cá Lã Vọng có mùi thì là và mùi cà cuống thơm quá đi mất! - Anh Thuận cười sảng khoái.
Sáng nay tôi vừa về quê thắp mấy nén hương trên bàn thờ gia tiên, gặp gỡ bà con, họ hàng, đông vui lắm! Quê tôi ở Mai Lâm, bên kia sông Đuống, đất ngoại thành Hà Nội ấy mà!
Tôi ngạc nhiên bởi vì sau bao nhiêu biến cố, lưu lạc khắp bốn phương trời, thế mà giờ đây anh Thuận vẫn nói sõi tiếng Việt, với giọng của người Hà Nội gốc!
Sinh ngày 20-8-1948, sau Hiệp định Genève năm 1954, trước cảnh chia đôi đất nước, mới 6 tuổi, Trịnh Xuân Thuận đã phải theo gia đình rời Hà Nội vào Đà Lạt rồi về Sài Gòn, theo học “trường Tây” Jean-Jacques Rousseau (trước Cách mạng Tháng Tám là Trường Chasseloup-Laubat).
Từ nhỏ cho đến khi thi tú tài, anh phải “bò” ra học tất cả các môn đều bằng tiếng Pháp! Nào ngờ chính nhờ vốn tiếng Pháp học từ dạo ấy, sau này anh mới có thể viết những cuốn sách dày nổi tiếng thế giới, giàu chất khoa học chính xác cũng như chất thơ bay bổng.
"Mặc dù tốt nghiệp cử nhân tại Viện Công nghệ California, bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Princeton, rồi giảng dạy nhiều năm tại Đại học Virginia, nghĩa là từ sáng sớm cho đến đêm khuya chỉ toàn nói, viết bằng tiếng Anh, tôi vẫn không thể nào thông thạo tiếng Anh bằng tiếng Pháp, thứ tiếng mà tôi đã học “nhập tâm” từ bé! - anh Thuận tâm sự - Vốn tiếng Anh của tôi chỉ đủ để viết những công trình chuyên môn, chính xác, với vốn thuật ngữ có hạn, với văn phong khoa học chứ không đủ để cho ngòi bút của mình có thể tung hoành, bay nhảy khi cần diễn tả những sắc thái cảm xúc tinh tế, nên thơ, hay thể hiện những ý tưởng sâu xa có chất văn chương, triết luận".
|
|
|
Post by Oshin on Jul 23, 2004 22:58:32 GMT -5
Cuốn Số phận vũ trụ: Big Bang và sau đó của Trịnh Xuân Thuận viết bằng tiếng Pháp, được Nhà xuất bản Gallimard in ở Paris năm 1992. Ngay năm sau, 1993, cuốn sách đã được phát hành và bán chạy tại New York, qua bản dịch tiếng Anh của Harry N. Abrams.
Cũng trong năm 1993, Oxford University Press in một bản dịch tiếng Anh khác, của Storm Dunlop, phát hành tại Anh và Mỹ. Như vậy cuốn sách này của anh có đến hai bản dịch tiếng Anh.
Gần như cùng một lúc, vào năm 1993, cuốn sách cũng được bày bán rộng rãi tại Munich qua bản dịch tiếng Đức của Ravensburger. Sau đó, cuốn sách của nhà vật lý thiên văn mang cái tên VN có phần lạ lẫm, khó phát âm, được dồn dập dịch và in ở nhiều nước khác: Trung Quốc (1993), Thụy Điển (1994), Ý (1994), Nhật Bản (1995), Hàn Quốc (1995)...
Tuy có chậm hơn song VN ta cũng đã vào cuộc. Cuốn Giai điệu bí ẩn, dịch từ nguyên văn tiếng Pháp La mélodie secrète, được Nhà xuất bản Khoa Học & Kỹ Thuật ấn hành tại Hà Nội đúng vào đầu tháng 8-2000, coi như một ấn phẩm chào mừng khai mạc Gặp gỡ Việt Nam lần 4, với lời nói đầu do chính tác giả viết dành riêng cho bản dịch tiếng Việt:
“Bất chấp những thăng trầm của lịch sử, VN vẫn là đất nước luôn luôn đề cao những giá trị giáo dục và tri thức. Cuốn sách này mong muốn là một đóng góp nhỏ bé vào công cuộc truyền bá những tri thức đó.
Tôi xin cảm ơn giáo sư Trần Thanh Vân về tất cả những gì ông đã làm để bản dịch tiếng Việt cuốn Giai điệu bí ẩn sớm ra đời. Tôi cũng cảm ơn dịch giả Phạm Văn Thiều, người đã dịch rất hay ra tiếng Việt cuốn sách này".
