|
Post by Robot on Jul 14, 2004 14:35:25 GMT -5
Chấn hýng giáo dục: Bạn ðọc VietNamNet "hiến kế"
Chấn hýng giáo dục ðể có mục ðích cuối cùng: sản phẩm của giáo dục là tạo ra con ngýời "thực sự làm chủ ðất nýớc, có cách suy nghĩ ðộc lập, biết làm việc tập thể, luôn sẵn sàng ðóng góp tiếp thu ý kiến của ngýời khác" (thý của Phạm Hải Trung, sinh viên nãm thứ hai trýờng Bách khoa Paris Polytechnique).
· Pham Trong Van (tpham@eye.usyd.edu.au): Giáo dục cho học sinh chống tiêu cực
Các suy nghĩ của tôi xuất phát từ lýõng tâm của một ngýời ðã 20 nãm ðứng trên bực giảng, có cõ hội ðýợc tiếp xúc với nhiều nền giáo dục khác nhau trên thế giới và nhất là từ nỗi lo lắng cho týõng lai của dân tộc trong thập kỷ tới.
Có dịp tiếp xúc với nhiều em ðýợc giải cao trong các kỳ thi phổ thông quốc tế thì thấy sức học của các em do ở ÐH không còn ở mức cao nữa, có nhiều em con ðứng ở vị trí trung bình trong lớp học với các học sinh ngoại quốc (vốn không có thành tích cao khi còn ở phổ thông). Khi ra trýờng, ít em giành ðýợc vị trí quan trọng trong xã hội cũng nhý nghiên cứu khoa học. Nguyên nhân là các em bị quá tải khi học phổ thông (thành tích thiểu số không ðánh giá ðúng thực chất tình trạng giáo dục) và các em không ðýợc giáo dục ý thức tự học, từ ðộc lập suy nghĩ.
Ở bậc ÐH gần nhý không thay ðổi về hệ thống bài giảng và cách giảng trong nhiều nãm, không có một hệ thống cung cấp thông tin tốt ðể sinh viên tự học; bản thân các thầy giáo cũng không tự trau dồi kiến thức vì thiếu sách vở và nhất là cuộc sống của bản thân và gia ðình con khó khãn; tiêu cực xảy ra trong quá trình học và tuyển chọn ngýời ði học (nhất là hệ sau ðại học); ðạo ðức một số ngýời thầy bị xuống cấp, nêu gýõng xấu cho thế hệ trẻ.
Ðể giải quyết vấn ðề này, tôi thấy:
1. Ðầu tý phát triển thý viện, Internet ðể học sinh, sinh viên và các thầy cô giáo cập nhật thông tin.
2. Không áp dụng tuổi tác, thâm niên công tác, vị trí công tác (làm cho Nhà nýớc hay tý nhân) ðể hạn chế việc tham dự các kỳ học sau ÐH.
3. Rà soát lại chýõng trình học của từng môn ðể nâng cấp cho phù hợp với quốc tế.
4. Ðổi lại cách dạy và học. Ðể các em học sinh từ tìm bài, chuẩn bị bài và trình bày bài.
5. Chia nhỏ môn học ðể ðánh giá làm nhiều giai ðoạn. Thi cử ðõn giản những thật nghiêm túc.
6. Giáo dục cho học sinh cách chống những tiêu cực làm tha hóa ngýời thầy.
7. Nâng lýõng cho các giáo viên. Trả lýõng thật cao cho giáo viên, thay ðổi lýõng theo mức sinh hoạt ngoài xã hội.
8. Xử phạt nặng với những ngýời thầy có thái ðộ tiêu cực với học sinh.
|
|
|
Post by Robot on Jul 14, 2004 14:35:54 GMT -5
Phạm Hải Trung (Palaiseau, hai-trung.pham@polytechnique.org): Dạy học sinh có chính kiến và biết làm việc tập thể
(LTS: Trýớc khi sang Pháp, Trung ðã có hai nãm học tại trýờng ÐH Bách khoa Hà Nội và ðoạt giải Nhì quốc gia môn Toán lớp 12, bằng khen châu Á - Thái Bình Dýõng)
Qua thời gian học tập ở Pháp, tôi cảm thấy có rất nhiều mặt ðáng học hỏi, có thể phát huy ðýợc ở Việt Nam. Ðó là sự tự do diễn ðạt suy nghĩ của học sinh; phát huy việc giao tiếp trao ðổi giữa học sinh; tính chất bình ðẳng giữa học sinh với thầy giáo và cuối cùng sự nghiêm minh trong thi cử.
Sự tự do diễn ðạt suy nghĩ của học sinh rất quan trọng. Khi thầy giáo chữa bài, thấy tìm cách ðặt câu hỏi, ðịnh hýớng tìm tòi cho học sinh. Trong quá trình giảng, học sinh ðýợc khuyến khích phát biểu ý kiến, việc ngắt bài giảng là chuyện bình thýờng, mọi ý kiến mới quanh một vấn ðề ðều ðýợc khuyến khích. Khi ý kiến của học sinh sai, thầy lập luận ðể thấy rằng hýớng ði ðó không cho kết quả mong muốn.
Sự giao tiếp trao ðổi là ðiều vô cùng cần thiết trong suốt hành trình cuộc ðời, ðặc biệt trong công việc. Cần tạo ra các ðồ án tập thể, một nhóm hai hay nãm tới bảy ngýời. Hai ngýời cùng làm một ðồ án ðýợc tính ðiểm ngang nhau, ðiều ðó muốn nhấn mạnh vào tính tập thể, sự công tác trong nhóm với nhau.
Tính chất bình ðẳng giữa học sinh cũng rất cần thiết, tránh trýờng hợp ýu ái ðối với học sinh này, sẽ làm mất tự tin, gây tự ti ở các học sinh khác. Học sinh giỏi thì thế hiện qua một bảng ðiểm ðẹp. Thầy giáo luôn là ðộng lực chính thúc ðẩy sự tiến bộ của học sinh. Nhýng ở ðây, thầy không nên khuôn ðúc suy nghĩ của học sinh. Quan trọng hõn, thầy luôn sẵn sàng nghe ý kiến của học sinh, ðồng ý với ý kiến dùng ðể tiếp tục lời giải, giải thích tại sao một ý kiến không cho kết quả mong ðợi, với ý kiến choa nhìn rõ kết quả hay cũng giúp học sinh giải quyết ðến mức có thể cho một kết luận. Ở ðây, thầy ðóng vai trò ðịnh hýớng cho học sinh.
Cuối cùng, sự nghiêm minh trong thì cứ phải thực sự ðýợc nhấn mạnh. Khi còn tồn tại sự không công bằng trong thi cử (ai chép bài thi có ðiểm tốt hõn ngýời học hành nghiêm minh) thì ðiều ðó càng thúc ðẩy tệ nạn trong thi cử. Ở trýờng tôi học, trong ngày thì các bạn ghế ðýợc sắp xếp ở một phòng thể thao chõi bóng rổ rất rộng, mọi ngời ngồi một bạn. Trong thời gian thì cứ ta không có cảm giác cõ học sinh nào ở xung quanh, cảm giác nhý ta ðang ngồi học nghiên cứu, rất ðộc lập.
