|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:36:17 GMT -5
Học để làm người và học để sống với nhau
Các tân sinh viên Trường ĐH Sư phạm TP.HCM. Chấn hưng giáo dục có lẽ phải bắt đầu từ đội ngũ này - Ảnh: Như Hùng
TT - Sự mở rộng kinh tế thị trường vừa tạo điều kiện vật chất cho con người nhưng cũng đang tạo ra những thách thức gay gắt về đạo lý, về cách hưởng thụ văn hóa và thành tựu của văn minh, khoa học kỹ thuật.
Đổi mới giáo dục (GD) ở nước ta nhất thiết phải bắt đầu từ bên trên, từ chuyển động ở cấp vĩ mô. Nếu GD thật sự được xem là quốc sách, là bức xúc của toàn dân, là đòn bẩy của sự phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc chấn hưng dân tộc thì phải tập trung mọi nguồn lực quốc gia, tập trung chỉ đạo công tác cải cách GD như chỉ đạo chiến dịch trong chiến tranh.
Phải có sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban bí thư, sự quan tâm cụ thể của lãnh đạo cao nhất của đất nước như trước đây Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng làm...
Cắt 20-25% nội dung chương trình
Trước hết cần xác định lại mục tiêu đào tạo, quan niệm về GD và tính chất của nhà trường trong hoàn cảnh mới của đất nước đang hướng tới công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Cần quán triệt tinh thần thông điệp của UNESCO về GD trong thế kỷ 21: “Học để biết, học để làm, học để làm người và học để sống với nhau” (hiện nay chúng ta chỉ nặng về “học để biết”).
Trong mục tiêu GD cần đặc biệt quan tâm đến việc hình thành ở thế hệ trẻ những phẩm chất cần thiết cho việc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới như tính trung thực, óc phê phán, tư duy sáng tạo, tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm và lòng khoan dung, nhân ái.
Trên cơ sở này thiết kế lại chương trình GD phổ thông và chương trình đào tạo ĐH cũng như chương trình, nội dung giảng dạy của từng môn học cho phù hợp với mục tiêu trên và đảm bảo tính thống nhất, xuyên suốt từ mẫu giáo đến lớp 12.
Cần nhanh chóng thực hiện chủ trương một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa để phát huy trí tuệ chung của các nhà giáo và khả năng sử dụng của mỗi địa phương.
Trong khi chờ đợi cải cách chương trình, cần mạnh dạn cắt giảm 20-25% nội dung chương trình giảng dạy hiện nay, cắt giảm giờ lên lớp và ngày học trong tuần, góp phần giải quyết tình trạng quá tải và tạo điều kiện giúp giáo viên có thể đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm hình thành tư duy sáng tạo cho học sinh. Đây cũng là một nhân tố làm giảm tình trạng học thêm dạy thêm hiện nay.
Thời đại chúng ta cũng đang chứng kiến sự lấn lướt của tư duy lý trí, của nền văn minh phương Tây đe dọa làm lệch sự phát triển cân bằng của con người, làm cho con người thông minh hơn nhưng cũng dễ trở nên khô khan, vô cảm, ích kỷ và thiếu lòng khoan dung trong thế kỷ đầy xung đột này.
Ở nước ta, sự mở rộng kinh tế thị trường vừa tạo điều kiện vật chất cho con người nhưng cũng đang tạo ra những thách thức gay gắt về đạo lý, về cách hưởng thụ văn hóa và thành tựu của văn minh, khoa học kỹ thuật.
Vượt qua được những thách thức này, con người mới làm chủ được những kết quả của phát triển kinh tế, không trở thành nô lệ của nó, đồng thời mới có thể tác động lại kinh tế, làm cho kinh tế phát triển mạnh hơn nhưng vẫn đảm bảo tính nhân văn và yêu cầu của sự phát triển bền vững.
Xã hội càng phát triển, nhu cầu về GD thẩm mỹ càng lớn. Chính vì vậy ngay từ bây giờ cần có một chương trình quốc gia về GD thẩm mỹ do Chính phủ phụ trách.
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:36:31 GMT -5
Kéo dài thời gian đào tạo giáo viên
Nhìn chung các trường sư phạm hiện nay chưa xác định thật rõ mục tiêu đào tạo của mình, hầu hết mới tập trung vào việc dạy kiến thức, chưa chú ý đầy đủ đến việc dạy nghề, bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm.
Trong việc GD phẩm chất thường cũng chỉ quan tâm đến GD tư tưởng đạo đức nói chung, chưa chú trọng bồi dưỡng lòng yêu nghề, tình yêu thương học sinh, yêu thương con người vốn là điều cốt lõi của mọi hoạt động GD.
Đặc biệt, chương trình đào tạo của các trường sư phạm hầu hết tập trung vào việc cung cấp tri thức chuyên môn của từng môn, chưa quan tâm rèn luyện phương pháp giảng dạy các kiến thức đó theo hướng phát huy tính sáng tạo của học sinh.
Nhiều vấn đề quan trọng như phương pháp đánh giá, kiểm tra, cho điểm bằng trắc nghiệm, tự luận, kỹ năng tổ chức lớp học không được dạy trong trường sư phạm.
Điều đáng nói hơn nữa là hiện nay trong chương trình đào tạo của các trường sư phạm hầu như không có nội dung bồi dưỡng năng lực GD cho sinh viên. Nhà trường chỉ chú ý đến năng lực giảng dạy chứ chưa quan tâm đến việc hình thành người giáo viên với tư cách là nhà GD, người thầy, trong khi đó sau khi ra trường, sinh viên không chỉ trở thành giáo viên đứng lớp mà còn là người hướng đạo, sống chung với trẻ, dìu dắt, uốn nắn, giúp trẻ trở thành con người phát triển.
Để làm được điều này cần có một thay đổi lớn về mục tiêu và chương trình đào tạo của các trường sư phạm. Nên kéo dài việc đào tạo giáo viên ở các trường ĐH sư phạm, trước hết là ĐH sư phạm trọng điểm thành năm năm.
Đồng thời nên mở rộng phạm vi và tính chất của các trường ĐH sư phạm trọng điểm, biến các trường này không chỉ bó hẹp trong việc đào tạo giáo viên (teacher training college) mà còn là nơi huấn luyện, nghiên cứu về GD, nơi chuẩn bị các công trình sư về GD cho đất nước (university of education).
Hiện nhiều người vẫn gọi ĐH Việt Nam là “trường cấp 4”. Điều này đúng cả về hai phương diện: cơ sở vật chất và cách nghĩ, cách dạy. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước phải cấp đất cho các ĐH (kể cả công và tư ) và đầu tư xây dựng một số ĐH thật đàng hoàng.
Đồng thời phải tạo điều kiện cho các trường ĐH có quyền chủ động nhiều hơn nữa trong việc xây dựng chương trình, xuất bản, tổ chức đào tạo. Đặc biệt, phải hình thành tư duy ĐH trong nhà trường và xã hội, làm cho trường ĐH trở thành trung tâm chất xám, nơi bồi dưỡng tinh thần dân chủ, dám nghĩ, dám phát minh, có ý kiến mới, thành một môi trường mở về tri thức và tư tưởng, trung tâm giao lưu quốc tế về khoa học và sáng tạo.