Trịnh Xuân Thuận bày tỏ niềm ao ước chân thành: “Tôi sẽ rất sung sướng nếu tác phẩm này - tác phẩm đã được thế giới phương Tây đón nhận một cách nồng nhiệt - có thể nuôi dưỡng suy tư và làm thay đổi ít nhiều nhãn quan về thế giới của một số người. Tôi ấp ủ hi vọng nó có thể làm nảy sinh những chí hướng khoa học ở một số bạn trẻ có trí tuệ, và cũng hi vọng những hạt giống được gieo trong các trang sách này đến một ngày nào đó sẽ đâm chồi nảy lộc, phát triển thành cây trái sum sê”.
Cuốn sách lập tức được số “bạn trẻ có trí tuệ” ở nước ta tìm đọc, do đó đã phải in lại ngay trong năm sau, 2001.
Đầu năm 2003, Nhà xuất bản Khoa Học & Kỹ Thuật in tiếp cuốn Hỗn độn và hài hòa của Trịnh Xuân Thuận, do Phạm Văn Thiều và Nguyễn Thanh Dương dịch từ nguyên văn tiếng Pháp Le chaos et l'harmonie in ở Paris.
Lần này về Hà Nội, Trịnh Xuân Thuận tìm gặp lại nhà vật lý giỏi văn chương Phạm Văn Thiều để xem lướt qua bản dịch một cuốn sách khác của anh viết chung với Matthieu Ricard, cuốn L'infini dans la paume de la main (Cái vô tận ở trong lòng bàn tay) được Nhà xuất bản Fayard in ở Paris năm 2000.
Đây cũng là một cuốn sách best-seller ở Pháp, ngay trong đợt phát hành đầu tiên đã bán được hơn 100.000 bản, một con số đáng cho các cây bút VN mơ ước!
Cuốn sách đề cập đến hệ tư tưởng Phật giáo và những vấn đề mới nhất của khoa học hiện đại, soi rọi những bí ẩn vật lý trong thế giới vĩ mô và vi mô cũng như trong xã hội loài người.
Để dịch cuốn sách này, nghe nói nhà vật lý Phạm Văn Thiều đã phải tìm đến sự giúp đỡ của các vị hòa thượng, đại đức!
Chỉ còn hơn mười ngày nữa, Gặp gỡ Việt Nam lần 5 sẽ khai mạc tại Hà Nội. Đây là một hội nghị quốc tế lớn về vật lý hạt cơ bản và vật lý thiên văn, được đích thân Tổng thống Pháp J. Chirac nhận làm người bảo trợ tối cao, do giáo sư Nguyễn Văn Hiệu và giáo sư Trần Thanh Vân làm đồng chủ tịch.
Hội nghị diễn ra trong một tuần, từ ngày 5 đến 11-8-2004 tại khách sạn Horison, đường Cát Linh, Hà Nội. Hơn 250 nhà khoa học của hơn 30 nước và vùng lãnh thổ đã ghi tên dự hội nghị.
Sau phiên họp toàn thể hôm khai mạc, hội nghị sẽ chia thành hai phân ban: phân ban vật lý hạt cơ bản và phân ban vật lý thiên văn.
Ở phân ban vật lý thiên văn mà giáo sư Trịnh Xuân Thuận là một thành viên của ban cố vấn quốc tế, sẽ nghe báo cáo và thảo luận về: bùng nổ tia gamma, tia vũ trụ năng lượng siêu cao, vật chất tối, vật lý thiên văn hạt nhân, vũ trụ học, siêu sao mới, thiên văn học sóng hấp dẫn...
- Chắc anh sẽ trình bày một nghiên cứu mới? - tôi hỏi. - Đúng thế, tôi sẽ báo cáo về những kết quả tôi mới đạt được trong việc nghiên cứu về sự hình thành các thiên hà qua việc khảo sát bằng kính viễn vọng Hubble.
Như chúng ta đã biết, kính viễn vọng vũ trụ mang tên nhà thiên văn học kiệt xuất người Mỹ Edwin Powell Hubble chỉ một số nhà thiên văn học rất nổi tiếng ở Mỹ và trên thế giới mới được phép sử dụng. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nằm trong số đó. Năm 1992, anh đã được tặng Giải thưởng Henri Chretien của Hội Thiên văn học Mỹ.
