|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:07:01 GMT -5
4. Tạo nguồn nhân lực dạy cho Đại học
Bác Hồ từng dạy: “Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghịa”. Ngày nay ta cũng có thể nói “Muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước tiên phải có đội ngũ thầy giáo Đại học hiện đại”. Thầy giáo Đại học là cái “máy cái” định đoạt sự tiến bộ của mọi thời đại, đặc biệt trong thời đại hướng về nền kinh tế tri thức hiện nay. Từ lâu ở các nước, người ta đã tạo nguồn nhân lực cho Đại học bằng các cách: Tuyển lựa và đào tạo trong nước; gởi sinh viên đi học nước ngoài, mời các giáo sư nước ngoài đến dạy. Theo tôi với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, ngoài các cách vừa nêu, còn có thể nghiên cứu bổ sung nhiều cách khác nữa.
Cách thứ nhất: Mời các thầy giỏi vừa về hưu, nếu còn sức khoẻ tiếp tục truyền đạt cho sinh viên những gì mình còn thủ đắc như một số Đại học đang thực hiện.
Cách thứ hai: Theo kiểu tạo nguồn hướng dẫn viên du lịch trước đây, là mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, những ai có kiến thức chuyên môn, có ngoại ngữ, có ngoại hình, được thu nhận vào học. Sau lớp bồi dưỡng tổ chức thi, ai đậu được phát chứng chỉ hướng dẫn viên du lịch (loại địa phương, loại quốc gia). Chứng chỉ có giá trị hành nghề trong một thời gian nhất định (2, 3 hoặc 4 năm). Tôi đã gặp trong các lớp nầy có cả Cựu khoa trưởng Đại học, trưởng Phòng Văn hoá thông tin, thầy cô giáo trung học. Nếu ngành giáo dục có tiêu chí rõ ràng, tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và tổ chức thi lấy thầy giáo công nhật chắc chắn sẽ tìm được hàng trăm thầy giáo giỏi dạy giờ cho các Đại học.
Cách thứ ba: Mời những người đã thành danh vào dạy Đại học. Ở miền Nam trước đây có những thầy giáo dạy Đại học mà không xuất thân khoa bảng, không có học hàm học vị như các thầy Vương Hồng Sển (văn minh Việt Nam), Trương Văn Chình (Ngữ học), Lê Ngọc Trụ (Việt ngữ chính tả ), Bửu Cầm (Hán Nôm, Sử ), Phan Văn Dật (thơ văn), Nguyễn Đình Hàm (Quản trị học đường), Phạm Kim Âu (Pháp văn)... Các thầy có nhiều công trình nghiên cứu uyên bác và đã được giới trí thức khoa học gọi là học giả (érudit). Các học giả nầy đã đào tạo biết bao lớp khoa bảng mà ngày nay chế độ ta vẫn còn trọng dụng như Nguyễn Khuê, Phan Thuận An, Nguyễn Văn Chưởng, Nguyễn Q. Thắng, Bửu Nam v.v... Trong xã hội ta hiện nay không dùng danh xưng học giả nhưng có biết bao người có trình độ học giả. Nếu mời nhà văn Nguyên Ngọc vào Đại học dạy văn học, mời nhà văn Trần Mạnh Hảo dạy phê bình văn học, mời Lý Việt Dũng vào dạy Hán Nôm, mời Lê Mạnh Thát vào dạy văn học Lý Trần có lẽ sinh viên sẽ rất thích thú và chắc chắn sẽ có nhiều người làm “đệ tử” thừa kế sự nghiệp của các vị ấy. Với cách thức ấy ta có thể tìm được hàng trăm thầy giáo giỏi trong các Bộ, các sở, các viện, các địa phương. Các vị “tại chức” ấy vừa tiếp cận thực tế hàng ngày vừa tranh thủ dạy Đại học góp phần đào tạo nên những lớp kế cận giỏi lý thuyết và sát thực tế.
Cách thứ tư: Trong mấy chục năm qua tiếp xúc với bạn bè, bà con Việt Kiều ở các nước về thăm nhà hoặc về du lịch tôi biết được nhiều vị Giáo sư nước ngoài muốn quan hệ cộng tác với ngành giáo dục Việt Nam, nhưng rất ít người thành công. Có người than phiền một cách chua chát rằng hình như ở Việt Nam người ta cần bằng cấp ngoại, cần đô-la hơn là cần chất xám, cần trí thức. Theo tôi đó là chuyện có thể có trước đây, còn bây giờ tình hình đã khác. Nếu bộ GDĐT có chủ trương mời Giáo sư Việt kiều về dạy (những môn Việt Nam đang cần) có thể nhờ các Hội Việt kiều yêu nước ở các nước tìm người, tổ chức và cử về dạy từng đợt với thù lao theo khả năng tài chánh của Việt Nam. Các thầy giáo Đại học của Việt Nam ở khắp nơi nên thế giới, giỏi chuyên môn, thông thạo các sinh ngữ Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nga, Trung Quốc, Ý, Tây Ban Nha.. là một cái vốn rất quý nhưng chúng ta chưa khai thác được bao nhiêu. Nếu bây giờ nhà nước có chính sách sử dụng chất xám của Việt kiều đúng mức (như NQ 36 BCT), Việt Nam sẽ được bổ sung một lực lượng thầy giáo hiện đại đáng kể.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:07:21 GMT -5
Cách thứ năm: Nhà nước chủ trương cho mở Đại học tư là đúng với xu thế phát triển Đại học của thế giới. Đại học tư đó thành công hay thất bại là tùy thuộc vào chất lượng “sản phẩm” của họ có đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động thời hội nhập thế giới hiện đại hay không, tùy họ. Nhà nước chỉ thông qua chương trình đào tạo còn nguồn nhân lực chính thức của họ, các Đại học tư phải tự đào tạo, tự tìm lấy. Cấm các Đại học tư sử dụng nguồn nhân lực của Đại học công làm nguồn nhân lực chính của mình. Để tránh tình trạng thầy giáo công phục vụ cho con buôn giáo dục Đại học, các thầy giáo chính thức của Đại học công được cấp lương bổng hợp lý với quota giờ dạy (giờ chuẩn) nhất định. Nếu dạy ở trường công chưa hết số giờ qui định có thể dạy cho các Đại học tư, nhưng không được vượt số giờ qui định, để dành thì giờ thích đáng cho việc nghiên cứu. Ai vi phạm sẽ bị kỷ luật. Người thầy giáo Đại học bị kỷ luật không được dạy ở bất cứ trường Đại học nào trong một thời gian nhất định. Phải chủ trương khắt khe như thế để buộc các Đại học tư phải gồng mình gởi người đi đào tạo, mời học giả, mời các thầy giáo định cư ở nước ngoài về giảng dạy cho mình. Làm được như vậy các Đại học tư cũng có công trong việc cùng với nhà nước lo bổ sung nguồn thầy giáo Đại học cho đất nước.
Thực hiện việc tìm thầy giáo giỏi cho Đại học cần lưu ý tâm lý kèn cựa, chèn ép người giỏi. Tâm lý “ít ngài dài đũa”, các Đại học muốn độc quyền dạy dỗ, không muốn chia xẻ quyền lợi với người khác nên đóng cửa với người giỏi bên ngoài. Một số nơi còn sợ người bên ngoài dạy giỏi hơn, đưa người giỏi vào sẽ tạo điều kiện cho sinh viên thấy được cái yếu kém của họ. Tôi biết có chị TTND - một người cựu nữ sinh Đồng Khánh, nổi tiếng học giỏi, học đứng đầu lớp, thi Tú tài đứng đầu toàn miền, có học bổng của Pháp sang Pháp học Tiến sĩ về Địa lý, tham gia các phong trào yêu nước, sau năm 1975 dạy học tại ĐHSP TP HCM, đại diện cho giới nữ làm khoa học ở TP HCM đi dự các hội thảo quốc tế, được mời đi dạy ở các nước châu Âu. Thế nhưng chị không được phong Phó giáo sư vì lẽ Việt Nam không công nhận bằng Tiến sĩ Đệ tam cấp của chị. Trong lúc đó nhiều học trò của chị đã là Thạc sĩ, Tiến sĩ, Phó GS từ lâu. Không có học hàm Phó Giáo sư chị phải từ giã trường Đại học công, trở về về làm việc cho các tổ chức quốc tế, lương cao hơn gấp nhiều lần, nhưng vẫn không hết ngậm ngùi. Có người bảo chị phải “chạy” hoặc kiện lên Bộ, chị cười và bảo: “Như vậy thì còn ra cái thể thống gì nữa !”. Đây là chuyện có thật 100%, một bậc thầy của các bậc thầy mà còn bị thất thế đến như thế, huống chi…
Ai có đủ tư cách, đạo đức, chuyên môn để đứng ra làm cái việc tạo nguồn thầy giáo Đại học nêu trên? Với tư cách là một người cầm bút quan tâm đến giao dục, tôi cầu mong các ngành chức năng trả lời hộ.
Nếu Việt Nam hình thành được một đội ngũ thầy giáo Đại học đáp ứng được các yêu cầu của thời hội nhập thế giới hiện đại thì chúng ta có thể đi qua được quá nửa con đường cải cách giáo dục hiện nay.