|
|
|
Post by Robot on Jul 14, 2004 14:36:27 GMT -5
Bùi Vãn Kiên (khóa Cao học 7, Khoa Luật, ÐHQG Hà Nội, kienlawyer@yahoo.com): Coi giáo dục ðại học nhý một ngành sản xuất
(LTS: Trong bài viết khá kỹ lýỡng gửi tới VietNamNet, bạn Bùi Vãn Kiên ðã ðề xuất chi tiết ba nhóm biện pháp với 11 quan ðiểm ðể nâng cao chất lýợng giáo dục ðại học ở Việt Nam)
Cải tiến tuyển sinh ÐH là một giải pháp Nhóm các biện pháp nâng cao chất lýợng ðầu vào thông qua việc cải cách chế ðộ tuyển sinh ðại học. Ở nhóm này, có bốn giải pháp cụ thể: Thay ðổi nội dung thi tuyển sinh ÐH nhằm ðảm bảo ðầu vào phục vụ mục tiêu giáo dục ÐH toàn diện: nâng số môn thi từ ba môn hiện nay thành nãm môn, trong ðó có ba môn bắt buộc là Toán, Vãn, Ngoại ngữ và hai môn phù hợp với chuyên ngành. Thay ðổi hình thức tuyển sinh ÐH. Áp dụng ðại trà hình thức tuyển sinh trắc nghiệm khách quan, riêng môn Vãn áp dụng hình thức tự luận. Khống chế mức ðiểm sàn chung ðối với tuyển sinh ÐH. Xoá bỏ chế ðộ ýu tiên ðiểm theo khu vực, theo ðối týợng và chế ðộ tuyển thẳng ðối với học sinh giỏi. Ðối với các khu vực có ðiều kiện khác nhau, con em các ðối týợng chính sách sẽ áp dụng chế ðộ ýu tiên bằng vật chất thông qua học bổng, học phí. Ðối với nhu cầu về nguồn nhân lực ở vùng sâu, vùng xa và dân tộc ít ngýời, mở rộng diện cử tuyển gắn với ðào tạo theo ðịa chỉ.
Nhóm các biện pháp nâng cao chất lýợng giảng dạy của giảng viên. Ở nhóm này, có bốn giải pháp cụ thể:
1. Cải cách khung chýõng trình giáo dục ÐH theo hýớng học tập gắn với ðịnh hýớng nghề nghiệp. Ngoài các môn thuộc khối kiến thức chung, chỉ cần có thêm hai - ba môn học thuộc khối kiến thức cõ sở và ðýợc thực hiện theo phýõng pháp tự chọn. Ðối với mỗi môn học thuộc khối kiến thức chuyên ngành, cần chia thành hai nội dung: Nội dung về lý thuyết ðýợc tính bằng ðõn vị học trình theo số giờ giảng trên lớp và ðýợc ðánh giá bằng phýõng pháp thi hết môn. Nội dung về thực hành có số ðõn vị học trình týõng ðýõng số ðõn vị học trình lý thuyết, do sinh viên tự thực hiện bằng cách viết một chuyên ðề nghiên cứu (khoảng 30 trang). Ðiểm của tổng kết môn là ðiểm trung bình cộng tính theo ðõn vị học trình của hai phần lý thuyết và thực hành.
2. Thay ðổi phýõng pháp giảng dạy từ ðộc thoại thành ðối thoại và bài tập tình huống (case study). Việc giải quyết các bài tập tình huống, từ ðó khái quát thành những vấn ðề lý thuyết sẽ tạo cho ngýời học một tý duy nãng ðộng và sáng tạo hõn
3. Ðầu tý cõ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục ÐH theo công thức: Trýờng ÐH + Viện nghiên cứu + Doanh nghiệp.
4. Nâng cao chất lýợng ðội ngũ giảng viên thông qua cải cách chế ðộ tuyển dụng, phýõng pháp ðánh giá giảng viên và chế ðộ lýõng bổng. Hiện tại, giảng viên các trýờng ÐH ðýợc tuyển dụng không theo một chuẩn mực cụ thể nào, chủ yếu ðýợc ðýợc tuyển dụng theo quan hệ quen biết cá nhân. Cần có một quy chế tuyển dụng riêng áp dụng ðối với giảng viên ÐH. Việc ðánh giá khả nãng chuyên môn và các kỹ nãng nghề nghiệp khi tuyển dụng giảng viên ðýợc thực hiện theo một thang ðiểm chung và áp dụng thống nhất trong toàn quốc.
Nhóm các biện pháp nâng cao chât lýợng học của sinh viên. Hiện tại, ða số các sinh viên học theo hình thức ðối phó, chõi dài dài và chỉ ðến khi thi hết môn mới lao ðầu vào học. Thi xong cũng là lúc kiến thức của môn học ðó không còn lýu trong bộ nhớ.
Nhóm này gồm ba giải pháp:
1. Tãng cýờng việc giảng dạy theo phýõng pháp ðối thoại kết hợp với thýờng xuyên ðánh giá kết quả học tập.
2. Cải cách phýõng pháp ðánh giá kết quả học tập của sinh viên. Chuyển từ việc ðánh giá kết quả học tập của sinh viên dýới hình thức một bài thi duy nhất sang kết hợp giữa thi hết môn và làm chuyên ðề nghiên cứu.
3. Tổ chức các hoạt ðộng sinh hoạt tập thể, hoạt ðộng xã hội nhằm tãng cýờng khả nãng hoạt ðộng nhóm và hoà nhập của sinh viên.
Sẽ chỉ là “ðánh rắn giữa khúc” nếu nhý việc cải cách chỉ thực hiện ở từng khâu riêng biệt. Các quan ðiểm trên ðây chỉ có ý nghĩa tích cực khi các cấp quản lý về giáo dục thực sự cởi bỏ tý duy cũ, cần coi giáo dục ÐH nhý một ngành sản xuất và nhà sản xuất muốn tồn tại phải biết ðiều chỉnh quy trình sản xuất sao cho phù hợp ðể có sản phẩm chât lýợng cao, chiếm ðýợc lòng tin của ngýời tuyển dụng lao ðộng.
Ðặc biệt, việc cải cách mang tính chất ðột phá ở bậc ÐH sẽ tạo tiền ðề cho việc cải cách ở các bậc học thấp hõn. Hõn ai hết, ngýời học và phụ huynh của họ biết phải học thế nào ðể trở thành sinh viên ÐH.
|
|
|
Post by Robot on Jul 14, 2004 14:37:08 GMT -5
Nguyễn Trýờng Ðông (truongdong2002@yahoo.com): Không nên học tràn lan các môn
(LTS: Bạn Trýờng Ðông ðang theo học Ph.D tại Úc theo diện du học bằng ngân sách nhà nýớc - Ðề án 322).
Học sinh từ tiểu học ðến THPT của nýớc ta có thể giỏi hõn của Úc, những lên ðến chýõng trình ÐH thì sinh viên không thể nào sánh ðýợc với sinh viên Úc, còn bậc cao học hay nghiên cứu sinh thì lạc hậu hõn nhiều. Việc học ÐH, sinh viên Úc không phải học tràn lan các môn, mà chỉ tập trung vào chuyện môn. Nội dung học mở ra các vấn ðề thực tế của toàn thế giới. Cách giảng dạy thì chủ yếu giáo viên gợi mở cho học sinh, phần còn lại là huy ðộng tính sáng tạo của sinh viên. Ðiều ðặc biệt quan trọng là sách học ở ðây rất nhiều, sinh viên có thể ðọc thêm ðể mở rộng kiến thức học. Cách học là tự học, tự nghiên cứu, muốn nhý vậy thì sách ðọc, tài liệu phải nhiều, cho nên Úc rất chú trọng hệ thống thý viện. Các trýờng ÐH ở Việt Nam nên chú trọng vào khâu thý viện, tạo ðiều kiện về việc tra cứu, mýợn sách... vì sách mới là tri thức tổng hợp cần thiết, còn việc giảng dạy chỉ là hýớng dẫn. Việc thi cử cũng nhẹ nhàng. Sinh viên không phải dồn vào một kỳ thi cuối kỳ, mà dàn ðều ra tất cả các thời ðiểm. Có thể chia môn học ra thành nhiều phần. Học xong mỗi phần ðều có bài kiểm tra hoặc thực hành tính ðiểm. Ðiểm của môn học là tổng của tất cả các ðiểm kiểm tra trong học kỳ.
|
|
|
Post by Robot on Oct 21, 2004 7:30:08 GMT -5
Chấn hưng giáo dục - mệnh lệnh từ cuộc sống
TT - Nếu bảo GD của chúng ta đang tụt hậu thì ĐH chính là nơi tụt hậu xa nhất. Càng lên bậc học cao, nhãn mác càng hấp dẫn gây nên nạn lạm phát giáo sư tiến sĩ.