HÀM CHÂU
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:30:53 GMT -5
KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH CỦA N. OSTROVSKY Thép của một thời chưa xa Nhà văn N. Ostrovsky Có một tuổi trẻ lớn lên trong đạn bay Có một tuổi trẻ sẵn sàng dàn thành hàng gánh đất nước lên vai..."1. Thời đó, thế hệ chúng tôi là như vậy: "sẵn sàng dàn thành hàng gánh đất nước lên vai". Thời đó, cuốn sách gối đầu giường của chúng tôi là: "Thép đã tôi thế đấy" của N. Ostrovsky, chúng tôi sống, thở, yêu cuộc đời này bằng ngọn lửa của Pavel Corsaghin, bằng một niềm tin về một con người có thật và một lời nói thật: "Cái quí nhất của con người là cuộc sống, mỗi người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí của mình để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất: sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người". Câu nói ấy, cho đến tận hôm nay, mỗi khi đọc lại vẫn như có luồng điện chạy dọc cơ thể, những lời nói như ánh sáng xua tan màn sương u minh đang che phủ trong đầu, lời nói của tỉnh thức và sức mạnh: sức mạnh của niềm tin và khát khao được sống, được cống hiến, được bùng cháy trọn vẹn ngọn lửa đời mình, đúng như một câu thơ của nhà thơ Thanh Thảo: "Thế hệ chúng tôi bùng cháy ngọn lửa chính mình, soi sáng đường đi tới..." 2. Thời đó, chúng tôi gọi mình là thế hệ Pavel, và những "Pavel" bạn bè của tôi đã lớn lên quanh tôi - hồn nhiên mà dũng cảm - bước vào chiến trường biên giới Tây Nam, đi đến những nông trường, những công trường xa xôi... không một chút ngần ngại hay tính toán thiệt hơn. Những cái tên: Mộc Bài, Xa Mát, Tịnh Biên, Đak Nông, Đỗ Hòa, Duyên Hải, Trị An... đã trở thành những địa danh quá thân thuộc đối với lớp trẻ thành phố ngày ấy. Và, nhiều người trong số đó đã mãi mãi không về...Họ, những thanh thép đã được tôi đỏ rực trên ngọn lửa nhiệt tình, những thanh thép lấp lánh ánh sáng xanh của tuổi trẻ, những thanh thép mãi mãi mang trong mình niềm tự hào đã vượt qua thử thách cam go nhất: được tôi luyện trong ngọn lửa cách mạng... Và, những người còn lại, mỗi khi đặt tay lên ngực trái lại nhủ lòng: Thép mãi còn đây... 3. Bây giờ, khi tóc đã điểm sương, trải qua thời gian và bể dâu của thời cuộc, đôi khi ngắm lại những gương mặt của thế hệ mình xuất hiện lác đác trên mặt báo mà không thể nhận ra: đâu rồi ánh thép ngày xưa!...Thép vẫn đang được tôi trong lò lửa mang tên kinh tế thị trường... nhưng liệu có còn luyện nên được những Pavel của ngày xưa ấy hay không? Nhiều khi nghe chuyện buồn về một người bạn cũ mà không còn nhận ra được bạn mình - những thanh thép sáng ngời, những Pavel thần tượng của một thời. Mặt mũi, hình hài hôm nay sao trông khác quá! Đâu rồi lửa, đâu rồi chất thép của ngày xưa? Thép đã han rỉ hết rồi chăng? Cả tâm hồn dường như cũng đã đổi thay... Đôi khi thật buồn khi đặt tay lên ngực trái, tự hỏi mình rằng: thép có còn không? Thép dễ biến hình, thay dạng đến thế sao?... 4 Cũng may, bên cạnh đó vẫn còn nhiều bạn cũ, khi gặp lại vẫn nhận ra ánh lửa ấm áp trong đôi mắt, vẫn thấp thoáng chất thép trong cuộc sống thường ngày, vẫn mang dáng vẻ của một thời xa xưa, thời của những Pavel "lên rừng, xuống biển", thời của những Pavel "sẵn sàng dàn thành hàng gánh đất nước lên vai". Mỗi khi nhắc đến ngày xưa, những đôi mắt ấy lại sáng bừng lên, dĩ vãng không xa lắm lại tràn về khiến ai cũng trằn trọc, thao thức...Chỉ có điều tóc của Pavel đã điểm bạc rồi!...Ôi, những Pavel bạn bè tôi- thép của một thời - không dễ gì mất được, làm sao mà mất được, phải không? Mong sao là như vậy để tin và sống, để kể lại cho con mình về một thế hệ Pavel... và để mỗi khi mỏi mệt, vẫn có thể đặt tay lên ngực trái, nói với lòng mình: Thép vẫn còn đây... Cuộc sống thanh bình, êm ả hôm nay dễ làm cho người ta mỏi gối, chồn chân, chỉ muốn nghỉ ngơi an nhàn trong mái ấm riêng, cái chung có vẻ như không còn làm bận lòng mấy ai, và cứ như thế, cuộc sống mòn mỏi trong những toan tính cứ trôi, trôi mãi...Phải chăng, đó cũng chính là lý do khiến đất nước ta không tiến nhanh được, thậm chí trên nhiều phương diện còn tụt hậu so với trước đây... Thật buồn khi bẵng đi một thời gian rất dài, cũng bằng khoảng cách một vài thế hệ, chúng ta đã không truyền lại được cho các bạn trẻ ngọn lửa và chất thép hào hùng của ngày xưa... Cuộc sống vẫn trôi theo những quy luật riêng của nó, tuổi trẻ hôm nay đang sống với những thần tượng mới, hợp thời hơn, âu cũng là lẽ thường.Nhưng chất thép của những con người thế hệ Pavel vẫn rất cần được trang bị trong hành trang vào đời của bạn các bạn trẻ hôm nay và mãi mãi về sau để họ có thể sống cho đúng nghĩa một CON NGƯỜI. THU PHONG Nikolai Alexeevich Ostrovsky, nhà văn Xô Viết, nhà hoạt động cách mạng, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng: "Thép đã tôi thế đấy" (The Steel Was Temperad). Ông được xem là biểu tượng sống của niềm tin và nghị lực vươn lên trong cuộc sống của nhiều thế hệ thanh niên trên thế giới, trong đó có thanh niên Việt Nam thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ trước. Ông sinh ngày 29.09.1904, mất vì bạo bệnh khi mới 32 tuổi. Ông sáng tác tác phẩm "Thép đã tôi thế đấy" khi toàn thân bị bại liệt, đôi mắt đã mù lòa, nhân vật chính trong tiểu thuyết này: Pavel Corsaghin chính là hình ảnh của chính ông với khát vọng sống vươn lên vượt qua số phận nghiệt ngã với nghị lực phi thường. Cuộc đời N. Ostrovsky mãi mãi là tấm gương về nghị lực sống và ý chí vượt lên số phận cho các thế hệ mai sau.
