|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:01:37 GMT -5
Người ta kể cho tôi nghe câu chuyện giảm biên chế ở Khoa Văn trường Đại học X. như thế nầy:
Chủ toạ buổi họp thực hiện quyết định giảm biên chế hỏi:
- Các thầy các cô thấy khoa ta nên giảm ai ?
Một thầy giáo nổi tiếng thật thà, cần cù có nhiều bằng cấp học bổ túc, hàm thụ đứng dậy chỉ tay vào một thầy giáo ngồi đối diện nói:
- Đề nghị giảm biên chế thầy V.
Cả cuộc họp sửng sốt. Thầy V. là người giỏi, thông thạo Hán Nôm, được xem như cái xương sống của khoa, giảm thầy V. thì khoa nầy không thể đứng được. Chủ tọa với giọng ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao ?
Người thầy giáo cần cù giải thích:
- Thầy V. là người có khả năng nhất. Thầy V. có bị giảm thì rồi khoa ta cũng phải mời thầy đến dạy giờ. Nếu khoa không mời thì các đại học khác cũng mời. Nếu các đại học khác cũng không nữa thì ở nhà thầy xem tử vi, coi hướng mồ mả, xem ngày cưới, ngày khởi công xây nhà... thì thu nhập cũng đủ sống sung sướng rồi. Còn nếu giảm một người như tôi thì về nhà chẳng ai mời và xã hội cũng chẳng ai cần một người như tôi, tôi làm sao sống được với đồng tiền hưu nhỏ nhoi hiện nay?
Chỉ có người thật thà mới nói được một sự thật cười ra nước mắt như thế. Khoa Văn trường X. không dám giảm thầy V., cũng không nỡ giảm con người thật thà. Cuối cùng họ đã đề nghị giảm một số người có ý muốn được giảm. "Nhiều người thành công trong các lãnh vực chính trị, kinh doanh không hẳn là những người có học hàm học vị cao" Những người muốn được giảm không giỏi bằng thầy V. nhưng ra khỏi biên chế họ hoạt động thu nhập còn cao hơn thầy V. nhiều. Nhiều giám đốc giỏi, nhiều cán bộ giỏi của các công ty nước ngoài, các công ty tư nhân trên toàn quốc hiện nay phần đông xuất thân từ trong các công ty của nhà nước Việt Nam. Thậm chí có vị giám đốc làm cho công ty quốc doanh sụp đổ nhưng qua công ty của nước ngoài thì được tín nhiệm và được trả lương gấp mười lần so với cơ quan cũ. Chuyện một vị giám đốc Nhà máy bia ở Đà Nẵng cách đây năm, sáu năm là một trường hợp điển hình.
Người ngoài họ rút được sinh viên giỏi của ta và rút cả những người có kinh nghiệm có tài trong các cơ quan, cơ sở làm ăn của ta. Nhưng cho đến nay tôi chưa thấy nhà nước Việt Nam có một chính sách thoả đáng nào để giữ những người tài để phục vụ đất nước cả.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:01:52 GMT -5
Nền giáo dục Việt Nam nhìn chung là đang đi xuống. Với những dẫn chứng trên, ta cũng phải công nhận trong một phạm vi nào đó lại không đến nỗi. Hàng trăm, cũng có thể nói là hàng ngàn sinh viên do Việt Nam đào tạo đã giật được nhiều giải quốc tế, đã được các công ty, tổ chức kinh doanh nước ngoài tuyển chọn để làm việc cho họ tại Việt Nam, một số được chuyển qua làm việc có thời hạn ở chính quốc như Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ... Nhiều nhân viên tốt nghiệp trong các Đại học Việt Nam làm việc không thua gì người ngoại quốc. Như vậy ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam đâu đến nỗi kém! Việt Nam đâu đến nỗi hiếm người tài? Người ngoại quốc đến Việt Nam họ không bỏ ra một hào để lo đào tạo nhân tài. Nhưng khi họ cần, họ chỉ ra một thông báo tuyển dụng với những ưu đãi như thế, như thế… liền có vô số người tài Việt Nam đến nộp đơn xin được thử tài để được làm thuê cho họ.
