|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:26:18 GMT -5
Ông ngoại em tên là Phan Đình Công. Hồi ức này do ông kể và thầy Yên Tri ghi lại vào năm 2000, trước khi ông mất mấy tháng (ông mất vào rằm tháng Giêng năm Tân Tỵ ), lúc đó ông đã ngoài tám mươi tuổi. Ông ngoại sống giản dị, hòa đồng và luôn lấy cái tâm để đối đãi với người. Em thấy ông đúng là một người CS chân chính. Hồi ức này chỉ kể một phần của cuộc đời ông, từ những ngày ấu thơ, nhà nghèo phải tự lập sớm xa gia đình, rồi giác ngộ cách mạng, và chủ yếu là thời gian kháng chiến chống Pháp. Ông ngoại người miền Trung nên đoạn đầu, ông nhắc nhiều về lịch sử xứ Quảng. (bà ngoại em người Nam-vùng đất đỏ Bà Rịa, ông bà nội em người Bắc, nên cả 3 miền đất nước Việt Nam mình đều có chút tình quê hương của em . Box mình dạo này cũng vắng vẻ, chẳng còn mấy ai, các bác kêu gọi post bài. Em thấy cuốn hồi ức của ông ngoại cũng là một góc nhìn nhỏ chân thật của một người đi trước về lịch sử (vì chính ông đã trải qua mà), nên em post ở đây. Chắc là mỗi ngày em sẽ post một đoạn ngắn.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:27:09 GMT -5
1
Tôi là người xứ Quảng. Xứ Quảng là vùng đất nhiều đổi thay về mặt địa lý lịch sử . Lược kể đôi nét để ai đọc hồi ức này nắm bắt được những thay đổi lớn, cũng là điều bổ ích.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (của Quốc sử quán triều Nguyễn ) ghi : Quảng Nam "xưa là đất Việt Thường thị; đời nhà Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam"
Sách Hán Thư chép : quận Nhật Nam có huyện Châu Ngô (thuộc Thừa Thiên sau này) và huyện Lư Dung (chính là Quảng Nam).
Dải đất miền Trung này sau bị nước Lâm Ấp chiếm khoảng đầu Công Nguyên. Đời nhà Tùy, sử Trung Quốc ghi là đất Chiêm động. Nền văn hóa Chăm chịu ảnh hưởng Ấn Độ sâu sắc trong thời gian dài, rõ nét nhất trong các kiểu xây dựng đền, tháp đạo Bà-la-môn. Đời Đường Thái Tông (627-650), nước Lâm Ấp đổi thành nước Hoàn Vương. Năm 808, vua nước Hoàn Vương đổi quốc hiệu là Chiêm Thành (nay sử nước ta gọi là nước Chămpa). Quốc gia của người Chămpa đại thể từ phía Nam đèo Ngang kéo dài tới Bình Thuận ngày nay.
Năm 1306, đời vua Trần Anh Tông, công chúa Huyền Trân về làm dâu Chiêm Thành. Chàng rể Chế Mân dâng hai châu Ô, Lí làm sính lễ. Vua Trần đặt châu Ô là Thuận châu (phạm vi tỉnh Quảng Trị sau này), châu Lí là Hóa châu (phạm vi Thừa Thiên và phủ Điện Bàn).
Nước Chiêm Thành hay đánh phá biên cương phía nam của Đại Việt , có ý đồ bành trướng ra phía Bắc. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông mang quân chinh phạt, hạ thành Đồ Bàn, bắt được vua Trà Toàn. Vua Lê lấy đất này đặt làm Quảng Nam thừa tuyên, chia làm ba phủ. Địa danh Quảng Nam chính thức ghi trong sử sách từ đây. Năm 1602, chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) lấy Điện Bàn (vốn thuộc phủ Triệu Phong) đặt làm huyện; năm 1605 thăng làm phủ Điện Bàn thuộc dinh Quảng Nam. Đất Quảng hồi đó bao gồm ba tỉnh và một thành phố bây giờ : Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
Quảng Nam là một phần của Ngũ Quảng : Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Ngãi - là địa đầu Liên Khu 5 (nói gọn là khu 5) - suốt hai thời kì kháng chiến dài ngót một phần ba thế kỷ. Từ Ngũ Quảng, hơn ba trăm năm trước, một bộ phận dân cư- phần lớn là người nghèo- đã tiến vào khai phá vùng đất hoang hóa mênh mông phương Nam. Dưói triều Nguyễn, Điện Bàn hai lần được chọn làm tỉnh lị tỉnh Quảng Nam. Thời Gia Long, tỉnh lị đặt ở Thanh Chiêm (xã Điện Phương bây giờ ); thời Minh Mạng dời về La Qua (xã Điện Minh ); ngày nay thị xã Tam Kì là tỉnh lị từ sau khi tách Quảng Nam -Đà Năng thành hai đơn vị hành chính mới.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:29:49 GMT -5
Quê hương tôi là làng Bảo An, tổng Đa Hòa, huyện Duy Xuyên, phủ Điện Bàn (nay là hai thôn thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Đó là một làng khá lớn vùng Gò Nổi nằm ven sông Thu Bồn. Tên cũ con sông theo sách Sử học bị khảo (của Đặng Xuân Bảng) là Sài Giang hay sông Sài Thị (sông Chợ Củi). Ở quãng này, con sông lượn lờ hiền hòa như vòng tay ôm lấy vùng đất Gò Nổi. Dòng sông chảy giữa hai bờ tre thùy mị xõa tóc. Ruộng không nhiều, đất bãi khá rộng. Bây giờ người ta phá rừng đầu nguồn không thương tiếc, nước lũ hàng năm làm sạt lở bãi, ruộng sâu vào trong khoảng hai ba chục mét. Trong hơn nửa thế kỷ, làng mất đi một nửa diện tích đất trồng, không cần đến "trăm năm trong cõi người ta" mới thấy cảnh nương dâu biến đổi để "đau đớn lòng".
Dãy Trường Sơn nằm chắn chân trời phía Tây của đồng bằng Quảng Nam nhỏ hẹp như vạt áo, nên sông Thu Bồn không dài, từ nguồn tới biển Đông khoảng 150 km, nước cạn gần như quanh năm. Chỉ vào mùa thu-đông, khi bão tố từ biển Đông kéo vào thì mưa lớn, nước lũ mới dâng cao đột ngột.