Chúng ta chưa xem trọng và xây dựng được một xã hội nghề nghiệp, trong khi vẫn cứ hô hào xây dựng một xã hội học tập để tiến lên nền kinh tế tri thức.
Khi tính chuyên nghiệp chưa được xã hội tôn vinh thì GD sẽ không có chỗ đứng trong xã hội, và nó bị lợi dụng để thương mại hóa là xu hướng khó tránh khỏi.
GD: bài toán xã hội
Ngành GD phải chịu trận trước hết bởi những nhãn mác của chính mình. Để vừa có tiền vừa đạt danh hiệu thi đua, có nơi thầy cô phải phụ đạo trước cho HS về bài thi tại nhà riêng của mình. Có HS kém, thầy sẽ mất danh hiệu thi đua, nhà trường không được tiên tiến, xuất sắc để báo cáo lên cấp trên, cấp trên lại báo cáo lên cấp trên nữa...
Cuộc chơi vừa đá bóng vừa thổi còi đó đã không còn đủ thang điểm để chấm nên điểm mười lại phải gắn thêm một, hai hoặc ba dấu cộng để phân loại (theo lời kể của cô giáo hiệu phó một trường trung học nổi tiếng ở TP.HCM). Điểm thi của HS trở thành một thứ tiêu chí qua đó đánh giá thành tích phát triển của địa phương, cho nên cứ phải đẩy tỉ lệ tốt nghiệp ở các cấp lên sát 100%.
HS chen chúc nhau để lọt qua cổng trường ĐH làm cho các lò luyện thi với những bộ đề mẫu trở thành siêu lợi nhuận. Nhưng một khi lọt qua cổng rồi thì mảnh bằng ĐH coi như đã cầm chắc trong tay. Mái trường ĐH là nơi nhàn nhã nhất trong đời HS. Đó là nhận xét của một số sinh viên nghiêm túc khi so sánh ĐH với trường phổ thông.
Nếu bảo GD của chúng ta đang tụt hậu thì ĐH chính là nơi tụt hậu xa nhất. Càng lên bậc học cao, nhãn mác càng hấp dẫn gây nên nạn lạm phát giáo sư tiến sĩ. Nhưng thật là oan nếu đổ tất cả chuyện lạm phát tiến sĩ, giáo sư đó lên đầu Bộ GD-ĐT, trong khi phần trách nhiệm lớn ở đây lại thuộc về giới khoa học.
Không biết bao nhiêu nhà trường của chúng ta đã bị cuốn theo cơn lốc thương mại hóa đó? Điều này càng khơi đậm thêm điểm yếu vốn có ở một nước lạc hậu như nước ta là nhồi nhét các kiến thức khô cứng rồi đóng dấu chất lượng cho HS. Có người lại dùng dấu chất lượng đó làm “hòn gạch Lỗ Tấn” để gõ cửa vào chốn quan trường. Lọt qua cửa rồi người ta sẽ vứt hòn gạch đi. GD bị lợi dụng và trở thành một sân chơi hết sức lãng phí.
Nói GD là bài toán xã hội không có nghĩa là ngành GD vô can trước những sa sút hiện nay của nhà trường chúng ta. Bộ GD-ĐT buông lỏng quản lý chất lượng để cho mặt trái của cơ chế thị trường chi phối. Trong khi đó lại nhúng tay quá sâu vào việc thi cử, là nhiệm vụ của nhà trường.
Cũng như mọi hoạt động sản xuất và dịch vụ khác trong xã hội hiện đại, GD cần được xã hội hóa và thương mại hóa trong khuôn khổ các khung pháp lý về đảm bảo chất lượng (quality assurance).
Bộ GD-ĐT có nhiệm vụ bảo đảm thực thi chính sách GD của Nhà nước, đề ra khung pháp lý cho nhà trường hoạt động, đồng thời phải giám sát quản lý chất lượng GD qua những tổ chức thanh tra chuyên nghiệp.
|
|
|
Post by Robot on Oct 21, 2004 7:30:22 GMT -5
Phải mất ít nhất 20 năm!
Những yếu kém trong nền GD của chúng ta đã tồn tại từ lâu, lại có cội rễ sâu xa trong xã hội, nên phải mất ít nhất là một thế hệ (trên 20 năm) mới hòng đổi mới được, nếu chúng ta thật sự nhận ra nguyên nhân và quyết tâm giải quyết vấn đề một cách nghiêm túc. Như trên đã nói vấn đề vừa mang tính toàn cầu vừa đặc thù của nước ta.
Trước hết cần phải có thời gian để đẩy lùi các tệ nạn xã hội dường như đang gia tăng chưa kiểm soát được, thay đổi hẳn cách nhìn nhận về con người và hoàn thiện một xã hội nghề nghiệp, trong đó tính chuyên nghiệp là thước đo giá trị đích thực của mỗi người, bất kể anh ta hành nghề gì.
Đây là xu thế tất yếu do nhu cầu phát triển bền vững của đất nước, công nghiệp hóa hiện đại hóa, do hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Đương nhiên phải có khâu đột phá trong quan điểm từ phía lãnh đạo và sớm thể hiện một số chính sách cán bộ cụ thể, nếu không chúng ta sẽ mất thời cơ. Ngay trong Bộ GD-ĐT cũng cần phải có một vài khâu đột phá.
Chẳng hạn, giao việc thi cử tuyển sinh ĐH cho các trường để chăm lo xây dựng hệ thống thanh tra chuyên nghiệp về chất lượng GD. Xóa bỏ hoàn toàn việc lấy điểm thi của HS làm tiêu chí thi đua của thầy giáo, nhà trường và địa phương.
Thứ hai, cũng cần có một khoảng thời gian đủ dài như thế mới đào tạo được một thế hệ giáo viên hoàn toàn mới cho các cấp học từ trên xuống dưới. Có thể nói đó là đội ngũ thầy giáo biết dạy cách học, cách làm người trong xã hội hiện đại.
Trước hết, đội ngũ chuyên gia cao cấp đang ngày một ít dần phải tận dụng vào nhiệm vụ đào tạo những chiếc máy cái mới, từ đó sẽ nhân dần lên, nhất là trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội.
Có thể cần phải có những đột phá mạnh về tổ chức, xem ĐH là cơ sở tiến hành các hoạt động R&D trong cả nước. Thật là nghịch lý và phí phạm khi để 70% giáo sư và phó giáo sư nằm ngoài trường ĐH.
Hoạt động khoa học và giảng dạy phải theo chuẩn mực quốc tế. Sự nhìn nhận các kết quả nghiên cứu trên những tạp chí quốc tế là thước đo chất lượng nghiên cứu và trình độ của người thầy ĐH. Có làm như thế mới chặn đứng được nạn lạm phát học hàm học vị hiện nay.
Phải có cách mạng trong GD, một sự lựa chọn duy nhất hiện nay. Không thể gọi đó là cải cách, vì nó đụng chạm đến hệ khái niệm và quan niệm, chứ không chỉ thay đổi phương pháp dạy, học và thi cử. Thậm chí nó đòi hỏi phải xáo trộn lại tổ chức GD, khoa học công nghệ, điều mà thỉnh thoảng vẫn có người nhắc đến, nhưng chưa ai dám làm.
GS.TS PHẠM DUY HIỂN
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:26:22 GMT -5
Nâng cao ứng dụng của EMIS vào quản lý và phát triển giáo dục
TTO - ”Công tác báo cáo thống kê và quản lý, phục vụ các quy mô hoạch định phát triển của ngành giáo dục-đào tạo (GD-ĐT) cả nước đang chuyển dần từng bước từ phương thức truyền thống sang tin học hoá một cách đồng bộ “ – Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận đã nhấn mạnh như trên trong phát biểu của mình tại phiên khai mạc hội thảo “Sử dụng các kết quả đầu ra của hệ thống thông tin quản lý giáo dục" (EMIS ) vừa diễn ra sáng nay (25-10) tại Đà Nẵng .
