|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:53:43 GMT -5
4 Từ lâu, qua sách báo, tôi biết đất Biên Hòa có nhiều sở đồn điền cao su đất đỏ, đất xám mênh mông. Khi tôi lên đường, năm anh em trẻ hơn, là tín đồ Cao Đài cùng xứ có tinh thần yêu nước, xin đi theo để học võ và kiếm cơm thiên hạ. Chúng tôi dằn lưng món tiền nhỏ đủ đi tàu xe và chờ kiếm việc.
Xuống ga Biên Hòa, dò hỏi xem có chỗ nào mướn nhân công, chủ nào dễ chịu để tìm nơi tá túc. Có người mách tôi gặp ông trưởng tòa Trần Quang Nghiêm, là người hào hiệp có tiếng ở vùng này. Trưởng tòa còn gọi là mõ tòa (chữ Hán : thừa phát lại) là viên chức tòa án giữ việc chuyển đạt mệnh lệnh của tòa, có mặt trong phiên xử để xướng danh bị cáo và thi hành các quyết định của tòa án trước kia (nay tòa án ta không có chức danh này).Tôi mới 27, gần ba mươi tuổi, ông khoảng gấp đôi. Đó là một người vóc dáng to lớn đường bệ, nói năng chậm rãi cởi mở, có sức thu hút người đối thoại. Tôi trình bày sơ hoàn cảnh bản thân và mấy bạn đồng hương. Ông lắng nghe chăm chú, sau đó cho biết ông có một sở (vườn) quít rộng ở Bình Thạnh, cạnh sở cao su cũng của ông, nằm bên kia sân bay Biên Hòa cách tỉnh lị dăm cây số đường tắt. Cây trồng ở đấy lâu năm đã già cỗi, anh em có thể phá đi, trồng thứ khác sinh lợi hơn. Tôi trình bày kế hoạch trồng dâu nuôi tằm dệt tussor được ông chấp nhận.
Ông cho vay một số tiền làm vốn ban đầu. Sở quít có một căn nhà lá rộng, chúng tôi ở luôn đó, kéo thêm dăm bảy thanh niên địa phương, hàng ngày phân công nhau cuốc đất, nhặt cỏ, tìm mua hom dâu. Cậu Cửu người quê tôi khéo tay tận dụng gỗ, đóng được chiếc khung cửi sau một thời gian ngắn. Anh em lao động ban ngày, buổi tối học võ. Những đêm sáng trăng là những buổi tập lý tưởng. Đang sức trai, không ai phàn nàn về sự ăn ở thiếu thốn kham khổ. Cái nông viện theo cơ bút của Đức Thánh Trần đã được thực hiện tại sở quít Biên Hòa này, mang tên Tráng sĩ trại, cái tên như trong truyện kiếm hiệp Tàu !
Ở một thời gian, qua vài lần tiếp xúc nữa, tôi hiểu ông trưởng tòa Nghiêm là người yêu nước kín đáo. Ông để ý chuyện chúng tôi làm, sẵn sàng giúp đỡ khi cần thiết. Tôi thường tìm đọc thêm sách báo tiến bộ, mặt khác mở rộng quan hệ giao du. "Hữu xạ tự nhiên hương", nhà ông trưởng tòa là nơi một số cán bộ cách mạng hay lui tới. Tôi biết anh Huỳnh Văn Hớn, anh Lê Thái, anh Đặng Nguyên, anh Nguyễn Đình Ưu, anh chị Trương Văn Bang...vào khoảng đầu năm 1945.
Anh Hớn, anh Nguyên chắc có nghe ông trưởng tòa nói về tôi nên các anh chủ động tìm gặp, chuyện trò. Từ việc làm ăn, các anh dần dần chuyển sang chuyện cách mạng, lúc đầu còn nói xa xôi, sau mới đi thẳng vào vấn đề. Tôi đón nghe mà lòng rất vui, nói nôm na : các anh bắt đầu mở mắt cho tôi đi theo Đảng (nói theo kiểu đạo Cao Đài là được khai quang điểm nhãn). Tôi nói lại cho số anh em ở trại Tráng sĩ, họ nghe như uống từng điều mới mẻ. Tuy nhiên, tín điều Cao Đài cũ và cái mới giằng co trong óc tôi, còn chưa phân thắng bại hẳn.
Anh Nguyễn Đình Ưu, người huyện Nghi Lộc (Nghệ An) làm giám đốc ngân hàng Nông phố O.I.C.A.M, giỏi tiếng Nhật, anh Nguyễn Xuân Diệu, người Thanh Chương (Nghệ An) là nhân viên sở Trước bạ, hoạt động ở Hòa Hưng (Sài Gòn) một số lần đến sở quít chơi với tôi. Các anh động viên tôi làm tốt công việc đang theo đuổi. Rồi tôi gặp anh Hà Huy Giáp, không nhớ do ai giới thiệu. Anh Giáp thích trò chuyện với tôi vì thấy tôi sôi nổi, tiếp thu vấn đề nhanh, những điều chưa biết đều hỏi kĩ. Hồi tưởng lại giai đoạn mấy tháng ngắn ngủi trước Cách mạng tháng Tám 1945 này, tôi thấy kim la bàn đời mình trùng hướng của cách mạng.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:54:43 GMT -5
Tôi được đọc một số sách báo cộng sản thứ thiệt, mới thắc mắc : tại sao hai tờ báo La Lutte và Le Peuple đều tuyên truyền cách mạng mà lại đả kích nhau kịch liệt ? Các anh giải thích đệ tam quốc tế có bản chất cách mạng khác với bọn đệ tứ "lập lờ đánh lận con đen" giả danh để chống phá cách mạng rất nguy hiểm...Học vỡ lòng từng chút từng chút như vậy, dần dần tôi hiểu mình tập hợp anh em để dạy võ và nói chuyện yêu nước là đúng chủ trương của Đảng, cần tiếp tục duy trì, phát triển.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), báo chí Sài Gòn hàng ngày đăng nhiều tin chiến sự. Nhật kiểm duyệt bưng bít kĩ, song không thể không thú nhận sự thất trận của chúng trên chiến trường châu Á-Thái Bình Dương. Berlin đã bị quân dội Xô Viết chiếm, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. Mussolini và phát xít Ý đã diệt vong từ trước. Trục Đức-Ý -Nhật gãy đổ tan tành.
Nhân dân Biên Hòa đồn đại khá công khai về phong trào Việt Minh đang lan rộng ra cả nước. Lần đầu tiên tôi nghe được chuyện Việt Minh cũ, Việt Minh mới, nghe thế thôi chứ chưa phân biệt hai thứ Việt Minh này khác nhau thế nào. Rồi phong trào Thanh niên tiền phong lan từ Sài Gòn về Biên Hòa như nồi nước sắp sôi. Lúc đó, anh Huỳnh Thiện Nghệ-xuất thân moniteur Phan Thiết- là thủ lãnh Thanh niên tiền phong Biên Hòa. Số TNTP cả tỉnh Biên Hòa hồi này lên tới hàng chục ngàn, làng nào cũng tổ chức. Đó là lực lượng rất đông đảo, nòng cốt cho tổng khởi nghĩa trong tỉnh vài tháng sau.
Khoảng đầu tháng 8-1945, các anh Hà Huy Giáp, Ung Văn Khiêm đi ra Bắc. (Sau này nghe anh Hà Huy Giáp nói lại tôi mới biết các anh được triệu tập họp hội nghị Tân Trào, người giao liên truyền đạt là chị Lan, vợ anh Văn Tiến Dũng). Tôi biết tiếng Nhật, được các anh cho đi cùng tới Quảng Nam để có thể ứng phó phần nào với bọn Nhật. Một viên sĩ quan Nhật ngồi ghế đầu nên suốt chặng đường từ Biên Hòa tới Điện Bàn xe đò này không bị xét hỏi lần nào. Ngồi xe đò mấy ngày, tôi học thêm một số điều mới mẻ qua trò chuyện với các anh.