Hình như không năm nào miền Trung không có một vài cơn bão ập vào, đúng là tai họa trời giáng. Từ thuở nhỏ, tôi từng thấy nhiều lần lũ lụt quê tôi dữ dội, đột ngột, gây bao tang tóc đau thương : mùa màng mất hết, nhà cửa bị cuốn trôi, cát bồi lấp ruộng...Hồi xưa, dưới chế độ thực dân-phong kiến, ai sống thì sống, ai chết mặc ai nhà cầm quyền hết sức thờ ơ, chẳng hề cứu giúp nạn nhân chủ yếu là đông đảo nông dân nghèo.
Đã nghèo mà lại bóc ngắn cắn dài, làm bữa nào lủm hết bữa đó, khi có thiên tai thì sống làm sao ? Chính thiên nhiên khắc nghiệt đã buộc người dân miền Trung phải căn cơ, tiết kiệm; cũng là một tính tốt cần duy trì.
Mùa hè là mùa nóng khô có gió Lào thổi, lòng sông Thu Bồn cạn tới đáy phơi ra những bãi cát nóng bỏng, có chỗ xắn quần lội qua được. Tuy không phải chịu cảnh mùa đông giá lạnh như miền Bắc song có khi mưa dầm kéo dài hàng nửa tháng trở lên, quần áo giặt phơi mãi không khô, người dân nghèo chạy ăn từng bữa, mà không dành dụm thì lấy gì bỏ vào bao tử ?
Làng Bảo An trồng nhiều tre, thứ cây thân thuộc gắn bó với mọi nhà, từ tre người ta làm ra vô số đồ dùng cần thiết cho đời sống. Nhưng làng không có lũy tre bao quanh như xóm làng miền Bắc, đó là kiểu làng mở. Có nhà phong thủy ngắm thế đất, bảo đây là vùng đất chảy, một phần không nhỏ cư dân nơi đây khi lớn lên đã ra đi, làm ăn thành đạt, nổi tiếng ở xứ người về đấu tranh cách mạng, về kinh doanh buôn bán, về đỗ đạt học hành...song đau đáu hướng về quê cũ với bao thương nhớ :
Ngó lên ngó xuống thì vui Trông về quê mẹ ngậm ngùi nhớ thương
Hoặc có thể tập Kiều : Dẫu lìa quê cũ còn vương tơ lòng
Bảo An ít ruộng, (nay càng ít ruộng hơn, tính theo đầu người) hồi xưa chỉ trồng lúa một vụ, ăn nước trời. Đất bãi không màu mỡ như đất bãi sông Hồng, thành phần cát vụn bở trội hơn chất phù sa mịn. Ven sông, bà con trồng khoai lang - thứ cây dễ tính ít cần chăm bón, dâu nuôi tằm và mía. Ca dao Quảng Nam có câu :
Bảo An có thợ nấu đường Vôi vừa thêm khéo, chẳng nhường nhịn ai.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:30:23 GMT -5
Khoảng sau Tết, từ tháng hai ta trở đi, che ép mía kẽo kẹt quay thì các lò đường thủ công bắt đầu tỏa khói. Mẹ tôi mua từng hũ đường đỏ của bà con trong vùng mang về. Rút chiếc nút ở đáy hũ, để ít lâu thì mật chảy hết, bấy giờ đường có màu ngà, đem phơi thật khô, cà nát thành đường cát trắng. Bà thuê chung ghe chở xuống Hội An bán cho nhà buôn người Tàu. Trong làng có vài nhà cũng làm như thế.
Bảo An còn nổi tiếng về dệt lụa, dệt vải. Vào những năm 30, dân làng học dệt đũi (tussor) từ tơ tằm, hồi đó là mặt hàng ăn khách bán đi khắp nơi. Tiếng thoi đưa lách cách ngày đêm xua bớt cái đói nghèo. (Ngã tư Bảy Hiền TP.HCM trở thành vùng dệt nổi tiếng vì dân xứ Quảng vào đây lập nghiệp đông đảo từ sau hiệp định Genève 1954. Có người bảo đó là Quảng Nam ở giữa Sài Gòn). Các cô gái làm nghề tầm tang thường ít ra nắng gió nên có tiếng xinh đẹp. Tương truyền một cô gái hái dâu phủ Điện Bàn trở thành Đoàn quý phi, thời nhà Nguyễn truy tặng miếu hiệu Hiếu Chiêu hoàng hậu.
Bảo An nằm trong vùng văn hóa lừng danh, là nơi địa linh vì từng sản sinh nhiều nhân kiệt. Từ lâu, làng tôi nổi tiếng là đất học. Sử chép Lương Văn Hanh đậu cử nhân khoa thi hương năm 1813 được mời ra Huế làm thầy dạy hoàng tử Miên Tông-sau này là vua Thiệu Trị. Bảo An từng có 17 cử nhân, 2 phó bảng, 27 tú tài...Một số người nặng lòng yêu quý quê hương đã góp sức, góp tiền viết cuốn Bảo An - Đất và Người để giáo dục các thế hệ sau này, tiếc quá tôi chưa được đọc, chỉ nghe nói mà cũng thấy tự hào.
Làng Bảo An có năm dòng họ lớn : Phan, Nguyễn, Phạm, Ngô, Thái. Mỗi họ đều đông con cháu, tỏa ra lập nghiệp tứ xứ. Tôi đoán chừng dòng họ Phan chúng tôi gốc Nghệ Tĩnh, tổ tiên vào Bảo An không dưới bốn trăm năm. Đó cũng là một kiếng họ (hoặc cự tộc, theo lối gọi của quê tôi). Tiếc là chưa có ai đứng ra lập lại tộc phả để con cháu bây giờ hiểu quá trình phát sinh, phát triển dòng họ. Cho nên tôi viết hồi ký này mong góp phần nhỏ bé vào công trình tộc phả tương lai. Giá như việc này làm từ năm, mười năm trước, trí nhớ còn tốt, ắt tôi có thể kể lại nhiều chuyện lý thú. Năm nay (2000), tôi đã tám mươi tư, quá cái tuổi xưa nay hiếm hơn một con giáp, cơ thể lão hóa, sức khỏe giảm nhiều nên chỉ kể lại những việc chính, sơ sót nhiều, song mạnh dạn làm.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:31:30 GMT -5
2. Cha mẹ tôi là dân nghèo thất học. Cha tôi-ông Phan Văn Qui-có tật lãng tai, từ trẻ tới khi đứng tuổi đi làm mướn cho mấy nhà giàu trong làng : cửu Bốn, cửu Bảy (là em ruột của cửu Bối), tú Hai...Cửu là nói tắt cửu phẩm, ngạch quan chức thấp nhất hồi xưa, cũng có thể là chức nhà giàu bỏ tiền ra mua. Mang danh tú nhưng ông tú Hai không giỏi chữ nghĩa, những người có học trong làng bình luận vậy, tôi nghe lóm được. Cha tôi cày ruộng, làm mọi việc nhà nông, có lúc nấu cao hổ cốt cho các gia đình này đi bán. Mãi đến khi lớn tuổi, ông được làng giao cho làm thủ quỹ ban quí tế đình làng vì là người đứng đắn cẩn thận và gia tư đảm bảo tiền dân góp không bị mất mát, thâm hụt.