Nhà nước ta chưa có chính sách trả lương theo cơ chế thị trường (tiền nào của nấy) cho người tài, nhưng còn có vô số ưu đãi khác trong khả năng của nhà nước Việt Nam để thu hút được nhân tài. Ví dụ: Hằng năm các cơ quan cần tuyển dụng người gởi cho các đại học số lượng người mình cần tuyển dụng. Đại học công bố danh sách ấy cho toàn thể sinh viên biết. Những người được tuyển dụng có chỉ số lương rõ ràng, có trợ cấp của địa phương, có nhà và đất ở. Người đỗ đầu được chọn nhiệm sở trước, người đỗ thứ hai, thứ ba, thứ… tiếp sau, các tân khoa có thể hoán đổi nhiệm sở cho nhau. Công bằng, công khai, dân chủ như thế làm gì có chuyện tiêu cực “chạy nhiệm sở”, vùi dập người tài? Đào tạo theo yêu cầu của xã hội thì làm gì còn thừa để chịu thất nghiệp? Những địa phương muốn có người tài thì có chính sách trọng dụng phát huy tài năng, có chính sách đãi ngộ xứng đáng thì Việt kiều ở nước ngoài cũng về xin dâng hiến tài năng chứ không riêng gì người trong nước. "Người tài làm giáo dục thì sẽ đào tạo được vô số người tài" Vấn đề thu hút nhân tài nầy đã được thể hiện ở một số địa phương. Thành phố Đà Nẵng là một ví dụ mà tôi có dịp được biết rõ. Ví dụ vừa nêu trên Đại học Sư phạm Huế trước 1975 đã làm, các cán bộ kế hoạch, các ban tổ chức cán bộ dư biết, biết từ lâu. Nhưng vì sao họ chưa làm? Có người giải thích với tôi là họ phải làm cho đục nước để béo cò.
Theo tôi, sự yếu kém của nền giáo dục Việt Nam không hẳn vì chính bản thân những người có trách nhiệm trực tiếp đối với nền giáo dục Việt Nam. Chỉ điểm qua một vài cách kiểu thu hút nhân tài của người nước ngoài trên đất Việt Nam vừa qua và một số địa phương chúng ta thấy cái mắc mớ bùng nhùng của nền giáo dục Việt Nam chính là vì cái “cơ chế hành chánh” của xã hội Việt Nam. Nói như thế cũng chưa rõ. Có lẽ phải nói là “Đảng-Chính quyền Việt Nam chưa có một chính sách dùng người/người tài” theo đúng qui luật vận hành phát triển của giáo dục xưa nay. Cho nên, sinh mệnh của nền giáo dục Việt Nam nằm trong tay Đảng và chính quyền chứ không phải chỉ trong bản thân của ngành giáo dục. Con người đối với xã hội, đối với cách mạng cần thiết, quan trọng như nước đối với đời sống con người. Nếu nước sạch, trong lành thì nấu cơm - cơm ngon; nấu canh - canh ngọt; sắc thuốc - thuốc uống lành bệnh; làm rượu bia - bia ngon… Nếu có người tài lãnh đạo thì cách mạng thành công, buôn bán phát đạt, xử án công minh, chỉ huy quân đội bách chiến bách thắng,… và dĩ nhiên người tài làm giáo dục thì sẽ đào tạo được vô số người tài. Nếu chưa có chính sách trọng dụng người tài thì không những giáo dục đi xuống mà nhiều ngành khác rồi cũng không hoàn thành được nhiệm vụ mà các nghị quyết của Trung ương đã đề ra.
N.Đ.X
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:03:06 GMT -5
TẢN MẠN VỀ GIÁO DỤC VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI HIỆN NAY BÀI 2: Trí thức và văn bằng NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(Nhà văn-Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế )
Lâu nay báo chí hay nhắc đến ý tưởng của tiền nhân “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh”. Ý tưởng nầy to tát thật nhưng không may trải qua một thời gian dài nó bị phủ bụi trong các kho sách cũ.