Cần tập trung xây dựng một số ĐH thật hiện đại để đào tạo nhân tài, để làm mẫu và cung cấp cán bộ giảng dạy cho các ĐH khác. Đồng thời mở rộng hệ thống ĐH, chấp nhận nhiều loại trường (trường công, trường tư ), nhiều qui mô, hình thức đào tạo (tại chức, từ xa, tín chỉ...). Bên cạnh đó cần lập một hay vài trung tâm kiểm định quốc gia để đánh giá, xếp loại các cơ sở đào tạo ĐH.
GS.TSKH LÊ NGỌC TRÀ
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 6:36:33 GMT -5
Các GS kỳ vọng gì với QH về chấn hưng giáo dục? 08:07' 25/10/2004 (GMT+7)
(VietNamNet) - Từ Tokyo, Brussels, Paris..., các GS nổi tiếng của Việt Nam đã gửi về VietNamNet những kỳ vọng với Quốc hội khóa XI về chấn hưng giáo dục nước nhà. Soạn: AM 178605 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS
Paris 22/10/2004: Bùi Trọng Liễu, tiến sĩ nhà nước về khoa học, nguyên GSĐH Paris (Pháp): Nhà nước dự báo, kiểm tra nhưng không xen vào thẩm quyền của trường ĐH và cơ sở khác
Tôi mong mỏi Quốc hội lần này sẽ:
1.Khẳng định rằng Giáo dục Đào tạo (GDĐT) có liên quan đến thị trường, tức là quá trình đào tạo phải gắn với nhu cầu của xã hội; nhưng tự nó không phải là một thứ hàng hóa có thể mua bán tự do. Những dịch vụ về GDĐT phải tuân thủ những qui định về chất lượng và nội dung tri thức.
2. Khẳng định rằng một trọng tâm của GDĐT là đội ngũ nhà giáo: có thày giỏi thì mới có trò giỏi. Thay việc phong chức danh Giáo sư như hiện nay, bằng việc bổ nhiệm chức vụ Giáo sư gắn liền với chỗ làm và chức năng giảng dạy và nghiên cứu ở các đại học. Tiến tới cải tổ lại hệ thống các đại học sư phạm hiện nay : thay tuyến sinh ở mức tú tài, bằng tuyển sinh ở mức cử nhân, để nâng chất lượng, rút ngắn thời gian đào tạo sư phạm, giảm giá thành, đồng thời bảo đảm cho giáo viên khả năng đổi nghề, theo nhu cầu của xã hội, của thị trường.
3. Có ý kiến về công lập và tư lập. Theo tôi, công lập phải được duy trì và củng cố. Tư lập góp phần tích cực, nhưng không để tư lập vượt quá một tỉ lệ vừa phải, lợi tức tài chính phải được giới hạn. Nhà nước dự báo, kiểm tra, điều tiết, nhưng không xen vào những vấn đề thuộc thẩm quyền của các ĐH và các cơ sở khác.
4. Có ý kiến về các biện pháp (hành chính và hình án) để trừng phạt việc gian lận trong thi cử, sử dụng bằng cấp giả hoặc tiếm xưng danh hiệu ở mọi cấp bậc (đối với các cá nhân gian lận và các tổ chức liên quan).
Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của xã hội dựa trên tri thức với sự đua tranh quyết liệt về mọi mặt giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu và trong bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế, giáo dục ở nước ta có vai trò vo cung quan trọng trong việc đào tạo lớp người lao động với những phẩm chất: trung thực, năng động, dũng cảm, thông minh và có đủ kiến thức nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Soạn: AM 178607 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS
Brussels, 24/10/2004, Tôn Thất Nguyễn Thiêm, GSTS viện United Business: Quốc hội chưa có pháp quy về tính chất bất vụ lợi của các hình thái giáo dục!
Vấn đề "nóng": làm sao để xã hội hoá giáo dục, phát huy chất lượng thị trường lao động mà bản thân lĩnh vực giáo dục không bị thị trường hoá?
Trong kinh tế thị trường, sức lao động là loại hàng hoá mà chẳng ai – cả bán lẫn mua - lại thật sự muốn chất lượng của nó là "dởm"! Nhất là khi nước ta tham gia vào thể chế kinh tế mà sự cạnh tranh dựa trên mức đối chiếu toàn cầu về "người thật việc thật"!
Với người học, giáo dục đào tạo là điều kiện cần để nâng cao chất lượng lao động của họ nhằm trao đổi nó với ‘giá cao’ nhất! Vì thế, nếu có được sự so sánh tử tế giữa ‘thật’ và"‘dởm" (chủ yếu là giữa "thật và dởm" chứ không phải "công và tư"!), quyền lợi lâu dài của họ là chọn cái "càng thật càng tốt"!
Một tiêu chí để đánh giá ‘dởm’ và ‘thật’ là: xã hội hoá giáo dục có động cơ gì?
Đa số công nhận là hoạt động của việc ‘trồng người’ phải vì mục đích "phi lợi nhuận" nhưng Quốc hội lại chưa có pháp quy về tính chất bất vụ lợi của các hình thái giáo dục!
Pháp chế trên sẽ thay đổi nền tảng của ngành giáo dục bị lũng đoạn bởi một cơ chế quan liêu hành chính có trong bộ máy Nhà nước và bởi không ít tổ chức dân lập ‘kinh doanh thời vụ’ theo chế độ ‘công ty cổ phần ăn chia siêu lợi nhuận’!
Nguồn nhân lực Việt Nam sẽ là một ‘hàng hoá giá trị’ mang lợi ích bền vững cho bản thân người lao động và cho nền kinh tế khi ngành giáo dục được điều tiết bởi một pháp chế minh định hoạt động bất vụ lợi của nó! Từ đó, sự tương tác giữa Nhà nước, Xã hội và Thị trường cũng sẽ được triển khai đàng hoàng hơn trong lĩnh vực giáo dục đào tạo! Trọng trách trên vai Quốc hội vô cùng lớn!
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 6:37:10 GMT -5
Paris, 22/10/2004, Trương Nguyên Trân, GS trường ĐH Polytechnique, Pháp: Cấp thiết tạo điều kiện để cho những nhà khoa học Việt Nam trở lại làm việc ở quê nhà
Cách đây khoảng 7, 8 năm, tôi hân hạnh được GS Nguyễn Văn Đạo, Giám đốc ĐHQG Hà Nội mời làm cố vấn cho ĐHQG và cũng được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khuyến khích và thúc đẩy tôi giúp vào công việc này. Tôi đã nhận lời và đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Những suy nghĩ của tôi về ĐH Khoa học đã được cho đăng lên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày 2/3/1997. Với thời gian qua, 6 đề nghị của tôi đưa ra vẫn chưa được thực hiện, ngoài việc chuyên chọn lọc sinh viên Việt Nam du học tại Pháp ở trường Polytechnique,một trường ĐH Khoa học rất có tiếng ở Pháp và trên thế giới mà tôi hân hạnh được đóng góp vào công trình này. Tôi rất muốn gửi gắm những điều này tới Quốc hội về giáo dục nước nhà ở trình độ ĐH. Tôi xin trích đây những điểm chính:
1. Hệ thống ĐH phải đa dạng và ĐHQG phải là ĐH kiểu mẫu có chất lượng cao nhất. Trong vài chục năm tới, chúng ta phải nhằm vào trình độ các ĐH có tiếng trên thế giới.