Làng Bảo An có ngôi đình cổ không lớn lắm so với các đình khác trong phủ. Đình là nơi hàng năm diễn ra hai kì lễ cầu an vào mùa xuân và mùa thu, cũng là nơi hương chức làm việc. Đáng tiếc là ngôi đình này bị tàn phá thời kháng chiến chín năm, nay chỉ còn lại mấy bệ gạch làm nơi cúng tạm ! Chùa làng không lớn, dưới con mắt tôi-lúc đó còn ở tuổi thiếu niên- chỉ có các bà đi lễ Phật vào ngày rằm, mùng một; đàn ông ít đi chùa, trai tráng càng ít nữa.
Mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Qui, dân làng thường gọi là bà thủ Qui. Mọi việc lớn, nhỏ trong nhà đều do một tay bà lo lắng thu vén, giải quyết hết. Tuy không được học nhưng bà ăn nói sắc sảo đâu ra đấy, người làng đánh giá bà ưa lý sự, đúng với câu cửa miệng "Quảng Nam hay cãi". Bà không sợ ai, dám cãi cả xã trưởng Thạc-cũng là người trong họ- đã lâu không ghé qua thăm hỏi mà còn hạch sách điều gì đó :
-Tôi nói cho chú biết : bần cùng thì thân thích ly; bần cư trung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm... (nghèo thì người thân xa lánh; nghèo ở ngay giữa chợ chẳng ai hỏi, giàu ở giữa rừng cũng có khách tìm.----> Bà mỉa mai ông này sống thiếu nghĩa tình đạo lý ! ).
Cha mẹ tôi sinh hạ bảy người con : năm gái, hai trai (là anh Ba (Phan Sâm) và tôi thứ bảy (Bảy Công)). Tôi ra đời vào tháng 10-1917, cùng năm Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Tuy nhà nghèo, anh chị em chúng tôi rất thương yêu nhau, không bao giờ cãi cọ lộn xộn. Cha tôi nghiêm khắc, nói ít nhưng con cái sợ nem nép. Người tích cực dạy dỗ bọn tôi là mẹ. Bà uốn nắn từng lời ăn nết ở của con cái, bà không mắng con nặng lời mà phân tích giảng giải khiến bọn tôi nể và sợ, nói như sách Tàu là tâm phục, khẩu phục.
Hồi nhỏ, tôi cùng lũ trẻ trong làng hay tắm ở bến Đường. Con sông Thu Bồn đẹp lắm, đúng như nhà thơ Trinh Đường mô tả :
Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Nước sông Thu Bồn thực ra màu xanh lục, phản chiếu bầu trời miền Trung quang mây xanh ngắt lồng lộng chói nắng mùa hè. Từ bến Đường, ghe thuyền có thể ra Đà Nẵng, Hội An và vô tận Tam Kì dễ dàng theo con sông đào Vĩnh Điện-có tên là sông Câu Nhí :
Từ ngày Tây lại đắp đàng Đào sông Câu Nhí, khai vàng Bông Miêu. Thiếp dặn chàng ai dỗ đừng xiêu Ở mà nuôi phụ mẫu, sớm chiều có nhau !
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:32:19 GMT -5
Làng Bảo An là địa phương sớm lập trường tiểu học có đầy đủ từ lớp năm (cours enfantin) đến lớp nhất (cours supérieur) rất sớm...Biển trường bằng tiếng Pháp đề : Ecole primaire complémentaire de Bao An. Ngoài số trẻ em trong làng, trường còn thu hút học trò mấy xã chung quanh. Vì nhà nghèo nên các anh chị tôi chỉ được học một, hai năm, biết chữ sơ sơ đã phải nghỉ học giúp đỡ việc nhà. Chỉ có tôi được học nhiều nhất đến lớp nhì năm thứ hai (cours moyen deuxième année). Chịu ảnh hưởng người đi trước, tôi sớm hiểu việc học rất cần thiết để mai sau vào đời. Biết chữ, dù còn nhỏ, tôi say sưa tìm mượn đọc nhiều loại sách báo, và khi có chút vốn tiếng Pháp, tôi lao vào đọc nguyên tác Victor Hugo, Lamartine...
Tôi rất khâm phục các gương Trần Quí Cáp, Phan Thành Tài, Trần Cao Vân, Thái Phiên...hi sinh oanh liệt vì nước vì dân, trên đoạn đầu đài không hề tỏ chút run sợ. Người ta không dám công khai kể chuyện các ông mà chỉ nói với nhau ở chỗ ít người. Lứa tuổi bọn tôi khi đang học lớp nhì đã thuộc lòng nhiều bài thơ của hai nhà yêu nước họ Phan, mỗi khi đọc thơ các cụ lại thấy máu trai trẻ sục sôi, lòng đầy phán chấn, hào sảng và mong mau lớn để thực hiện ước nguyện của các bậc đi trước.
Năm 1926, nhà chí sĩ Phan Chu Trinh qua đời ở Sài Gòn. Một số vị ở làng tôi lén làm lễ truy điệu nhà ái quốc. Anh Phan Thanh là vai anh thuộc phái thứ hai dòng họ Phan; tôi ở phái thứ ba, cùng họ nội tộc. Khi tôi đang học, anh là dân biểu nghị viện Trung kì, cụ Huỳnh Thúc Kháng làm viện trưởng. Lợi dụng diễn đàn thực dân, anh hăng hái cãi, chống lại các mưu mô bóc lột của địch tại Hội đồng kinh tế lí tài Trung kì, bọn tôi đọc báo mê lắm. Năm 1936, anh qua đời, gây bao thương tiếc cho đồng bào. Hồi đó có cả một bài vè trong dân gian ra đời nói về anh. Thầy dạy lớp nhì năm thứ hai của tôi là nhà thơ Khương Hữu Dụng có làm đôi câu đối viếng :
"Là nghị viên đắc lực, là chiến sĩ tận tâm, trang sử tương lai, tên bạn viết to hàng chữ trước. Vì hạnh phúc hòa bình, vì lợi quyền giai cấp, bước đường tranh đấu, hồn anh nâng mạnh gót người sau".