Trong khi đó, người Nhật - một nước cùng nằm trong vùng ảnh hưởng Nho giáo như Việt Nam, lại xem “nguyên khí” như một thực thể của đời thường. Người nói tiếng Pháp gặp nhau chào “Comment allez vous!” Người nói tiếng Anh chào nhau “How are you?”. Người Nhật gặp nhau hỏi “O genki des u ka?” (Nguyên khí anh có tốt không? Có nghĩa là sức khoẻ anh có tốt không?). Một con người mà sức khoẻ không tốt là người bệnh. Một quốc gia mà nguyên khí (sức khoẻ ) kém, thì làm sao phát triển được? Cho nên việc tìm hiền tài, sử dụng hiền tài là việc hệ trọng số một của một quốc gia.
Ý TƯỞNG 2 Làm sao lấy lại lòng tin của quần chúng đối với các nhà khoa bảng ?
Muốn tìm hiền tài xưa nay chỉ có hai con đường: Con đường chính là khoa cử và con đường phụ là tiến cử. Từ khoa cử mà có các nhà khoa bảng. Không phải tất cả các nhà khoa bảng đều là người tài, nhưng nếu việc tổ chức khoa cử tốt thì có thể nói đa số khoa bảng là người tài. Hàng ngàn năm qua các vị có ăn học với tượng đồng bia đá còn lại ở các Văn miếu đã chứng minh điều đó. Cái bi kịch của Việt Nam hiện nay là có quá nhiều nhà khoa bảng mà đất nước lại quá thiếu người tài. Nhiều nhà khoa bảng có tài thật bị đánh đồng với các nhà khoa bảng dỏm. Trước mắt dân chúng các danh hiệu học vị học hàm “Thạc sĩ, Tiến sĩ, Phó Giáo sư, Giáo sư” là chuyện đáng ngờ. Nhiều người có tài nghe nói đến bằng cấp Thạc sĩ, Tiến sĩ thì nhếch môi cười. Cái giá trị cao quý nhất của xã hội hướng đến là tri thức bị khủng hoảng làm ảnh hưởng đến tất cả các lãnh vực khác của đất nước.
Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng “mất giá” học hàm, học vị Việt Nam hiện nay có lẽ phải trả lời bằng một công trình nghiên cứu của các nhà học thật. Riêng trong ý tưởng thứ hai nầy, tôi thử đế xuất một vài ý kiến nhằm lấy lại lòng tin của quần chúng đối với các nhà khoa bảng Việt Nam hiện nay.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:04:11 GMT -5
Làm thế nào để lấy lại uy tín ? "Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng “mất giá” học hàm, học vị Việt Nam hiện nay...?" Theo tôi được biết giá trị các bằng cấp Tiến sĩ, Thạc sĩ ở các nước phương Tây có giá trị khác nhau, tùy theo ngành, tùy theo trường, tùy theo cấp bậc, tùy theo quốc gia. Ví dụ ở Pháp: Với các ngành Luật (Droit), Y (Médecine) Thạc sĩ (Agrégé) cao hơn Tiến sĩ Văn khoa (Docteur ès lettres). Đối với Văn khoa (Tiến sĩ quốc gia (Docteur d’État) có giá trị hơn Thạc sĩ. Cùng đỗ Tiến sĩ tại Đại học Sorbonne (Paris), nhưng Tiến sĩ quốc gia (Docteur d’État) là thầy của Tiến sĩ Đại học (Docteur d’Université) và Tiến sĩ Đệ tam cấp (Docteur du 3è Cycle); Tiến sĩ Đại học Paris được trọng hơn Tiến sĩ ở các địa phương khác như Lille, Grenoble, Toulouse, Marseille v.v...
Được xem lý lịch các thầy giáo của tôi trước đây, tôi thấy các danh hiệu văn bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ còn được ghi chú chi tiết hơn như học tại trường nào, tên luận án, ai hướng dẫn (patron), luận án được in thành sách và lưu giữ ở các thư viện để sinh viên và các nhà nghiên cứu tham khảo, đề tài luận án đã đưa vào ứng dụng chưa, từ sau khi lấy bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ đã làm những công trình gì và đang nghiên cứu đề tài gì. Đã là Tiến sĩ Thạc Sĩ và Giáo sư rồi nhưng nếu hai năm không dạy, không có công trình nghiên cứu mới thì rất dễ bị loại, trừ những người đứng đầu một ngành chuyên môn nào đó ở mức độ cao nhất và hiện đại nhất đã có một “cái ghế” (une chaire) vĩnh cửu ở một Đại học nào đó (như ở Collège de France).