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:47:54 GMT -5
KỶ NIỆM NGÀY MẤT GIÁO SƯ VIỆN SĨ TRẦN ĐẠI NGHĨA
Đi cùng chữ Dũng Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Mười phen chìm nổi tìm gươm báu, Một đời chỉ cúi lạy trước hoa mai)CAO BÁ QUÁT Tháng 2 năm 1994, trong một dịp tình cờ, tôi đã được gặp ông: Giáo sư viện sĩ Trần Đại Nghĩa, một nhân vật huyền thoại với thế hệ chúng tôi. Mặc dầu đã được nghe nhiều về phong cách giản dị của ông, tôi vẫn thực sự bất ngờ và cảm động trước một ông cụ nho nhã, bình dị, khiêm cung với một nụ cười hiền hậu, đi một chiếc xe đạp đơn sơ... hoàn toàn trái ngược với những kỳ tích vĩ đại ông đã làm được cho đất nước... Thời gian ngắn ngủi của cuộc gặp khiến tôi đã không thể hỏi ông tất cả những câu hỏi như dự định. Tôi như một đứa bé đột ngột được đối diện ngọn núi cao hằng mơ ước, muốn tìm hiểu, khám phá thật nhiều nhưng không biết bắt đầu từ đâu... đến khi kịp tỉnh ra thì ngọn núi ấy đã vĩnh viễn khuất xa...Lần gặp ấy, lúc chia tay, tôi đã hứa là sẽ đến thăm ông, tôi tự nhủ lần gặp tới sẽ chuẩn bị kỹ hơn để hỏi ông được nhiều hơn và sẽ viết về ông, một kẻ sĩ Việt Nam thời hiện đại, một người đã dũng cảm chọn cho mình một đường đi đúng và đã dũng cảm đi trọn con đường đã chọn... Tiếc thay, tôi đã mãi mãi không được gặp lại ông để thực hiện lời hứa của mình...Từ đó đến nay, tôi vẫn canh cánh bên lòng một mặc cảm của người có lỗi, tôi đã cố gắng tiếp tục tìm hiểu về ông qua sách báo và tự mình lý giải những câu hỏi về ông... Tôi viết bài này như một lời tạ lỗi với ông về một lời hứa đã mãi mãi không thể nào thực hiện và cũng là một nén tâm hương gởi đến ông trong ngày giỗ năm nay... 1. Thập tải luân giao cầu cổ kiếm... GS Trần Đại Nghĩa (bìa trái) và Bác Hồ tại chiến khu Việt Bắc Từ bao giờ đã xuất hiện trong ông tâm nguyện trở thành một chuyên gia vũ khí của Việt Nam, một người sẽ suốt đời đi “cầu cổ kiếm” cho đất nước ? Từ những năm thơ ấu tại Xã Xuân Hiệp, Huyện Tam Bình, Tỉnh Vĩnh Long? Hay từ khi ông theo học trường trung học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho hay trường trung học Pétrus Ký Sài Gòn? Mặc dù chưa thể khẳng định chính xác thời điểm nhưng tôi nghĩ nó phải xuất hiện từ rất sớm, trước khi ông xuống tàu tại Bến Nhà Rồng ngày 5 tháng 9 năm 1935 để lên đường sang Pháp. Ngay từ những ngày đầu đặt chân lên đất Pháp, chàng thanh niên Phạm Quang Lễ (tên khai sinh của GS Trần Đại Nghĩa) đã lao vào thực hiện mục tiêu một cách khẩn trương, liên tục với một quyết tâm, nghị lực phi thường... Ông đã vượt qua tất cả những khó khăn thiếu thốn về vật chất, nỗi buồn nhớ quê hương, nỗi đau mất chị, những hiểm nguy rình rập khi ông bước vào nghiên cứu một lĩnh vực mà nhà nước thực dân cấm đoán... Ông đã làm tất cả những điều đó đơn độc một mình, với sức mạnh vô song của lòng yêu nước và trách nhiệm của một sĩ phu thời loạn... Mười một năm đã trôi qua, mười một năm xa xứ nhớ quê, mười một năm âm thầm tích lũy, bí mật chuẩn bị cho mình những kiến thức cần thiết cho cuộc chiến đấu sau này...Hãy nghe ông kể về những ngày tháng gian nan đó: “Công việc chẳng phải là giản đơn. Không một nước nào trên thế giới lại ngớ ngẩn công bố các tài liệu kỹ thuật quân sự. Đế quốc Pháp đâu phải là điên đến mức để cho một người Việt Nam, kể cả những kẻ đã vào “làng Tây”, được đến học ở các trường dạy về vũ khí hay vào làm ở các viện nghiên cứu, các nhà máy sản xuất vũ khí. Vì thế, trong mười một năm đằng đẵng ấy, tôi chỉ có thể mò mẫm tự học một cách âm thầm, đơn độc và bí mật hoàn toàn...”