Bài vè và đôi câu đối lưu truyền rộng, kích động lứa tuổi thiếu niên chúng tôi dữ lắm. (Sau năm 1954, tập kết ra Bắc, tôi gặp lại thầy, nhắc lại chuyện này rất tương đắc).
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:32:52 GMT -5
Ngoài ra chúng tôi còn chuyền tay nhau cuốn sổ tay chép nhiều bài kích động lòng yêu nước. Tôi nhớ và chép lại đây một đoạn bài "Cha khuyên con" dù đã ngoài sáu chục năm trôi qua.
"Cha khuyên con mấy lời cha dặn Những lời này thấu tận tâm can Làm người ta đứng giữa trần hoàn Phải biết điều sỉ nhục mới giữ tròn cho sự tự do Nếu bằng chỉ biết ấm no Ấy là cái túi cơm, cái giá áo nào có ích chi cho nhân quần Con ơi ngấc mặt mà trông muôn dặm quan hà Nào rừng vàng, nào biển bạc Biết bao là những của thiên nhiên Nòi giống ta so sánh với đời Cũng hơn hai chục triệu con người, có ít ỏi gì đâu Cũng tai, cũng mắt, cũng mày râu Trong gương tiến hóa lắm màu vẻ vang Sao mà nay cha trông nước non như mây tỏa, như khói tàn Con đỗ quyên kêu khắc khoải gọi đàn cho cuộc tương thân Trông giống nòi nghĩ lại thêm càng Canh đàn gần sáng mà còn những mơ màng trong giấc chiêm bao. Con ơi, tuy nay con còn đang độ trẻ thơ Việc tương lai xã hội phải trông chờ vào bọn các con đây Con phải gắng công luyện tập đêm ngày Sao cho đạt đức, thành tài mà tự lập lấy thân Đem công tâm mà đối đãi quốc dân Sao cho non sông nòi giống lắm phần vẻ vang Chớ những ai áo mão xênh xang Vào luồn ra cúi cho thế gian nực cười Những ai sa chân vào chốn cạm đời Việc nhà lơ láo, việc người gọi dạ bảo vâng Con ơi, chớ những ai ỷ thế cậy thần Nặn dân, bóp chúng để riêng phần được sự vinh hoa...
Bài này còn rất dài, nội dung khuyên đám thiếu niên chúng tôi lớn lên cố làm những điều ích nước lợi dân. Tuy lời lẽ không văn chương chải chuốt, lớp trẻ ngày nay đọc có thể thấy không có gì hấp dẫn, nhưng đáp ứng đúng yêu cầu thời đại đó nên bọn tôi thuộc rất nhanh, sau này giúp tôi đi theo cách mạng khá dễ dàng.
Vì tôi đi học trễ, tám chín tuổi mới vào lớp đồng ấu nên khi lên tới lớp trung đẳng nhị niên thì đã lớn, quá tuổi, không được lên lớp nhất (cours supérieur) để đi thi tiểu học (lấy bằng primaire) như mọi bạn bè khác. Tôi còn tương đối nhỏ tuổi nhưng cảm nhận chế độ đang sống là chế độ ngu dân; nói ngay với mấy thầy trong đó có thầy Khương Hữu Dụng. Các thầy an ủi song lòng tôi sục sôi bất mãn. Tôi đi học tư thêm khoảng hơn một năm-chủ yếu là tiếng Pháp-để nâng cao hiểu biết rồi vì gia cảnh phải nghỉ học.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:34:27 GMT -5
3 Người anh rể Trương Đình Tần-chồng chị Tư tôi- làm loong- toong (platon) chạy giấy cho đại lí hãng Vận tải biển (Messageries Maritimes) của Pháp ở Đà Nẵng thấy tôi biết tiếng Tây tương đối thạo, giúp tôi tìm việc. Tôi được hãng này nhận cho làm việc ghi chép việc bốc dỡ hàng hóa từ tàu lên bờ hoặc xếp hàng xuống tàu trở về Pháp, chức danh này là pointeur (nhân viên chấm công). Công việc nói chung nhàn vì hồi đó tàu bè ra vào cảng Đà Nẵng ít. Lâu lâu có chuyến tàu cặp bến thì công việc dồn dập suốt ngày đêm. Còn những ngày khác vừa làm sổ sách vừa chơi. Đồng lương đối với người độc thân như tôi thì sống đủ. Tôi ăn ở luôn nhà anh chị.
Làm được khoảng mấy tháng, một bữa, tôi bị tên Pháp gốc đảo Corse hách dịch mắng chửi dù không có lỗi gì. Công việc của tôi chẳng đụng chạm đến ai, chẳng hiểu sao bữa đó hắn sạc tôi một trận. Là người tự trọng, cũng hiểu biết đôi chút về lịch sử nước Pháp, tôi mới cự lại :
-Mày dân Corse cũng dân thuộc địa như tao, mày hống hách với tao làm chi...Mày chẳng nên lên mặt tự hào về thân phận nô lệ của mày...
Do tự ái dân tộc, tôi bỏ việc ngang, chỉ nói với anh Tần : -Thôi tôi không làm cho Tây được, tôi về ! Anh ráng chịu đựng để làm nuôi mấy đứa cháu...
Từ đó, tôi muốn ra đi với ý nguyện thay đổi cuộc đời (cái này cũng do chịu ảnh hưởng văn chương Tự Lực văn đoàn, còn thay đổi thế nào, mình chưa hiểu cách làm). Muốn ra thiên hạ phải có nghề kiếm sống. Sau khi suy nghĩ rất lâu, tôi thấy một nghề dễ học, không cần nhiều vốn liếng gì : nghề hớt tóc. Nếu như ba chục năm trước đó làm nghề này khó sống vì hồi đầu thế kỷ 20 nam giới nước ta còn để búi tó củ hành. Theo Nho giáo phong kiến thì mỗi bộ phận cơ thể Trời phú, cha mẹ sinh thành đều phải trân trọng gìn giữ. Nhưng khi phong trào chống thuế nổ ra năm 1908, dân Trung kì đi tiên phong đồng lòng bảo nhau hớt tóc ngắn thì cái búi tó của đàn ông mất dần.