2. Nâng cao chất lượng kiến thức, chú trọng đặc biệt hai năm đầu của chương trình ĐH và cương quyết đổi mới phương pháp giảng dạy ĐH.
3.Đầu tư cho các phòng thí nghiệm dùng trong việc giảng dạy 2 năm đầu ĐH và tập cho sinh viên thói quen làm việc tập thể (teamworrk). Tôi nhấn mạnh hai năm đầu ĐH vì những phòng thí nghiệm trong giai đoạn này tương đối ít tốn kém và sinh viên được học hỏi nhiều.
4.Cung cấp đầy đủ sách giáo khoa hiện đại cho thầy giáo và sinh viên, phải có những thư viện tốt với đầy đủ các chuyên ngành của nước ngoài.
5. Cập nhật kiến thức cho các thầy giáo giảng dạy ĐH.
6. Mời các nhà khoa học nước ngoài đến giảng dạy ĐH.
Ngoài những đề nghị nói trên, một vấn đề cấp bách trong những năm đến là việc tạo điều kiện để cho những nhà khoa học Việt Nam trở lại làm việc ở quê nhà. Như tôi đã nói ở trên, trường Polytechnique ở Palaiseau qua sự giúp đỡ của Pháp, đến năm nay, đã giúp đào tạo gần 100 nhà khoa học tương lai của Việt Nam. Đây không phải là những sinh viên tầm thường mà là tinh hoa của đất nước, với trình độ của các sinh viên được đào tạo ra ở những ĐH có tiếng của Mỹ như Harvard, MIT. Chính phủ phải tạo điều kiện để đem những tài năng này trở lại Việt Nam. Chương trình MSI (Millenium Science Initiatives) của GS Griffiths nhằm tạo điều kiện đem những tài năng Việt Nam ở nước ngoài về nước là một chương trình phải được suy nghĩ nhiều và phải được ủng hộ. Soạn: AM 178611 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS
Tokyo. Nhật Bản: 24/10/2004, Trần Văn Thọ, GS ĐH Waseda, Nhật Bản: Không xem văn bằng tiến sĩ là một trong những tiêu chuẩn để đề bạt
Nhìn chung, chất lượng đào tạo đại học ở VN thấp. Phân tích kỹ sẽ thấy có nhiều yếu tố đưa đến tình trạng nầy nhưng trong đó có hai nguyên nhân lớn mà chỉ cần một quyết định sáng suốt của nhà nước là giải quyết được ngay.
Thứ nhất là cơ chế phân ly giữa nghiên cứu và giảng dạy vẫn còn tồn tại, người nghiên cứu chỉ ở các viện nghiên cứu, ít tham gia giảng dạy, trong khi giáo viên ở ĐH phải dạy quá nhiều giờ và ít có điều kiện về thì giờ, về cơ sở vật chất và các cơ hội để nghiên cứu. Trong tinh hình đó, trình độ thầy giáo nói chung không cao gây ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Rõ ràng là cần nhanh chóng sáp nhập phần lớn các viện và trung tâm nghiên cứu hiện có vào trong các trường ĐH.
Thứ hai là chuẩn mực bằng cấp ở VN tụt xuống mức thấp nghiêm trọng, đặc biệt là những văn bằng trên ĐH như thạc sĩ và tiến sĩ mà nguyên nhân chính là do cơ chế khuyến khích chạy theo bằng cấp vẫn còn tồn tại một cách vô lý. Nhà nước vẫn tiếp tục cấp kinh phí để quan chức đi học lấy bằng tiến sĩ (!), và các cơ quan nhà nước vẫn xem bằng cấp trên ĐH là một trong những tiêu chí để đề bạt. Kinh nghiệm các nước cho thấy trừ một vài lãnh vực đặc biệt, văn bằng trên ĐH, nhất là văn bằng tiến sĩ, chẳng có lợi gì cho việc quản lý, điều hành ở các cơ quan nhà nước. Xét tình hình cụ thể của VN hiện nay cũng dễ dàng thấy được điều đó. Cơ chế, chính sách hiện tại vừa phí phạm nguồn lực xã hội đáng lẽ để dồn vào việc bồi dưỡng trình độ nghiên cứu và giảng dạy cho giao viên ở ĐH, vừa gián tiếp làm giảm chuẩn mực của thầy giáo dạy ở ĐH vì những bằng cấp họ lấy được ở VN cũng bị ảnh hưởng của trình độ bằng cấp nói chung.
Do đó, việc cần làm ngay là không xem văn bằng tiến sĩ là một trong những tiêu chuẩn để đề bạt ở các cơ quan quản lý của nhà nước và không cấp kinh phí, không tạo các điều kiện khác cho cán bộ đi học tại chức bậc tiến sĩ.
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 6:37:47 GMT -5
TP.HCM 22/10/2004: GS Nguyễn Văn Đạo, GS ĐHQG Hà Nội: Nhìn thẳng vào yếu kém
Trong nhiều năm gần đây, giáo dục Việt Nam đã trở thành vấn đề được toàn xã hội rất quan tâm với nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải được giải quyết không chậm trễ: như cải cách chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, cải cách thi cử, vấn đề tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo, vấn đề huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia phát triển giáo dục, những tiêu cực trong giáo dục từ phía nhà quản lý và người học, mở rộng mạng lưới các trường tư, việc làm cho sinh viên sau khi ra trường, v.v…
Chính vì vậy, toàn dân ta, đặc biệt là các nhà khoa học, nhà giáo tâm huyết, đang hướng về kỳ họp tới đây của Quốc hội, mong rằng với tinh thần nhìn thẳng vào những yếu kém, tồn tại trong giáo dục nước ta và mạnh dạn đổi mới tư duy về giáo dục, Quốc hội sẽ đề ra được những biện pháp đúng đắn và kiên quyết để chấn hưng giáo dục. Với tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục nước ta trong giai đoạn hiện nay, có lẽ chúng ta cũng cần phải cảnh báo (dựa theo một khẩu hiệu của Cuba): “Đổi mới căn bản giáo dục hay là chịu tụt hậu? Chúng ta nhất định phải tiến lên!" Soạn: AM 178617 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS
Brussels, 22/10/2004, Nguyễn Đăng Hưng, Giáo sư trưởng, trường ĐH Liège, Bỉ: Ba đột phá cấp thiết
Tôi thiết tha mong mỏi lần này Quốc hội sẽ đi đến những bước đột phá cần thiết trong việc cải cách hệ thống giáo dục Việt Nam bao gồm ba điểm sau đây:
1. Đổi mới tư duy về giáo dục.
1.1. Đổi mới tư duy về quản lý giáo dục, quản lý tốt phải đồng nghĩa với phục vụ tốt, nhanh chóng trao quyền tự quản cho các trường đại học.
1.2 Trở về thực học để đào tạo người có thực tài, phân luồng, phân tầng trong việc tổ chức giáo dục, mềm đầu vào và cứng đầu ra, mở thêm các trường ngắn hạn, có cơ chế liên thông rõ ràng minh bạch giữa các ĐH và các trường CĐ.