. Và ông đã thực hiện công việc ấy với một sự thông minh nhẫn nại phi thường...Chỉ riêng việc xây dựng thư mục nghiên cứu, ông đã phải tìm đến các thư viện công khai, kiên nhẫn lục hết ngăn phiếu này đến ngăn phiếu khác, trung bình cứ 20.000 tên sách mới chọn được...một cuốn có liên quan đến vũ khí! Trong số hơn một triệu tên sách ở thư viện, ông chỉ nhặt ra được... 50 cuốn! Khó khăn như vậy nhưng cuối cùng, sau mười một năm tìm kiếm, ông đã thực sự tìm được “thanh cổ kiếm” để mang về cho đất nước, đó chính là hơn 30 000 trang tài liệu về vũ khí nằm trong 1 tấn sách của ông. Tôi luôn tự hỏi, tình yêu nước trong ông phải lớn tới mức nào mới khiến ông có đủ sức mạnh một mình giữa xứ người thực hiện nổi một công việc khó khăn và hiểm nguy đến thế. Hạnh phúc thay, sau mười một năm âm thầm chuẩn bị, “kình ngư” Trần Đại Nghĩa cuối cùng đã tìm được con đường quay về biển lớn. Đó là một ngày tháng 9 năm 1946 khi ông và 30 000 trang tài liệu có mặt cùng với Bác Hồ trên chiến hạm Dumont d’Urville trực chỉ Hải Phòng....
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:48:25 GMT -5
2. Hành lộ nan, hành lộ nan, Đa kì lộ, kim an tại? (Đường đi khó, đường đi khó, Nhiều ngã rẽ, ta ở đâu?)
Trong hành trình của một sĩ phu, trước mỗi ngã rẽ của lịch sử, việc lựa chọn cho mình một chỗ đứng, một con đường đi đúng luôn luôn là một vấn đề không đơn giản. Phải từ bỏ cái gì? Chọn lấy cái gì? Làm gì? Với ai? Luôn là những câu hỏi đồng hành với quá trình “xuất, xử” của kẻ sĩ Việt Nam. Lịch sử đã chứng kiến biết bao lựa chọn đầy bi tráng của Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát, Trương Định... Và Trần Đại Nghĩa, một kẻ sĩ Việt Nam đích thực cũng không ở ngoài qui luật đó: tháng 9 năm 1946, tại Paris, ông đã phải đứng trước sự chọn lựa giữa một bên là cuộc sống an nhàn tại Pháp với cương vị kỹ sư trưởng chế tạo máy bay, lương tháng 5 500 phrăng/tháng, tương đương với 22 lượng vàng... và một bên là cuộc chiến tranh giành độc lập tại quê nhà với đầy dẫy hiểm nguy, gian khổ, hy sinh... Tất nhiên, một người đã dám chấp nhận mười một năm chuẩn bị và chờ đợi như ông sẽ biết mình cần phải làm gì: “Ngày 08.09.1946, sau khi cho tôi biết Hội nghị Fontainebleau không thành công, Bác bảo: “ Bác về nước. Chú chuẩn bị về với Bác. Ít ngày nữa, ta lên đường!” Vào lúc đó ông đã thưc hiện một quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời mình thật nhẹ nhàng với dũng khí của một kẻ sĩ Việt Nam: “Đối với tôi, việc này rất dễ. Bởi vì tôi đã chuẩn bị từ lâu...”
Ngày 16.09.1946, trên chuyến xe lửa đặc biệt khởi hành từ Paris đến Toulon đưa Bác Hồ và các trí thức Việt kiều về nước, Bác đã hỏi ông:
- Bây giờ ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu nổi không? - Thưa Bác, tôi chịu nổi. - Kỹ sư, công nhân về vũ khí, ta không có, máy móc thiếu, liệu chú có làm việc được không? - Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị mười một năm rồi. Tôi tin là làm được”
Dũng cảm từ bỏ tất cả và chấp nhận tất cả để được đồng hành với nhân dân, đó chính là sự lựa chọn của kẻ sĩ, một trong những điều làm nên sự vĩ đại của ngươi trí thức Việt Nam Trần Đại Nghĩa...