Huế, đầu tháng 10.2004 N.Đ.X
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:15:44 GMT -5
Bài 6: Dạy, học và thi NGUYỄN ĐẮC XUÂN (Nhà văn-Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế ) Ý TƯỞNG 6 Dạy, học và thi như thế nào?Chuyện dạy, học và thi là chuyện xưa như trái đất. Tuy nhiên, dù xưa nhưng vẫn phải đề cập đến bởi vì ba chuyện ấy luôn phải được đổi mới cập nhật để thích hợp với thời đại mới. Nếu không đổi mới kịp thời không đào tạo được con người mới đáp ứng các yêu cầu mới, toàn bộ các hoạt động khác của xã hội sẽ tụt hậu. 1. Dạy Ở các nước có nền Đại học hiện đại, việc thầy giáo đọc bài cho sinh viên chép đã bãi bỏ từ lâu. Cách đây trên 40 năm, tôi học Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm Huế, đến lớp chỉ nghe thầy giảng, sinh viên phải tự tìm cho mình một phương pháp “tốc ký” để ghi bài. Những đoạn trích dẫn ghi không đúng nguyên văn thì thầy chỉ cho nguồn trong các sách, tài liệu, sinh viên tự đến thư viện tìm và ghi lấy. Qua bài giảng sinh viên tự rút ra các thông tin mới, những nhận thức mới và phương pháp phát hiện, phương pháp nghiên cứu và trình bày những vấn đề tương tự. Trong lúc học thầy giáo và sinh viên tranh luận sôi nổi, nhiều khi rất căng thẳng. Về văn học, nhiều thầy bình giải bằng triết học hiện sinh và sinh viên lại thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, về sử thầy nhìn với cách nghĩ của Thiên chúa giáo, sinh viên có thể thích theo quan điểm Mác-xít… Ý kiến thầy trò chênh nhau, nhưng không sao. Cuối năm thi lấy chứng chỉ (Văn khoa) hoặc lên lớp (Sư phạm) với một đề thi với nội dung có khi chưa được nghe thầy dạy bao giờ. Thầy chấm bài căn cứ trên tiêu chí sinh viên có hiểu đề bài không, có trình bày ý kiến của sinh viên mạch lạc không, có đúng phương pháp không. Bởi thế khi sinh viên ra trường có con mắt nhìn thấy nhiều vấn đề và tin mình có khả năng giải quyết vấn đề. Mỗi người tự “thắp đuốc” (nói theo kiểu nhà Phật) tìm ra con đường gây dựng sự nghiệp cho mình. Chính nhờ tinh thần tự lập của sinh viên Đại học ấy mà nẩy ra Phong trào đấu tranh yêu nước của sinh viên học sinh các đô thị miền Nam trước năm 1975. So với thời tôi đi học, phương tiện dạy và học Đại học ngày nay (như tôi biết ở Pháp và TP HCM qua các con tôi), dồi dào không thể tưởng tượng được. Bài giảng thầy soạn bằng vi tính, đến lớp thầy cho mượn đem xuống dịch vụ của văn phòng nhà trường photocopy tự do, 5 trang A4 chỉ bằng một điếu thuốc 555 (một ngàn đồng VN). Suốt giờ học chỉ nghe thầy giảng và tranh luận. Những người không đến lớp được nhờ bạn ghi âm bài giảng cùa thầy đem về nhà nghe lại. Một sinh viên học ở Pháp làm bài tập bằng tiếng Anh (những môn do thầy Mỹ dạy) có thể dùng e-mail nhờ tìm tư liệu tại thư viện Quốc Hội Mỹ, và nhờ bạn ở TP HCM chữa lỗi tiếng Anh trong bài tập. Thời gian chỉ mất vài ba ngày và phí tổn trao đổi e-mail chỉ bằng giá nửa cục xôi (một ngàn đồng VN). Kiến thức cơ bản sinh viên đã được học ở trường Trung học. Ở Đại học muốn tìm hiểu sâu hơn và đầy đủ hơn, sinh viên có thể tìm hiểu qua các bộ đĩa từ điển Encyclopédie Encarta, Britanica, Larousse, trên hàng ngàn trang website bằng đủ thứ tiếng Anh, Pháp, Việt, Trung v.v... về tất cả các môn học xã hội, tự nhiên, kỹ thuật, tin học. Ví dụ như các trang tiếng Việt: http://www. leaf.vn.org (hỗ trợ thư viện và giáo dục Việt Nam), www.viethoc.org (nghiên cứu văn học cổ và lịch sử Việt Nam), www.nomfoundation (bảo tồn di sản Hán Nôm) v.v... Tất cả các Đại học trên thế giới đều có website, thông tin cập nhật hằng ngày. Website MIT của Viện kỹ thuật trường Đại học Massachusetts (Massachusetts institute of technology), ngoài các khoá học (Courses) dạy 500 môn học trên thế giới để cho sinh viên tự chọn mà còn dạy cho sinh viên cách ghi chép, nghiên cứu, trình bày nội dung một bài tập. Bạn đọc cứ click vào địa chỉ ocw.mit.edu/index.html trên máy điện toán có nối mạng thử coi. Phong phú, thú vị vô cùng. Chỉ sợ không đủ trình độ tiếng Anh và thời gian để mà đọc, mà học thôi.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:16:00 GMT -5
Đối với các cháu đang ngồi vọc Computer ở các quán internet dọc các phố, chuyện click vào các trang giáo dục quốc tế ấy dễ hơn ném đồng xu vào lỗ đáo. (Chỉ tiếc là dễ dàng như thế nhưng ít đứa chịu tìm học mà lại tìm click vào những website sex hoặc bạo lực). Công nghệ thông tin - đối với người ham học, quả là ông thầy Đại học vĩ đại nhất của nhân loại hiện nay. Một sinh viên có thể ngồi ở nhà học qua internet có đủ trình độ đi thi lấy bằng Đại học, có thể tham khảo để viết những công trình khoa học đăng trên bất cứ tạp chí có giá trị nào trên thế giới. Tuy nhiên, sinh viên vẫn phải đến học ở các Đại học. Đến để được học kỹ năng thực hành, tiếp thu những khám phá mới của thầy giáo chưa từng đưa lên mạng, hoặc đưa mà không đầy đủ. Cái mới đó là bảo bối của mỗi Đại học, mỗi thầy giáo. Sinh viên được dạo chơi trên hành lang tri thức rộng mở như thế, óc sáng tạo luôn bị kích thích giúp cho sinh viên tự tìm cho mình một hướng đi độc đáo đủ sức cạnh tranh trong thị trường luôn hướng về tri thức mới hiện nay.
Vì thế dạy Đại học cho thế hệ @ bây giờ là dạy cho sinh viên công trình nghiên cứu mới của giáo sư, qua đó dạy cho sinh viên phương pháp học, phương pháp tự học, học tự định hướng (self oriented learning), phương pháp nghiên cứu thực tế, phương pháp tìm tư liệu trên Internet, phương pháp trình bày ý tưởng của mình, phương pháp liên hệ với thực tế hoặc đưa sản phẩm trí tuệ của mình vào cuộc sống. Nếu thầy giáo không đủ khả năng thực hiện việc dạy dỗ như thế chắc chắn sẽ bị sinh viên qua mặt và từ chối học với các thầy giáo Đại học lạc hậu ấy.
Những gì tôi viết trên đây tuy chưa phổ cập, nhưng không còn xa lạ với sinh viên tại TP HCM (Có lẽ ở Hà Nội cũng thế ). Nhiều sinh viên xuất thân trong các gia đình còn cọc cạch với chiếc xe đạp, chưa trang bị được computer (loại tân trang chừng 2 triệu đồng) thì có thể dùng computer của nhà trường, của các thư viện điện tử hoặc của các cửa hàng dịch vụ internet (mỗi giờ tốn 3 ngàn đồng). So với học phí các lớp học thêm, tiền học qua computer công cộng quá rẻ. Nhiều sinh viên gia đình rất nghèo, chưa từng có computer riêng, nhưng vừa học xong bằng computer công cộng, liền được các công ty nước ngoài mời đi làm việc ngay.
Các Đại học ở các địa phương kiểm tra thử xem trong đội ngũ thầy giáo của quý trường còn có những ai vẫn còn xa lạ với cách dạy thế hệ @ như trên không? Nếu vẫn còn những người ấy đứng lớp đọc bài cho sinh viên chép thì thử hỏi sinh viên của quý trường sẽ đóng góp được gì cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay?
Chỉ cần một sự khảo sát nhỏ ấy thôi cũng có thể biết được sự chênh lệch giữa thầy giáo các Đại học ở TP HCM, Hà Nội và các địa phương khác, giữa các thầy giáo Đại học Việt Nam và thầy giáo các Đại học trong khu vực (chưa nói đến thế giới) ra sao rồi. Bao giờ chưa có biện pháp khắc phục độ chênh lệch đó thì hãy suy tính kỹ trước khi ký quyết định cho mở tràn lan các Đại học địa phương. Có thể dùng xi-măng kém phẩm chất của các nhà máy xi-măng lò đứng xây lát đường làng, ngõ xóm, có thể dùng đường kém phẩm chất của các nhà máy đường các địa phương mua của Trung Quốc trước đây bán cho lò nấu kẹo đậu phụng, nhưng các cử nhân - kỹ sư thứ cấp xuất thân từ các Đại học địa phương mới ngang tầm Trung học cấp 4 thì dùng vào việc gì? Chắc chắn họ không chịu làm thợ mà muốn xin làm thầy thì không ai nhận. Ai chịu trách nhiệm về các sản phẩm giáo dục Đại học thứ cấp đang thất nghiệp ấy? Các thầy giáo Đại học nghĩ sao?