Xe chạy tới sông Cầu, tỉnh Phú Yên thì nghỉ lại ban đêm. Anh Hà Huy Giáp biết tôi quen mot số chức sắc Cao Đài các tỉnh Trung kì, chỉ đạo tôi nhân dịp này gặp, thuyết phục một anh đứng đầu đạo Cao Đài tại đây không nên tranh giành ảnh hưởng với Việt Minh địa phương. Tôi và anh Hà Huy Giáp, Ung Văn Khiêm tìm anh kia. Sau cuộc trò chuyện ngắn, anh ta đồng ý. Lúc ra về, ngang qua cây cầu nhỏ, chúng tôi dừng lại hóng mát. Rất ít người qua lại, dân tỉnh lẻ thường đi ngủ sớm. Anh Hà Huy Giáp nói :
-Tôi nghe một số đồng chí báo cáo, được biết cậu là thanh niên yêu nước, có trình độ lí luận Mác-Lênin. Vậy cậu có muốn vào Đảng Cộng Sản Đông Dương không ?
-Tôi rất mong muốn được vào Đảng.
Tôi thực hoàn toàn bất ngờ về điều anh hỏi nên chỉ phát biểu có thế. Anh nói tiếp : -Thay mặt Đảng, tôi công nhận cậu là đảng viên dự bị đảng Cộng Sản Đông Dương...
Sau đó, anh căn dặn thêm một số điều. Việc tôi được vào Đảng đơn giản như vậy, chẳng có nghi thức qui định như sau này. Lúc đó, tôi chưa hiểu bao nhiêu về lí tưởng cộng sản, chỉ có tấm lòng tràn đầy tinh thần yêu nước. Đây là bước ngoặt lớn của đời tôi.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:55:50 GMT -5
Chúng tôi về tới Bảo An thì đã chiều tà. Các anh nóng lòng gặp một số đồng chí Quảng Nam như Lưu Quí Kì, Lê Thị Xuyến, Lê Văn Hiến, Trần Đình Tri...song mẹ tôi bảo các anh cơm nước, nghỉ ngơi thoải mái, có gì để đến ngày mai. Sáng hôm sau, tôi dẫn các anh đi gặp các anh Phan Nhụy-anh ruột Phan Thanh, Phan Thao-con anh Phan Khôi, và mấy anh chị kia. Anh Phan Nhụy nói với mấy anh chị về tôi :
-Thằng cha này đi bôn ba, là người đáng tin cậy của tụi tôi...
Tôi được dự nghe mấy anh thảo luận về cuộc cách mạng dân chủ mới Đông Dương, tuy không hiểu bao nhiêu. Các anh họp bàn hai ba ngày rồi bắt xe đò đi tiếp ra Bắc. Tôi quay vào Biên Hòa, tiếp tục công việc đang làm. Chuyến tháp tùng ngắn ngủi bốn năm ngày này rất quan trọng suốt cả đời tôi. Những điều học hỏi được làm tan biến mọi tín điều Cao Đài (trước đây tôi khâm phục là sâu sắc, thâm thúy). Nói theo chữ nghĩa đạo Phật, tôi đốn ngộ. Lúc này ông trưởng tòa Nghiêm hiểu rõ tôi là thanh niên yêu nước, càng giúp đỡ tích cực hơn...
Vào gần giữa tháng 8-1945, tôi về Điện Bàn vì thấy sắp tổng khởi nghĩa, sắp có sự đổi đời mới mẻ. Tôi muốn tham gia đóng góp chút công sức cho quê hương thân yêu.
Tôi gặp anh Phan Nhụy và một số anh khác ở địa phương. Các anh cho biết cuộc Tổng khởi nghĩa sắp nổ ra. Anh Phan Nhụy nói :
-Chú Bảy có võ lại biết tiếng Nhật, chúng tôi phân công chú làm ủy viên quân sự lo giao dịch đối phó với chúng...
Bữa nhân dân Điện Bàn cướp chính quyền ở phủ, thanh niên hăng hái đi đầu. Theo tôi ước lượng, số người đi biểu tình khoảng hơn ngàn người nam, nữ, già, trẻ. Khí thế quần chúng rất sôi nổi, mọi người qua sông rồi ra đường quốc lộ 1.Bọn Nhật súng ống đầy mình, di trên mấy chiếc xe nhà binh ngăn cản mọi người vào công đường phủ lị. Tôi chưa có dịp trực tiếp đối mặt để vận động lính Nhật không can thiệp vào cuộc biểu tình thì xe nhà binh Nhật đã chạy qua. Cách một quãng không xa, chúng nổ súng thị uy giải tán đoàn biểu tình. Một anh thợ rèn ở Bình Nhai trúng đạn chết ngay tại chỗ. Đoàn người dạt ra. Tôi và một nhóm thanh niên ở lại bàn việc làm lễ truy điệu, mai táng cho anh này. Anh là người đầu tiên hy sinh trong cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở phủ Điện Bàn. Tôi không nhớ rõ ngay hôm đó hay hôm sau, Việt Minh Điện Bàn giành được chính quyền về tay nhân dân . Bộ máy thống trị của phong kiến tay sai và thực dân phát xít bị xóa bỏ. Nhân dân hân hoan chào đón chế độ mới dân chủ cộng hòa.
Tôi không được phân công tác gì ở địa phương, có lẽ do các anh lãnh đạo chưa tin tưởng ở một người đã đi làm cho Nhật (tuy chỉ là gác điện thoại và thông ngôn), lại từng sốt sắng hoạt động cho đạo Cao Đài. Một số anh em còn hiểu lầm tôi từng đi lính "hay hô" Nhật nữa ! Tôi buồn, quay trở vào Biên Hòa-quê hương mới, sau này gắn bó phần lớn cuộc đời tôi-đúng đầu tháng 9-1945.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:56:53 GMT -5
5. Tôi lại vào sở quít của trưởng tòa Nghiêm đúng ngày đầu tháng 9-1945. Chính quyền cách mạng Biên Hòa vừa thành lập trước đó mấy ngày. Do anh em giới thiệu, tôi gặp anh Huỳnh Văn Nghệ lần đầu ở một nhà vùng Phú Nhuận. Hai bên chuyện trò tâm đắc, anh đọc một số bài thơ cho tôi nghe. Ngay từ lần đầu tiên này, anh đã chinh phục tôi hoàn toàn vì lí luận chặt chẽ sắc bén, tầm hiểu biết thời thế rất uyên bác, thái độ lịch lãm chân tình...
Tôi bận túi bụi vì những cuộc gặp gỡ, trao đổi với nhiều nhóm khác nhau. Số anh em ở trại Tráng sĩ sở quít vẫn giữ nề nếp hoạt động cũ nhưng khí thế hăng hái hơn nhiều.
Quân Anh-Ấn dưới danh nghĩa Đồng minh đi tước khí giới quân Nhật thua trận đã tạo điều kiện cho quân Pháp núp bóng trở lại Sài Gòn. Tù binh Pháp được thả, thường dân Pháp được trang bị súng ống...tuyên bố của các chính khách Pháp từ mẫu quốc dần dần làm lộ rõ âm mưu thực dân định xâm lược nước ta lần nữa. Sài Gòn trở thành điểm nóng nhất họa Tây xâm. Chúng ngày càng khiêu khích, lấn tới in hệt chuyện ngụ ngôn "con sói và cừu non" (chúng đánh giá quá thấp nhân dân ta, coi chúng ta yếu như con cừu non còn ngậm vú mẹ !) . Đất nước ta trong thế lưỡng đầu thọ địch : miền Bắc thì quân Tưởng muốn diệt cộng cầm Hồ, miền Nam thì thực dân Pháp lăm le chiêm lại trong vòng vài ba tháng.