Tôi học hớt tóc ở anh Lịch, một thợ vùng quê có tay nghề lão luyện dưới con mắt tôi ! Lúc đó, ít kiểu tóc, thanh niên chưa biết ăn chơi mốt này kiểu nọ. Đại khái có kiểu hớt trọc như các nhà sư, kiểu trái đào cho con nít, kiểu carê móng lừa còn gọi vui là kiểu tiền văn minh hậu sư cụ : phía trước chải được vì tóc hơi dài, phía sau hớt bốc rất cao (bây giờ thanh niên gọi là đầu đinh)...Mấy kiểu này dễ học, dễ làm, chỉ cần hớt ra hớt, cạo ra cạo là được. Bọn con nít mình không lấy tiền, tha hồ thực tập. Chỉ mấy tháng việc học nghề đã xong, từ đây có thể từ biệt sư phụ xuống núi , mặc sức tung tẩy hành nghề.
Tôi còn học thêm nghề may với ông hương Nhì là thợ may giỏi trong làng. Học may khó hơn : học cắt rồi học đạp máy may. Được cái tôi sáng dạ nên nắm kĩ thuật khá nhanh. khi hớt tóc tương đối thành thạo thì tôi cũng nắm được cơ bản cách may áo cánh đàn ông, quần ta, quần xà lỏn...(may quần áo phụ nữ, nhất là áo dài còn phải học nhiều).
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:35:36 GMT -5
Chim ra ràng bắt đầu rời tổ...
Tôi và Phan Thơm-em con chú họ- cùng đi kiếm cơm thiên hạ. Mỗi người sắm một bộ đồ nghê gồm : tông đơ, dao cạo, kéo...đút gọn trong chiếc cặp nhỏ. Chúng tôi tới mấy làng dệt tussor nổi tiếng ở Duy Xuyên như : Mã Châu, Phi Lai, Hà Mặc...hành nghề. Thanh niên ở đây sẵn tiền, cũng thích làm đẹp cho đầu tóc gọn gàng cao ráo, râu ria sạch sẽ nên ngày nào cũng có việc. Đúng là "tay làm, hàm nhai".
Một lần có hai thanh niên trạc tuổi bọn tôi, lúc hớt tóc thở ra những lời có vẻ khinh thị nghề này. Sau khi nhận tiền công, tôi nói thẳng : -Người Pháp có câu : "Không có nghề hèn, chỉ có người hèn hạ..."
Hai chàng kia nín thít. Đi hớt tóc dạo, tôi tự hào vì không phải ăn bám cha mẹ, sống bằng lao động bản thân, vả lại mình đã lớn, ăn bám mãi sao được ?.
Hơn một năm trôi đi như thế, tôi hiểu được khá cặn kẽ thung thổ vùng quê mình ra đời và lớn lên, quen biết thêm một số bạn mới. Khi rảnh rỗi, tôi mượn sách báo đọc để mở mang thêm trí óc.
Tuổi trẻ ưa bay nhảy, luôn thích cái mới. Nghe đồn môn phái võ Bình Định nổi tiếng, tôi quyết định chu du một chuyến.
Với số tiền nhỏ nhoi gom từ trước dằn túi, tôi vào Qui Nhơn. Tìm đến một chủ tiệm hớt tóc, tôi xin làm cho ông ta. Tất nhiên người ta thử tay nghề, thấy anh thợ trẻ măng đạt chuẩn mới nhận. Hớt tóc ở một tiệm tỉnh lị không như làm ở quê mình. Kiểu cách nhiều hơn, khách khó tính hơn, đòi hỏi làm kĩ hơn, đẹp hơn. Tôi học thêm nghề ở ngay ông chủ, chỉ một thời gian ngắn, tay nghề nâng cao rõ rệt. Đắt khách, người chủ trả công phải đạo (nghĩa là không trả rẻ mạt như lúc mới đầu); tôi đủ tiền ăn tiêu và tiền học võ.
Ở tỉnh nhỏ hồi đó, dân thường ngủ sớm, dạy sớm; người ta đi hớt tóc ban ngày, chiều ít khách tới, tối đóng cửa sớm. Tôi nói với người chủ chỉ làm ban ngày, chừng 4 giờ chiều, tôi sẽ đi Tuy Phước học võ. Lò võ ở khá xa. Tôi có sức khỏe, nhanh nhẹn, sáng dạ nên nắm các thế võ rất nhanh. Thầy dạy tận tình, một số bạn cùng lò đã truyền thêm cho một số ngón đánh xáp lá cà, đánh tự vệ...để thủ thân, hạ đối phương dễ dàng. Hơn một năm học võ giúp tôi tự tin hơn, có sức khỏe hơn. Sau này lúc tiền khởi nghĩa ở Biên Hòa, tôi tập hợp được hơn một chục anh em ở sở quít trưởng tòa Nghiêm cũng bằng cách dạy võ.
Năm 1940, quân Nhật vào Lạng Sơn thì tôi nghỉ hớt tóc ở Qui Nhơn, về lại quê hương. Một món tiền kha khá dành dụm được đưa cả cho mẹ tôi làm ăn.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:37:03 GMT -5
Đạo Cao Đài ra đời năm 1926 do ông đốc phủ Lê Văn Trung và một số công chức vai vế sáng lập ở Nam kì. Đạo này trương danh xưng rất kêu : Đại đạo Tam kì phổ độ (giải thích kiểu nào cũng được, nhưng cách lý giải thông thường : đây là đạo lớn phát triển ở cả ba kì Bắc, Trung, Nam để cứu vớt đồng bào khỏi mọi đau khổ trầm luân ! ). Đạo này thờ các đại diện tôn giáo lớn trên thế giới : Đức Phật, Chúa Jesus; thần-thánh-tiên như : Ngọc hoàng thượng đế, Thái Thượng lão quân...; các thi hào : Victor Hugo, Lí Bạch...
Xem cách bố trí các pho tượng ở bất kì thánh thất nào, người ta thấy rõ tính đẳng cấp nơi trần thế. Số chóp bu sáng lập có tham vọng muốn biến đạo Cao Đài thành quốc đạo, thay thế các đạo Phật và Thiên Chúa. Sau này, họ âm mưu biến tôn giáo này thành tổ chức chính trị - vũ trang chống phá cách mạng (nhất là ở miền Đông Nam Bộ ). Kinh đạo Cao Đài vay mượn khá nhiều của kinh Phật; tín đồ và các chức sắc ăn chay học theo đạo Phật đại thừa. Việc cầu cơ xin thần thánh giáng cơ bút là của bộ phận Hiệp Thiên đài (tương tự ban tuyên huấn của đạo) thực hiện.