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:16:32 GMT -5
2. Học
Học là một nhu cầu của con người, mang tính nhân văn, ở cấp thấp. Học còn chi phối bởi động lực xã hội, ở cấp cao. Ngày xưa cha ông chúng ta học để đi thi, để đỗ đạt ra làm quan, để được hơn người. Thời Pháp thuộc, học để đi làm cho Pháp, hoặc ngược lại, học để thi đỗ ra làm cách mạng (những người khoa bảng đồng bào mới nghe). Thời sinh viên của chúng tôi, tùy hoàn cảnh từng người: học giỏi để có học bổng, có lương cao, có vợ đẹp, học để được ưu tiên chọn nhiệm sở, học để khỏi bị bắt lính, học giỏi để có uy tín với sinh viên để lãnh đạo phong trào đấu tranh yêu nước của sinh viên v.v...
Ngày nay, đề cập đến động lực học hơi phức tạp: Bọn con ông cháu cha, không cần học giỏi cũng có bằng, có bằng là có chỗ làm việc tốt, hợp thức được chức vụ béo bở trong bộ máy nhà nước; những sinh viên con nhà nghèo, con nhà không có nơi dựa dẫm, có học giỏi cũng không được giữ lại trường, không được chọn nhiệm sở gần thành phố, cũng không có lương cao (bác sĩ ra trường lương chỉ có 350.000đ ), cố gắng học giỏi làm gì cho khổ; ngược lại có một số sinh viên giỏi phấn đấu học thêm vi tính và Anh văn để đi làm cho nước ngoài hoặc đi học trên Đại học ở nước ngoài.
Bao giờ nhà nước Việt Nam chưa có chính sách sử dụng người tài một cách đúng đắn, chưa quan tâm đến động lực học (qui luật khách quan) của sinh viên thì công cuộc cải cách giáo dục sẽ khó thành công.
Dư luận lâu nay phê phán chuyện dạy thêm, học thêm. Trong nền kinh tế thị trường, chuyện dạy thêm hay mở trường tư là một ngành dịch vụ thương mại béo bở. Dịch vụ thương mại nầy hình thành bởi sự hợp tác của cán bộ lãnh đạo ngành giáo dục, các thầy giáo trong ngành giáo dục và doanh nhân. Chống dạy thêm, học thêm chỉ là ngắt cái ngọn, cái gốc vẫn còn đó, cái ngọn nầy bị ngắt, cái mầm khác sẽ nứt ra. Một ông Giám đốc sở Giáo dục ở tỉnh T. đi đâu cũng la toáng lên chuyện học thêm dạy thêm, nhưng bên trong ông lại cho lập Trung tâm bồi dưỡng thi Đại học do chính vợ ông chủ trì. Muốn chống dạy thêm học thêm phải xét đến nhiều mặt và giải quyết từng mặt, từ chương trình giáo dục, thời gian lên lớp, trình độ giáo viên, lương giáo viên, quản lý giáo viên, âm mưu làm giàu của những cán bộ giáo dục bất chính, tâm lý muốn con học giỏi của các bậc phụ huynh v.v...
Theo tôi, chỉ có dạy chứ không có chuyện dạy thêm. Dạy tốt là có đóng góp cho xã hội. Một thầy giáo Nhà nước giỏi được dạy một số giờ chuẩn (như tôi đã nêu trong Ý tưởng 5). Tại trường của ông chưa sử dụng hết số giờ chuẩn ông có quyền đi dạy ở bất cứ nơi đâu để truyền đạt tri thức của ông cho lớp trẻ. Nếu ai dạy quá số giờ chuẩn sẽ bị nhà trường phạt (giống như chuyện Công an bấm lỗ bằng lái của các tài xế phạm luật). Nếu thấy việc dạy cho nhà nước thu nhập thấp, thầy giáo đó có thể xin nghỉ, hoàn trả lại tiền đào tạo cho nhà nước và không được lĩnh lương hưu theo thâm niên. Sinh viên cũng cần học thêm. Trừ sinh viên ngoại ngữ, những sinh viên Việt Nam, xuất thân nông dân, người lao động ở đô thị, trình độ ngoại ngữ học ở trường không đủ để tiếp cận với thông tin thế giới qua sách báo và internet. Vì thế khi tiếng Anh chưa phổ cập từ tiểu học lên Đại học (như các nước thuộc địa cũ của Anh như Ấn Độ, Mã-lai, Tân-gia-ba…), thì sinh viên Đại học phải đi học thêm vi tính và ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh) là chuyện cần thiết. Không học thêm Anh văn làm sao sinh viên có bằng Toefl, Toeic, Sat… để có đủ điều kiện đi học sau Đại học ở Mỹ, ở Úc, hoặc đi làm trong các cơ sở kinh tế liên doanh với nước ngoài? Vấn đề cần quan tâm ở đây là học thêm môn gì? Học ở đâu? Ai được phép dạy? Chúng ta cứ nhìn chung quanh thử xem: những vị có trách nhiệm trong chính quyền hiện nay (đặc biệt trong ngành giáo dục) nếu không chịu học thêm (đặc biệt là ngoại ngữ ) thì họ sẽ làm được gì trong nền kinh tế thị trường, hội nhập thế giới hiện đại nầy? Một ông Giám đốc Đại học khi làm việc với nước ngoài mà vẫn kè kè hai bên hai người phiên dịch (Anh, Pháp) thì tôi nghi Đại học đó còn lâu mới hội nhập được với thế giới. Nếu không có nơi dạy thì làm sao ông Giám đốc Đại học đó học thêm ngoại ngữ để hội nhập?
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:18:27 GMT -5
3. Thi
Tổ chức thi cử của Việt Nam hiện nay đang làm đau đầu nhiều giới, tốn kém vô cùng, mất thì giờ hết sức, hậu quả tìm không được bao nhiêu người tài, người có đủ khả năng làm việc theo yêu cầu của xã hội mà lại tạo nên một đội ngũ thất nghiệp, dở thầy dở thợ, để lại một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Người dân quan tâm đến giáo dục rất lo lắng cho tương lai con em của mình.
Chuyện thi cử cả thế giới đã có kinh nghiệm, đã hình thành công nghệ thi cử hết sức tinh vi, công nghệ đó đăng tải rộng rãi trên các trang web. Việt Nam hội nhập thế giới cả hàng chục năm nay, viện nghiên cứu Giáo dục VN có hàng trăm chuyên viên, CNTT Việt Nam rất xuất sắc, tại sao đến giờ nầy chúng ta vẫn còn mò mẫm trong mớ bòng bong thi cử hằng năm như thế? Thật là một điều khó hiểu.
Có người nói nhỏ với tôi: Nền giáo dục VN hiện nay là nền giáo dục bao cấp của Liên Xô cũ có cải tiến một số bộ phận trong cố gắng làm sao phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đất nước hội nhập với thế giới có nền kinh tế thị trường. Không thể có một nền giáo dục bao cấp cải tiến đào tạo ra được những trí thức làm việc cho một xã hội với nền kinh tế thị trường. Có lẽ đó là nguyên do đẩy nền giáo dục Việt Nam hôm nay rơi vào khủng hoảng chăng?
Tôi được biết, nhà nước có kế hoạch đào tạo theo chỉ tiêu, đại khái như năm 2005 phải đào tạo "n" ngàn Cử nhân, "r" ngàn Thạc sĩ, "s" ngàn Tiến sĩ, phong "y" ngàn Phó giáo sư, phong "z" ngàn Giáo sư; năm 2010 phải…, năm 2020 phải… để có tỷ lệ bằng cấp trên số dân ngang với các nước trong vùng, trong khu vực v.v... Tôi không được nghe Bộ có những biện pháp làm sao ngay bây giờ dạy cho r, s, y, z nhà khoa bảng ấy có trình độ tri thức ngang với trình độ trí thức của các nhà khoa bảng trong vùng, trong khu vực, không nghe nói đến việc làm sao sử dụng cho hết những Cử nhân, Kỹ sư mới được đào tạo hằng năm, không nghe nói đến biện pháp làm sao nâng lương cho các nhà khoa bảng Việt Nam ngang với lương của những người cùng bằng cấp trong khu vực? Tôi chỉ thấy Bộ cho mở Đại học tràn lan để kịp thời đào tạo, phát bằng hoàn thành các chỉ tiêu bằng cấp Đại học, trên Đại học mà thôi. Điều nầy làm cho tôi nhớ lại (cũng mới đây thôi) các nhà máy quốc doanh thi đua sản xuất để hoàn thành các chỉ tiêu, năm sau cao hơn năm trước. Sản phẩm của nhiều nhà máy kém phẩm chất bán không được, chất đầy kho lẫm, công nhân không có lương. Nay phải giải thể nhà máy hoặc cổ phần hoá các nhà máy ấy. Hàng hoá kém phẩm chất bán không được chất đầy trong kho, ai cũng có thể thấy được và rồi tìm cách bán rẻ để tẩu tán. Còn sinh viên tốt nghiệp với trình độ “thứ cấp” không tìm được việc làm, sống trong dân, không ai thấy cái khối to lớn ấy cả, và do đó cũng không ai chịu trách nhiệm “tiêu thụ” số thất nghiệp đó cả. Xin hỏi Bộ GDĐT, Bộ đã điều tra thống kê để biết hiện nay còn bao nhiêu vạn sinh viên chưa có việc làm không? Chỉ tiêu thất nghiệp như thế đã đủ chưa hay Bộ còn phải xin ngân sách tổ chức thêm nhiều kỳ thi nữa để bổ sung cho đủ chỉ tiêu thất nghiệp? Bộ có trách nhiệm đến đâu về số vạn người thất nghiệp có bằng Đại học ấy?