Tháng 9-1945 ngắn ngủi nhưng các đồng chí đồng bào ở Biên Hòa đã làm được nhiều việc : lập chính quyền nhân dân từ tỉnh xuống quận, xã; ổn định đời sống nhân dân; giữ gìn trật tự trị an chung; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Các làng xã đều tổ chức dân quân tự vệ trang bị thô sơ, nơi nào có vài ba khẩu súng mút hoặc calíp đã là trang bị tốt lắm.Quận Châu Thành lập đơn vị Quân giải phóng gồm 5 tiểu đội với khoảng 30 súng (lấy của lính bảo an) do đội (trung sĩ ) Nghiệp, sau đó là anh Lê Văn Ngọc chỉ huy (hai anh là lính cũ ). Lần lượt các quận Long Thành, Xuân Lộc, Tân Uyên đều tổ chức lực lượng vũ trang., mạnh nhất ở Tân Uyên có bộ đội Tám Nghệ (khoảng ba chục) từ Ủy ban kháng chiến miền Đông về nhập với tiểu đội Chín Quì ra đời, tồn tại từ cuộc khởi nghĩa Nam kì (11-1940).
Ngày 23-9-1945, cuộc Nam bộ kháng chiến bắt đầu nổ ra ở Sài Gòn. Cũng đúng ngày này, các đồng chí Hà Huy Giáp, Dương Bạch Mai thay mặt Xứ ủy triệu tập hội nghị cán bộ Đảng gồm khoảng bốn mươi người tại nhà hội Bình Trước. Tôi cũng được mời tham dự. Cuộc họp kéo dài suốt ngày đến tận khuya mới kết thúc. Đó là một ngày làm việc căng thẳng vì tiếng súng xâm lược ở Sài Gòn đã chính thức nổ.Rất nhiều nội dung được đem ra thảo luận, phân tích : củng cố UBND tỉnh, xây dựng Mặt trận Việt Minh tỉnh và các đoàn thể cứu quốc, tổ chức trường huấn luyện quân sự chính trị...Cũng trong hội nghị này, tôi được bầu vào tỉnh ủy Biên Hòa lâm thời gồm 11 đồng chí. Anh Trần Công Khanh (thường gọi Sáu Khanh, còn có tên là Nguyễn Thọ Chân, dân Bắc vào Nam hoạt động dưới vỏ bọc là thợ ) được cử làm bí thư, anh Hoàng Minh Châu là phó bí thư kiêm chủ tịch UBND tỉnh, tôi là ủy viên thường vụ phụ trách công tác quân sự.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:58:13 GMT -5
Ngày 26-9-1945, theo nghị quyết của Hội nghị Bình Trước, trại du kích (nhiều người gọi cho oai là trường quân chính Bình Đa) được mở ở thôn Vĩnh Cửu, xã Tam Hiệp, cách trung tâm tỉnh lị khoảng 6km về phía Đông, từ quốc lộ 15 đi ngang vào vài trăm mét, khá kín đáo. Trại đặt ở sở đất nhà ông giáo Hồ Văn Thể-một nhân sĩ yêu nước. Đó là một vườn sầu riêng và cây ăn quả khá rộng, có một căn nhà ngói to. Bãi tập là khu đất trống kề rừng chồi, rừng già, suối Linh chảy ven. Việc nấu nướng có chị em phụ nữ cứu quốc Tam Hiệp giúp. Việc nuôi quân khá tốt. Chúng tôi ăn uống như nhau không phân biệt giữa cán bộ chỉ huy với chiến sĩ (gọi là ăn đại táo : bếp lớn). Truyền thống dân chủ này tồn tại và phát triển, đến nay trong mọi cuộc liên hoan của cơ quan, đơn vị vẫn giữ được sự bình đẳng trong ăn uống; khác xa xưa kia dân đen ở chốn đình trung ngồi mâm dưới kém hơn, chẳng thế các cụ đã có thành ngữ "Bầu dục đâu đến bàn thứ chín".
Khoảng 70 học viên khóa đầu tiên ở phân tán nhà dân quanh đó. Nguồn gốc anh em học viên đa dạng : một tiểu đội lính Nhật-gọi là Việt Nam mới (?em cũng không hiểu, hổng lẽ mấy người Nhật này về phe mình?)-trong đó có một quan hai thường gọi bằng tên Việt là Hóa Xang và cậu Phúc bắn đại liên rất giỏi ; một số công nhân và tự vệ chiến đấu ở Sài Gòn; thanh niên và công nhân cao su ở Biên Hòa (trong đo có nhóm thanh niên trại Tráng sĩ ). 78 súng các loại đủ trang bị, chỉ đạn dược và lựu đạn hơi ít. Phải kể đến công lớn của anh Nguyễn Đình Ưu vận động một viên quan năm Nhật cho 40 khẩu súng tốt cùng một số đạn.
Lúc này bộ đội Nam tiến (do anh Nam Long và Đàm Minh Viễn chỉ huy) đi xe lửa vào Biên Hòa. Chúng tôi có nhiệm vụ tiếp tế cho các đơn vị Nam tiến. Khóa học kéo dài chỉ nửa tháng, kết thúc bằng cuộc đi thực tập trinh sát chiến đấu hai ba ngày ở đầu cầu Bình Lợi bên cạnh chi đội Nam tiến. Sau đó, anh em được phân đi làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượg vũ trang nhiều nơi trong tỉnh và cả Bà Rịa, sẵn sàng bủa lưới chiến tranh nhân dân khi giặc kéo tới, theo dự đoán trước sau gì chúng cũng nống ra Biên Hòa và các tỉnh khác.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:59:15 GMT -5
Giữa tháng 10-1945, trại du kích Vĩnh Cửu mở khóa 2 ở Bình Đa với khoảng 40 học viên từ nhiều nơi gửi về. Chúng tôi có thêm một số giảng viên vừa tôt nghiệp trường quân chính Việt Bắc vào bổ sung. Ở Sài Gòn, địch có viện binh từ chính quốc, lần lượt phá vòng vây, đưa quân đánh chiếm các tỉnh miền Đông, tiến ra Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Quân Anh-Ấn dưới danh nghĩa Đồng minh tước khí giới và thu gom lính Nhật đã đi đầu mở đường cho quân Pháp chiếm tỉnh lị Biên Hòa ngày 25-10-1945. Theo lệnh cấp trên, chúng ta không lập mặt trận đánh địch như trước.
Trại du kích vào Bình Đa-An Hảo. Ban lãnh đạo ở nhà ông giáo Tòng, học viên ở phân tán trong nhà dân. Chắc địch được bọn gián điệp báo, đã cho một toán lính Nhật mò vào sở đất nhà thầy giáo Thể, nhưng chúng tôi đã rời khỏi đó mấy bữa rồi. Anh em học xong khóa, tiếp tục được phân đi nhận nhiệm vụ.
Bộ phận lãnh đạo chúng tôi được tỉnh chỉ đạo, bàn việc chuyển hướng. Cơ sở huấn luyện chính ít lâu sau dời lên sở Tiêu ở Đất Cuốc. Một lớp mở ở Long Thành, một lớp khác mở ở Đồng Lách...Sau khoảng hai tháng, trại du kích Vĩnh Cửu -Bình Đa đào tạo được hơn một trăm cán bộ. Trại là tiền thân của trường quân chính quân khu 7 sau này.
Quân Pháp chiếm Biên Hòa, tiếp tục thực hiện chiến thuật "vết dầu loang", chia làm ba mũi đánh lên Tân Uyên, ra Xuân Lộc, xuống Long Thành. Nhân dân tỉnh lị tản cư về nông thôn; cuộc tiêu thổ kháng chiến do công nhân, dân quân tự vệ thực hiên ở nhà máy cưa BIF, ga xe lửa, đề pô Dĩ An, các sở cao su...Chúng nống ra đã bị các lực lượng vũ trang ta chặn lại, gây một số tổn thất khiến chúng chùn bước. Song nhìn chung, thế giặc buổi đầu mạnh áp đảo vì chúng có vũ khí tối tân :máy bay, đại bác, xe tăng và binh lính nhà nghề được huấn luyện tốt, chỉ huy chặt chẽ.