EMIS được triển khai thí điểm trong ngành GD-ĐT từ 2003 và đến nay tất cả các Sở GD-ĐT trên cả nước đã và đang khai thác công cụ nầy với nhiều cấp độ và quy mô khác nhau vào công tác quản lý, trao đổi thông tin, tạo sự quan tâm và thu thập dư luận xã hội đối với ngành, đặc biệt là hỗ trợ dữ liệu để xây dựng kịp thời các báo cáo, kế hoạch phát triển ngắn, trung và dài hạn. Là tập hợp các thành tố từ khâu xử lý dữ liệu, các công cụ trích xuất, khai thác (để lập báo cáo,dự án ngoài hệ thống) cùng phần mềm và công cụ truyền file và dữ liệu , giao tiếp qua website... theo đánh giá chung EMIS đã góp phần nâng cao chất lượng của công tác quản lý trên cơ sở khai thác tính năng vượt trội của công nghệ thông tin.
Qua nhiều lần chỉnh sửa hiện EMIS đang sử dụng trong ngành GD- ĐT Việt Nam đã được nâng cấp lên phiên bản 2.0.
Được biết , EMIS cũng là một phần trong dự án tài trợ của Cộng đồng chung châu Âu (EC) dành cho ngành GD-ĐT Việt Nam (các chương trình khác bao gồm những nội dung liên quan đến thể chế , đổi mới phương pháp đánh giá sư phạm , quản lý nhân sự ...).
Tổng số tiền tài trợ mà EC dành cho các chương trình nầy lên đến 7,6 triệu euro. Và theo đại diện EC , việc tài trợ xây dựng để đưa EMIS vào sử dụng không ngoài mục đích “lượng thông tin phù hợp phải được cung cấp sớm trước khi các cấp thảm quyền ban hành các quyết định phát triển của sự nghiệp”. Do vậy, sau phiên hội thảo (kéo dài trong 2 ngày 25 và 26-10) nầy, từ ý kiến đóng góp của các Sở GD-ĐT trên cả nước, những khiếm khuyết của EMIS khi sử dụng trên diện rộng sẽ tiếp tục được hoàn thiệu, nâng cao để và đưa vào khai thác, sử dụng chính thức.
T.NGỌC
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:27:23 GMT -5
Chấn hưng giáo dục - mệnh lệnh từ cuộc sống
Nâng cao chất lượng giáo dục: không cần nhiều tiền
GS Trần Văn Thọ
TT - Để giải quyết triệt để vấn đề chất lượng giáo dục ở VN xuống cấp nghiêm trọng, cần có một cuộc đổi mới toàn diện và cũng cần thời giờ và nhiều ngân sách hơn.
Tuy nhiên cũng có những mặt chỉ cần thay đổi cơ chế trên qui mô nhỏ là có thể giải quyết trong thời gian ngắn và không cần nhiều ngân sách.
Tạo cơ chế cạnh tranh
Cạnh tranh là động lực của phát triển. Trong học đường cũng vậy. Giáo dục đại học ở VN hầu như thiếu hẳn tính chất cạnh tranh. Ở mỗi khoa, các khóa học được chia thành các lớp (tùy theo lĩnh vực chuyên môn hẹp trong một khoa) và sinh viên mỗi lớp học các môn giống nhau với cùng các giáo viên như nhau.
Nói dễ hiểu hơn, việc tổ chức như vậy không khác gì ở bậc tiểu học, trung học. SV không được chọn lựa môn học, không được chọn thầy để học. Do vậy, ĐH không tạo cơ chế cho giáo viên luôn luôn phấn đấu, cố gắng để dạy tốt hơn, và đào thải những giáo viên thiếu trách nhiệm nghề nghiệp, những giáo viên không có khả năng cải tiến năng lực chuyên môn và thiếu năng khiếu giảng dạy.
Tôi đề nghị cần cải thiện ngay cơ chế hiện tại. Chẳng hạn SV cần 100 đơn vị học trình để tốt nghiệp thì các trường cung cấp số môn học tương đương với độ 150 đơn vị học trình để SV chọn lựa. Những môn học liên tiếp trong ba năm có quá ít SV theo học sẽ bị loại bỏ, thay bằng môn học khác hoặc giáo viên khác.
Được biết, hiện SV VN phải học một chương trình khá nặng (theo một phân tích nọ thì số đơn vị học trình của ĐH VN nhiều gấp rưỡi ở các nước khác), nặng về số lượng mà kém về chất lượng. Do đó việc cải cách như tôi đề nghị sẽ thực hiện được dễ dàng, không tốn thêm ngân sách.
Ưu tiên cho giảng viên ĐH tu nghiệp ở nước ngoài
Với học chế tín chỉ, nhiều năm nay SV Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM) đã được đăng ký chọn môn học. Trong ảnh: SV đang xem thông báo lịch đăng ký môn học dự thính (ảnh chụp ngày 22-10-2004) - Ảnh: Như Hùng Để tăng chất lượng giáo dục ở ĐH phải có nhiều giáo viên giỏi chuyên môn và có tâm huyết với ngành. Làm sao để ĐH thu hút được nhân tài? Ở đây chỉ nói những biện pháp phân bổ lại nguồn lực của xã hội, có thể làm ngay và ít đòi hỏi tăng nhiều ngân sách. Tôi có ba đề nghị sau:
Thứ nhất, kết hợp nghiên cứu với giảng dạy. Hiện nay ở VN có hai hệ thống hoạt động song song: các viện nghiên cứu và các ĐH. Tôi đã có dịp đề nghị từng bước sáp nhập phần lớn các viện nghiên cứu vào trong ĐH, nhưng việc có thể làm ngay là tạo cơ chế giao lưu mật thiết giữa hai hệ thống để những người nghiên cứu giỏi có điều kiện tham gia trực tiếp vào việc giảng dạy ở ĐH.
Dĩ nhiên hiện nay đã có sự giao lưu này (nhiều cán bộ nghiên cứu ở các viện có giờ dạy ở các ĐH) nhưng nhìn chung chưa có hiệu quả. Các cán bộ nghiên cứu được mời đến ĐH phần lớn tập trung dạy 5-6 tiết trong ngày, dạy xong là đi về ngay.
Vì 5-6 tiết quá dài nên có trường hợp trên thực tế chỉ dạy 4-5 tiết, và có người cho tôi biết kinh nghiệm cá nhân của họ: vì phải dạy một lần nhiều giờ quá nên không chuẩn bị đủ nội dung, thầy và trò nói chuyện riêng nên họ phải đem sách ra đọc cho SV chép. Tình trạng này đưa đến sự thiếu nghiêm túc trong việc giảng dạy, gây ảnh hưởng dây chuyền đến nhiều mặt khác.
Tôi đề nghị nên tạo sự giao lưu chặt chẽ hơn, chẳng hạn cán bộ nghiên cứu ở các viện có thể tạm chuyển sang biên chế ở ĐH 1-2 năm và trong thời gian đó làm việc ở ĐH là chính. Ngược lại, những giáo viên ở ĐH, nhất là giáo viên trẻ, cũng được tạm chuyển sang biên chế ở các viện nghiên cứu, trau dồi chuyên môn trước khi trở về ĐH.
Thứ hai, cơ hội du học ở nước ngoài để lấy các bằng cấp cao (như tiến sĩ chẳng hạn) trước mắt nên ưu tiên cho giáo viên dạy ĐH hoặc những nghiên cứu sinh có hoài bão đóng góp vào sự nghiệp giáo dục.