Nói đến Đại học là nói đến môi trường trí thức nhất, nói đến trí tuệ cao nhất của một địa phương, một dân tộc, nó phải được công khai, dân chủ, trung thực, tiên tiến. Một người có học vị Tiến sĩ biết tự trọng khi in danh thiếp không bao giờ đề Tiến sĩ không thôi mà phải ghi chú rõ là Tiến sĩ quốc gia, Tiến sĩ Đệ Tam cấp hay Tiến sĩ Đại học, hoặc Tiến sĩ ở Đại học nào. Nếu không đề rõ như thế người được trao đổi danh thiếp sẽ hỏi những thông tin tối thiểu ấy. Chuyện bằng cấp phải rạch ròi như thế mới có đủ căn cứ để tuyển dụng, nâng bậc lương cất nhắc lên các chức vị.
Những thông tin sơ lược về chuyện bằng cấp nêu trên không lạ gì với ngành giáo dục đào tạo Việt Nam. Nhưng nếu ngành thực hiện rạch ròi như thế thì làm gì có chuyện như Giáo sư Hoàng Tụy nói: “phải miễn nhiệm ít nhất 1/3 số giáo sư, phó giáo sư đã phong”(2). Ai hưởng lợi và lộc trong việc cấp 30% học hàm kém chất lượng ấy? Ai cũng có thể trả lời được câu hỏi nầy. Báo Lao Động cách đây gần mười năm đã từng theo đuổi trường hợp một ông Tiến sĩ toán chép công trình của thầy trò Giáo sư Huỳnh Mùi ở Hà Nội, đem qua Grusia trình, bị lật tẩy, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải mất nhiều công sức mới khẳng định được sự thực sao chép ấy. Và mới đây, một Tiến sĩ “con xén tóc” ở Huế đã xén công trình của ông Ngô Tuệ (một người làm vườn), bị ông Ngô Tuệ và báo chí tố cáo nhưng nào có thể truất cái bằng Tiến-sĩ-xén-tóc ấy? Nội dung các luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ ra sao ít người được đọc, ngay cả sinh viên nơi Đại học cấp các học vị ấy cũng ít người biết. "Chuyện bằng cấp phải rạch ròi như thế mới có đủ căn cứ để tuyển dụng..." Nhưng qua một số công trình, dự án được quốc gia, quốc tế tài trợ được công bố thấy có nhiều công trình, dự án do hàng chục Thạc sĩ, Tiến sĩ thực hiện không có mấy giá trị. Thậm chí có những công trình được xếp vào loại “mẫu mực” lạc hậu. Ví dụ như công trình Từ điển lịch sử Thừa Thiên Huế cách đây mấy năm. Có vị Thạc sĩ, Tiến sĩ không viết nổi một bài để đăng vào tập san, báo chí trong nước. Thế mà những người ấy đang xách cặp đi dạy khắp nước, giữ những chức vụ rất quan trọng trong bộ máy nhà nước, bộ máy giáo dục hiện nay. Cho nên tôi nghĩ không có một phép thần nào có thể rút lại 30% học hàm dỏm đã cấp. Nhưng nhà nước với quyền hạn của mình, có thể đưa ra các biện pháp hạn chế tác hại của các học hàm, học vị dỏm và lấy lại lòng tin của quần chúng trí thức sinh viên đối với các vị có học hàm, học vị thật. Ví dụ nhà nước có thể bắt buộc các vị có học hàm học vị làm một Phiếu thẩm tra với những nội dung đơn giản sau đây:
- Học trường nào, nước nào, thời kỳ nào, ai là giáo sư hướng dẫn? - Luận án trình bày về đề tài gì? - Nghiên cứu sinh thuộc loại học tập trung chính qui, tại chức hay hàm thụ, từ xa? - Bằng thực thụ hay bằng phiên qua từ các loại văn bằng khác? Phiên qua từ năm nào? - Đã ứng dụng đề tài luận án vào thực tế chưa? Hiệu quả ra sao? Hiện luận án đang lưu giữ ở đâu? - Nếu chưa đưa vào thực tế, cho biết nguyên nhân vì sao? - Sử dụng được sinh ngữ hoặc ngoại ngữ nào? - Từ sau khi đỗ Thạc sĩ, Tiến sĩ đã có thêm những công trình gì? - Có công trình nghiên cứu nào được giới thiệu ở nước ngoài hay nước ngoài yêu cầu được tham khảo, sử dụng?