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:18:43 GMT -5
Phương pháp sư phạm / giáo dục là tìm cách đơn giản mọi rắc rối, mọi phức tạp để dễ truyền đạt. Vấn đề thi cử để chọn người vào Đại học nên chăng chỉ cần chủ trương một cách đơn giản là hằng năm
- Chọn những học sinh có ba năm học Phổ thông và bằng Tú Tài thuộc loại khá giỏi cho thi vào các Đại học chính qui.
- Số học sinh còn lại có thể ghi danh vào học hệ Đại học tự do (cũng của nhà nước); hoặc:
- Thi vào học các Đại học tư hoặc thi vào các trường Cao đẳng. Các trường Đại học tư và trường Cao đẳng tự tổ chức thi lấy người vào học.
Thi trắc nghiệm, chấm bằng máy: nhanh, ít tốn kém, chính xác và hạn chế được tiêu cực. Nền giáo dục của Hoa Kỳ tiên tiến nhất thế giới đã áp dụng thi trắc nghiệm cả thế kỷ qua, nhiều nước châu Âu đã có nền giáo dục Đại học cả trăm năm vẫn phải bắt chước Mỹ, tại sao ta không học tập họ?
Chủ trương thi như thế buộc những học sinh muốn vào Đại học chính qui để làm việc cho nhà nước thì phải cố gắng học giỏi ít nhất từ lớp 10 THPT. Những học sinh có bằng Tú tài không đạt được những tiêu chí trên yên tâm khỏi thi vào trường chính qui mà đợi ghi danh vào học Đại học Tự do. Đại học Tự do năm đầu là năm Dự bị như Dự bị Toán (MG), Dự bị Lý Hoá Sinh (PCB); Dự bị Văn khoa (Triết, Văn, Sử Địa, Ngoại ngữ ).v.v.Cuối năm thi (trắc nghiệm) lấy Chứng chỉ (Certificat) Dự bị. Sau chứng chỉ Dự bị ai đỗ thêm 4 chứng chỉ nữa thì được phát bằng Cử nhân. (Sinh viên vừa đi học vừa đi làm, một năm có thể ghi danh học 2 chứng chỉ ). Lại có hai loại cử nhân: Cử nhân Giáo khoa gồm CCDB + 4 Chứng chỉ bắt buộc (Ví dụ Cử nhân Giáo khoa văn chương gồm 1 CC Văn học VN, 1 CC Ngữ học, 1 CC Hán văn, 1 CC Phương pháp sử hay Phương pháp Triết học), Cử nhân Tự do gồm 1 CCDB và 4 CC tự chọn. Sinh viên Đại học tự do phải trả học phí, nhà nước cấp học bổng cho sinh viên nghèo mà học giỏi và sinh viên ở vùng sâu vùng xa. Những sinh viên đậu Chứng chỉ Dự bị được thi vào năm thứ nhất các Đại học chính qui. Các Cử nhân Giáo khoa có thể được thu nhận vào làm việc cho cơ quan Nhà nước, các Cử nhân tự do tự tìm chỗ làm.
Các Đại học chính qui chỉ đào tạo những ngành mũi nhọn hoặc những ngành Nhà nước cần như trường Sư phạm đào tạo thầy giáo các cấp; trường Khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên đào tạo các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu chuyên sâu về văn, sử, địa, về các ngành khoa học cơ bản (sinh học, vật lý, hóa học, toán v.v...); trường Quốc gia hành chánh (đào tạo công chức từ cấp phường, xã lên đến Trung ương, trước mắt phục vụ công cuộc cải cách hành chánh của Chính phủ ); trường Ngoại giao, trường Ngoại thương (rất cần thiết khi VN vào WTO), trường Luật khoa (đang rất thiếu Luật sư, Thẩm phán, Cố vấn pháp lý cho các cơ sở kinh tế văn hoá giáo dục); trường Y Nha Dược; trường Kiến trúc; trường Bách khoa đào tạo Kỹ sư các loại (nông nghiệp, xây dựng, chế tạo máy..); trường An ninh; trường Quốc phòng v.v...
Các Đại học tư đào tạo nguồn nhân lực cao cấp thoả mãn yêu cầu của thực tế xã hội như các ngành ngoại ngữ, công nghệ, tin học, thương mại, kế toán, tài chính... và tất cả các ngành khác mà Đại học công không có. Sinh viên Đại học tư thục tự tìm việc làm, và làm việc theo hợp đồng như qui định chung của Nhà nước, khi về già vẫn có hưu.
Nếu tổ chức 3 loại Đại học và thi tuyển như vậy thì hằng năm VN sẽ tiết kiệm được hàng triệu giờ làm việc của thầy cô giáo, dôi thừa được hàng chục tỷ đồng tiền công quỹ. Số tiền nầy dành để nâng lương cho thầy giáo và phát học bổng cho sinh viên nghèo thuộc vùng sâu vùng xa. Các thầy giáo khỏi bận vào việc đi coi thi, đi chấm thi có điều kiện thời gian đi nghỉ hè, nghiên cứu khoa học, viết sách.
Dạy, học, thi là ba khâu quan trọng nhất trong bất kỳ nền giáo dục đông tây kim cổ nào. Tôi chỉ là một người cầm bút ở địa phương, xa cách môi trường giáo dục đã gần 40 năm, tôi không dám nghĩ mình có được ý kiến gì mới để góp với những người có trách nhiệm trong công cuộc cải cách giáo dục trong các khâu dạy, học và thi. Tôi viết Ý tưởng thứ 6 nầy chỉ để nói lên một điều: Dư luận không chỉ rặt một chiều phê phán nền giáo dục của đất nước hiện nay mà còn có nhiều gợi ý giải pháp tháo gỡ. Những gợi ý tháo gỡ của tôi có thể đã lạc hậu, nhưng nếu những người có trách nhiệm biết tổ chức tham khảo ý kiến của những người quan tâm giáo dục (ngoài ngành giáo dục) ở Trung ương và địa phương, ở trong và ngoài nước, chắc chắn sẽ thu lượm được nhiều gợi ý giải pháp tháo gỡ hữu ích. Còn như quý vị cứ quanh quẩn với những người trong cái ngành giáo dục đặt hình thức (học vị, học hàm) lên trên tri thức thì không bao giờ quý vị tìm được giải pháp thích đáng nào cả.
Huế, 8.10.2004 N.Đ.X.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:35:21 GMT -5
Bài cuối: Môi trường sống và giáo dục
NGUYỄN ĐẮC XUÂN (Nhà văn-Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế )
Ý TƯỞNG 7 Môi trường sống và giáo dục
Ý tưởng 5 và 6 đề cập đến điều kiện cần (thầy giáo). Ý tưởng 7 xin nói về một số điều kiện đủ - chỉ một số thôi, vì trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay làm sao đề cập hết được.
1.Môi trường gia đình
Ngạn ngữ có câu : “Không thầy đố mầy làm nên”. “Thầy” có nghĩa là người có trình độ hướng dẫn dạy bảo. Theo nghĩa ấy, không đợi đến lúc đi học đứa trẻ mới được học với thầy mà ngay khi còn ở nhà đứa trẻ đã được cha mẹ dạy. Lúc đi học về nhà lại được cha mẹ chăm sóc việc học, hướng dẫn làm sao học cho tốt, hoặc bổ túc cho những chỗ đứa trẻ chưa nắm vững ở trường học. Đặc biệt các em xuất thân trong các gia đình mà cha mẹ làm nghề giáo, các em còn được hưởng cái phong cách và tri thức của cha mẹ như Lê Bá Khánh Trình, Lê Tự Quyết Thắng và hàng trăm em thành đạt xuất sắc xuất thân trong các gia đình nhà giáo khác ở Huế. Bất hạnh cho những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình cha mẹ quá bận việc chính quyền, đầy quyền thế, giàu có không cần đến việc học, hoặc cha mẹ quá lo việc kinh doanh, hoặc đi làm ăn xa, hoặc quá lam lũ lo cho cuộc sống, hay mù chữ… không chăm sóc dạy dỗ được con cái. Những đứa trẻ ra đời trong những hoàn cảnh gia đình như thế ít có em thành đạt trên con đường học vấn.