Tỉnh Biên Hòa hồi 1945 rộng lắm, khoảng 11000 kilomet vuông, bao gồm tỉnh Đồng Nai, Bình Phước ngày nay. Trung đoàn bộ binh Pháp thứ 22 (22ème RIC) đóng sở chỉ huy tiểu khu Biên Hòa tại thành kèn. Tiểu khu gồm các chi khu :Xuân Lộc, Long Thành, Tân Mai; mỗi chi khu do một tiểu đoàn phụ trách. Có thêm quân tăng viện, địch đóng nhiều đồn bót ở tỉnh lị, các thị trấn, quạn lị, các sở cao su và dọc các trục đường giao thông quan trọng :QL 1, QL 15, QL 20, các tỉnh lộ... Chúng chiếm đất, gom dân, lập lại các ban hội tề xã, tổ chức lính pạctidăng (thân binh)...nhằm ý định lập lại nền cai trị cũ. Chiến khu Đ nằm giữa các chi khu Tân Mai, Phước Hòa, Xuân Lộc, song địa bàn chiến khu rất rộng nên địch nhiều phen muốn tiêu diệt đầu não kháng chiến Biên Hòa đóng ở đây song không tài nào thực hiện nổi. Việc Đảng tuyên bố tự giải tán (thực chất là rút lui vào bí mật) tháng 11-1945 gây hoang mang cho một số cán bộ đảng viên ở Biên Hòa lúc đó : anh Trần Công Khanh đi đâu tôi không rõ, một số anh rút ra Bình Thuận hoặc về miền Tây Nam Bộ. Sự kiện này, theo trí nhớ của tôi, bị chìm lỉm trong tình hình nước sôi lửa bỏng hồi đó. Riêng với bản thân tôi, sự kiện này không có tác động gì; là cán bộ phụ trách quân sự của tỉnh, tôi hiểu rõ mình có trách nhiệm cùng các đồng chí lo việc tổ chức đánh địch là chính.
Trại du kích di chuyển lên Tân Uyên. Chúng tôi đi tới Cây Đào thì gặp tàu của anh Đào Văn Quang, lên tàu về Tân Tịch. Tôi ở nhà má anh Tám Nghệ, từ đó hàng ngày có dịp trao đổi trò hcuyện với người chỉ huy bộ đội Vệ quốc đoàn Biên Hòa mà tôi hằng khâm phục .
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 5:59:54 GMT -5
Có lẽ cần dành ít dòng để nói về anh Tám Nghệ. Anh chinh phục được nhiều người do vốn hiểu biết sâu sắc, rộng rãi về nhiều lĩnh vực, lí luận chặt chẽ khó bắt bẻ, lại hết sức tình cảm, đối xử tế nhị với mọi người. Về lĩnh vực quân sự, anh hơn hẳn tôi, song làm việc gì anh đều trao đổi cặn kẽ, tỉ mỉ. Anh có phong thái ung dung bình tĩnh dù địch ở kề bên.Có lần địch càn lên quê anh, chúng đi phía trước không xa, anh và tôi cùng vài chiến sĩ nữa bám sau lưng bọn chúng. Tôi không thể nào quên nhiều buổi, nhà chỉ huy quân sự, cũng là nhà thơ ung dung thanh gươm yên ngựa rong ruổi trên đường công tác với tấm áo choàng bay phấp phới. Anh được nhiều người công nhận là trí dũng song toàn, một nhân vật huyền thoại. Dưới con mắt lãng mạn của lớp thanh niên hồi ấy, anh Tám Nghệ là mẫu điển hình của chàng trai phong độ hào hoa thời li loạn, hiên ngang chống giặc như Chinh phụ ngâm viết... Hồi đầu cách mạng, các lực lượng vũ trang Biên Hòa tập hợp đông đảo thanh niên nhưng tổ chức manh mún : bộ đội Lê Văn Ngọc, bộ đội Tám Nghệ và tiểu đội Nguyễn Văn Quì, bộ đội Đinh Quang Ân, bộ đội giải phóng quân Long Thành, bộ đội Hồ Văn Giàu, bộ đội Nguyễn Chức Sắc, trung đội du kích Hồ Hòa, đội thiếu niên xung phong cảm tử của các anh Nguyễn Văn Kí và Hồ Văn Đại...mỗi lực lượng hùng cứ một khu vực, rừng nào cọp ấy. Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa chưa nắm được lực lượng quân sự. Anh Tám Nghệ chân tình trao đổi với tôi : -Không đoàn kết được anh em lại thì giống chuyện bó đũa dân gian, bẻ quá dễ, làm gì có sức mạnh đánh địch... Tôi hoàn toàn nhất trí quan điểm với anh. Tôi chưa có dịp trao đổi với từng đồng chí chỉ huy các lực lượng nói trên, song tôi doán các anh đó phải phục đến cỡ nào thì mấy tháng sau công cuộc tập hợp lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hòa dưới ngọn cờ Tám Nghệ mới diễn ra tốt đẹp. Sau này, anh một mình xuống Rừng Sác mời Lê Văn Viễn về Đồng Tháp Mười nhận chức khu trưởng khu 7, bọn phản động Bình Xuyên không dám đụng đến anh. Người ta ví anh vào tận hang cọp mà ra về an toàn, đó là hành động đởm lược phi thường !
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:01:32 GMT -5
Bac Pho Thuong Dan To Oshin, đúng là có một chuyện nhỏ, những cũng thú vị đó là chuyện những "Người Việt Nam mới". Gọi thế là để phân biệt với người VN thứ thiệt như ta. Họ đến từ nhiều phía.
1- Một số người lính, sĩ quan Nhật, sau khi Nhật bại trận không muốn trở về quê hương, ở lại tham gia kháng chiến VN. Không chỉ riêng ở Nam bộ đâu. Ở ngoài Bắc cũng có. Họ cùng với những người VN học ở trường quân sự Hoàng Phố (TQ) là những giảng viên đầu tiên của trường lục quân VN. (Ở đâu cũng vậy, phải có kỹ thuật, không chỉ có vấn đề tinh thần).
2- Những người Pháp tiến bộ (nhiều người là đảng viên đảng cộng sản Pháp), đi lính trong quân đội viễn chinh Pháp ở Vn, rồi đào ngũ sang kháng chiến. Họ thường được sử dụng trong tuyên truyền "định vận".
3- Những người đi lính Lê dương cho Pháp, gốc nước ngoài như người Đức, Nam tư, do có cảm tình với VN mà theo ta, huặc bị bắt làm tù binh, nhưng tình nguyện ở lại.Họ thường được dùng làm chuyên gia vũ khí.
Tất cả những người này đều có tên Việt Nam. Ở ngoài Bắc họ còn ở đến tận những năm 1965,1966. Sau đó phần lớn xin hồi cư về quê hương.
Hồi trước tôi có quen một một cô gái lai ở Pháp là con một công dân VN mới này. Tên cô ta là Tuyết (Sneze tiếng Nam tư ), Bố là người Croatia, mẹ người VN. Cô ta kể bố cô ta hồi hương năm 1965, đó là lúc Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc.