Nếu các vị học hàm học vị trả lời trung thực cho những câu hỏi trên thì một Ban thẩm định học hàm học vị quốc gia có thể đánh giá sơ bộ đội ngũ học hàm học vị Việt Nam như thế nào. Nếu có cá nhân nào trả lời không thật thì đó là cơ hội để đánh giá cái học hàm học vị của họ khi Ban thẩm tra biết rõ sự thật.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:04:50 GMT -5
Cách xử lý "Ngày xưa triều Nguyễn thiếu thông tin, lạc hậu so với thời đại chúng ta nhưng cũng đã biết chia các bậc đại khoa thành nhiều hạng..." Các sinh viên muốn đi học các nước Anh, Mỹ phải có bằng TOEFL tiếng Anh. Thi bằng TOEFL rất khó. Nhưng bằng nầy chỉ có giá trị 2 năm. Sau hai năm muốn dùng bằng TOEFL thì phải thi lại. Trong hai năm đó thực sự tiếng Anh không có mấy thay đổi, nhưng muốn cập nhật bắt buộc phải thi lại. Tiếng Anh mà đã phải như thế huống hồ các ngành khoa học khác. Với thời đại bùng nổ thông tin hiện nay trong hai năm có biết bao nhiêu khám phá mới. Do đó Việt Nam bước vào thời hội nhập cũng phải cập nhật tri thức, các nhà khoa bảng Việt Nam trước hơn ai hết phải cập nhật tri thức của mình. Nếu ai không cập nhật được thì xin nhường chỗ cho tuổi trẻ. Có “anh hùng thời kỳ đổi mới” thì cũng phải có các học hàm học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư thời kỳ đổi mới, chưa ngang tầm thế giới thì ít ra cũng phải ngang tầm với các nước trong vùng. Ví dụ đưa ra một vài tiêu chí như:
- Một Thạc sĩ, Tiến sĩ phải sử dụng được một ngoại ngữ (Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc…) liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình. Chưa đủ trình độ ngoại ngữ thì phải đi học lại;
- Những ai chưa có thêm công trình sau khi có Thạc sĩ, Tiến sĩ thì phải nghiên cứu một công trình mới cần thiết cho xã hội hiện nay.
Bổ sung được hai yêu cầu trên mới được xác nhận giá trị của học hàm học vị thời kỳ đổi mới.
Ngày xưa triều Nguyễn thiếu thông tin, lạc hậu so với thời đại chúng ta nhưng cũng đã biết chia các bậc đại khoa thành nhiều hạng: Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng Giáp, Tiến sĩ và sau cùng là Phó bảng. Tuy là đỗ đại khoa nhưng trình độ giữa các ông Bảng nhãn, Thám hoa cách biệt với các ông Tiến sĩ, Phó bảng. Và, như trên đã trình bày, người Pháp cũng chia các Tiến sĩ thành nhiều bậc: Tiến sĩ quốc gia, Tiến sĩ Đại học và Tiến sĩ Đệ tam cấp. Cùng mang bằng Tiến sĩ mà cấp bậc được phân biệt rõ ràng. Vậy nên chăng, Việt Nam cũng cần phải phân loại ví dụ như Tiến sĩ quốc gia, Tiến sĩ Đại học, Tiến sĩ hàm thụ hay một tên gì gì đó thích hợp nhất, được xã hội chấp nhận và không làm cho thế giới ngạc nhiên.