1.3 Không lẫn lộn giữa giáo dục và tuyên truyền, trả lại cho nhà trường chức năng "thế nhân" của nó.
1.4 Tổ chức giáo dục hướng tới tri thức quốc tế, dạy ngoại ngữ sớm từ cấp tiểu học, mở rộng sử dụng Internet, dần dần đưa yếu tố quốc tế thành tiêu chí căn bản trong việc đánh giá chất lượng các đại học, các thành viên, các giáo sư, các nghiên cứu sinh. Soạn: AM 178621 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS Từ tháng 2 đến tháng 9 năm nay, 23 nhà trí thức trong và ngoài nước đã đều đặn tham gia xemina về chấn hưng giáo dục do GS Hoàng Tuỵ khởi xướng.
2. Cần phải có thời gian, lộ trình để cải tổ nền giáo dục đào tạo : Nhưng có những hướng có thể giải quyết ngay mà không tốn nhiều ngân sách lại có hiệu ứng tức thì:
2.1 Bỏ việc cấp bằng cho các khóa chuyên tu, tại chức, chỉ cấp chứng chỉ mà thôi.
2.2 Trừ những viện nghiên cứu chiến lược quốc gia, sát nhập các cơ sở nghiên cứu và giáo dục tương đồng lại với nhau.
2.3. Chỉ nên có hai hệ thống trường công lập và trường tư thục.
2.4 Việc quan trọng nhất là đừng để cho giáo dục trở thành hàng hóa thuần tuý bằng cách kịp thời xây dựng một khung pháp lý cần thiết.
3. Để thực hiện cải tổ phải có người mới trong và ngoài nước, có thành phần đã từng cọ xát với các nền giáo dục của các nước tiên tiến tham gia vào ban đề xuất ý kiến, ban tổ chức, ban thực hiện, ban kiểm tra...
*
Hạ Anh (thực hiện)
|
|
|
Post by Robot on Oct 27, 2004 7:48:48 GMT -5
Thay đổi về giáo dục cần có thời gian
NGUYEN THANH MY, PH.D
"Thay đổi phương cách giáo dục là thay đổi cả tư duy"
Chất lượng giáo dục ở Việt Nam bậc đại học và sau đại học có rất nhiều vấn đề cần phải được sửa đổi. Thí dụ như sau:
- Học sinh rất thụ động trong lớp học: học để đi thi lấy bằng cấp chứ không phải để biết và ứng dụng. Thầy nói trò phải nghe chỉ một chiều chứ không có tính cách thảo luận trong lớp học như ở Mỹ, Canada và những nước châu Âu, do đó phương cách giáo dục phải được thay đổi, tạo điều kiện để những học sinh có thể phát biểu và đặt câu hỏi trong lớp học cũng như ở phòng thí nghiệm.
- Quá kỷ luật: kỷ luật và sáng tạo thường đi ngược nhau. Nếu quá kỷ luật thì thiếu sáng tạo. Trong các lớp học ở Việt Nam thì quá kỷ luật, do đó, học sinh thiếu sáng tạo và thụ động. Phương cách giáo dục phải sửa đổi để quản lý bằng kỷ luật và sáng tạo.
- Thiếu thực tế: Các môn học thiếu thực tế và không cập nhật thường xuyên. Đa số giáo viên thiếu kinh nghiệm trong ứng dụng và chỉ lặp đi lặp lại những gì trong sách cũ. Nhà nước nên tạo điều kiện để các giáo sư được đi học thêm và cập nhật hàng năm những khám phá mới, liên hệ trong bộ môn mình giảng dạy. “Thầy không giỏi thì trò dở”.
- Thiếu tinh thần học tập và làm việc tập thể (team work). Phương cách giáo dục nên phát huy tinh thần học tập và làm việc tập thể. Học tập và thí nghiệm thì nên chia từng nhóm thay vì từng người. Nên khen thưởng cho nhóm hơn là cho cá nhân, tránh tình trạng siêu sao (super star).
Thay đổi phương cách giáo dục là thay đổi cả tư duy, do đó, cần nhiều thời gian và kiên nhẫn.
N.T.M
Nên khách quan khi nhìn nhận
GIAO KHANH
"Chế độ nào cũng có cái hay cái dở cả..."
Tôi thấy hầu hết các bài viết của quý vị đều có vẻ nặng về đả kích, đào khoét những cái tiêu cực chứ không thấy đả động gì đến những thành công của nền giáo dục Việt Nam như giành được nhiều giải cao trong các kỳ thi quốc tế Olimpic về Toán, Lý, Hóa, Computer, Robot…cũng như tên tuổi các nhà khoa học Việt Nam, những em học sinh học giỏi tại các trường đại học ngoại quốc.
Nếu chỉ có đả kích, phê phán mà không có khen ngợi và vạch ra được những giải pháp, những cách thức để duy trì những cái tốt, xóa bỏ những cái xấu, cái tiêu cực thì những đóng góp của quý vị sẽ rất hạn chế, đôi lúc còn làm cho nhiều người ngoại quốc không hiểu tại sao giáo dục Việt Nam tệ đến như vậy mà sao các học sinh Việt Nam khi ra nước ngoài lại có kết quả khá và giỏi, nhiều khi còn giỏi hơn cả các học sinh Hoa Kỳ nữa?
Lấy một ví dụ ở tiểu bang tôi đang sống có hơn 700 em học sinh, sinh viên sang du học. Tôi biết một em ngày trước ở Việt Nam chỉ là học sinh trung bình, cha mẹ em là doanh nghiệp tư nhân nên có tiền cho em sang Mỹ học. Trong vòng có 4 năm em đã tốt nghiệp BS về Accounting tại trường đại học lớn nhất và nổi tiếng nhất ở tiểu bang tôi ở. Trong khi đó cậu cháu con ông anh tôi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, được hưởng nền giáo dục hiện đại mà phải tốn mất 5 năm mới học xong. Vậy điều này lý giải làm sao đây?
Tôi mong rằng các quý vị trong nước cũng như hải ngoại trước khi đả kích, phê phán nên chịu khó bỏ thì giờ ra đọc sách báo, tin tức của Mỹ và các nước khác để có được những tài liệu, bằng chứng cụ thể, khách quan chứ cứ ngồi trong nhà tưởng tượng ra toàn những hình ảnh xấu xa, tiêu cực về quê nhà để phê phán thì không hay chút nào cả. Nhất là bên Hoa Kỳ này nhiều vị còn lấy những chuyện đã xảy ra cách đây 30, 40, 50 năm để gán ghép cho thời nay nhằm đả kích chế độ hiện tại ở Việt Nam với mục đích chính trị không tốt đẹp chút nào.
Chế độ nào cũng có cái hay cái dở cả. Nếu cứ hận thù, chia rẽ thì chỉ có thể đi đến chiến tranh thôi. Đó là điều chẳng ai muốn. Xin chúc các quý vị một lần nữa hãy sống thiện tâm, thiện chí với quê nhà, cùng nhau đoàn kết dân tộc, phát huy cái hay và tình yêu thương, xóa bỏ cái xấu và sự hận thù, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn.
G.K
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:52:48 GMT -5
Cần thay đổi cách nhìn đối với giáo dục
Không nên vô cảm trước sự tụt hậu
GS Hoàng Tụy TT - Trong kiến nghị gửi lên Trung ương và Chính phủ, chúng tôi đề nghị cần phải xây dựng lại giáo dục (GD) từ gốc. Vì sao?
Đừng đổ lỗi...
Cả chục năm nay Trung ương đã có nhiều nghị quyết đúng đắn chỉ rõ những bất cập, yếu kém của GD. Nhà nước và xã hội đã đầu tư nhiều cho GD, ngành GD cũng đã cố gắng hết sức. Nhưng không kỳ họp Quốc hội nào không nêu lên những bức xúc của xã hội về GD.