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:49:20 GMT -5
3. Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu (Trượng phu chống kiếm đi thì đi, Đừng buồn như nhi nữ lúc phân ly )
Dũng cảm chọn cho mình một đường đi đúng đã là khó, nhưng dũng cảm đi cho trọn con đường mình đã chọn còn khó hơn gấp vạn lần. Cuộc đời Trần Đại Nghĩa đã chứng minh ông thực sự là một “trượng phu án kiếm khứ tiện khứ”... khi ông đã vượt qua tất cả khó khăn gian khổ của chiến tranh cùng những mất mát cá nhân để đi trọn con đường ông đã chọn. Trong suốt 29 năm từ 1946 đến 1975, cùng đất nước, ông đã đi qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, đã cống hiến cho đất nước trọn vẹn trái tim và khối óc của mình và tạo ra những kỳ tích của trí tuệ Việt Nam: súng bazoka, súng ĐKZ, đạn bay, bắn rơi máy bay B-52 bằng tên lửa SAM-2....Quả thật ông đã thực hiện trọn vẹn lời hứa: “Tôi làm được” với Bác Hồ 29 năm về trước...Chiều 30.04.1975, ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông đã viết trong sổ tay:
“ Nhiệm vụ của Bác giao cho chúng tôi và tập thể các nhà khoa học Việt Nam là tham gia về mặt vũ khí và khoa học quân sự trong hai cuộc kháng chiến đã được hoàn thành. Từ nay đến hàng nghìn năm sau chúng tôi xin bàn giao lại nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cho thế hệ trẻ”...
Ít ai biết được đằng sau những dòng chữ nhẹ nhàng thanh thản đó là một niềm đau cùng nỗi hy sinh thầm lặng của một kẻ sĩ Việt Nam. Để có thể thực hiện trọn vẹn lời hứa với đất nước ông đành thất hứa với mẹ khi ông đã không thể nào quay về thăm mẹ... Năm 1941, mẹ ông đã mất tại quê nhà trong khi ông còn đang chiến đấu một mình trên đất Pháp và ông chỉ biết được điều này vào năm 1955 trên đất Bắc. Mãi đến năm 1975, khi miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, ông mới được trở về với dòng sông Mang Thít quê nhà đứng lặng im bên mộ mẹ...
4. Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy...
(Chút tài đã khiến ngàn đời thương nhớ )
“Ngày 9 tháng 8 năm 1997, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình giữa những người thân, trước câu hỏi của vợ: “ Nghĩa vụ của ông với đất nước đã hoàn thành. Con cháu tề tựu đông đủ. Các cháu học giỏi và ngoan. Ông đã yên lòng chưa?” với nét mặt thanh thản, ông nhìn bà trìu mến, khẽ gật đầu mãn nguyện và trút hơi thở cuối cùng lúc 16 giờ 20 phút”.
Đất nước khóc ông, một con người mà cuộc đời đã trở thành một biểu tượng sống cho chân dung kẻ sĩ Việt Nam thời hiện đại, một con người đã “chọn” và “đi” cùng đất nước với một chữ Dũng đồng hành. Ông như cây tầm vông Nam Bộ quê hương: lá xanh, thân thẳng, rắn rỏi vươn cao, cao mãi với trời xanh... Ông, một nhân cách lớn với vẻ ngoài giản dị, khiêm cung, nhân hậu... ẩn chứa bên trong một bãn lĩnh, nghị lực và trí tuệ phi thường ... Ngoài chữ Trí, ở ông chữ Dũng luôn đi cùng với chữ Nhân, đúng như danh hiệu “Ông Phật làm súng” mà đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng trìu mến gọi ông. Thay lời kết, tôi muốn ghi lại đây lời nhắn nhủ của ông với những người ở lại:
“ Tuổi trẻ phải có hoài bão lớn. Hãy cố gắng giữ gìn và phát triển đất nước. Đó là mong mỏi của cả đời tôi. Không có nước nào trên thế giới này phải chống trả mười bốn cuộc xâm lăng như nước mình”...
Vâng, con đường ông đã đi cùng với sự lựa chọn mang tên chữ Dũng sẽ mãi mãi là một ngọn đèn rực sáng soi rọi cho mỗi người trí thức Việt Nam, mỗi khi phải đứng trước ngã ba đường mang tên chữ “chọn”.