Anh VNHL Khi quân Đồng minh đến tước khí giới quân Nhật, có khá nhiều lính Nhật đã chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Thời ký kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhiều người Nhật chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:02:52 GMT -5
Cuối tháng 11-1945, anh Tám Nghệ và tôi đi dự hội nghị quân sự Nam Bộ ở An Phú xã (quân Hóc Môn, Gia Định). Anh Nguyễn Bình được Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào phụ trách quân sự Nam Bộ. Hội nghị thảo luận kế hoạch thống nhất quân đội, thống nhất chỉ huy, phân chia khu vực hoạt động vũ trang từng tỉnh. Tháng 12-1945, theo chỉ đạo của Trung ương, Nam Bộ chia làm ba khu, tỉnh Biên Hòa nằm trong khu 7. Đồng chí Nguyễn Bình được cử làm khu bộ trưởng, đồng chí Trần Xuân Độ làm chính ủy khu (nhưng anh chỉ đảm nhận thời gian rất ngắn thì xin về Bà Rịa). Lần lượt các chi đội Vệ quốc đoàn miền Đông Nam Bộ thành lập : Chi đội 1 : Thủ Dầu Một Liên chi 2 và 3 : Bình Xuyên (Dương Văn Dương) Chi đội 4 (Huỳnh Văn Trí) Chi đội 6 : Gia Định Chi đội 7 : Bình Xuyên (Mai Văn Vĩnh) Chi đội 9 : Bình Xuyên (Lê Văn Viễn) Chi đội 11 : Tây Ninh Chi đội 12 : Gia Định Chi đội 13 : Công nhân Sài Gòn Chi đội 14 : Tân An Chi đội 15 : Chợ Lớn Chi đội 16 : Bà Rịa Chi đội 21 : Bình Xuyên (Nguyễn Văn Tị ) Chi đội 25 : Bình Xuyên (Nguyễn Văn Hoạnh)... Anh Nguyễn Bình chỉ thị một số đơn vị Vệ quốc đoàn : VQĐ Biên Hòa (của Tám Nghệ ), VQĐ Châu Thành (của Sáu Ngọc), liên quân Giải phóng quân Hóc Môn-Đức Hòa, liên chi đội 2 và 3 (tôi là phái viên mang thư anh Nguyễn Bình xuống Rừng Sác Long Thành gặp các anh Dương Văn Dương, Dương Văn Hà bàn kế hoạch phối hợp) chuẩn bị tập kích tỉnh lị Biên Hòa . Trước đó, bộ phận trinh sát của VQĐ Biên Hòa-trong đó có mấy lính Nhật- tổ quân báo (của Bùi Trọng Nghĩa), một số bộ đội Nguyễn Chức Sắc và bộ đội Lê Thoa đã nhiều lần vào nội ô điều nghiên tình hình địch bố phòng. Sơ đồ các vị trí địch được vẽ tỉ mỉ. Tôi và anh Tám Nghệ quá quen thuộc mọi nẻo đường trong cái tỉnh lị nhỏ xinh này. Anh em trinh sát báo cáo tới đâu, chúng tôi hình dung được ngay thực địa tới đó. Cuối tháng 12-1945, công tác chuẩn bị đã xong xuôi.. Các lực lượng tham gia về đóng ở các nơi áp sát tỉnh lị, theo các hướng : Tân Phong, Hóa An, Bình Đa đúng thời gian qui định. Ngày 1-1-1946 là Tết dương lịch, quân Pháp nghỉ ngơi chè chén thỏa thuê. Việc canh gác của chúng có phần lơi lỏng. Đúng nửa đêm mùng 1 rạng ngày 2-1-1946, dân quân du kích các xã ven : Tân Phong, Tam Hiệp, Bửu Hòa đưa đường, các lực lượng bộ đội ta nổ súng vào các vị trí : thành xăng đá, bót gác cầu Gành, sở hiến binh, nhà ga, nhà máy cưa BIF...Sở chỉ huy đặt ở Dốc Sỏi, anh Tám Nghệ và một só anh khác, trong đó có tôi, ra tận đây. Cả tỉnh lị ran tiếng súng lớn nhỏ. Lửa đốt nhà lồng chợ bốc cao soi tỏ mặt người. Địch trong các công sự chống trả quyết liệt. Sau mấy tiếng đồng hồ mặc sức tung hoành ngang dọc như vào chốn không người, bộ đội ta rút lui để bảo toàn lực lượng. Ý nghĩa lớn nhất của trận tập kích này : chúng ta đập tan luận điệu huênh hoang của địch "bình định Nam kì trong vài ba tháng", cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân Biên Hòa nói riêng và cả Nam Bộ nói chung. Ta cũng thương vong một số. Không có phương tiện cáng tải thương, các thương binh được đồng đội dìu hoặc cõng về quân y hậu cứ. Tôi còn nhớ, chiến sĩ Bùi Xuân Tảo bị thương gãy tay cố gắng tự chạy bộ về trạm quân y đặt ở đình Tân Nhuận (Tân Uyên). Quân y ta lúc đó thiếu thốn đủ thứ : dụng cụ giải phẫu, thuốc men, bông băng...do đó không thể giữ lại cánh tay của anh. Trạm quân y phải dùng cưa thợ mộc để cưa chỗ xương gãy. Không có thuốc mê, thuốc tê, anh đã hát đi hát lại bài Quốc ca và bài Chiến sĩ Việt Nam trong khi các nhân viên quân y làm phẫu thuật. Không người nào hôm đó chứng kiến không chảy nước mắt vì xúc động. Anh là điển hình đầu tiên của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Biên Hòa đã đi vào sách báo, thơ ca. Tinh thần chịu đựng với nghị lực phi thường của người chiến sĩ Vệ quốc đoàn Biên Hòa đã có tác dụng động viên anh em rất lớn, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn gian khổ lúc ấy.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:05:27 GMT -5
Đầu năm 1946, gần Tết Nguyên Đán Bính Tuất, địch tung lực lượng mạnh đủ thủy lực không quân tới bốn ngàn tên càn quét chiến khu Đ nhằm ý đồ tiêu diệt đầu não kháng chiến, xóa sổ "thủ đô kháng chiến miền Đông", bẻ gãy xương sống lực lượng vũ trang chủ lực Biên Hòa đóng tại đây. Dựa địa thế núi rừng hiểm yếu, bộ đội và dân quân du kích vùng căn cứ mưu trí đánh địch ở nhiều hướng, nhiều tầng. Ta thắng lớn. Nhân dân Tân Uyên bị tổn thất không nhỏ về người và của vì đây là lần đầu tiên địch càn, chúng ta chưa có kinh nghiệm đối phó phòng tránh.
Bộ tư lệnh khu 7 tổ chức hội nghị bàn việc xây dựng căn cứ sau trận càn này vì địch lập chi khu Tân Uyên và chi khu Cây Đào ở hai bờ sông Đồng Nai. Vùng căn cứ của ta chia thành nhiều khu : A, B, C, Đ... Chiến khu Đ lúc đầu nằm ở khu vực xã Lạc An, nơi đặt tổng hành dinh khu 7. Sau này chiến khu Đ được hiểu là cả vùng căn cứ núi rừng Tân Uyên rồi lại mở rộng thêm nữa (tùy giai đoạn lịch sử ) cả bờ phải sông Đồng Nai lên giáp đường 13. Một số người bây giờ giải thích : chữ Đ là Đỏ, là Đói, là Đau.. đó là tán rộng lúc nhàn đàm, nội dung đều đúng, chứ thoạt đầu đó chỉ là mật danh cho một căn cứ nhỏ thôi.
Quân Pháp liên tục mở nhiều cuộc càn quét quy mô lớn vào chiến khu Đ và ven sông Đồng Nai. Sau cuộc hội nghị Miễu Bà Cô (16-4-1946) không có kết quả-chúng đưa ra những điều kiện láo xược khó chấp nhận, gần như bắt chúng ta giải giới đầu hàng. Leclerc trực tiếp chỉ huy trận càn chớp nhoáng vào chiến khu Đ ngày 19-4-1946 và trận càn tiếp theo đầu tháng 5. Chiến khu bị tàn phá nặng nề. Địch đóng thêm một loạt đồn bót mới. Nhà Nai, Tân Lợi, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An, Rạch Đông, dốc Bà Nghĩa, Cỏng nhà thiếc, Bình Cơ, Bình Mĩ, Cổng nhà xanh...hình thành vòng đai bao vây bóp nghẹt căn cứ địa chiên khu Đ. Cơ quan khu 7 khéo lách, vượt vòng vây chuyển về căn cứ Vườn Thơm (Chợ Lớn) rồi về Đông Thành (Đồng Tháp Mười). Bộ chỉ huy quân sự khu 7 mang bí danh : quân khu Đông Thành.