Vậy chỉ có một trong hai điều: hoặc là ta làm đúng, làm tốt về cơ bản, còn tụt hậu là không tránh được do sức của ta chỉ có vậy, nhân dân hãy gắng chịu, không nên kêu ca; hoặc là có gì đó không ổn, không ổn từ gốc, kìm hãm tiềm năng trí tuệ của ta, chứ nếu sửa cái gốc kia để phát huy hết tiềm năng thì đất nước nghìn năm văn hiến này đâu dễ thua kém ai.
Tôi cho rằng nhận định sau mới đúng với thực tế và mới đưa lại cho chúng ta đủ ý chí và quyết tâm chấn hưng GD, làm cuộc cách mạng trong GD để dựa vào đó mà thanh toán nghèo nàn, lạc hậu.
Đó mới chính là thái độ trách nhiệm nghiêm chỉnh, mới không phụ lòng mong mỏi của nhân dân, không phụ sự cố gắng của giáo viên, không phụ lòng tin của học sinh, không phụ truyền thống tốt đẹp của xã hội.
Thật đáng buồn còn có nhiều người vô cảm đến mức coi thường các bức xúc của xã hội, của người dân, họ coi những bức xúc ấy là vô căn cứ, là bi quan không đúng.
Trong buổi làm việc của Thủ tướng với các nhà giáo ngày 12-7, tôi có nghe một cô giáo trẻ ở Ninh Bình kể lại với lương tháng 800.000 đồng, sau khi trừ nhiều khoản đóng góp còn lại 600.000 đồng để sống và nuôi con mà vẫn vui vẻ làm nhiệm vụ.
Cho nên, với tình hình quản lý như vừa qua mà GD còn được thế này, thật sự đó là kỳ công của đội ngũ giáo viên mà chỉ trừ một số ít con sâu làm rầu nồi canh, còn lại ta phải gọi họ là những anh hùng. Hoàn toàn không nên đổ lỗi cho họ. Lỗi chính là tại chúng ta quá vô cảm trước những khó khăn của họ.
Nếu cứ để GD nhếch nhác như hiện nay rồi sẽ đến lúc suy sụp, chúng ta nói nguy kịch là như vậy, nói để cùng nhau suy nghĩ, để tích cực tìm đường ra, thay vì bàng quan đứng nhìn sự suy sụp đó. Mong rằng tới đây chúng ta sẽ nhận rõ hơn mức độ khủng hoảng của GD và tập trung sức giải quyết để GD thật sự là quốc sách hàng đầu.
Đừng đổ lỗi cho cái nghèo. Có thể nói không đâu người ta xài ngông cho GD như ở ta. GD của ta kém chủ yếu không phải do ta nghèo.
Đầu tư của xã hội cho GD, kể cả tiền vay nước ngoài mà con cháu ta sẽ phải nai lưng ra trả, không đến nỗi quá thiếu; đội ngũ giáo viên phổ thông của ta còn nhiều tiềm năng, nếu chấn chỉnh quản lý, cắt bỏ mấy “khối u” dị dạng về thi cử, dạy thêm học thêm, sách giáo khoa, cương quyết hiện đại hóa, tôi tin rằng chỉ mấy năm GD phổ thông sẽ đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực.
Cái đáng lo hơn nhiều, rất nhiều là dạy nghề và GD đại học. GD đại học lại đi liền với khoa học, mà cả hai khâu này đang trì trệ, đang tụt hậu.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:53:29 GMT -5
Vấn nạn thi cử trong nhà trường
Ba năm gần đây, sau khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, việc thi cử đã có một số cải tiến đáng hoan nghênh, nhưng vẫn chưa có thay đổi cơ bản mà còn nặng nề, tốn kém, ít hiệu quả. Với cách thi cử này, dù cải tiến vẫn chưa chấm dứt được kiểu học để thi, học thuộc lòng máy móc, chưa chấm dứt được tệ dạy thêm học thêm tràn lan, luyện thi vô tội vạ.
Ngoài số giờ học chính khóa ra học sinh ở các thành phố phải học thêm trung bình 7-10 tiết nữa, mà nội dung cũng chỉ là học lại chương trình chính khóa. Chưa kể việc luyện thi mà như nhiều bài phóng sự mô tả đã biến thành một thứ công nghiệp.
Tôi không hiểu học mà cứ suốt ngày lên lớp nghe giảng như thế thì còn đâu thì giờ suy nghĩ, tiêu hóa kiến thức. Học cách ấy mà đầu óc không mụ mị đã là may chứ làm sao mở mang được trí tuệ.
Không ai nghĩ bộ muốn như vậy, nhưng trên thực tế nhiều chủ trương, từ chương trình, sách giáo khoa cho đến cách dạy, thi cử, đánh giá dường như đều khuyến khích lối dạy và học lạc hậu. Chương trình quá tải, chủ yếu vì ôm nhiều phần cổ lỗ không cần thiết, học nhiều thứ vô bổ có khi chiếm tới 15-20% thời lượng học.
Trong khi ấy nhiều vấn đề thiết thực hoặc có tác dụng rèn luyện tư duy và kỹ năng cần thiết trong đời sống hiện đại lại không được chú trọng. Phương pháp dạy cũ kỹ, nhiều phần chẳng khác gì cách đây 40-50 năm, càng làm cho cảm giác quá tải thêm nặng nề.
Nhiều học sinh khi ra học ở nước ngoài mới vỡ lẽ là trong nước học hành quá ư cực nhọc. Ta nói chống học tủ, học lệch mà cứ đầu học kỳ thông báo sáu môn thi tốt nghiệp, thế là nhiều nơi bỏ hết các môn còn lại để dồn vào các môn thi. Như thế đâu phải chỉ lỗi tại giáo viên mà còn do chỉ đạo từ bộ.
GS. Hòang Tụy
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:54:05 GMT -5
...Và sự mê hoặc của những chức danh ảo
Không nên chỉ so sánh mình với mình, nếu cứ đóng cửa lại thì bao giờ chẳng thấy mình tiến. Điều quan trọng hơn là nhìn ra ngoài, xem khi ta tiến một bước thì thiên hạ đã tiến bao nhiêu bước, khoảng cách giữa ta với họ rút ngắn được chừng nào. Nếu không có ý thức đó thì không thể tiến kịp người ta, không thể hội nhập thành công.
Lấy ví dụ, số giáo sư, phó giáo sư (GS, PGS) của ta nhiều hơn một số nước khác có trình độ GD hơn ta, nhưng thật ra trong số đó nhiều người chỉ là hữu danh vô thực, trình độ quá thấp so với chức danh. Có bao nhiêu vị như vậy? Có lần tôi nói ít ra cũng đến 1/3, lập tức một vị phản đối kịch liệt. Có thể vị ấy lo bị miễn nhiệm, nhưng theo tôi cái chính không phải để miễn nhiệm ai cả, mà nêu ra để rút kinh nghiệm cho tương lai.
Về sau chính một quan chức trong hội đồng chức danh GS, PGS cũng phải thừa nhận: “Không phải chỉ 30% mà đến 80% GS, PGS của ta chưa xứng đáng theo tiêu chuẩn quốc tế”, nhưng giải thích thêm “tuy nhiên, ta xét GS, PGS theo tiêu chuẩn của ta”.