THU THỦY
|
|
|
Post by Robot on Oct 1, 2004 6:44:54 GMT -5
Bàn chân đẩy lùi số phận Nguyễn Công Cương kẹp viết vào chân học bài TT - Giữa trưa, tôi về đến xóm 3, xã Quỳnh Thuận - một xóm nhỏ nghèo nằm cạnh cánh đồng rộng bạc phếch, xác xơ ở vùng ven biển huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và tìm đến một túp nhà cũ kỹ, vách bằng ván đã mục nát nhiều chỗ, trống huếch. Dù được nghe kể từ trước, nhưng khi bước chân vào căn nhà này thấy thân hình dị dạng của Nguyễn Công Cương lấm lem mồ hôi ngồi dưới nền nhà, chân kẹp cây viết giải bài tập toán làm tôi không khỏi bàng hoàng. Cương bị câm, miệng méo xệch, môi không kín nên nước miếng cứ chảy ra. Hai cẳng tay nhỏ xíu co gấp vào. May mà đôi chân khá lành lặn để thay cho tay trong việc cầm bút viết. Cương có đôi mắt sáng đến lạ kỳ. Năm tháng cùng cựcNhững tấm bằng khen, huân huy chương của anh thương binh, thiếu úy Nguyễn Công Hưng (bố của Cương) như gợi nhắc về những ngày tháng chiến đấu nơi chiến trường ác liệt. Năm 17 tuổi anh Hưng lên đường vào sư đoàn 341A. Trải qua chiến trường miền Đông, miền Tây Nam bộ, chiến trường Campuchia và rồi anh bị thương. Năm 1981, anh xuất ngũ về quê, cưới vợ là chị Lê Thị Huệ người cùng xóm. Lần lượt những đứa con ra đời: Nguyễn Công Hà (1981), Nguyễn Thị Huyên (1983), Nguyễn Công Biên (1985). Tuy lành lặn song các con anh chị lại bị chứng bệnh động kinh và không mấy nhanh nhẹn. Những khi trái gió trở trời bỗng dưng những đứa con lăn đùng ra nhà, người cứng đơ, co giật, sùi bọt mép. Vợ chồng anh chia nhau co chân đè lên người, tay giữ đầu từng đứa con để giảm bớt những cơn co giật cho các con... Lúc bấy giờ, vấn đề di chứng chất độc da cam cả cái làng xã này không ai biết và cũng chẳng có một gia đình nào như thế, nên không tránh khỏi “chuyện nhà quê” là những lời dị nghị về sự “vô phúc” của gia đình anh chị. Điều đó càng thôi thúc mong ước có được đứa con đàng hoàng như người ta nên anh chị quyết định sinh thêm. Khi chị mang thai đứa con thứ tư là cả niềm hi vọng hồi hộp của gia đình, dòng họ. Mới đến tháng thứ tám thì chị Huệ đột nhiên chuyển dạ rồi cậu bé Nguyễn Công Cương chào đời, năm đó là 1987. Bà Vũ Thị Diệu - hộ sinh của xã - kể lại: “Lúc nâng cháu để cắt rốn, tay tôi run lên vì hình hài dị dạng của nó, trọng lượng không quá một cân, không ai nghĩ sống được”. Nhưng rồi gia đình đã ôm ấp, nuôi nấng Cương bằng tất cả tình yêu thương. Anh chị không thể nhớ nổi đã bao nhiêu lần phải đưa Cương đi trạm xá, bệnh viện; những lần phải chạy hết làng trên xóm dưới vay mượn để lo tiền thuốc cho Cương, cho những đứa con bị động kinh, bị té, phỏng nhiều lần; và lo cả cái ăn cho cả nhà. Anh chị đã trải qua những năm tháng cùng cực nhất của một đời người... Chị Huệ kể: “Hồi Cương lên 2 tuổi, chồng tôi yếu đi nhiều vì kiệt sức và vết thương tái phát, nhưng dù trời mưa bão vẫn gượng dậy để đi buôn măng (trời động thì măng càng bán chạy). Ở nhà hết cái ăn, được gia đình cậu Hòa cho một cân sắn gốc đem về năm mẹ con luộc ăn cầm hơi đợi bố đem gạo về. Các con đói quá nằm lả đi, Cương cũng khóc thét, hắt ra từng tiếng vì khát sữa, bú mãi mà sữa vẫn không ra được, tôi đành phải nhai sắn cho Cương ăn, thương quá rồi ôm con mà khóc”. Nhưng giờ đây khi đưa tôi xem quyển học bạ năm năm học tiểu học của Cương, anh chị cười - nụ cười của hạnh phúc. Nhìn thang điểm tổng kết cuối những năm học đều đạt cao như: toán từ 8,5 - 9,1; tiếng Việt 8,2 - 9,0..., cạnh đó là lời nhận xét của cô giáo “học giỏi toàn diện”, “thông minh”..., tôi bảo: “Cương là cục vàng của anh chị rồi”. Chị Huệ ôm Cương vào lòng, không giấu được nỗi niềm của một người mẹ, chị nói: “Trời thương chúng tôi, nó đã đạp lên số phận đem lại hạnh phúc cho cái nhà này”.
|
|
|
Post by Robot on Oct 1, 2004 6:45:15 GMT -5
Như huyền thoại
Năm 11 tuổi, Nguyễn Công Cương bắt đầu làm quen với cái chữ trong hoàn cảnh rất đặc biệt. Đợi lúc cả nhà ra đồng, cậu mới nhấc đôi chân khẳng khiu đến lớp mẫu giáo của xóm cách nhà chừng 200m. Cương bẽn lẽn ngồi ngoài hành lang, cạnh cửa ra vào phía sau lớp học nghe lén cô giáo giảng bài. Trong lớp cô giáo viết chữ trên bảng thế nào, ở ngoài Cương cũng đưa ngón chân cái vẽ vẽ viết viết ra nền nhà như thế.