Nhờ thông thạo địa hình, bộ đội Vệ quốc đoàn Biên Hòa cùng mạng lưới dân quân du kích Tân Uyên chặn đánh địch từng bước, gây cho chúng nhiều tổn thất, cuối cùng địch kết thúc cuộc càn mà không đạt được mục tiêu : " diệt bộ máy cơ quan lãnh đạo kháng chiến Biên Hòa, đập tan lực lượng quân sự Việt Minh đóng ở đây". Tôi được tham dự hội nghị cù lao Vịt (Bình Hòa) do anh Nguyễn Đức Thuận -bí thư liên tỉnh ủy miền Đông- chủ trì cuối tháng 4-1946. Tỉnh ủy Biên Hòa lâm thời giải thể., tỉnh ủy chính thức được thành lập.. Anh Tám Nghệ được cử làm chủ tịch UBHC kiêm ủy viên quân sự tỉnh.
Tháng 5-1946, tỉnh ủy Biên Hòa tổ chức hội nghị xóm Đèn (xã Tân Hòa, Tân Uyên) bàn hai việc lớn : thống nhất các lực lượng bộ đội toàn tỉnh và xây dựng chiến khu Đ thành căn cứ địa kháng chiến của tỉnh. Trong thời gian này, các đơn vị vũ trang các nơi liên tục đánh chống càn ở chiên khu Đ và Long Thành.
Có một sự kiện nhỏ, chính sử coi là chuyện nhỏ, ít nhắc tới. Tháng 5-1946, địch càn chiến khu Đ.Một máy bay khu trục Spitfire (Khạc lửa) trúng đạn súng 12,7 li của Vệ quốc đoàn Biên Hòa ở Lạc An, cố lết về tới cách thị trấn Long Thành 4 km thì rơi. Quan tư tàu bay (thiếu tá) Barbier chết. Du kích Long Thành thu một súng ngắn Côn đui (Colt 12) nộp cho anh Lương Văn Nho (khẩu súng này sau chuyển tặng Viện Bảo tàng quân đội ở Hà Nội). Biên Hòa là địa phương đầu tiên trong cả nước bắn rơi máy bay địch bằng súng bộ binh.
Tháng 6-1946, chi đội 10 chính thức ra đời do sáp nhập Vệ quốc đoàn Biên Hòa (bộ đội Tám Nghệ và bộ đội Sáu Ngọc) với Vệ quốc đoàn Long Thành. Ban chỉ huy chi đội 10 gồm : Huỳnh Văn Nghệ (chi đội trưởng), Huỳnh Văn Đạo rồi Nguyễn Văn Lung (chi đội phó) và tôi -Phan Đình Công (chính trị viên). Quyết định thành lập chi đội và bổ nhiệm ban chỉ huy do khu ủy và khu bộ khu 7 kí. Chi đội 10 lúc mới thành lập có số quân chừng 800 người với khoảng 180 súng các loại, tương đương một trung đoàn. Chi đội gồm ba đại đội (quân số đại đội tương đương một tiểu đoàn).
Sau khi hội nghị Fontainebleau không đạt kết quả gì, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9-1946 (Modus vivendi) trước ngày Bác xuống tàu về nước. Báo chí thống nhất (tiến bộ ) ở Sài Gòn có đăng nội dung bản tạm ước này với cái tên Thỏa hiệp án. Lúc đó địch tạm ngưng hành quân càn quét đánh phá thời gian ngắn, làm như chúng nghiêm chỉnh thực hiện những cam kết đã kí. Tôi suýt phải trả giá cho sự chủ quan, ngây thơ mất cảnh giác bằng chính mạng sống của mình.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:08:36 GMT -5
Nhận được thư anh Nguyễn Bình triệu tập, tôi định đi Đồng Tháp Mười bằng đường công khai hợp pháp. Anh em ta cài trong bộ máy hội tề nội thành đã lấy cho tôi giấy thông hành (létxê pátxê : laissez-passer) với cái tên Đoàn Trần Nghiệp. Bọn gián điệp chui vào nội bộ ta, nắm được tin chuyến đi này của tôi.
Hôm đó, tôi và một câu liên lạc tên Cửu lên xe đò từ Biên Hòa, bị một toán lính và cảnh sát chừng một trung đội chặn lại ở gần sở chỉ huy chi khu (PC quartier) Thủ Đức. Hành khách xuống xe, trình giấy, chúng túm luôn tôi, chở về bót Catinat.
Chúng đánh mấy trận, xoáy vào hỏi : -Có phải mày là Phan Đình Công, sếp đêta magio (chef d'état-major : tham mưu trưởng) của Nguyễn Bình không ?
Tôi trả lời : -Tôi không phải là Phan Đình Công, tên tôi là Đoàn Trần Nghiệp ghi rõ trên giấy. Nếu các anh không tin giấy tờ do các anh cấp thì tôi không có tên nào khác...
Chúng giam tôi ở bót Catinat vài hôm, sau đó chuyển về trại Thủ Đức. Một bữa, một xe có mấy tên lính lê dương Pháp và Đức chở tôi đi thủ tiêu. Xe chạy ngang nơi đông người, tôi la lớn :
-Bọn Tây dã man, nó qua đây bắt người ta công khai ban ngày...
Tới chỗ vắng, thừa lúc chúng không để ý, tôi nhảy xuống chạy trốn-thực ra cũng chẳng mong thoát. Chúng bắn theo, không trúng, nhưng bắt được tôi. Đem về, chúng nhốt riêng tôi vào một xà lim nhỏ, tiếp tục tra khảo.
Nhắm khó thoát mà cũng không muốn tiếp tục chịu đòn đau đớn, tôi xé áo bện thành sợi dài treo lên chiếc thang đặt trong xà lim rồi tròng vào cổ tự tử. Ngộp thở, tôi giãy giụa mạnh theo bản năng sinh tồn, chiếc thang đổ xuống cái rầm. Ba, bốn tên tới gỡ ra, nói:
-Cứ ở yên đó, mấy bữa nữa coi lại hồ sơ rồi sẽ tha...
Chúng bảo tôi viết thư cho Nguyễn Bình và Huỳnh Văn Nghệ, đánh đổi tôi bằng một đại đội đủ súng ống : tôi không làm và bảo chúng :
-Các anh muốn giam tôi thì giam, muốn khai thác cứ khai thác...
Chiếc xà lim nhốt tôi nhìn thẳng xuống nhà bếp. Mấy anh bồi nói chuyện với nhau tôi nghe được, họ có cảm tình với kháng chiến, thương tô. Tôi biết thêm phía sau bếp có con đường nhỏ dẫn ra bờ sông Sài Gòn. Bữa sáng hôm đó, chúng cho tôi ra sân đi dạo, tắm nắng. không hiểu hôm đó là ngày lễ gì mà bọn lính được ăn nhậu từ sớm. Hai tên lính lê dương Pháp và Đức canh tôi, được hồi lâu đã bỏ lên nhà trên tìm rượu và thức ăn. Chớp thời cơ, tôi chạy ngang mấy anh bồi bếp , nói : -Các anh đừng nói gì hết, tôi chạy ngả sau...