Nghĩa là GS, PGS của ta là GS, PGS của VN thôi, xin đừng so với quốc tế, đừng so với ngay cả những nước láng giềng! Trách gì đại học của ta không tụt hậu, đứng áp chót trong khu vực. Bổ sung vào đội ngũ GS, PGS hùng hậu đó gần đây lại có thêm mấy tá viện sĩ nữa, cứ nhìn vào con số ấy thì VN đâu có kém nước nào.
Tiếc thay, trên quốc tế và trong khoa học người ta không bị mê hoặc bởi các thứ chức danh ảo. Lẽ ra chúng ta cần biết khiêm tốn và trung thực hơn. Ta cứ trách các trường phổ thông báo cáo thành tích ảo, chất lượng ảo, sao không băn khoăn về sự gia tăng tiến sĩ, viện sĩ, PGS, GS ảo?
GS HOÀNG TỤY
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:55:23 GMT -5
Bài 2:
Công bằng trong giáo dục
Liệu sẽ không còn những gương mặt thí sinh đầy lo âu, căng thẳng trước kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng?
TT - Chỉ nói riêng về sách giáo khoa (SGK) đã thấy rõ điều này. Các gia đình nghèo cho con đi học đã khó, lo được SGK là cả một vấn đề vì SGK đắt quá, mỗi năm phải mua mới.
Chưa bình đẳng về cơ hội học tập
Các nước văn minh, giàu có cũng chỉ cho HS thuê, mượn SGK chứ không bắt buộc phải mua như ta. Như thế làm sao khuyến khích HS nghèo đi học? Đó là chưa nói sách liên tục sửa chữa, thay đổi; trong một gia đình, sách của anh học rồi không chuyển lại cho em dùng được, rất phí phạm.
Rồi còn bao nhiêu khoản tốn kém khác, nhà nghèo làm sao chịu đựng nổi! Với cách thi cử, đánh giá, tuyển sinh kiểu này, dù có chính sách cử tuyển gì cũng chẳng bù được thiệt thòi cho người nghèo và dân cư các vùng xa, vùng cao.
Đương nhiên không nên và không thể đòi hỏi công bằng tuyệt đối ngay, nhưng cũng phải thấy chính sách của ta còn quá nhiều thiếu sót để đảm bảo công bằng, tức là bình đẳng cho mọi người về cơ hội học tập và thành đạt.
Để gian dối phát triển: tai họa khôn lường
Ai cũng thấy rõ là so với mấy chục năm trước, hiện nay thói gian dối trong xã hội và nhà trường của ta rất trầm trọng. Trước kia không đến nỗi như bây giờ. Học trò gian lận trong thi cử; thầy giáo, cán bộ quản lý giáo dục (GD) dối trá khi báo cáo thành tích; tệ tham nhũng nặng nề trong xã hội...
Như thế sản phẩm GD làm sao tốt được. Một giáo sư nước ngoài đã từng đến VN năm 1975, giờ trở lại có dịp vào một lớp đang thi đã thốt lên chưa bao giờ bà được mục kích nhiều sự gian dối tập trung trong một thời gian ngắn và một không gian hẹp như vậy! Muốn hiện đại hóa - công nghiệp hóa đất nước, muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải trừ tận gốc nạn gian dối, tham nhũng.
Thời đại hội nhập mà làm ăn mất chữ tín là mất hết. Còn muốn cạnh tranh mà không có ý tưởng mới, không có sáng tạo, chỉ chuyên bắt chước mù quáng thì làm sao cạnh tranh nổi. Cho nên có hai thứ mà nhà trường của ta, xã hội ta chưa GD tốt cho thanh thiếu niên là: trung thực và sáng tạo. Tôi nghĩ hãy khoan nói đến chuyện gì cao xa hơn, chỉ lo cho tốt hai điểm đó cũng đã là thành công lớn lắm rồi.
GS. Hòang Tụy
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:56:09 GMT -5
Lo cho thầy giáo: ưu tiên số 1 để vực dậy giáo dục
Trong tình hình hiện nay, muốn vực GD lên phải có những biện pháp đủ mạnh từ trên mới thắng được sức ỳ. Nếu cần chọn một giải pháp đột phá cho toàn ngành GD (và cho cả khoa học vì GD đại học liên quan chặt chẽ với khoa học), tôi nghĩ trước hết đến chính sách đối với thầy giáo.
Vì sao? Vì yếu tố quyết định nhất đối với chất lượng GD suy cho cùng là đội ngũ thầy giáo. Có thầy tốt mới có thể thực hiện được mọi biện pháp chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa GD. Mà muốn có thầy tốt và thầy tốt phát huy được tác dụng thì cần có chính sách đúng đắn với nhà giáo. Ở đâu và bao giờ cũng vậy, chính sách đầu tiên quan trọng nhất là chính sách tiền lương và sử dụng, bồi dưỡng.
Phần lớn những nhếch nhác, tiêu cực trong GD thật ra đều phát sinh từ những bất cập trong chính sách này. Sở dĩ nạn dạy thêm, học thêm phát triển tràn lan là do đã có thời lương thầy giáo quá thấp, trong khi đó nhiều chủ trương sai lầm về thi cử (như thi theo bộ đề thi) thúc đẩy nhu cầu học thêm, luyện thi để đi thi, nhân đó nhiều thầy giáo cấp III phổ thông, đại học mở lớp dạy thêm, luyện thi, rồi từ cấp III phong trào lan xuống cấp II, cấp I.
Ở đại học thì luyện thi đại học, rồi dạy liên kết, dạy “sô”... cứ thế những nguồn thu nhập ngoài lương ngày càng tăng, vượt xa lương gốc nhiều lần. Đó là quá trình các thầy giáo, do tình thế bắt buộc, phải tự tạo ra một phương thức thích nghi để giữ vững và tiếp tục phát triển GD.
Vì vậy, hoàn toàn không nên trách cứ giáo viên, mà nên thấy đó là hậu quả của việc thiếu trách nhiệm trong việc đảm bảo điều kiện tối thiểu cho thầy giáo làm nhiệm vụ của mình.
Cái giá phải trả cho việc thiếu trách nhiệm đó quá lớn, vì cuối cùng thì Nhà nước và nhân dân vẫn phải chi ra một khoản tài chính đủ để đảm bảo đời sống cho giáo viên, nhưng lại phân phối khoản tài chính đó theo một phương thức kỳ lạ, tạo ra những nếp dạy và học lạc hậu bất bình thường mà hậu quả là nền GD bị tha hóa, một bộ phận biến chất thành hoạt động kinh doanh trục lợi, làm lu mờ lý tưởng cao đẹp của GD và để lại nhiều di chứng sẽ còn ảnh hưởng lâu dài sau này.
Chẳng hạn, do chính sách đó cho nên dạy thêm, học thêm đã thành một nếp rất khó bỏ, mặc dù đối với nhiều thầy giáo dạy thêm đã không còn là nhu cầu bức bách mưu sinh. Vấn đề hiện nay là thu nhập thực tế của đa số giáo viên tuy đã tạm đủ, song cơ cấu thu nhập ấy hoàn toàn không khuyến khích giáo viên làm tốt công việc của mình trong các giờ chính khóa.