(Giáo sư Trần Văn Giàu phân tích nguyên nhân ra đời của đạo Cao Đài : các phong trào dấu tranh của nông dân Nam Bộ thất bại liên tục gây tâm trạng bi quan trong đông đảo quần chúng khi chưa có Đảng lãnh đạo, tình trạng dân trí thấp kém, ước ao có sự cứu rỗi màu nhiệm...Thực dân Pháp thấy đạo này "vô hại" đối với nhà cầm quyền, ngược lại nó còn ru ngủ quảng đại quần chúng bằng những kinh kệ mơ hồ, rối mù...nên cho phép phát triển).
Từ đầu những năm 30, đạo Cao Đài lan ra Đà Nẵng, một thánh thất (hay chùa) được xây cất lên. Tôi từ Qui NHơn về, được gặp ba người : thầy thuốc Lương Tam Sách (biệt hiệu Thanh Long), Trần Luyện (nghe nói là con cháu Trần Cao Vân), người bạn cùng học Trần Quang Châu (biệt hiệu Bạch Hổ ). Anh Thanh Long là một thâm nho giỏi y lí, làm thơ nôm hoặc chữ Hán đều hay, chuyên ngồi đồng cầu cơ. Một bữa, ông Trần Quí Cáp nhập về, giáng bút như sau :
TRẦN QUÍ CÁP NGẪU ĐỀ Ngộ cảnh đêm nay khó thả ra Hỡi ai thấy nước biết thương nhà Một là lạo thủy lên cuồn cuộn Bảy tỉnh đầy than tiếng chả cha Đất Bắc khôn phương ngừa Nhật Bản Trời Nam khó nổi ngự Xiêm La Non sông thế xu thời vận thế Dù trí dù ngu một chữ thà !
Bài cơ bút này nói chuyện nước lụt bảy tỉnh miền Trung năm ấy dân rất khổ; Nhật vào Tây không ngăn được; Xiêm La xâm lấn phía Nam (lấy của Campuchia và Lào mấy tỉnh); ta bình tĩnh xem thời thế mà hoạt động, không được manh động.
Anh Thanh Long ngồi cầu cơ, tôi làm điển kí lời phán bảo của thánh thần hoặc danh nhân đất nước.
Tôi tham gia đạo Cao Đài khoảng giữa năm 1940 xuất phát từ lòng yêu nước và chịu ảnh hưởng tư tưởng bất khuất truyền thống của địa phương. Đọc cơ bút, do hiểu thế nào cũng được, tôi cho đạo này là đúng đắn, có thể cứu nước. Tôi và các anh trong Hiệp Thiên đài, Cửu Trùng đài không phải lo làm lụng kiếm ăn vì được tín đồ góp tiền nuôi dù mức sống đạm bạc.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:38:35 GMT -5
Một lần, Đức Trần Hưng Đạo giáng cơ bút chỉ đường cho chúng tôi lập một nông viện, mọi người sẽ làm chung, ăn chung (như kiểu nông trang tập thể của Nga Xô-Viết) ở vùng núi xa xôi hẻo lánh Tí, Sé, Dùi, Chiêng. Ở đó, đất rộng người thưa. Cơ bút Đức Thánh Trần mở đầu bằng hai câu hỏi :
Sao vạn quốc, liệt cường phú túc ? Sao ngũ châu sắp cuộc chiến tranh ? Biết lo kinh tế thực hành Kém phần đạo đức mà thành thế ư ? Đem kỉ sử đọc từ thượng cổ Mở địa đầu xem chỗ vạn bang Đã sinh ra miếng đất vàng Cái mầm tan hiệp, hiệp tan âu đành Tạo nên nước, nước thành nước bại Đúc ra người, người dại người khôn Trách sao lò tạo không công Đã sinh giống trắng thì không giống vàng Hỡi than ôi ! Nam bang một thẻo Bốn nghìn năm kẻ kéo người lôi Non sông bồi đắp đắp bồi Lập rồi lại xóa, xóa rồi lập lên Liếc mắt trông lên nền quốc giới Cả tiếng kêu này hỡi đồng bào Cớ sao mà tại vì sao Dân ta hèn yếu phong trào kéo sai Cũng tai mắt mặt mày như kẻ Cũng món ăn sinh đẻ như người Việt Nam cũng một quãng trời Khi người Âu Mĩ, khi người Tây Âu ... Cũng sống chung trên quả địa cầu Người sao dân mạnh nước giàu Có tàu xuống bể, có tàu lên mây Chế máy móc dựng gầy công nghệ Lập thương nông cứu tế quốc phòng Nào là điển khí phi công Nghe xa muôn dặm đi không đầy giờ Dân tộc ta sao khờ sao dại ? Nước nhà ta sao bại sao hư ? Không nghề nghiệp, không thiên tư Văn minh công nghiệp ai chừ khuếch trương ? ..................
Văn thơ cầu cơ có thể kéo dài vô tận tùy hứng, không đi vào trọng tâm, nếu đủ thời giờ kiên nhẫn ghi, tha hồ lí giải dài dòng vòng vo mù mờ. Nhưng hồi đó lớp tuổi chúng tôi thấy nó có vẻ sâu sắc vì trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, mọi viẹc diễn ra chậm chạp, con trâu thủng thẳng đi trước, cái cày theo sau; chúng tôi dư thời giờ, tha hồ ngâm ngợi, tán rộng như Mao Tôn Cương bình tán sau mỗi chương hồi Tam Quốc diễn nghĩa, đắc ý khi tưởng khám phá ra những chân lý mới mẻ. Nay nghĩ lại mới thấy mấy anh trong Hiệp Thiên đài chịu ảnh hưởng cộng sản kết hợp thời sự chừng mực nào đó nên mới dụ được nhiều người theo đạo.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:39:54 GMT -5
Gần đến Cách mạng tháng Tám, những người cầm đầu đạo tôn ông Cường Để làm minh chủ, đi theo Nhật, muốn dựa vào Nhật, tin Nhật cùng giống da vàng thành thật giúp ta lấy lại nền độc lập. Tôi thấy rõ ràng mình mong lấy đạo Cao Đài làm bình phong để góp phần cứu nước là ảo tưởng tai hại; chưa được ánh sáng chân lí của Đảng chiếu rọi nên chẳng khỏi có lúc chệch đường mà vẫn tưởng mình đi đúng hướng kim la bàn, đi đúng hành trình đến bến bờ giải phóng dân tộc.