Hoàn cảnh gia đình tác động rất mạnh đến chuyện học hành của con cái, nó giữ một vai trò quan trọng trong việc đào tạo nhân tài. Trước khi học với thầy giáo, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Sinh Cung (sau nầy là Chủ tịch Hồ Chí Minh)… đã được học với mẹ. Sự giáo dục của gia đình, của cha mẹ ảnh hưởng suốt đời người con. Rất tiếc trong công cuộc cải cách giáo dục ngày nay, việc nghiên cứu vai trò của gia đình đối với giáo dục ít khi được đề cập đến một cách xác đáng.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:36:01 GMT -5
2. Xã hội và thời đại
Ngoài tác động của hoàn cảnh, môi trường trong gia đình, tuổi trẻ còn chịu tác động bởi nhiều yếu tố ngoài đời, yếu tố của thời đại, đôi khi những yếu tố nầy còn tác động mạnh hơn cả yếu tố gia đình. Tôi không có điều kiện khảo sát nghiên cứu xã hội cho nên tôi chỉ sử dụng những kinh nghiệm của chính thời cắp sách của tôi trước đây và những biểu hiện chung quanh các con tôi hiện nay.
Thời tôi đi học (nửa đầu những năm năm mươi đến nửa đầu những năm sáu mươi) ở miền Nam, trải qua các chế độ Sài Gòn sống bằng viện trợ Mỹ từ Ngô Đình Diệm đến các ông Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ. Trong xã hội có ba xu hướng chính trị:
-Xu hướng theo chế độ cai trị.
-Xu hướng tranh đấu cách mạng (lúc đầu rất nhỏ ) chống chế độ Sài Gòn, chịu ảnh hưởng ít nhiều của kháng chiến chống Pháp, Mặt trận Giải phóng (sau năm 1960) và miền Bắc XHCN.
-Xu hướng trung gian (với khối quần chúng đông đảo theo Đạo Phật).
Lúc đầu xu hướng 1 thắng thế, về sau xu hướng 2 cùng với một bộ quan trọng của xu hướng ba gây nên những phong trào tranh đấu với các khẩu hiệu đi từ đòi tự do bình đẳng tôn giáo (1963) trải qua đòi dân chủ, rồi hoà bình và độc lập thống nhất dân tộc. Tuổi trẻ học đường chịu ảnh hưởng của 3 xu hướng nầy. Học để được chế độ ưu đãi cho quyền cao chức trọng, cho đi học nước ngoài (xu hướng 1, khá đông). Học để có uy tín, có một vị trí trong xã hội để đấu tranh yêu nước (người tiêu biểu cho xu hướng 2 là Giáo sư Lê Quang Vịnh). Học để có cái cần câu cơm, khỏi bị bắt lính, chờ đất nước hoà bình đem tài năng ra thi thố (xu hướng ba, rất đông). Sống ở miền Nam chiến tranh nhưng lý tưởng của tuổi trẻ học đường rất rõ ràng. Dù ở trong xu hướng nào những tên tuổi như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhà sư Thích Trí Quang, nhà triết học Trần Đức Thảo, học giả Đào Duy Anh, nhà thơ Xuân Diệu, nhà thơ Huy Cận, nhà văn Nguyễn Đình Thi v.v... luôn là niềm tự hào của tuổi trẻ miền Nam. Nhìn được ảnh, đọc được chuyện những thần tượng ấy trên báo chí ngoại quốc tuổi trẻ đô thị miền Nam rất quý trọng.
Ngày nay có dịp kể lại chuyện thời đèn sách và tranh đấu của chúng tôi với các con tôi và bạn bè của chúng, tôi nhận được sự phản hồi rất đa dạng. Các con tôi bảo:
-Thế hệ của ba sống có lý tưởng, sướng thật, còn tụi con bây giờ thì…
Tùy theo hoàn cảnh, mỗi cháu mà tôi đã có dịp nói chuyện có mỗi cách ứng xử khác nhau. Một người con nhà quyền thế nói:
- Cần gì học giỏi, miễn sao lên lớp, ra trường được là có việc làm ngay, bác Ba, dì Tư đã hứa với ba mẹ cháu sẽ dành cho cháu một chỗ làm thu nhập khá lắm, nếu chưa thích đi làm thì… cho đi du học.
Con của cán bộ có nhiều tài sản thì lạc quan hơn:
- Học hành vừa thôi, cha mẹ cháu mấy học mà nay nhà đất nhiều nơi, đang lo tìm người đứng tên, chỉ bán một miếng vài trăm mét vuông ở quận… thì ăn chơi cả đời không hết!
Hoặc ngược lại, với một cháu khác thì đầy mặc cảm:
- Có học giỏi mà không có thế lực thì rồi cũng về vùng sâu vùng xa thôi. Cháu chỉ mong sao không thuộc loại lưu ban là được. Hoặc:
- Lý lịch của gia đình cháu có vấn đề, làm sao cháu xin được việc làm trong các cơ quan Nhà nước, vì thế cháu phải phấn đấu học giỏi để vượt qua số phận, đi làm cho các công ty nước ngoài.
Hoặc thực dụng hơn, một cháu khác tâm sự:
- Thời kinh tế thị trường, chuyện chính trị các bác các chú lo, bọn cháu chỉ lo học làm sao kiếm cho được nhiều tiền để chu cấp cho gia đình, trả ơn cha mẹ là được rồi.
Hoặc có cháu thực thà tự bộc bạch lòng mình:
- Thời của các bác có thần tượng để noi theo, thời các cháu hôm nay thấy có người rao giảng đạo đức rất hấp dẫn, ngày mai có khi họ bị ra toà vì tham nhũng. Nên không biết tin vào ai! Cuối cùng bọn cháu chỉ biết tin mình thôi! Học để tự cứu mình.
Tôi chỉ ghi lại năm ba ý kiến của tuổi trẻ mà tôi đã gặp và cũng chưa phải là những ý kiến đã làm cho tôi bàng hoàng. Thái độ của họ rất đa dạng người thì tự mãn, người mặc cảm, người ù lì, người đòi hỏi (xã hội phải có những tấm gương, những thần tượng để cho tuổi trẻ noi theo), người thích ứng, người thực dụng, người căm thù (những quan chức bất tài, tham nhũng) v.v... Tôi cố lắng nghe có cháu nào có một lý tưởng gì cao cả không, nhưng không thấy.
Có lần tôi đã nói với các cháu:
- Cái nhục mất nước thế hệ của chú đã rửa, ngày nay cái nhục nghèo, cái nhục kém phát triển, cái nhục bị kẻ mạnh đe doạ (cấm vận và lấn chiếm), cái nhục một dân tộc anh hùng mà chưa có phát minh khoa học được thế giới biết đến, cái nhục Việt Nam chỉ là một thị trường tiêu thụ những sản phẩm nhập ngoại từ thấp (đồ chơi trẻ con) đến cao (máy bay Airbus, máy bay Boing)... Thế hệ các cháu phải rửa những cái nhục kém phát triển đó chứ?”.
Các cháu che miệng cười:
- Những việc to lớn đó có Đảng và Nhà nước lo. Bọn cháu có muốn lo cũng chẳng có ai cho xen vô lo.
Câu nói bộc trực nầy cho thấy hậu quả của cái chủ trương “bao cấp chính trị” đã gây cho dân chúng tính ỷ lại và đồng thời tẩy mất cái tình nước vốn có trong lòng tuổi trẻ xưa nay.
Trong một môi trường xã hội như thế làm sao ngành giáo dục Việt Nam có thể đào tạo được nhiều nhân tài sáng giá cho đất nước? Bao giờ môi trường xã hội còn chưa có dân chủ, chưa có công bằng, nhân tài chưa được sử dụng đúng chỗ thì giáo dục Việt Nam còn chưa ra khỏi khó khăn.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:36:44 GMT -5
3. Môi trường xây dựng Đại học
Tôi chưa được đi nhiều nước để tham quan các Đại học lớn trên thế giới. Trong phạm vi hiểu biết của tôi, tôi thấy đặc điểm của các nơi được xây dựng và phát triển Đại học trên thế giới là:
-Trung tâm của các thành phố cổ.
-Nơi có truyền thống học.
-Nơi có khí hậu tốt, thuận lợi cho việc học…
Nhìn vào hiện thực Việt Nam tôi thấy Đại học Hà Nội, Đại học TP HCM là những Đại học đặt tại các Thành phố cũ do người Pháp lập nên; Đại học Huế đặt ở Thành phố Huế có truyền thống học giỏi; Đại học Đà Lạt là nơi có khí hậu ôn đới tốt nhất cho việc học. Các Đại học khác thành lập theo yêu cầu của các vùng, các địa phương. Không cần phải nghiên cứu, bất cứ người nào cũng có thể thấy Huế và Đà Lạt là hai nơi phát triển Đại học tốt nhất. Vì vậy, ngoài Hà Nội và TP HCM, hai thành phố Huế và Đà Lạt xứng đáng là hai nơi xây dựng hai Đại học Quốc gia. Cách đây 7 năm, nhân kỷ niệm 40 năm thành lập trường (1957-1997), tập thể lãnh đạo Đại học Huế và sinh viên Huế (mới và cũ ) khao khát được Bộ GDĐT đầu tư nhân sự và vật chất để Đại học Huế được nâng cấp thành Đại học Quốc gia. Nhưng tiếc thay, cho đến nay Đại học Huế có mở rộng thêm nhiều khoa, tăng chỉ tiêu đào tạo lên nhiều lần, nhưng chất lượng vẫn nằm nguyên tại chỗ.