Các cơ hội du học ở nước ta hiện nay có khuynh hướng trải rộng sang nhiều lĩnh vực, có lĩnh vực mà cán bộ không cần bằng cấp cao (như quản lý ở các cơ quan nhà nước) nhưng vẫn được tạo điều kiện đi du học. Sau khi về nước họ lại không dùng đến kiến thức khoa học đã hấp thu ở nước ngoài.
Đây là một phí phạm lớn về nguồn nhân lực. Nếu xem giáo dục là quốc sách hàng đầu và nếu thấy nguy cơ của chất lượng đào tạo ĐH hiện nay, Chính phủ cần quan tâm phân bổ các cơ hội du học đến những giáo viên hiện tại và tương lai.
Thứ ba, cần cải cách phương pháp tuyển chọn giáo viên ĐH. Theo nhận xét của tôi, các ĐH hiện nay có khuynh hướng tự đào tạo giáo viên lấy từ những người vừa tốt nghiệp. Việc này cũng cần thiết nhưng không nên có nhiều.
Khi thiếu giáo viên, các ĐH nên công khai chiêu mộ để thu hút những người có khả năng (như những người được nói đến ở điểm thứ hai). Tránh trường hợp SV mới tốt nghiệp mà đã có tư cách giảng dạy hay trợ giảng. Họ phải phấn đấu vào làm việc ở các viện nghiên cứu, sau đó tham gia ứng cử vào biên chế giảng dạy.
GS TRẦN VĂN THỌ (Đại học Waseda, Tokyo)
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:31:10 GMT -5
Chấn hưng giáo dục - mệnh lệnh từ cuộc sống
2005: năm chấn hưng giáo dục
TT - Chính mâu thuẫn này giữa nhu cầu học ĐH quá lớn và cách đáp ứng nhu cầu lại quá nhỏ là một trong những nguyên nhân gây ra những hiện tượng tiêu cực trong GD, như học thêm, dạy thêm tràn lan, học giả bằng thật, nhất là bằng ĐH...
Nền giáo dục (GD) hiện nay tách rời thực tiễn và kém thiết thực; nặng về học chữ và hướng theo thi cử, chưa quan tâm đúng mức đến những năng lực then chốt: độc lập suy nghĩ, kỹ năng thực hành, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ, vi tính... đến GD đạo đức, nhân cách, kỹ năng sống... cần thiết cho thế hệ trẻ khi bước vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH), hội nhập quốc tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh...
Giáo dục đại học cho số đông
Trong suốt tám năm qua, cùng với xu thế phổ cập THCS, mở rộng THPT, phát triển GD không chính qui... tức là GD cho toàn dân và xu thế phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng cao cần thiết cho CNH - HĐH, hội nhập quốc tế, thì nhu cầu đa dạng về học ĐH gia tăng rất nhanh (khoảng 20%/năm) còn chỉ tiêu tuyển sinh lại tăng rất ít (5-6%/năm).
Những cải tiến liên tục về tuyển sinh ĐH cũng như những cố gắng bước đầu cải tiến chất lượng đào tạo cùng với những điều kiện bảo đảm rõ ràng đã không giải quyết được mâu thuẫn này.
Chúng tôi cho rằng thực chất của mâu thuẫn này là: sự cần thiết phải thực hiện ngay quá trình chuyển dịch sang thời kỳ GD ĐH cho số đông (ĐH đại chúng) mâu thuẫn với cách tư duy chỉ đạo về cơ bản vẫn còn dựa trên quan niệm GD ĐH cho số ít (ĐH tinh hoa).
Chính mâu thuẫn này giữa nhu cầu học ĐH quá lớn và cách đáp ứng nhu cầu lại quá nhỏ là một trong những nguyên nhân gây ra những hiện tượng tiêu cực trong GD, như học thêm, dạy thêm tràn lan, học giả bằng thật, nhất là bằng ĐH...
Những giải pháp sơ bộ theo hướng giải quyết mâu thuẫn này đã có trong thực tế và đã được ghi vào các nghị quyết, như: mở rộng loại trường cao đẳng cộng đồng hai, ba năm, các hình thức đào tạo nhân lực sau THPT (khoảng hai năm), các loại ĐH ngắn hạn; đẩy nhanh việc mở trường ngoài công lập, tăng mạnh tỉ trọng sinh viên học ở các trường ngoài công lập; phát triển mạnh những hình thức đào tạo không chính qui.
Đặc biệt sớm mở rộng đào tạo từ xa... tạo những điều kiện thuận lợi cho sự hội nhập quốc tế về ĐH từ việc mở trường nước ngoài, thực hiện “du học tại chỗ” đến việc áp dụng sáng tạo những thành tựu khoa học, công nghệ của thế giới vào việc đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, kể cả đổi mới cách quản lý GD, phù hợp với thực tiễn VN.
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:31:22 GMT -5
Chất lượng: lẽ sống của nhà trường
Tân SV Trường ĐH Sư phạm TP.HCM đang chờ đóng học phí trước khi làm thủ tục nhập học. Hàng trăm ngàn chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ mỗi năm hiện nay tỏ ra quá ít ỏi so với nhu cầu của xã hội - Ảnh: Như Hùng Chất lượng GD còn phải được xem xét theo mục tiêu đào tạo con người. Cần nhấn mạnh những phẩm chất cần thiết về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực như: tính trung thực, tính trách nhiệm, tính kỷ luật, tính sáng tạo, khả năng tự lập, năng lực hợp tác và cạnh tranh (trong nước và quốc tế)..., hoài bão xây dựng đất nước để sánh vai với bè bạn.
Xây dựng phẩm chất, nhân cách con người, đổi mới phương pháp dạy và học phải bắt đầu từ người thầy. Đối với GD phổ thông, hiện trong toàn ngành đang triển khai chương trình, sách giáo khoa mới ở cấp tiểu học và THCS cùng với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
Chưa thể đòi hỏi hiệu quả tức thời, tuy nhiên dư luận xã hội vẫn còn nhiều băn khoăn, quan ngại về sự nặng nề, quá tải trong nội dung chương trình và kiến thức môn học nói chung và giữa các vùng, miền nói riêng và đặc biệt về mục tiêu GD toàn diện (đức, trí, thể, mỹ; ý chí và hoài bão cống hiến cho xã hội...) cho thế hệ trẻ nước ta.
Cần rà soát lại mục tiêu, chương trình sách giáo khoa sao cho thật sự phổ thông, cơ bản và thiết thực, có khả năng hòa nhập với GD các nước trong khu vực và trên thế giới. Thu hút các giới khoa học, công nghệ, giảng dạy, doanh nghiệp, văn hóa, xã hội... tham gia xây dựng/thẩm định các chương trình và giáo trình (có thể gọi là xã hội hóa việc xây dựng chương trình, giáo trình - một việc làm mới mẻ và hiệu quả, phù hợp thực tiễn VN).
Cần giải quyết tốt vấn đề phân hóa và phân luồng sau THCS, quan tâm đến năng lực cá biệt, hứng thú, nguyện vọng của học sinh và gia đình họ. Để giảm sự nặng nề cho GD, cần bỏ thi tốt nghiệp tiểu học và THCS mà chỉ tổ chức kiểm tra cuối cấp; vẫn phải tổ chức thi vào và thi tốt nghiệp ở THPT.
Chưa thể sớm bỏ thi tuyển sinh ĐH; cần chuẩn bị tiến tới hợp nhất thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển ĐH vào một kỳ thi chung.
Trong khi đó, đặc điểm lớn của GD ĐH là đào tạo nhân lực trình độ cao theo những lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, đồng thời phải tiến hành nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, cho nên tính tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội của trường ĐH rất cao.
Chất lượng GD ĐH phải trở thành lẽ sống, uy tín và danh dự của chính nhà trường. Quản lý trường ĐH phải chuyển sang lấy quản lý chất lượng làm cốt lõi. ĐH ngày nay ở nước ta đang đi vào quĩ đạo của ĐH đại chúng nên chất lượng ĐH đang phải phân tầng, cơ cấu phân tầng này chưa được đặt ra một cách rõ ràng và có hệ thống; thí dụ có tầng chất lượng tầm quốc tế, tầng chất lượng tầm quốc gia, tầng chất lượng tầm cộng đồng...