Một lần vào năm 1942 đến quận Quế Sơn tuyên truyền cho việc lập nông viện (theo cơ bút Đức Trần Hưng Đạo), mấy anh cầm đầu đạo Cao Đài (trong Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài) bị lính bắt. Hôm đó may tôi ngẫu nhiên thoát chết sau khi thuyết trình cho cử tọa nghe.
Nếu ở lại, chắc không thoát vòng lao lí ! Tôi rủ Trần Luyện-một bạn thân- cùng trốn ra Bắc. Tại sao tôi tìm ra Bắc ? Theo suy nghĩ của tôi khi ấy, đất Bắc là đất học hành, có nhiều phong trào cách mạng, nhiều nhân tài lừng lẫy. Muốn hiểu biết rộng, cần ra Bắc học hỏi một chuyến, kết hợp lánh nạn.
Tôi xin mẹ tôi một ít tiền, Luyện cũng dằn lưng một mớ. Tấm thẻ thuế thân nằm trong túi, chúng tôi lên xe lửa ngược hướng Bắc. Chặng dừng chân đầu tiên, hai người xuống ga Huế, tìm đến nhà cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự. Cụ đã qua đời năm 1940, vì ngưỡng mộ tên tuổi nhà chí sĩ yêu nước, chúng tôi vẫn ghé thăm để mong biết thêm về cụ. Một thanh niên trạc tuổi chúng tôi ra đón tiếp. Anh kể sơ một số chuyện đời hoạt động của cụ. Tôi không thể nào quên một giai thoại đã nghe cách nay hơn nửa thế kỉ :
Có một anh ăn mày cụt chân đến tìm gặp cụ Phan Bội Châu và nói :
-Con nghe danh cụ là người yêu nước, con không xin cụ tiền hoặc cơm gạo mà chỉ xin cụ đôi câu đối...
Cụ viết ngay ra giấy :
"Chẳng cần nhà, chẳng cần vợ, chẳng cần con, dọc đất ngang trời bảy thước, Còn hai tay, còn hai tai, còn hai mắt, tung hoành Nam Bắc một chân".
Anh thanh niên tặng chúng tôi cuốn Khổng Học Đăng. Ngồi chơi vài giờ, bọn tôi cáo lui. Hôm sau, xe lửa chở hai chàng trai xứ Quảng ra Hà Nội.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:43:47 GMT -5
Lúc trước, thảo khấu đăng hồi kí ông ngoại trên diễn đàn Lịch sử - văn hóa của TTVN, đây là đoạn bình về đạo Cao Đài của bác Phó Thường Dân, post trong đó. Điều tôi muốn nói là đạo cao đài, sự đánh giá về đạo cao đài. Theo tôi sự đánh giá duy nhất theo kiểu xã hội học Mác xít, chỉ là một kiểu đánh giá. Mà nếu chỉ đánh giá nó đơn thuần theo CT/XH thì không đủ, không toàn diện. Con người bình thường có nhiều phần: phần xã hội, phần gia đình, phần tâm linh, ...
Nên có đánh giá nó cũng phải từ nhiều phía. Nếu chỉ nói như Bác Trần Văn Giầu thì có lẽ đơn giản quá. Lấy một ví dụ. Tại sao đạo Cao đài thờ "hổ lốn" , cả Tây lẫn ta. Từ Jeane D'Arc đến Victor Hugo, rồi Tôn Trung sơn, không các vị Anh hùng dân tộc VN như hai bà Trưng. Theo tôi thực ra là có ẩn ý. Hãy để ý cái tranh thờ của họ. Tôn trung Sơn (TQ) và Victo Hugo(Pháp) dâng giấy, mài mực cho Nguyễn Bỉnh Khiêm (VN) viết chữ humanité tức là nhân văn. Có lẽ không ai định nghĩa được chữ văn hoá VN rõ ràng, mà lại sắc bén như vậy. Vâng văn hoá VN là một loại văn hoá tổng hợp, nó lấy những yếu tố bên ngoài để làm giầu thêm cho nó, nhưng phải do người VN tự tổng hợp lại mới được. Nếu nhìn như thế thì về Văn hoá, đạo cao đài cũng thú vị đấy chứ .
Phó Thường Dân
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:44:58 GMT -5
Bọn tôi trọ ở ngôi nhà số 53 Hàng Đàn. Mới đầu chúng tôi thuê để ở, ăn cơm ngoài. Chủ nhà là một bà cụ. Được ít bữa, có lẽ thấy bọn tôi không khá giả gì mà lại từ miền Trung ra học (có nhiều hôm tới 9 giờ tối mới về ), thái độ đứng đắn, nề nếp quy củ, bà mới ngỏ ý nếu muốn ăn luôn tại nhà cho tiết kiệm thì bà nấu giùm. Đề nghị này hợp thời quá, được chấp thuận vui vẻ. Cô con gái tên Thành là người có học, tính nết đoan trang, nghiêm chỉnh. Chúng tôi làm quen khá nhanh, trò chuyện vui vẻ. Một lần tôi hỏi :
-Ở đây có những loại sách nào đọc hay ?
Cô kể một loạt, trong đó có một số sách của nhóm Hàn Thuyên viết có vẻ mácxít. Bây giờ thì mới biết mấy người viết trong nhóm này "mượn màu mácxít đánh lừa con đen", lí luận của họ là lí luận trốtkít (đệ tứ ) chống lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng lúc đó tôi say sưa nghiền ngẫm các luận điểm mới mẻ, tưởng tiếp thu được những điều cao siêu, thâm thúy (không hiểu đó là những "nọc độc" sau này phải mất công gột rửa).
Tôi xin một thẻ đọc sách ở thư viện Viễn Đông bác cổ. Tại đây số người đến đọc không đông, ra vào dễ dàng. Tôi thấy mình thạt có duyên, được gặp cụ thâm nho Bùi Trình Khiêm, là thân phụ nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn. Cụ dạy thêm cho chữ Nho và Khổng học. Tôi đã học Kinh Thi, Kinh Lễ và Tứ Thư (Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử )...Tôi đọc kĩ cuốn Khổng Học Đăng của cụ Phan Bội Châu...Nhờ vậy, tôi hiểu sâu thêm Nho học giúp cho đạo làm người.