Vì chất lượng Đại học Huế như thế cho nên phần lớn học sinh giỏi của Huế đều ra Hà Nội hoặc vào TP HCM. Lớp học của con gái tôi tại trường Quốc Học (khoảng năm 2000) có 21 em được tuyển thẳng vào Đại học thì có 20 em ra đi, chỉ độc nhất một em vì hoàn cảnh gia đình phải ở lại Huế. Người ở lại nầy năm vừa qua ra trường đỗ thủ khoa môn Anh văn Đại học Sư phạm Huế. Khoa văn của trường Đại học khoa học Huế hiện nay hầu như vắng bóng Sinh viên Huế. Có vị hưu trí chua chát nói: “Đại học Huế của ta bây giờ dành cho sinh viên các tỉnh Bắc Trung Bộ”. Đại học Huế muốn vươn lên thành Đại học quốc gia tự thân Đại học Huế phải phấn đấu, nhưng nếu không được sự đầu tư thích đáng (về nhân sự và tài chính) của Bộ GDĐT thì không bao giờ Đại học Huế có thể đạt được nguyện vọng của mình. Đặt vấn đề nầy ra tôi muốn nói đến vấn đề qui hoạch Đại học. Nếu qui hoạch sai, vấn đề đào tạo nhân tài cho các địa phương không thể nào đạt được. Nếu tình hình nầy kéo dài, chất lượng cán bộ, công chức, thầy giáo ở Huế sẽ tụt hậu là chuyện không thể tránh được.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:37:56 GMT -5
4. Điều kiện kinh tế
“Có thực mới vực được đạo”. Cha mẹ phải có tiền mới nuôi con ăn học được. Nhiều em thông minh, học giỏi nhưng vì gia đình quá khó khăn về kinh tế nên phải bỏ dở việc học giữa chừng. Có nhiều em định bỏ học để ở nhà giúp đỡ gia đình thì được ai đó cho một suất học bổng chừng 500.000đ/năm, em lại được cha mẹ cho đi học tiếp lên cao và trở thành người hiển đạt. Gần mười năm qua làm đại diện cho Quỹ học bổng Rotary Lyon Charbonnières (RLC) ở Huế, tôi đã gặp nhiều trường hợp như thế. Thực hiện những tiêu chí cấp học bổng của RLC, tôi rút được một kinh nghiệm. Nếu cấp học bổng dàn trải cho tất cả các em học sinh nghèo, thì mỗi em không được bao nhiêu và không giải quyết được việc gì cho các em cả. RLC tập trung tiền cấp cho những em học sinh nghèo mà học giỏi để các em học lên (1 triệu đồng/năm cho học sinh Thành phố và 500.000Đ cho học sinh vùng ven) và khuyến khích các em sau nầy quay lại giúp cho các em nghèo trên quê hương các em. Phương thức nầy rất hiệu nghiệm. Nhiều em học sinh nghèo mà học giỏi tại trường Quốc Học được nhận học bổng RLC đã tốt Đại học và cũng đã có những em đi du học Pháp, Úc.
Và chắc độc giả còn nhớ, mùa thi vừa qua (2004), VTV và báo Thanh Niên nhiều lần đưa tin viết bài về trường hợp vợ chồng ông nông dân Nguyễn Hữu Dinh (52 tuổi) - Nguyễn Thị Thương (49 tuổi) ở làng Dã Lê Chánh, huyện Hương Thủy (Thừa Thiên Huế ), đã bán nhà, bán đất, cả gia đình xin tạm trú trong hiên nhà thờ họ để nuôi 6 đứa con đi học. Hai cháu trai đầu (Hữu Phương, Hồng Quang), đã đỗ Kỹ sư tại Đại học Bách Khoa Đà Nẵng, cháu trai thứ ba (Minh Châu) đang học quản lý Công nghiệp ĐHBK TP HCM, cháu thứ tư (Đoan Trang), học năm thứ 2 ĐHSP Huế, cháu thứ năm (Hồng Minh) vừa đỗ vào Khoa Sinh ĐHSP Huế, cháu gái út đang học lớp 6 tại quê nhà. Hiện nay vợ chồng ông Dinh vẫn còn ở tạm trong hiên nhà thờ họ Nguyễn Hữu, bà Thương bệnh sỏi thận đang chờ giải phẫu lần thứ ba, nhưng không khí gia đình ông bà rất hạnh phúc. Ông bà tin chắc khi các con đã tốt nghiệp Đại học, vợ chồng ông sẽ được đổi đời. Cả làng Dã Lê Chánh của ông xưa nay chưa có một gia đình nào có quyết tâm, và biết đầu tư cho việc học hành của con cái đến nơi đến chốn như thế.
Từ một vài việc nhỏ nêu trên, tôi liên hệ đến việc lớn của giáo dục quốc gia. Việt Nam ta nghèo nhưng không đến nỗi thiếu thốn lắm. Năm 2003, nhà nước dám bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để tổ chức Seagames 22 thì cũng có thể bỏ ra chừng ấy tiền để cung cấp cho công cuộc cải cách giáo dục (nếu cải cách đúng). Đó là chưa tính đến số tiền cũng cả ngàn tỷ đồng của các nước (đặc biệt là Nhật Bản), các tổ chức phi chính phủ giúp cho giáo dục nữa. Vấn đề ở đây là tiêu đồng tiền đó làm sao cho có hiệu quả nhất. Ai cũng biết “không thầy đố mầy làm nên”, đất nước đổi mới hội nhập, ta chưa có ông thầy giáo của thời kỳ đổi mới hội nhập thì làm sao “làm nên” đổi mới hội nhập được? Sau ngày Cách mạng Tháng mười Nga thành công, Lénine (1870-1924) hỏi nhà văn không xuất thân khoa bảng Maxime Gorki (1868-1936): “Cách mạng thành công rồi nên làm việc gì trước?”. Maxime Gorki không do dự trả lời ngay: “Cải cách giáo dục”. Sau ngày Liên Xô tan rã và sau sự kiện ngày 19.8.1991, một trong những việc Tổng thống Eltsine cho làm ngay là soạn thảo và thông qua “Luật Giáo dục Liên bang Nga”. Vì cần gấp cho nên chỉ trong vòng 6 tháng, Luật Giáo dục Liên bang Nga đã soạn thảo xong và thông qua. Theo các nhà nghiên cứu giáo dục, bộ luật mới nầy của Liên bang Nga vừa mang tính truyền thống vừa hoà nhập thế giới “như nhân vǎn hoá, dân chủ hoá, giáo dục được lựa chọn”, “phù hợp tính chất kinh tế thị trường lại kế thừa tính ưu việt Giáo dục Xô viết cũ” đúng với đường lối chính trị mới của Liên bang Nga. Tháng 7.1992, Luật Giáo dục Liên bang Nga đi vào cuộc sống, đào tạo ra lớp người mới giữ vững được vai trò cường quốc của Liên bang Nga ngày nay. Maxime Gorki - người bạn lớn của Lénine không nói đến việc phát triển kinh tế rồi mới nghĩ đến việc cải cách giáo dục. Tổng thống Eltsine không đợi đến khi vực dậy được nền kinh tế Nga - thời hậu xô-viết, rồi mới tính đến việc cải cách giáo dục, mà phải làm ngay. Những nhà hoạch định giáo dục Việt Nam ngày nay đều biết chuyện đó, nhưng họ có vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam hay không, tôi không rõ.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, chiếm vị trí ưu tiên trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế mà nhiều người đặt câu hỏi: Tại sao ta không đầu tư cho việc đào tạo thầy giáo thời kỳ đổi mới một ngân sách như ngân sách đầu tư cho Seagames 22 để gởi một ngàn sinh viên ưu tú có bản lãnh dân tộc sang Âu - Mỹ học Sư phạm hoặc mời một ngàn thầy giáo ở Âu -Mỹ về giúp ta đào tạo thầy giáo mới? Tôi nghĩ nếu có một ngàn thầy giáo mới ấy thì sự nghiệp giáo dục hiện nay sẽ mới và hiện đại ngay.
Nói tóm, làm sao cho có tiền là rất khó, nhưng biết sử dụng đồng tiền sao cho có hiệu quả nhất, bền vững nhất lại là việc khó hơn. Đồng tiền trong tay ngành giáo dục Việt Nam hiện nay đã được sử dụng hữu hiệu chưa? Người dân đang chờ câu trả lời của ngành giáo dục.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:40:26 GMT -5
5.Thị trường lao động
Muốn có kinh tế tri thức, các nước giàu đang bỏ tiền mua trí thức, mua chất xám. Trong nền kinh tế thị trường, việc cạnh tranh hàng hoá đã thấy khắc nghiệt rồi. Thế nhưng cạnh tranh về lao động tri thức còn ghê gớm hơn nhiều. Cuộc cạnh tranh đó các nước kém phát triển chỉ có thua, thua dài dài, thua đậm chứ không bao giờ thắng hay hoà được với tư bản.
Các nước kém phát triển là nơi tiêu thụ hàng hoá của các nước phát triển. Ngược lại các nước phát triển là thị trường “tiêu thụ” nhân tài, trí thức của các nước kém phát triển. Có được mấy người giỏi của Âu Mỹ đến làm việc cho các nước kém phát triển? Hay họ chỉ đến làm thầy rồi đi thôi? Trong lúc đó, đại đa số những người tài của các nước kém phát triển phục vụ trong các nước phát triển. Hàng ngàn người tài Việt Nam đang làm việc trong nhiều lĩnh vực tại các nước phát triển Âu Mỹ minh chứng cho nhận xét ấy.