Như vậy, việc cấp bách là cần điều chỉnh chế độ sử dụng và cơ cấu thu nhập để giải phóng giáo viên khỏi những lớp dạy thêm và các việc phụ khác, có thể tập trung dạy tốt trong chính khóa mà vẫn được bảo đảm mức thu nhập đầy đủ.
Tốt nhất là cải cách chế độ tiền lương sao cho lương trở thành thu nhập chính đủ bảo đảm mức sống tương đối. Trong tình hình ngân sách nhà nước không thể cấp đủ nguồn tài chính thực hiện chế độ lương đó, trước mắt có thể đặt ra một khoản học phí chính thức để bổ sung vào nguồn tài chính trả lương.
Khoản học phí này không được nhiều hơn mức phí trung bình gồm tổng số tất cả các khoản đóng góp mà thực tế hiện nay HS phải trả, đồng thời phải có chính sách học bổng thiết thực cho HS nghèo và trong diện cần nâng đỡ.
Khi ấy tất cả việc học tập sẽ tập trung vào chính khóa, nếu cần thì giảm tải chương trình để chỉ những giờ chính khóa (dĩ nhiên được dạy chu đáo) cũng đủ để thực hiện hết chương trình mà không cần tăng tiết, dạy thêm.
GS HOÀNG TỤY
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:58:51 GMT -5
TẢN MẠN VỀ GIÁO DỤC VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI HIỆN NAY
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(Nhà văn-Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế )
BÀI 1: Ai học? Học để làm gì?
Hơn hai mươi năm qua nền giáo dục Việt Nam không ngừng được bàn thảo, không ngừng được cải cách đối mới. Nhưng càng cải cách đổi mới càng chưa thấy lối ra.
Thế rồi khi đất nước mở cửa, hội nhập, đi vào kinh tế thị trường mới thấy nền giáo dục của mình không giống ai, không giống với chính mình trước kia, không đào tạo được con người đủ để làm nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngang tầm thời đại như đất nước mong muốn thì đâm hoảng, dao động… Rồi chính những người “xây dựng thành công nền giáo dục duy ý chí” trước đây hay được đào tạo bởi “nền giáo dục duy ý chí ấy” ngồi lại bàn và quyết định thôi không duy ý chí nữa, phải cải cách, phải như thế nầy, phải như thế nọ…
Hết thế hệ học trò nầy đến thế hệ học trò kia được đem ra thử nghiệm, ngốn không biết bao nhiêu tỷ đồng của quốc gia để cuối cùng, như có người nói: chỉ “phổ cập được hàng ngàn tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ dỏm” làm cho những giáo sư tiến sĩ thật phải thẹn mà thôi. (Nói như vậy hơi quá đáng nhưng trong một phạm vi nào đó không phải là nói ngoa).
Tôi không xuất thân khoa bảng, không hoạt động trong ngành giáo dục nên không dám lạm bàn về việc cải cách giáo dục. Nhưng là một người cầm bút (écrivant) có suy nghĩ về tương lai đất nước, nên tôi không thể yên tâm trước tình hình giáo dục của đất nước hiện nay. Do đó với sự thúc đẩy của lương tâm, tôi ghi lại sau đây mấy ý tưởng tản mạn về giáo dục - ngành mà tôi không chuyên. Những ý tưởng nầy nếu không có ích gì cho việc tham khảo nghiên cứu cải cách giáo dục chung hiện nay, thì ít ra nó cũng giải tỏa ra khỏi đầu óc tôi bớt những dằn vặt đã làm cho tôi mất ngủ.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:59:21 GMT -5
Ý TƯỞNG 1
Thử nhắc lại qui luật vận hành của việc học "Cốt học cho giỏi, kiến thức rộng, tư duy độc lập, sống cuộc đời tự do, không màng danh lợi"
Giáo dục là một thực thể xã hội sống, vận hành theo một qui luật khách quan. Qui luật đó từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây về chi tiết có thay đổi chút đỉnh (ngoại lệ ) nhưng về cơ bản thì giống nhau. Đi học để làm gì? Với người này thì để có kiến thức, thi đậu, được xã hội công nhận, có việc làm, được xã hội quý trọng; với người khác lại là để có chức, có danh, có quyền, được vinh thân phì gia, được ăn trên ngồi trước, được địa vị hơn người (chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng Tổng); (“Sống ở trong trời đất phải có danh gì với núi sông” - Nguyễn Công Trứ ).
Những ngoại lệ:
- Có những người học giỏi, đỗ đạt cao, có uy tín, được dân tin để hoạt động yêu nước (trường hợp Phan Bội Châu) chứ không ra làm quan.
- Có những người học giỏi, học cốt có đủ kiến thức để hoạt động cách mạng, hiến dâng cuộc đời cho dân cho nước (trường hợp Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh).
- Có những người học mà không quan tâm đến khoa bảng, cốt học cho giỏi, kiến thức rộng, tư duy độc lập, sống cuộc đời tự do, không màng danh lợi, được người đời kính trọng xem như một kẻ sĩ (ngoại lệ nầy thời nào cũng có).
Trừ những ngoại lệ, còn nói chung không ai thoát ra khỏi cái qui luật vận hành nêu trên.
Nhìn lại trong quá khứ, thời quan liêu bao cấp, duy ý chí, xã hội ta đã không quan tâm đến qui luật vận hành của giáo dục, không xem trọng việc dạy và học. Trường Đại học Bách khoa là thượng đẳng, còn Đại học Sư phạm dạy sinh viên đi làm thầy giáo thì thuộc loại thấp kém: “Chuột chạy cùng sào mới vào Sư phạm”. Sinh viên sư phạm đi học nghề thầy ở trong các Ký túc xá “Ăn như sư, ngủ như phạm”.
Bởi vì vào thời ấy chính trị là thống soái, người giữ vị trí quan trọng chưa hẳn là người có kiến thức, có thực học, có chuyên môn. Người trong đoàn thể hay được đoàn thể công nhận là có việc làm (làm cho nhà nước), được xã hội quý trọng hay không, không cần biết, có chức (chính trị ), có danh, có quyền là được ăn trên ngồi trước, được địa vị hơn người, đi Đông đi Tây… Con đường tiến thân của thanh niên không phải là việc học giỏi. Tất cả những chỗ làm việc quan trọng, thuận lợi, tốt, thu nhập khá đều dành cho COCC (con ông cháu cha). Những người có tiền muốn con cháu mình vào chỗ “mát ăn bát vàng” (ngành Bưu điện, Hàng không, Thuế vụ, Hải quan, Nhà đất v.v...) phải hối lộ. Một bộ máy nhà nước được cấu tạo bởi những con người như thế mà rất có quyền hành, người dân phải đến “xin”, người được nhà nước giao quyền muốn "cho" ai cái gì thì cho (cho chỗ học, cho việc làm, cho lương cao, cho nhà đất, cho quyền hành, cho chức vụ, cho chữ ký v.v…). Nếu không bằng lòng thì có trời xin cũng không cho. Không thưa kiện được ai cả. Từ sau ngày đất nước đổi mới, từ lãnh đạo cho đến người dân đều công nhận tình hình “duy ý chí, bao cấp, cửa quyền” như thế là sai. Phải sửa. Phải chống.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 16:59:49 GMT -5
Nhưng sửa như thế nào? Người lãnh đạo, người quản lý, thầy giáo Đại học phải có học hàm Giáo sư, học vị Tiến sĩ, người quản lý giáo dục từ Trung ương xuống địa phương cần phải có Thạc sĩ, Tiến sĩ, Phó Giáo sư, Giáo sư. Đây là một chủ trương đúng. Phải như thế mới hội nhập với quốc tế được. Nhưng tiếc thay, đáng lẽ phải đào tạo một cách cơ bản, phải tìm những Giáo sư Tiến sĩ có thực học, đã thành công trên lãnh vực chuyên môn vào làm những chức vụ ấy thì - muốn giữ được chức quyền đã và đang có - những người trước kia phấn đấu vào Đảng để đủ yếu tố “hồng” để được đề bạt, nay tìm mọi cách để có cái bằng Tiến sĩ, rồi sau đó phấn đấu để được công nhận là PGS, GS - yếu tố “chuyên” - để được tại vị và lên chức. Thấy thế, dân gian bình luận: “Đi vô đi ra cũng mấy thằng cha khi nãy”. “Thằng cha khi nãy” trước kia ít tai hại hơn “thằng cha khi nãy” đã có học hàm học vị GSTS. Vì sao? Vì:
- Anh ta muốn có cái học hàm học vị GSTS, phải rất tốn kém. Do đó khi đã đạt được GSTS rồi anh ta phải sử dụng “cái bùa” ấy để thu lại: Phải đấu tranh tăng lương, phải đòi được thăng chức cho tương xứng với học hàm học vị GSTS, phải có đất có nhà, trong lúc trình độ chuyên môn của anh không có gì khá hơn, đôi khi còn kém hơn cả thời còn trai trẻ nữa.