Trong một số lần vãng cảnh chùa Quán Sứ, tiếp xúc với nhà sư Thiều Chửu trụ trì, tôi được hướng dẫn bước đầu về đạo Phật. Tạp chí Đuốc Tuệ có thêm một độc giả trẻ tuổi. Tôi tiện dịp đọc báo Quan Âm và Từ bi âm của hội Phật giáo Trung kì xuất bản ở Huế. Trước đây bộ máy cai trị ở Quảng Nam có thể có lúc để ý đến tôi, nhưng nay họ thấy tôi nghiên cứu đạo Khổng, đạo Phật là những thứ không chống đối nhà nước thì, dưới con mắt họ, tôi thuộc loại vô hại, khỏi mất công theo dõi. Tôi sống yên thân, tha hồ đưa vào "bộ nhớ" vô số thứ từ thuở bé chưa hề biết. Một vài tín đồ Cao Đài phục tôi hiểu sâu biết rộng, lí luận đâu ra đấy nên thỉnh thoảng chu cấp cho một món tiền đủ sống tằn tiện.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:52:52 GMT -5
Đầu năm 1944, tôi gặp ông Lê Dư-là nhà học giả lấy em gái nhà văn hóa Phan Khôi. Trong khi trò chuyện, nghe giọng xứ Quảng, ông hỏi quê quán, gia đình :
-Té ra chúng ta là người đồng hương...
Tôi nói hoàn cảnh mình đang đi học, bị Pháp theo dõi. Ông khuyên bọn tôi học tiếng Nhật. Tôi và Trần Luyện cùng theo học một lớp buổi tối do người Nhật mở, có thông ngôn người Việt phụ tá. Tuổi còn trẻ, óc minh mẫn như tờ giấy nhiều khoảng trắng, chúng tôi học khá nhanh. Chỉ vài tháng bọn tôi đã nghe được người Nhật nói và mình nói bằng giọng xứ Quảng họ cũng hiểu. Thế rồi ông Lê Dư giới thiệu tôi đi làm cho hội Bác Ái (của Nhật), họ có nhà thương đặt ở khu vực hồ Thuyền Quang. Công việc của tôi là trực điện thoại ở văn phòng : nghe và trả lời bằng tiếng Nhật hoặc tiếng Pháp tùy trường hợp. Trần Luyện giỏi tiếng Nhật hơn thì được giới thiệu vào làm cho Kempetai (đội hiến binh), bây giờ có thể đi lại ngang nhiên không sợ Pháp bắt bớ nữa. Chúng tôi vẫn đi học tiếng Nhật, mặt khác nhờ trực điện thoại nghe người Nhật nói hàng ngày nên tôi luyện nói và nghe càng nhanh. Tôi làm gần một năm ở hội Bác Ái. Khoảng cuối năm 1944, ở Bắc kì chớm có nạn đói. Số người đi ăn xin tăng lên nhanh trên đất Hà Nội.
Một toán sĩ quan Nhật gồm một viên quan năm, mấy viên quan tư, quan ba, quan hai lên mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) yêu cầu viên chủ mỏ người Pháp "nhường việc khai thác" cho người Nhật (nói trắng ra là họ cướp mỏ này). Tôi được mang theo làm thông ngôn. Tiếng Pháp thì tôi tương đối khá, tiếng Nhật còn lơ mơ. Cho nên khi đàm phán, tôi dịch ý đại khái, chắc người sành Nhật ngữ có thể chê dịch không sát, không hết ý, mà cũng có chỗ dịch đại sai bét không biết chừng !
Tôi trọ ở một nhà bên ngoài mỏ, mấy sĩ quan Nhật ở một nhà khách, có bồi người Việt hầu hạ. Mới làm việc được mấy bữa thì tôi chia tay với người Nhật, một cuộc chia tay vĩnh viễn bất đắc dĩ.
Sáng hôm ấy, không hiểu được hầu hạ sao đó mà viên quan hai Nhật mắng chửi như tát nước vào mặt anh bồi. Anh này không biết tiếng, đứng im, chỉ thấy thái độ gắt gỏng la lối ngày càng tăng của ông quan hai Nhật mà không biết cách làm thế nào để y dịu cơn giận dữ. Tên này mặt đỏ phừng phừng, tưởng anh ta lì, bèn sấn tới, giáng một bạt tai nảy lửa làm anh ngã xuống đất. Nếu y đeo kiếm cạnh sườn, có thể anh ta đã xơi một nhát ! Tôi từng chứng kiến sự hống hách của bọn phát xít Nhật từ quan đến lính ở đất Hà Nội. Chúg tốn công rao giảng học thuyết Đại Đông Á trên báo chí, sách vở "châu Á là của người châu Á", "người Nhật và người An Nam cùng là dân da vàng, đồng văn, đồng chủng; người Nhật sẽ giúp lấy lại độc lập cho người An Nam"... toàn những điều nghe ra thật tốt đẹp. Nay tận mắt thấy người mình bị sỉ nhục thô bạo, lòng tự tôn dân tộc trỗi dậy, tôi mới nói với viên quan hai nọ :
-Anh là người của một dân tộc lớn hùng mạnh, muốn đi chinh phục thế giới thì anh phải làm gì để người ta phục kia. Anh đối xử với người bồi quá tệ như thế này, khinh người ta như con vật thật không đúng. Lần đầu tiên tôi phải nói điều này để anh suy nghĩ lại.
Tên này quay qua xáng tôi một bạt tai choáng óc. May tôi không té. Phản xạ tức thì vì bị nhục hết mức, nhanh như chớp, tôi dùng miếng võ Bình Định lên gối xuống cùi, vòng một tay kẹp cổ y, vít đầu xuống, thúc đầu gối trúng mỏ ác, đồng thời dộng cùi tay kia vào huyệt đạo gần đốt sống cổ. Miếng đòn hiểm này khiến y xụi lơ, ngất xỉu. Đây là đòn nặng, không gây chết người nhưng kẻ trúng đòn rất lâu mới tỉnh. Người bồi đã chạy ra khỏi phòng. Tôi suy nghĩ rất nhanh : ở lại không được rồi, tam thập lục kế tẩu vi thượng sách ! Khóa trái cửa lại, để mặc y nằm trơ đó, tôi đi nhanh về nhà trọ thu xếp quần áo, ra bến xe vừa đúng lúc có chuyến xe xuôi về Thái Nguyên. Vài ngày sau tôi lần tìm đường về Bảo An, trong lòng trĩu nặng mối lo : bọn Nhật truy nã. Nhắm thấy ở lại quê không an toàn, tôi quyết định tìm vào Nam kì, đất rộng người thưa, làm ăn sinh sống dễ dàng hơn xứ Quảng.
|
|