Một thực tế đáng lo ngại nữa là tại Việt Nam trong mấy năm gần đây, đã xuất hiện những tổ chức đi “săn đầu người” của nước ngoài. Trước các kỳ thi tốt nghiệp Đại học, các tổ chức “săn đầu người” đến các Đại học tuyển người (chọn người giỏi về chuyên môn và giỏi ngoại ngữ ) rồi cung cấp cho các công ty, tổ chức nước ngoài làm ăn tại Việt Nam. Lương của người được tuyển cao gấp 4 - 5 lần so với lương chính thức của thầy cô giáo vừa đào tạo nên người giỏi ấy. Một số người được tuyển được đưa ra nước ngoài làm việc. Có người ra đi và không bao giờ trở về nữa. Giống như du học sinh giỏi, tốt nghiệp ở nước ngoài và ở lại làm cho ngoại quốc luôn. Những sinh viên tốt nghiệp được giữ lại trường phần lớn không phải là những người giỏi mà là COCC, người có tiền đút lót, có thân có thế. (Có thể nhìn vào bất cứ Đại học, Trung học, Viện nào cũng có thể thấy có hiện tượng ấy). Nếu các Đại học có chủ trương những sinh viên tốt nghiệp thuộc loại giỏi nhất - nhì - ba sẽ được giữ lại trường thì các sinh viên giỏi yên tâm, có chỗ làm việc tốt, không ngó nghĩ gì đến việc làm cho nước ngoài nữa. Bên cạnh chủ trương đó, lãnh đạo và các đoàn thể trong nhà trường chăm sóc, bồi dưỡng chính trị cho những sinh viên giỏi ấy nữa thì việc giữ người tài càng chắc hơn.
Nếu cái bệnh chủ nghĩa bình quân, nhất thân nhì thế, tiêu cực không chữa trị được thì Việt Nam sẽ làm mất hết trí thức giỏi. Khi ấy muốn có những ngành kỹ thuật cao, những ngành đòi hỏi tri thức bậc cao ta phải thuê người nước ngoài với giá ngộp thở giống như gỗ của “rừng vàng” đem bán hết, ngày nay phải nhập gỗ nước ngoài về sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu vậy.
Một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với một nền Đại học trong thế giới có nền kinh tế thị trường là “tinh thần tự trị Đại học”. Có tự trị Đại học mới phát huy được thế mạnh, sự độc đáo, sự sáng tạo riêng của sinh viên, của từng Đại học. Việc nầy liên quan đến chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngoài quyền lực của ngành Giáo dục Đào tạo xin dành trình bày trong một dịp khác.
Như vậy cải cách giáo dục còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố xã hội ngoài phạm vi giáo dục. Cho nên bao giờ những bất cập của xã hội chưa được giải quyết thì vấn đề giáo dục chưa vừa ý được.
Những việc tôi vừa nêu trên mang tính cục bộ, cảm tính. Nếu nó không đúng với tình hình chung, kính mong được lượng thứ. Đa tạ.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:42:18 GMT -5
Thay lời kết
Thay đổi tư duy, giáo dục là sự nghiệp chung của toàn dân, dân trong nước và dân ở nước ngoài, dân chủ để tập cho học sinh sinh viên thực hành dân chủ, thay đổi phương pháp làm việc, cập nhật việc sử dụng CNTT, thay thế những người không còn đáp ứng được những yêu cầu của đổi mới giáo dục bất cứ họ ở cấp nào.
1. Thay đổi tư duy và nhân sự:
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả và chất lượng hàng hoá quyết định cho sự thành bại. Chỉ cần dăm ba chuyến hàng kém phẩm chất bị trả lại đủ để cho hãng sản xuất đó phải xem lại từ khâu nguyên liệu, tay nghề, máy móc kỹ thuật để đổi mới, sản xuất ra những mặt hàng chất lượng cao có đủ sức cạnh tranh trong thị trường. Nếu không đổi mới được thì phải thay giám đốc, hoặc chấp nhận phá sản.Trong lúc đó sản phẩm của ngành giáo dục Việt Nam sản xuất ra hàng loạt để cho các Đại học, các trường dạy nghề có việc làm (như ý kiến của ông Trần Chí Đáo mà tôi đã dẫn), để đạt chỉ tiêu năm sau cao hơn năm trước chứ không phải để thoả mãn nhu cầu của thị trường lao động đang đòi hỏi “chất lượng cao”. Cái khối người thất nghiệp có bằng Đại học đó rất to lớn, đào tạo rất tốn kém, lại ở phân tán trong dân không đủ sức làm áp lực buộc Bộ GDĐT phải cấp bách xem lại “máy móc”, qui trình sản xuất, tay nghề “thợ” như các ngành công nghiệp. Nên chăng Quốc Hội nên hỏi bộ Bộ GDĐT: “Hiện nay trong kho của Bộ còn bao nhiêu sản phẩm không tiêu thụ được?”. “Sản xuất ra hàng vạn người có bằng Đại học thất nghiệp đó đã ngốn của nhà nước bao nhiêu tiền?”. “Nếu cái khối thất nghiệp có bằng Đại học kia họp nhau lại đòi bổ nhiệm, ai sẽ chịu trách nhiệm của quốc gia để đứng ra giải quyết?” “Vì sao họ thất nghiệp trong lúc thị trường đang rất cần người?”. “ Ai có trách nhiệm thảo kế hoạch tiêu thụ số người thất nghiệp đó?”. Sự bức xúc của xã hội hôm nay chưa đủ làm áp lực cho Bộ GDĐT phải cấp bách cải cách triệt để nền giáo dục Việt Nam hôm nay hay sao? Nếu không làm được thì Bộ trưởng GDĐT có phải ra đi không?
-Giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải trách nhiệm cục bộ của ngành giáo dục: Trách nhiệm xã hội đó là người làm trong bộ máy chánh quyền phải gương mẫu, chí công vô tư, trọng dụng người tài, tôn sư trọng đạo, công bằng, dân chủ, cha mẹ trong gia đình phải chăm sóc con cái học hành chứ không phải chạy mua bằng, xin điểm cho con. Được sống và học tập trong môi trường an toàn (environnemental safe), tuổi trẻ tin mình sẽ được trọng dụng mới phấn đấu học giỏi, khám phá, sáng tạo.
-Vai trò của người Việt ở nước ngoài: Người Việt ở trong nước cũng như ở ngoài nước do khách quan của lịch sử để lại còn nhiều khúc mắc về chính trị nhưng đối với giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai đất nước thì bất cứ người Việt ở đâu cũng muốn hết lòng. Không có một sinh ngữ nào người Việt không giỏi, không một nền giáo dục tiên tiến nào trên thế giới người Việt không am tường. Nhưng cho đến nay tôi chưa hề nghe đã có một cuộc hội thảo nào về đổi mới giáo dục Việt Nam dành cho người Việt ở nước ngoài. Và khi có người Việt ở nước ngoài tham gia ý kiến thì bạn bè người nước ngoài của họ cũng sẽ tham gia và Việt Nam sẽ có vô số ý kiến hữu ích về cải cách giáo dục với một giá hời nhất.
- Giáo dục phải đi đầu trong việc thực hiện dân chủ: Hiện nay trường học nào cũng treo khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Theo nghĩa thông dụng ngày xưa lễ ở đây là lễ nghĩa, những phép tắc và lẽ phải của xã hội mà mọi người phải làm, phải theo. Theo nghĩa ngày nay người ta đơn giản chỉ hiểu lễ là học trò phải lễ phép cung kính thầy giáo, cha mẹ, hoà thuận với anh em, bạn bè. Nếu hiểu như thế thì quá tầm thường. Theo tôi thực hành lễ ngày nay còn phải hiểu là thực hành dân chủ công bằng trong nhà trường. Phải tập cho học trò hiểu và thực hành dân chủ công bằng ngay trong nhà trường thì sau nầy các cháu ra trường mới đem cái tinh thần ấy phủ lên xã hội được. Phải bầu hiệu trưởng, bầu trưởng các bộ môn, bầu trưởng lớp. Ai học giỏi được ưu tiên, người nghèo được xét tặng học bổng, trợ cấp tiền bạc để học lên chứ không ưu tiên trong học vấn, trình độ tri thức. Có như vậy mới trừ được cái nạn “cấp bằng cho kẻ giết người” (Cấp bằng bác sĩ cho người tay nghề yếu sẽ dễ làm chết người).
- Một nền giáo dục mới thích hợp cho thời đại mới: Giáo dục Việt Nam ngày nay phải đào tạo ra một lớp người mới cho Việt Nam - thành viên của WTO vào năm 2005. Một số vị có trách nhiệm đổi mới nền giáo dục hiện nay theo dư luận xuất thân từ cái lò đào tạo bao cấp của Liên Xô cũ. Cái nền giáo dục của Liên Xô cũ đã bị thay thế ngay trên đất Liên bang Nga hàng chục năm rồi. Cũng theo dư luận cái tư duy của các vị khoa bảng Liên Xô cũ (trong đó có nhiều vị có bằng "Tiến sĩ hữu nghị") giống như cái máy vi tính đời DX của những năm tám mươi, ngày nay không thể cải tiến nâng cấp để có thể tương thích với hệ điều hành Window những năm 2000 được.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:42:32 GMT -5
2. Sử dụng công nghệ thông tin:
-Lãnh đạo GDĐT các cấp phải gởi văn bản qua e-mail đóng góp ý kiến với Báo cáo của Bộ sắp trình ra Quốc Hội, qua văn bản góp ý đó, Bộ có thể biết được nhận thức, trình độ của từng cơ sở, lãnh đạo, quản lý ở cấp dưới như thế nào. Qua đó Bộ cũng có thể đánh giá những cấp dưới nào có thể giúp cải cách giáo dục và cấp nào bảo thủ cần phải thay thế.