Để nâng cao chất lượng GD ĐH, quá trình đào tạo ĐH phải là một quá trình chọn lọc, buộc sinh viên phải có trách nhiệm cao với việc học, đồng thời cũng tạo điều kiện để nâng cao chất lượng đào tạo sau ĐH. Mặt khác, cần chấn chỉnh việc đào tạo sau ĐH, bảo đảm các văn bằng, học vị là thực chất.
Phải coi khâu quản lý là then chốt
Cần khẩn trương làm rõ nhận thức về tính chuyển giai đoạn của nền kinh tế, về sự tương thích tất yếu của cơ chế điều hành GD, đặc biệt là GD ĐH, với cơ chế thị trường, định hướng XHCN, làm cơ sở để có nhận thức đúng và quyết tâm tổ chức thực hiện những chủ trương đổi mới quản lý GD ở các cấp.
Đồng thời khắc phục những yếu kém trong quản lý cụ thể như đã nêu trong chiến lược phát triển GD; phân định rõ trách nhiệm của các bộ, các cấp; phải coi khâu quản lý này là then chốt để giải quyết những vấn đề về GD đang đặt ra một cách rất bức xúc trong xã hội.
Năm 2005 là năm đầy sự kiện quan trọng (kỷ niệm những ngày lễ lớn) đồng thời cũng là năm sắp bắt đầu giai đoạn 2 của chiến lược phát triển GD 2001-2010. Đề nghị lấy năm 2005 làm năm chấn hưng GD VN để phát động một phong trào trong xã hội tập trung vào GD, từ nâng cao nhận thức đến việc xác định trách nhiệm của mỗi người, mỗi ngành, mỗi cấp đối với GD.
Đặc biệt ngành GD cần phát động trong các cấp quản lý GD, các trường học phong trào chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, nghiêm chỉnh thực hiện các qui chế, tạo một bước ngoặt trong hoạt động GD, thực hiện tốt các chủ trương kế hoạch theo chiến lược phát triển GD 2001-2010.
NGUYỄN THỊ BÌNH
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:32:24 GMT -5
Những việc cần làm ngay!
Các HS Trường THCS Nguyễn Văn Quỳ, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP.HCM trên đường đến trường trong ngày khai giảng năm học mới 2004-2005 (sáng 5-9) - Ảnh: Nguyễn Công Thành TT - Trong thời gian chuẩn bị (vài ba năm) cho kế hoạch cải cách giáo dục theo phương hướng hiện đại hóa như đã đề cập ở bài trước, phải giải quyết ngay một số vấn đề cấp bách
Phổ thông: bỏ thi tốt nghiệp và xóa dạy thêm - học thêm tràn lan
1. Nên bỏ các kỳ thi tốt nghiệp từng cấp học (tiểu học, THCS, tú tài) mà thay vào đó thực hiện thi, kiểm tra nghiêm túc thường xuyên, đều đặn, từng chặng, từng phần của từng môn học, đến cuối cấp xét các kết quả học tập để đánh giá tổng hợp và cho tốt nghiệp.
Chỉ giữ hình thức thi tốt nghiệp cuối cấp THPT cho những người vì lý do này khác không có điều kiện theo học bình thường ở nhà trường. Cần hiểu đây không phải là bỏ thi như một số người hiểu nhầm, mà thi như thế nào để đạt hiệu quả thực chất, nghiêm túc và tránh áp lực nặng nề không cần thiết, lại tốn kém và có hại đối với tâm lý học sinh.
Thạc sĩ và tiến sĩ là lực lượng lao động khoa học cốt cán. Nếu trình độ quá thấp, đào tạo dối trá thì không chỉ tai hại cho giáo dục, khoa học mà còn ảnh hưởng tiêu cực lâu dài đến nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng khác, nhất là trong một xã hội còn quá chuộng bằng cấp như chúng ta. 2. Dạy thêm, học thêm tràn lan là tệ nạn kéo dài quá lâu, đã đến lúc không thể nhân nhượng thêm nữa mà cần dứt khoát xóa bỏ. Cần xem đây là trách nhiệm của chính quyền và đi đôi với giảm nhẹ áp lực thi cử, phải có giải pháp tiền lương thỏa đáng để bảo đảm cho giáo viên có thể tập trung làm tốt nhiệm vụ giảng dạy chính, khỏi lo kiếm sống hoặc tăng thu nhập bằng việc dạy thêm, dẫn tới nhu cầu giả tạo buộc học sinh phải học thêm lu bù.
Cần cương quyết cấm tăng tiết, tăng giờ lên lớp nghe giảng, rà soát lại chương trình theo hướng giảm tải, đổi mới phương pháp giảng dạy không chỉ bằng cải tiến cách giảng bài, mà còn cải tiến cả tổ chức quá trình giảng dạy: tăng số giờ thực hành, dành thời gian hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc sách, tham khảo tài liệu, tập thuyết trình, thảo luận, tham gia các hoạt động vui chơi, thể thao, văn nghệ...
Mặt khác, phải bảo đảm cho bản thân giáo viên có thời gian và điều kiện tự học và thực hiện các kế hoạch định kỳ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giáo dục.
3. Từ nhiều năm nay sách giáo khoa chậm được cải tiến về chất lượng nội dung, hình thức trình bày mà giá vẫn cao đối với phần lớn gia đình có con em đi học, lại được sử dụng rất lãng phí (hằng năm in sách mới). Nên học tập kinh nghiệm các nước về cả tổ chức, phương pháp và kỹ thuật, đổi mới quan niệm về biên soạn sách giáo khoa theo những quan điểm giáo dục hiện đại, đổi mới quan niệm về xuất bản, sử dụng sách giáo khoa, tiến đến sách giáo khoa không chỉ bảo đảm về chất lượng, nội dung mà còn phải bền, chắc, hấp dẫn, hợp với lứa tuổi và ổn định trong nhiều năm để có thể sử dụng sách cũ và chủ yếu cho học sinh thuê sách để học.
Nhà nước không thu lãi trên sách giáo khoa, không coi việc xuất bản sách giáo khoa là ngành kinh doanh, nhưng cần tạo ra cơ chế khuyến khích các nhà giáo dục, nhà khoa học tích cực tham gia công tác biên soạn.
Đại học: cần một “hoa tiêu” mới
Trước mắt, để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa, nên tập trung chỉnh đốn một số khâu then chốt đang tác động tiêu cực đến sự phát triển bình thường của đại học.
1. Trước hết, cần cải cách mạnh mẽ việc thi cử và đánh giá, chuyển toàn bộ việc học theo hệ thống tín chỉ; thi, kiểm tra nghiêm túc từng chặng trong suốt khóa học, thay vì dồn hết vào một kỳ thi tốt nghiệp nặng nề mà ít tác dụng. Về tuyển sinh đại học và cao đẳng, nên bỏ kỳ thi hiện nay nặng nề, căng thẳng, tốn kém mà hiệu quả thấp, để thay vào đó một kỳ thi nhẹ nhàng chỉ nhằm mục đích sơ tuyển, để loại những học sinh chưa đủ trình độ tối thiểu cần thiết theo học đại học. Sau đó, việc tuyển chọn vào đại học nào do đại học ấy tự làm, chủ yếu dựa trên hồ sơ học THPT và thẩm vấn hoặc thi nếu cần thiết.