- Anh ta với cái ghế trì trệ, lạc hậu, tiêu cực đáng lẽ phải được thay thế thì khi anh ta có cái GSTS rồi, cái ghế ấy được vặn thêm ốc vít, không ai lay chuyển được. Anh ngồi đó, không cho ai chứng tỏ giỏi hơn anh, không cho ai nói, làm gì để lộ cái kém cỏi của anh.
Nếu những vị nầy mà được Trung ương giao cho việc cải cách giáo dục thì còn cải dài dài và chưa biết đến bao giờ mới cách được.
Một số người khác, tuy chức, quyền đã “đụng trần” nhưng lại mang mặc cảm không có bằng cấp trong xã hội “phổ cập Giáo sư Tiến sĩ”, nên không vững tâm với khả năng và vị thế chính trị của mình, cũng bị cuốn vào cái dịch chạy học hàm, học vị. Cái học hàm học vị nầy không loè được ai, mà ngược lại nó chỉ làm mất giá trị của chính các vị ấy mà thôi. Quan sát trong thực tế xã hội xưa nay, ta thấy nhiều người thành công trong các lãnh vực chính trị, kinh doanh không hẳn là những người có học hàm học vị cao.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:00:33 GMT -5
Tư duy của nhà chính trị, nhà kinh doanh khác tư duy của những GSTS. Nhiều việc người có học hàm, học vị không làm được. Bác Hồ không có học hàm học vị nào cả mà các vị đại trí thức có học hàm học vị quốc tế theo Bác rất đông và trọn đời trung thành với sự nghiệp của Bác. Các ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy không một mảnh bằng cấp, làm ngoại giao lúc đất nước khó khăn, mà nào có thua trí Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ là Tiến sĩ Henri Kissinger đâu? Các ông Tàu Chợ Lớn trước đây và bây giờ làm ăn thành đạt ghê gớm, có ông nào có học hàm học vị gì đâu? Ông Nguyễn Bá Thanh, ông Nguyễn Sự hiện nay có bằng cấp gì về Hành chánh, Bảo tồn bảo tàng di sản văn hoá gì đâu mà các ông đã đưa Thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An lên thành những mẫu mực về đổi mới, về bảo vệ và phát huy thành phố di sản Thế giới làm cho cả nước phải đến nghiên cứu học tập? Hàng ngàn Giáo sư Tiến sĩ chuyên môn đầy mình có ai làm được như thế chưa? "Việt Nam đâu đến nỗi hiếm người tài?" Cũng qua quan sát ta thấy các nhà chính trị, các nhà kinh doanh lớn đều sử dụng trí thức, sử dụng chuyên gia chứ ít thấy có vị học hàm học vị nào dám xài các chính khách và các nhà kinh doanh. Bà N.C.T đứng đầu hãng sản xuất Tân dược OPV Overseas là một nhà kinh doanh thành công lớn nhất trong giới Việt Kiều ở Mỹ. Bà chỉ học đến Tú tài I trường Khải Định trước đây. Giúp việc cho bà có hàng trăm Tiến sĩ, Luật sư, Bác sĩ, Dược sĩ, Kỹ sư Pháp, Mỹ, Đức, Việt… Sự thành công của bà đã được chính Tổng thống Bill Clinton phải biểu dương khi ông đến thăm Việt Nam và nói chuyện với các nhà kinh doanh Mỹ tại TP.HCM cách đây 4 năm. Thế cớ sao các vị lãnh đạo chính trị, các giám đốc công ty, các tập đoàn kinh tế còn chạy theo học hàm học vị làm gì nữa? Nếu lãnh đạo chính trị dở, kinh doanh dở thì các vị có trưng ra một chục cái học hàm học vị GSTS rồi cũng phải về vườn và cũng phải làm con nợ của ngân hàng mà thôi.
Vấn đề xây dựng đất nước là việc sử dụng được người tài như thế nào chứ không phải chỉ là người có học hàm học vị. Đất nước ta không tiến nhanh tiến mạnh lên được như nhiều nghị quyết trước đây đã đề ra vì những người kém tài, những người không có chuyên môn ngồi vào chỗ cần chuyên môn, cần tâm, cần trí.
Cách đây không lâu, nhiều em sinh viên bạn của con gái tôi tâm sự: “Bọn con muốn đi làm việc cho nhà nước, nhưng cơ quan nào cũng bảo đang giảm biên chế. Nếu có những chỗ khuyết vì vừa có người về hưu thì đã có COCC điền vào chỗ ấy mất rồi!”.
Hằng năm nhà nước phải bỏ ra một số ngân sách khổng lồ để trả tiền thầy, tổ chức các cuộc thi để bổ sung cho đạo quân thất nghiệp hàng vạn người có bằng đại học. Có lần tôi hỏi ông Trần Chí Đáo (lúc ông còn làm Thứ trưởng bộ Giáo dục & Đào tạo):
- “Ông biết rõ đang có hàng chục vạn sinh viên tốt nghiệp không có việc làm, trình độ sinh viên kém, các công ty, nhà máy không tuyển dụng vào làm việc được, thế tại sao Bộ còn cứ đào tạo dài dài cho cái đội ngũ thất nghiệp có bằng đại học đó?”
Ông Thứ trưởng đáp:
- “Biết vậy nhưng phải chịu vậy để cho đông đảo các thầy cô ở các đại học có việc làm, có lương, biết làm sao bây giờ?”
Câu trả lời tuy cay đắng, nhưng đó là sự thực. Với tư cách là phóng viên báo Lao Động lúc đó, tôi định hỏi ông nhiều vấn đề nữa nhưng qua câu trả lời rất chân thành của ông thứ trưởng tôi mềm lòng không dám hỏi thêm gì nữa. (Thưa anh Đáo, tình hình đó bây giờ đã được cải thiện đến đâu rồi?).
|
|