“Những lúc ở nhà nó kẹp than, phấn viết khắp nền nhà, ngoài sân, lên cả vách...”- chị Huệ kể đến đó, Cương ú ớ ngắt lời chị rồi đưa ngón chân cái vạch dưới nền nhà. Chị Huệ gật đầu: “Ừ, con không nhắc là mẹ quên” rồi chị ngoảnh sang tôi: “Cháu nhắc tôi là nó đã dùng cả ngói vỡ để tập viết nữa”.
Năm học 1999-2000 anh Hưng đưa Cương đến Trường tiểu học Quỳnh Thuận xin nhập học. Cô giáo Thu - chủ nhiệm lớp 1E - ái ngại sợ Cương không thể theo học. Biết được điều này Cương rất buồn và kỷ niệm ngày đầu tiên đến trường của em là những giọt nước mắt lăn dài trên gò má.
Hiểu được nỗi khát khao cháy bỏng được đi học của con, anh cố thuyết phục và được cô giáo chấp thuận. Cương được xếp một chỗ ngồi dưới nền nhà cuối lớp. Một vài tuần đầu, việc “cầm” bút với em là một cực hình. Chiếc bút được kẹp vào hai ngón chân để tập viết đến mỏi nhừ, mồ hôi vã như tắm. Giờ ra chơi lũ bạn cứ vây lấy Cương đùa cợt.
Chỉ một thời gian ngắn sau, sự kỳ diệu bắt đầu tỏa sáng trên đôi chân cậu học trò tật nguyền. Cương viết chữ nhanh như các bạn, còn nét chữ thì rất đẹp mà không phải học sinh lành lặn nào cũng có được. Kết quả cuối năm học đó được tổng kết bằng điểm số và lời nhận xét của cô giáo kèm theo: tiếng Việt 9 “chữ đẹp”; toán 9,1 “thông minh”...
Ngày tháng qua đi, quen lớp quen trường, bạn bè gần gũi, thầy cô thương yêu, Cương lớn lên rất nhiều, đạt thêm nhiều thành tích học tập và không còn bị đè nặng bởi mặc cảm. Những bài tập làm văn của Cương khiến tôi có một ấn tượng rất đặc biệt.
Cương làm bài văn ở lớp nhưng lại viết về những người thân của mình, em viết đúng ngữ pháp, câu văn chặt chẽ, có hồn, bài nào cũng súc tích; những bài viết ngắn em viết trong quyển vở riêng rất giàu chất tưởng tượng. Năm nào em cũng đạt học sinh giỏi của trường. Hiện Cương đang học lớp 6 Trường THCS xã Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu.
Chị Huệ nói: “4g30 tôi thức dậy nấu cơm ăn để ra đồng là Cương dậy theo học bài và để bố mẹ thay quần áo cho mình. Nó không bao giờ dám ăn uống buổi sáng vì sợ đến trường sẽ buồn “tè” thì không ai cởi quần cho”. Chuyện ăn uống của Cương cũng cực hết chỗ nói, luyện tập mãi em cũng chỉ cầm được thìa xúc ăn, nhưng vì tay cong, cộng với miệng bị tật nên cơm đổ ra ngoài mất một nửa, lưỡi ngắn hơn bình thường nên nhai nuốt rất khó...
Đầu giờ chiều, tôi theo chân chị Huệ đến trường dự buổi họp phụ huynh học sinh. Trước 50 phụ huynh, cô giáo Hằng không ngớt lời khen ngợi sự sáng dạ và say mê học tập của Cương. Cô cho biết thêm: “Năm ngoái khi Cương còn học lớp 5, có một số bài toán mà học sinh giỏi tỉnh lớp 6 cũng đành chịu thua nhưng em Cương lại giải được”.
Tôi trở lại nhà anh Hưng khi Cương đã rời “bàn” học và dùng chân “đi” lúa trên sân giúp mẹ. Thấy tôi có ý định từ biệt gia đình, Cương liền vào nhà gắp bút viết dòng chữ “Cảm ơn mọi người đã quan tâm đến cháu. Cháu hứa sẽ cố gắng học giỏi hơn nữa để không phụ lòng thương yêu đó”. Khi được hỏi cháu có ước mơ gì, Cương lấy ngón chân cái viết lên nền nhà để trò chuyện: “Cháu ước mơ được học vi tính...”.
ĐÀO NGUYÊN THUẬN
|
|