Vượt khỏi trại giam một quãng xa, tôi nghe tiếng súng nổ, rồi tiếng la í ới truy tìm tù trốn. Chúng mang cả chó berger theo. Chạy tới bờ sông, tôi tính bơi qua, nhưng suy tính chắc khó thoát, do đó, tôi chui vào một lùm dừa nước, khe khẽ khoát nước lên mình, rửa cho hết mùi mồ hôi. Bọn lính sục sạo rất dữ, chúng nổ súng vào những nơi ddáng nghi, kêu gọi đầu hàng; chó đánh hơi hừng hực. Tôi nằm im như chết từ trưa đến tối. Sợ chúng gài quân nằm phục, tôi vo viên đất, ném ra một phía, không thấy động tĩnh gì, lại vo viên ném ra phía ngược lại. Rồi tôi đánh liều dời chỗ, nhắm hướng cầu Gò Dưa tiến tới.
Tôi tìm đường về An Phú xã, đi suốt đêm thì tới. Lúc mờ sáng, có hai anh công an đi ra, tôi kể sơ cho họ nghe, đề nghị giúp đưa về trạm quân y ở đó.Tôi được sơ cứu vì chân đạp phải nhiều gai và gạch đá nên có nhiều vết đứt tứa máu. Rồi tôi gặp nhiều đồng chí quen biết đang ở tại đó sau nửa tháng sa vào tay địch. Anh Nguyễn Bình, anh Tám Nghệ phê bình, nhắc nhở tôi vừa chân tình, vừa sâu sắc làm tôi suốt đời không quên kỉ niệm buồn này.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:09:30 GMT -5
Tuy lực lượng vũ trang toàn khu 7 đã có các chi đội bộ đội chủ lực đứng chân ở từng địa bàn quan trọng, song một số chi đội chưa có tổ chức Đảng, hoặc hoạt động chưa thống nhất.- nhất là trong các chi đội Bình Xuyên. Bộ tư lệnh khu 7 giao đồng chí Trần Xuân Độ-lúc này đang ở Bà Rịa-và tôi phối hợp nghiên cứu, thảo đề cương hoạt động của tổ chức Đảng trong bộ đội toàn khu. Chúng tôi viết khá nhanh, thông qua bộ Tư lệnh rồi cùng xuống từng chi đội bàn bạc triển khai.Công việc khá thuận lợi, chỉ mấy tháng chúng tôi đi một vệt từ Tây Ninh qua Thủ Dầu Một, Biên Hòa xuống Bà Rịa, gặp gỡ các ban chỉ huy chi đội. Chi đội 7 do Lê Văn Viễn chỉ huy bị bọn tay chân là gián điệp Pháp cài vào nên đảng viên không thể hoạt động và phát triển tổ chức, chúng thủ tiêu ngay nếu biết ai là cộng sản.
Tối 19-12-1946 tiếng súng toàn quốc kháng chiến nổ ra ở Hà Nội. Tại tỉnh Biên Hòa, địch bỏ bớt một số đồn bót lẻ ở các vùng không quan trọng, củng cố vững chắc hệ thống công sự cố thủ, tập trung lực lượng ứng chiếm vào tỉnh lị, các thị trấn, sở cao su, các trục đường giao thông huyết mạch...
Vào dịp giáp Tết Đinh Hợi (1947), ban chỉ huy chi đội 10 mở hội nghị quân sự tới cấp trung đội trưởng. Sau khi so sánh tình hình địch - ta trong phạm vi toàn tỉnh Biên Hòa, hội nghị quyết định chọn quận Xuân Lộc-địch tương đối yếu, nhiều sơ hở-làm địa bàn hoạt động. Tại đây, các đường bộ (QL1, QL20, LTL2), đường sắt đều nằm lọt giữa rừng già. Bộ đội ta có thể tổ chức đánh giao thông, hạn chế việc tiếp tế, chuyển quân của địch từ Sài Gòn ra miền Trung, mặt khác góp phần phối hợp với chiến trường Bắc Bộ.
Để nghi binh, đánh lạc hướng địch, vào tháng 3 và 4-1947, chi đội phái một bộ phận lực lượng diệt đồn Đất Cuốc, bót Thái Hòa, bót Vĩnh Cửu...Trong khi đó, công tác chuẩn bị chiến trường được tiến hành bí mật, khẩn trương : trinh sát theo dõi chặt chẽ giờ giấc, qui luật xe lửa chạy, cất giấu lương thực thực phẩm, bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy chiến đấu, mở đường hành quân, bố trí trận địa...
Ngày 19-5-1947, đại đội B (quân số tương đương tiểu đoàn sau này) đánh trân Bảo Chánh. Mìn làm bằng đầu ban 75 li (lắp kíp mới) vừa nổ, đầu máy trật đường ray, đoàn xe ngừng lại, toàn đại đội đồng loạt xung phong diệt bọn lính hộ tống, thu hết vũ khi rồi rút lui an toàn về căn cứ núi Chứa Chan. Anh em rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho trận đánh tiếp
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:10:10 GMT -5
Đúng lúc này, đồng chí Lê Duẩn trên đường từ miền Bắc về Đồng Tháp Mười, đi ngang đây. Sau khi nghe anh Tám Nghệ báo cáo tình hình, anh Ba đã ở lại để tìm hiểu thêm trình độ chiến đấu của chi đội.
Đầu tháng 6, chi đội 10 đánh trận Trảng Táo. Quân giới chưa kịp chế tạo mìn, hai đại đội phục kích đã có sáng kiến bí mật tháo các bù loong vài khúc đường ray, cột thừng vào. Xe lửa chạy tới gần, chiến sĩ ta kéo dây cho đường ray bung ra, tàu đang đà lao tới, đầu tàu và khúc toa xe phía trước còn tiếp tục chạy trên tà vẹt thêm một đoạn dài 2km, tới ga Gia Huynh mới dừng lại. Khúc phía sau bị đứt nằm lại có một toa bọc thép. Bộ đội ta vận động theo bìa rừng diệt số lính etcooc (hộ tống)trong toa này, thu nhiều vũ khí đạn dược.
Trong hội nghị rút kinh nghiệm trận đánh, đồng chí Lê Duẩn biểu dương tinh thần khắc phục khó khăn, mưu trí dũng cảm chiến đấu. Anh cũng nhắc nhở cán bộ các cấp của chi đội quan tâm đầy đủ vấn đề chiến thuật, kĩ thuật, xây dựng lực lượng dân quân du kích, duy trì và phát huy tốt mối quan hệ giữa chi đội với dân quân du kích tại địa bàn đơn vị đứng chân. Anh Lê Thoa tặng đồng chí một khẩu súng ngắn chiến lợi phẩm (do anh Sáu Tân lượm được của sĩ quan địch trên một toa xe). Tối hôm đó, một buổi liên hoan văn nghệ được tổ chức để tiễn anh Ba Duẩn lên đường.
Tôi được phân công dẫn một trung đội bảo vệ anh đi đường. Có một chuyện đáng nhớ tuy nhỏ : tôi gặp một anh chủ tịch xã người dân tộc gần núi Chứa Chan. Anh này chèo kéo mời đoàn ghé nhà, đánh chén thịt cầy. Rất nể anh ta và cũng muốn làm công tác dân vận nên tôi đồng ý. Sau hơn một tiếng đồng hồ, bưa ăn kết thúc, chúng tôi tiếp tục lên đường. Tôi bị anh Ba phê bình :
-Cậu là người tự do cá nhân, quá mạo hiểm !