2. Bằng thạc sĩ và tiến sĩ phải theo chuẩn mực quốc tế, không thể tùy tiện, đào tạo cẩu thả, chạy theo số lượng, mà phải lấy chất lượng, trình độ làm tiêu chí hàng đầu. Vì vậy cần chỉnh đốn từ gốc, rà soát lại để hạn chế chặt chẽ số đơn vị, ngành được phép đào tạo, đơn vị nào, ngành nào còn yếu thì cương quyết dừng lại việc đào tạo trong nước để gửi ra đào tạo ở nước ngoài và chuẩn bị thêm điều kiện. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, lập lại trật tự, kỷ cương, chống gian dối và cẩu thả trong việc đào tạo và cấp bằng.
Đồng thời những cơ sở đại học nào được phép đào tạo cần có đủ quyền chủ động từ việc tuyển nghiên cứu sinh, lựa chọn chương trình, cử người hướng dẫn cho đến tổ chức phản biện, bảo vệ và cấp bằng để có thể tự chịu trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội về chất lượng đào tạo.
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:32:59 GMT -5
3. Chấn chỉnh công tác chức danh GS, PGS. Đây là một trong những khâu then chốt để bảo đảm chất lượng cho đại học, nhưng trong một thời gian dài cho đến nay ở nước ta đã thực hiện khá tùy tiện và còn quá nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân đóng góp vào sự trì trệ kéo dài của đại học chính là ở công tác này, thể hiện khá tập trung những khuyết điểm về chính sách nhân tài.
Do đó để mở đường hiện đại hóa đại học, cần sớm chấn chỉnh công tác chức danh GS, PGS, trước hết cải tổ “hội đồng chức danh GS” thành một hội đồng không trực tiếp công nhận các chức danh mà chỉ xét duyệt hằng năm, định kỳ để công nhận những người đủ tư cách ứng cử vào các chức danh GS, PGS ở các đại học và viện nghiên cứu. Hằng năm các đại học và viện nghiên cứu công bố nhu cầu tuyển GS, PGS (với sự chấp thuận của cấp có thẩm quyền) để cho bất cứ ai đã được công nhận “đủ tư cách” đều có thể dự tuyển.
Còn việc xét tuyển được trả lại cho các hội đồng tuyển chọn của từng đại học và viện nghiên cứu. Hội đồng này gồm một số chuyên gia thuộc biên chế đơn vị đó và có thể thêm một số chuyên gia ở ngoài. Quyết định của hội đồng được trình lên cấp trên có thẩm quyền thông qua trước khi thực hiện.
4. Trình độ GS, PGS của ta nói chung khá thấp so với quốc tế. Cả nước số GS đã được công nhận mới chiếm tỉ lệ chưa tới 0,1%, số PGS chưa tới 5%, trong toàn bộ số giảng viên đại học. Nếu kể cả những người thực tế có năng lực nhưng chưa được công nhận GS, PGS do cách tuyển chọn chưa hợp lý, đội ngũ giảng viên đại học vẫn rất yếu về trình độ và số lượng, mà tuổi tác lại khá cao, đó là tình trạng không thể chấp nhận được, cần có biện pháp cải thiện nhanh, nếu không sẽ di hại qua nhiều thế hệ.
5. Đổi mới các trường sư phạm và chính sách đào tạo giáo viên phổ thông. Cần nghiên cứu lại chủ trương xây dựng những trường sư phạm trọng điểm, vì theo kinh nghiệm các nước, chỉ giáo viên mẫu giáo, tiểu học mới cần được đào tạo kỹ về nghiệp vụ sư phạm, còn giáo viên THCS và THPT trở lên thì trước hết phải được đào tạo vững vàng về chuyên môn khoa học rồi mới bổ túc kiến thức và kỹ năng sư phạm.
Do đó phải thay đổi cách đào tạo ở các trường sư phạm, chú trọng nhiều hơn phần chuyên môn khoa học, đồng thời phải mở rộng đối tượng tuyển dụng giáo viên phổ thông từ các cử nhân hay thạc sĩ, sau một khóa bổ túc ngắn hạn về nghiệp vụ sư phạm. Các đại học sư phạm nên dần dần chuyển thành đại học đa ngành, trong đó có khoa sư phạm (giáo dục) chuyên lo về nghiệp vụ giảng dạy và khoa học sư phạm.
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:33:16 GMT -5
6. Xây dựng mới một đại học đa ngành hiện đại, làm “hoa tiêu” cho cải cách đại học sau này. Song song với những biện pháp cấp bách kể trên, cần bắt tay xây dựng ngay một đại học đa ngành thật hiện đại, theo chuẩn mực quốc tế và sánh kịp các đại học tiên tiến nhất trong khu vực để làm hoa tiêu cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa đại học.
Cần xây dựng hoàn toàn mới đại học này, nghĩa là không phải ghép chung lại một số đại học đã có sẵn (theo kinh nghiệm không thành công như đã làm cho tới nay), mà toàn bộ giảng viên và sinh viên tuyển vào đều là mới. Lúc đầu không nhất thiết đủ hết mọi ngành và qui mô có thể hạn chế trong số mấy trăm sinh viên, nhưng đại học mới này phải được xây dựng theo đúng các chuẩn mực quốc tế về mọi mặt: cơ sở vật chất thiết bị, điều kiện ăn ở, học tập của sinh viên, phương pháp, nội dung chương trình, trình độ giảng viên (lúc đầu một số ngành có thể mời giảng viên nước ngoài hoặc Việt kiều), sinh viên lấy vào... Đại học mới này sẽ đào tạo theo ba cấp học: cử nhân (tú tài + 3-4 năm), thạc sĩ, kỹ sư (tú tài + 5 năm), tiến sĩ (tú tài + 8 năm).
Tình trạng phổ biến hiện nay ở các đại học là giảng viên dạy quá nhiều giờ (25-30 giờ mỗi tuần không phải là hiếm), kể cả giờ dạy trong trường, ngoài trường, dưới nhiều hình thức khác nhau, dạy liên kết ở các địa phương, dạy tư, luyện thi, “dạy sô”...), do đó ngay ở các đại học lớn cũng rất ít nghiên cứu khoa học, và nhiều người đã lâu không có thói quen cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ nhưng lại sản xuất đều đều cử nhân, thạc sĩ, thậm chí cả tiến sĩ.
7. Tăng đầu tư cho đại học, đi đôi với chấn chỉnh việc sử dụng đầu tư. Cần cải cách chế độ lương và phụ cấp, bảo đảm cho giảng viên đại học một mức thu nhập phù hợp với năng suất và trình độ từng người để họ có thể dồn tâm lực vào nhiệm vụ chính trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học mà không phải lo toan, xoay xở cho đời sống quá nhiều, tạo mọi điều kiện cho họ có thể cập nhật tri thức theo kịp khoa học công nghệ thế giới và khu vực. Tăng học phí hợp lý phải đi đôi với tăng tích cực chất lượng đào tạo, đồng thời có chính sách học bổng rõ ràng, thiết thực để giúp đỡ hiệu quả người nghèo và những người trong diện cần nâng đỡ.
Phát triển loại hình đại học hai năm
Thật ra còn một vấn đề rất cấp bách nữa chưa được đề cập đến trong bản kiến nghị này là giáo dục trung học chuyên nghiệp, mà sự yếu kém do thiếu quan tâm của chúng ta trong thời gian dài là một trong các nguyên nhân chủ yếu khiến thanh niên không còn con đường nào khác phải đổ xô vào đại học, làm trầm trọng thêm các vấn đề phổ thông và đại học.
Lĩnh vực này cũng cần đầu tư thích đáng để hiện đại hóa thì mới đáp ứng được các yêu cầu phát triển của đất nước trong những năm tới. Đặc biệt, song song với mở rộng hệ thống các trường dạy nghề, trường trung cấp kỹ thuật, cần tích cực phát triển loại hình đại học hai năm như đã nói ở bài trước.
(Trích kiến nghị của GS Hoàng Tụy và 22 nhà trí thức gửi Thủ tướng Chính phủ )
Bản kiến nghị của 23 nhà giáo, nhà khoa học trên có khiến bạn suy nghĩ, trăn trở về nền giáo dục nước nhà?