-Bộ Trưởng không cần phải đến các địa phương, không cần tìm đến gặp gỡ người quan tâm Giáo dục mà cứ ngồi ngay ở Bộ, qua giao lưu trực tuyến, Bộ có thể thu nhận được ý kiến đến từ mọi miền của thế giới.
- Thay vì tổ chức hội thảo đi lại tốn kém mất thì giờ, Bộ GDĐT hãy mở một trang web cải cách giáo dục kêu gọi những người quan tâm giáo dục góp ý kiến cải cách giáo dục Việt Nam, Bộ sẽ nhận được hàng trăm ý kiến, chắc chắn trong đó có nhiều ý kiến sáng giá.
-Bộ Nội vụ phải mạnh dạn ban hành những chính sách thích ứng: Những người Việt Nam đã làm việc cho nước ngoài rồi có kinh nghiệm khi trở lại làm việc cho VN thì sẽ có những ưu đãi: nơi làm việc, được giao trách nhiệm rõ ràng, lương, nhà cửa v.v...
3. Một tính chất của giáo dục hiện đại
Viết đến đây tự nhiên tôi giật mình. Một người không xuất thân khoa bảng, không nghiên cứu giáo dục, chưa được tham khảo báo cáo của Bộ sắp trình lên Quốc Hội mà dám phát biểu những ý kiến nghịch nhĩ bàng bạc trong gần 30 trang giấy trên thật là chuyện “điếc không sợ súng”.
Như nhiều lần tôi đã thưa, xấp giấy mà quý vị đang cầm trên tay chỉ là những ý tưởng tản mạn, thiếu dẫn chứng, thiếu mạch lạc, không phải là tham luận, lại càng không phải là một biên khảo có giá trị khoa học. Đây chỉ là sự trăn trở của một người dân cầm bút có trách nhiệm với quốc gia dân tộc mà thôi. Nội dung 7 ý tưởng trên có thể đã lạc hậu, hoặc trùng lắp ý kiến của nhiều người khác mà Bộ GDĐT đã quá rõ. Vậy kính mong người đọc miễn thứ cho những thiếu sót, bất cập.
Tôi biết nhược điểm thiếu thông tin về giáo dục của tôi, tôi không hy vọng mình có thể đóng góp được một chút gì về tri thức đổi mới cho các vị có trách nhiệm cải cách giáo dục hiện nay. Nhưng trước khi kết thúc những trang viết nầy tôi tin ít ra tôi cũng đã thể hiện được một chút tính chất của giáo dục hiện đại: Đó là tinh thần trách nhiệm và dám đối thoại.
Gác Thọ Lộc, một ngày trung tuần tháng 10.2004 N.Đ.X
|
|
|
Post by Robot on Nov 9, 2004 8:06:21 GMT -5
Nâng cao chất lượng đào tạo đại học: Khó hay dễ?
TS Lê Ngọc Trà
TT - "Tôi đã có xem qua một số giáo trình về văn hóa, văn học do một số thầy giáo ở ĐH hay cao đẳng biên soạn được bày bán ở hiệu sách. Tôi nghĩ giá mà SV không phải học hay đọc những giáo trình như vậy có lẽ trình độ biết đâu sẽ khá hơn."
Những giải pháp chung có thể phổ biến, áp dụng đại trà thì đã có sẵn trong kho kinh nghiệm của các trường ĐH phát triển thành công, và đã và đang được nhắc đến đầy rẫy trong sách báo...
Thầy giỏi = 1/2 trường ĐH
Làm thế nào để có được thầy giỏi? Câu này ai cũng trả lời được nhưng thực tế lại không làm được. Nguồn đầu tiên để có được thầy giỏi là giữ SV giỏi ở lại trường. Nhưng nhiều năm qua những người giữ lại trường có thật sự là giỏi không? Câu này tôi xin để mỗi người tự trả lời. Ở đây tôi chỉ xin nói thêm hai điều:
Thứ nhất, cần phân biệt SV học giỏi và SV có khả năng nghiên cứu. Có những SV điểm không thật cao và đều, nghĩa là có thể không đáp ứng những tiêu chuẩn hình thức về điểm số, lại là những người có tư chất làm khoa học, giỏi thật sự; đồng thời có những SV là những người đạt được điểm cao, chuyên cần, ngoan ngoãn nhưng thật sự không có năng lực nghiên cứu và tiếp tục phát triển.
Thứ hai, không nên chỉ giữ SV tốt nghiệp khoa mình, trường mình ở lại làm cán bộ giảng dạy bởi vì có nguy cơ họ sẽ lặp lại thầy mình do quá sùng bái thầy hay do không có điều kiện để suy nghĩ sáng tạo. Đây là kinh nghiệm mà nhiều trường ĐH ở Mỹ đã thực hiện.
Ngoài việc giữ lại SV tốt nghiệp, nên thực hiện chế độ thi tuyển vào các vị trí cán bộ giảng dạy ở các bộ môn. Việc này rất nên làm, nhưng tôi cũng hiểu bây giờ đây cũng chỉ là nói cho vui thôi. Ở ta tiếc là hiện đang có quá nhiều điều nói cho vui theo kiểu này. Ai cũng thấy là hay, là cần nhưng không ai làm, mà làm cũng chẳng được. SV Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) truy cập thông tin tại thư viện điện tử. Bản chất của phương pháp giảng dạy ĐH là hướng dẫn cho SV biết tự tìm kiếm thông tin để tự học, tự nghiên cứu và phát triển tư duy sáng tạo - Ảnh: Thanh Đạm
Giúp SV phát triển tư duy sáng tạo
Hiện nay có những cách dạy mới như dạy theo nhóm, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin. Đó là những phương pháp hiện đại, giáo viên cần biết, cần vận dụng.
Nhưng cái cần thiết đối với thầy giáo không phải là đổi mới mà sử dụng một cách thích hợp tất cả phương pháp cũ và mới, vận dụng sáng tạo các phương pháp ấy trong mỗi trường hợp cụ thể để giúp SV nắm được kiến thức và phát triển được tư duy sáng tạo.
Bản chất của phương pháp giảng dạy ở ĐH là dạy làm sao để SV có thể tự học, biết cách tự học, tự đọc sách, tự nghiên cứu, tự suy nghĩ. Bởi vậy phương pháp có thể rất đa dạng nhưng làm sao phải đạt được mục đích nói trên.
Hiện nay tình trạng phổ biến là SV chỉ học ở trên lớp, còn nhà trường thì cố đưa thật nhiều nội dung kiến thức vào chương trình và thầy giáo phải cố giảng thật nhiều mới yên tâm. Thật ra làm như thế là làm ngược. Chuyện này lại liên quan đến vấn đề giáo trình. Muốn SV tự học được, cái cần nhất là phải có sách, có thư viện. Tôi nói là sách và thư viện chứ không nói là giáo trình. Nhiều trường nghĩ rằng muốn nâng cao chất lượng đào tạo phải có giáo trình và thế là dốc hết sức để biên soạn giáo trình.
Nhiều trường trình độ cán bộ ở bộ môn còn yếu cũng viết giáo trình và thế là SV cứ thế ôm giáo trình của thầy và học thuộc. Tôi cho đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng giáo dục ĐH kém hiện nay.
Chúng ta đều biết biên soạn giáo trình là một công việc hết sức khó khăn. Trường ĐH Tổng hợp quốc gia M.Lomonosov có lịch sử gần 300 năm và mãi đến 60 năm sau Cách mạng Tháng Mười là năm 1978 mới xuất bản được bộ giáo trình chính thức về “Lý luận văn học”, trong khi bộ môn này thành lập từ năm 1960 và chủ nhiệm bộ môn đã có học hàm phó giáo sư từ cách đó hơn 30 năm.
Công việc của trường ĐH là phải xây dựng được những thư viện lớn, mua thật nhiều sách, tổ chức dịch thuật nhiều tài liệu cho các ngành chuyên môn. Công việc của thầy giáo là giới thiệu cho SV những tài liệu bắt buộc hoặc cần phải đọc, chứ không phải yêu cầu SV đọc hay học thuộc giáo trình của mình. Báo chí đã nêu lên một số trường hợp các thầy dịch copy giáo trình của nước ngoài rồi để tên mình. Đúng là chuyện bậy nhưng như vậy vẫn còn có cái may.
Tôi đã có xem qua một số giáo trình về văn hóa, văn học do một số thầy giáo ở ĐH hay cao đẳng biên soạn được bày bán ở hiệu sách. Tôi nghĩ giá mà SV không phải học hay đọc những giáo trình như vậy có lẽ trình độ biết đâu sẽ khá hơn.
TS LÊ NGỌC TRÀ
|
|