Trong vài lần gặp sau này, anh còn nhắc lại câu này có ý để tôi không bao giờ mắc khuyết điểm cũ.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:11:03 GMT -5
6. Tháng 4-1947, hội nghị cán bộ tỉnh Bà Rịa họp, bầu tỉnh ủy lâm thời Bà Rịa do anh Nguyễn Kế Hoa (cán bộ xứ ủy Nam Bộ cử về ) làm bí thư. Một số đồng chí đảng viên cũ được kết nạp lại, trong đó có anh Trần Xuân Độ là cán bộ Đảng từng bị tù Côn Đảo. Anh là người có lập trường kiên định, có trình độ phân tích, tổng hợp giỏi, đề ra cách giải quyết gọn. Anh là người có đạo đức trong sáng mẫu mực, giản dị, đi sâu đi sát nhân dân, không ham chức quyền. Hồi đầu kháng chiến, anh không nhận đứng đầu lãnh đạo kháng chiến tỉnh Bà RỊa mà chỉ làm tư vấn...Từ đó, công tác xây dựng, phát triển tổ chức Đảng đi dần vào nề nếp. Tuy nhiên tỉnh ủy chưa nắm được lực lượng công an và Quốc vệ đội của tỉnh (nên sau này xảy ra một số vụ việc đáng tiếc, trưởng ti công an Huỳnh Công Vinh và chỉ huy trưởng quốc vệ đội Đoàn Hồng Tâm bị bắt oan và bị xử lí về tội cấu kết với Lê Văn Huê và bọn phản động Bình Xuyên lập "chiến khu quốc gia", thực hiện "chiến tranh gián điệp".
Khoảng đầu tháng 7-1947, bộ Tư lệnh khu 7 quyết định cử tôi đi Bà Rịa làm chính trị viên chi đội 16. Anh Huỳnh Văn Đạo - chi đội trưởng -được điều về khu, nên trong thời gian rất ngắn, tôi kiêm chi đội trưởng. Anh Hứa Văn Yến xuống thay cho anh Đạo thì tôi trở lại cương vị cũ. Tháng 5-1948, bộ Tư lệnh khu 7 quyết định sát nhập chi đội 16 và chi đội 7 (Mai Văn Vĩnh chỉ huy) thành trung đoàn 307. Ban chỉ huy gồm : Mai Văn Vĩnh làm trung đoàn trưởng, Hưa Văn Yến là trung đoàn phó, tôi là chính trị viên. Quân số trung đoàn 307 lúc mới thành lập khoảng 700 người, trang bị mạnhtổ chức thành 2 tiểu đoàn 919 và 921 (gồm 4 đại đội 3565, 3566, 3567, 3568).
Ngay sau đó, tôi được giao chỉ huy đánh đồn Xà Bang nhắm hai mục đích : diệt sinh lực địch và đưa công nhân cùng gia đình họ về vùng độc lập Xuyên-Phước-Cơ. Trong quá trình chuẩn bị, cô nhân viên văn phòng hình như tên Lan (lâu ngày quá, có thể tôi nhớ không chính xác) là người gan dạ, tôi giao nhiệm vụ học bắn súng máy. Cô bắn giỏi, khi bộ đội nổ súng đã ôm súng tiến vào định diệt bộ phận điện đài vô tuyến (TSF) của bót. Song tên quan hai Pháp ngăn được, kịp thời gọi về Xuân Lộc và Sài Gòn. Xe tăng địch nhanh chóng từ Xuân Lộc tới, máy bay cũng đến ném bom trận địa ta. Trận đánh không diễn ra như dự kiến. Bộ đội yểm trợ cho công nhân cao su dùng xe bò, xe ngựa đưa 500 gia đình công nhân về căn cứ Xuyên-Phước-Cơ sinh sống, đồng thời tháo gỡ mang đi nhiều máy móc, nguyên liệu cho binh công xưởng.
Sau một số trận đánh, vì phấn hứng khi tận mắt chứng kiến nhiều cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị tỏ ra thật sự dũng cảm, tôi cho tiến hành một đợt kết nạp rộng rãi. Có một trung đội được kết nạp hết. Sau này, quân khu ủy khu 7 phê bình tôi làm ồ ạt, không chọn lựa, thẩm tra kĩ từng trường hợp theo điều lệ Đảng. Đây là sai sót lớn thứ ba của đời tôi ! (Cái sai lớn thứ nhất : truớc Cách mạng 8-1945 ngộ nhận đạo Cao Đài có thể cứu nước; cái sai thứ hai : tin vào thiện chí của Pháp đối với Tạm ước 14-9, đi đường công khai dẫn đến việc bị bắt nửa tháng, may mà chạy thoát).
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:12:45 GMT -5
Khoảng đầu năm 1949, anh Phạm Hùng dẫn đầu đoàn đại biểu quân dân chính Đảng Nam bộ ra Việt Bắc họp. Tôi nhận được điện của cán bộ Tư lệnh khu 7 cử đích danh (với 5 trung đoàn trưởng) đi cùng đoàn anh Phạm Hùng. Lúc ấy, do anh Trần Xuân Độ làm mai, tôi vừa cưới vợ được ba ngày rồi lên đường ngay. Việc lập gia đình những năm tháng ấy vừa dễ vừa khó. Bây giờ nam nữ thanh niên yêu nhau có thể cưới hỏi không chút khó khăn, luật pháp còn bảo vệ và khuyến khích tự do hôn nhân. Hồi ấy, nếu là đảng viên muốn lấy ai , phải được tổ chức đồng ý. May bà xã tôi (tên thật Đặng Thị Lợi, tên hoạt động Đinh Thị Liên) cũng là đảng viên, con liệt sĩ (cha bà là thầy giáo trường làng, yêu nước, ông bị Tây bắn chết); như vậy là hai bên quá môn đăng hộ đối; ông mai lại là người có uy tín lớn. Anh Lâm Thái Hòa-tham mưu trưởng đơn vị-làm bài thơ dài tặng chúng tôi, nay chép lại vài khúc làm kỉ niệm : Một đêm nay và một đêm mai nữa Muốn cùng nàng tận hưởng hết say mơ Anh chỉ muốn trong thời gian xa vắng Thuyền tình hằng cột chặt bến đò xưa Cười lên em ! Cho tiếng cười nức nở Vui lên em ! Đừng vui gượng kẻo là Chí làm trai dù nặng tình thê tử Để mờ bao sự nghiệp của thời qua ... Uống đi em ! Em hỡi chén quan hà Rồi khi ấy chàng ra đi ngạo nghễ Nàng tiễn chân nét mặt nở như hoa... Tỉnh ủy Bà Rịa chiếu cố tôi đã trên ba mươi mấy tuổi mới lập gia đình nên đặc cách cho phép đem vợ đi cùng. Bả có thể kết hợp ra Bắc học thêm vấn đề gì đó. Đám cưới thật vui, chúng tôi xin ra bãi biển Hồ Tràm (Xuyên Mộc) hưởng tuần trăng mật ba ngày rồi nhập đoàn lên đường luôn. Đoạn từ Bà Rịa ra tới Phú Yên, cả đoàn đi bộ. Vừa đi soi đường vừa tránh địch nên không thể đi nhanh. Từ Bắc Phú Yên tới Nam Quảng Nam là vùng tụ do của ta, chúng tôi đi ôtôray có cả toa nằm. Khi ra tới Quảng Nam, tôi đề nghị anh Phạm Hùng cho phép ghé thăm gia đình tản cư vào vùng tự do miền núi Nam Quảng Nam. Tôi gặp lại mẹ, mấy anh chị em gái, cháu..., cho nàng dâu biét họ hàng bên chồng, hai ngày sau lại tiếp tục đuổi theo đoàn. Bà xã tôi có bầu, không thể tiếp tục hành trình ra Việt Bắc, tôi quyết định đẻ bả ở lại, tham gia công tác ở đây (và sau này bả sinh con trai đầu lòng ở viện Dục Anh khu 5). Từ Bà Rịa tới Việt Bắc chúng tôi đi mất khoảng ba tháng, nhiều đoạn đường hiểm trở, như các đèo, dốc Ba Rền, U Bò...ở miền Tây Quảng Bình. Đoàn tới căn cứ địa Việt Bắc, được tiếp đón nồng hậu.
|
|