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:35:07 GMT -5
Chấn hưng giáo dục - mệnh lệnh từ cuộc sống
Giáo dục đại học: rõ người, rõ mình
Mô hình Trường ĐH quốc tế RMIT Việt Nam đang được xây dựng tại quận 7, TP.HCM, dự kiến sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2005. Đây là cơ sở giáo dục ĐH nước ngoài duy nhất có đầu tư xây dựng trường tại VN TT - Tại sao những lĩnh vực khác có đầu tư của nước ngoài nhiều thế mà giáo dục thì hầu như không có?! Điều này đã nói tới nhiều nhưng chưa làm gì mấy. Tại sao ?
Nhìn xa trông rộng
Nước Nga lâm vào khủng hoảng sau khi Liên Xô tan rã, lại bị bọn khủng bố làm cho điêu đứng, nhưng họ vẫn duy trì nền giáo dục (GD) không mất tiền. Họ làm được như thế bởi vì cơ sở hạ tầng của họ được xây dựng vững chắc từ nhiều năm trước (ví dụ: khu nhà chính của Trường Tổng hợp Matxcơva xây cách đây hơn nửa thế kỷ, nhưng đến nay trên thế giới chưa trường nào có ngôi nhà hoành tráng như vậy!). Họ có năng lực mỗi năm tiếp nhận 1,7 triệu SV, nhưng số học sinh tốt nghiệp phổ thông hằng năm chỉ có 1,4 triệu.
Nước Mỹ không bàn cãi, không cố gắng, họ khoan thai tiến hành hoạt động GD với lý luận hết sức đơn giản và rõ ràng: trong một nền kinh tế thị trường phát triển, muốn có việc làm phải có kiến thức; muốn có kiến thức phải học. Mà con đường ngắn nhất, vững chắc nhất là học trong nhà trường. Hiện nước Mỹ có khoảng 3.000 trường ĐH các loại với hàng chục triệu SV, là nền GD ĐH thuộc loại tiên tiến nhất thế giới.
Nếu Trường ĐH Giao thông Thượng Hải (một trường rất lớn ở Trung Quốc) có ngân sách khoảng 100 triệu USD, mà theo Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Trần Văn Nhung là gần bằng toàn bộ ngân sách GD ĐH của ta, thì bất cứ trường thường thường bậc trung nào của Mỹ cũng có ngân sách trên 100 triệu USD.
Hoàn cảnh và điều kiện của VN gần giống với Trung Quốc. Khi học kinh nghiệm của nước ngoài, ta để ý đến những cái họ làm và cả những cái họ không làm. Trước hết phải hiểu rằng không thể đạt nhiều thứ ngay cùng một lúc. Hiện nay chúng ta muốn GD ĐH VN phải có chất lượng cao, mở rộng cửa để nhiều người được học, công bằng xã hội được thực hiện...
Tham vọng này đã làm đảo tung nền GD ĐH của chúng ta lên và xem chừng còn lâu mới ổn định nếu chúng ta không làm một cách điềm tĩnh, nhìn xa trông rộng, tuân thủ qui luật phát triển.
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 5:35:21 GMT -5
Hạ tầng tốt, giáo viên mạnh
Hàng chục cơ sở GD của nước ngoài đang hoạt động tại VN (trên cơ sở liên kết hay 100% vốn của họ) đều chưa hoàn toàn đúng với mong muốn của chúng ta. Họ mang đến VN chương trình của họ, một ít giáo viên rồi thuê nhà cửa có sẵn của ta mở lớp dạy, thu học phí. Đầu tư vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ... mới là những thứ chúng ta cần hướng tới.
Hầu như không có một trường nào của chúng ta hiện nay có diện tích đủ rộng đúng tầm vóc một trường ĐH hiện đại. Cách đây gần 50 năm, những người tiền bối đã dành cho ĐH Bách khoa Hà Nội một nơi đẹp và rộng rãi như vậy, thế mà nay nó bị bớt xén, chia cắt, thậm chí có cả một phường với hàng vạn dân cư ngụ trên đất trước đây của trường.
Thật tiếc! Trong khi đó, mới đây thôi, một vị đứng đầu Đuma quốc gia Nga định lấy một ngôi nhà của Trường ĐH Tổng hợp quốc gia Matxcơva mang tên Lomonosov, người dân đã phản đối đến nỗi tổng thống phải ký ngay một sắc lệnh: trường này là tài sản quí của quốc gia, không một tổ chức hay cá nhân nào có quyền xâm phạm.
Các khu công nghiệp, khu đô thị mới mọc lên nhanh và nhiều đến vậy, tại sao lại không xây được trường ĐH? Một người Mỹ nói: “VN đã có Luật đầu tư nước ngoài khá cởi mở, nhưng đến các trường dân lập cũng phi lợi nhuận thì làm sao chúng tôi dám đầu tư vào GD?! Hiện nay phần lớn trường ĐH ở Mỹ không xây dựng cơ sở hạ tầng nữa. Với lãi suất thấp trên dưới 2%/năm, nhiều trường sẵn sàng đầu tư ra nước ngoài”.
Nếu chúng ta không chính thức (vì trên thực tế đã có rồi) thừa nhận khuynh hướng thương mại (theo nghĩa đúng đắn) thì không thể có đầu tư lớn của tư nhân trong cũng như ngoài nước vào lĩnh vực GD.
Không nhà doanh nghiệp nào lại bỏ tiền vào khu vực phi lợi nhuận cả. Vậy là đã rõ, muốn có cơ sở vật chất tốt cho GD ĐH phải có những quyết định phù hợp với thực tế, phải thay đổi cách liên kết, hợp tác với nước ngoài.
Còn đội ngũ giáo viên thì chúng ta phải tự lo lấy thôi. Cách cơ bản và lâu dài vẫn là giữ SV học giỏi ở lại trường để đào tạo. Nhưng muốn có người lên lớp được ngay thì nhận những người có bằng cấp và kinh nghiệm ở Nga, Đông Âu và thậm chí cả ở Mỹ nữa trở về.
Để làm được điều này, lãnh đạo và giáo viên các trường ĐH không nên nghĩ: “Họ được ra nước ngoài, được học, được sống sung sướng, thậm chí làm giàu nữa... Bây giờ lại cũng được đi dạy như mình” mà phải nghĩ là: “Họ có bằng cấp, có tầm nhìn, lại không phải lo cơm áo gạo tiền nữa, chắc chỉ dồn sức cho nghiên cứu và giảng dạy”.
Tôi nói như vậy vì có nhiều người đã trở về, đã đến các trường ĐH xin mà không được nhận. Cách nữa là mời cán bộ khoa học của các viện, các ban, ngành tham gia giảng dạy, nhưng phải yêu cầu họ làm đề cương và bảo vệ trước hội đồng khoa học của trường.
Khi chúng ta đã có cơ sở hạ tầng tốt và đội ngũ giáo viên mạnh thì mở rộng qui mô đào tạo. Lúc này có thể thành lập hàng loạt trường ĐH cộng đồng - community college (yêu cầu đầu vào không khắt khe lắm, tại nhiều tỉnh để đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người).
Những người muốn học lên cao nữa phải đến các trường ĐH lớn (university) để học tiếp. Như vậy là đã có sự phân loại các trường, có tiêu chí, qui chuẩn hẳn hoi (theo kinh nghiệm các nước thì việc này không khó, nó mang tính kỹ thuật thuần túy).
Để tương xứng với bảng phân loại và bảo đảm danh tiếng của mình (lúc này danh tiếng chính là thương hiệu, nó cũng là một loại vốn), các trường sẽ chăm lo tới chất lượng đào tạo. Làm một cách tự giác và vì quyền lợi của chính mình bao giờ cũng có hiệu quả hơn là làm theo lời kêu gọi và thúc giục.
TS HỒ BẤT KHUẤT (viết từ Washington, Mỹ)
|
|