Hiện nay đang lưu hành hai danh hiệu khó hiểu: “Tiến sĩ” và “Tiến sĩ khoa học”. Nhiều người hỏi phải có công trình khoa học mới đỗ được Tiến sĩ, còn loại Tiến sĩ không khoa học là Tiến sĩ gì? Trong thực tế tôi đã làm việc với nhiều “Tiến sĩ không khoa học” mà rất giỏi, họ có nhiều công trình khám phá để đời, ngược lại có nhiều vị “Tiến sĩ khoa học” hẵn hòi mà tôi hơi ngờ về tri hức của họ và chưa hề được nghe thấy một công trình khoa học nào của họ cả. (Nếu các vị đó có nhiều công trình khoa học để đời mà tôi không biết thì tôi xin lỗi vậy). Tại sao một đất nước nghìn năm văn hiến, một năm sản sanh ra hàng ngàn Thạc sĩ, Tiến sĩ mà chỉ với một cái tên học vị không thôi mà cũng không qui định cho rạch ròi? Nhiều thầy cô giáo bảo tôi: “Ông ơi, người ta biết hết, nhưng phải quậy cho nước đục mới vỗ béo được cò?” Tôi không tin điều đó nhưng tôi không có đủ thông tin để bác bỏ.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:05:12 GMT -5
Nền giáo dục Việt Nam đang kêu cứu, học hàm học vị bát nháo, nhưng trí thức Việt Nam không thiếu người có thực học, tâm huyết, can đảm sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Nhóm trí thức chung quanh Giáo sư Hoàng Tụy là một điển hình. Do đó, tôi tin nếu nhà nước mạnh dạn lập một Hội đồng quốc gia giáo dục gồm những người có thực học trong nước và cả Việt kiều ở nước ngoài để lo việc xây dựng cho Việt Nam một nền giáo dục mới, tôi tin những khó khăn về giáo dục của ta hiện nay có thể vượt qua được. Trong Hội đồng quốc gia giáo dục có một Ban thẩm định lại học hàm học vị. Căn cứ trên Phiếu Thẩm Tra đã được thẩm tra phân loại lại trình độ và cấp giấy chứng nhận loại A (Tiến sĩ quốc gia), Loại B (Tiến sĩ Đại học) và loại C (Tiến sĩ ….). Việc thẩm tra, duyệt xét đều được công khai trên các phương tiện truyền thông. Giáo viên, sinh viên, quần chúng và báo chí sẽ cung cấp cho Ban thẩm định những thông tin cần thiết để Ban tham khảo trước khi có quyết định cuối cùng.
"Tôi tin những khó khăn về giáo dục của ta hiện nay có thể vượt qua được" Những người có văn bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ đã được chứng nhận mới được giữ những chức vụ cũ, được giảng dạy tiếp, được nâng lương, được bổ dụng vào những chức vụ cần đến chuyên môn của cái bằng ấy. Học hàm Phó Giáo sư, Giáo sư cũng tùy đó mà tồn tại hay không tồn tại (về giá trị ). Những người từ chối việc thẩm tra là họ tự rút tên mình ra khỏi danh sách những nhà khoa bảng thật của nước Việt Nam. Tôi nghĩ nhà nước hằng năm bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để tổ chức các kỳ thi, trong đó có một phần ngân sách khá lớn để thi tuyển cung cấp cho đội quân thất nghiệp hàng ngàn người. Do đó, nhà nước cũng có thể bỏ ra chừng đó ngân sách để tổ chức thẩm định lại giá trị các học vị học hàm nhằm lấy lại uy tín cho các nhà khoa bảng Việt Nam, để nhà nước tuyển dụng được người tài giúp nước. Tại sao không?
Chỉ qua Phiếu thẩm tra đơn giản trên tôi nghĩ sẽ có ít nhất 50% Thạc sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư không hội đủ các yêu cầu tối thiểu nêu trên. 50 % ấy sẽ không được cấp giấy xác nhận về trình độ khoa học. Văn bằng của họ không còn giá trị sử dụng. Mảnh giấy bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ của họ chỉ còn là một kỷ niệm.
Nếu ý tưởng trên trở thành hiện thực thì Nhà nước nên soạn thành Pháp lệnh với những điều khoản rõ ràng:
- Cơ quan ban ngành trường học nào sử dụng những văn bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ chưa được thẩm định là phạm luật;
- Người có văn bằng đã được thẩm định và phân loại phải ghi rõ, nói rõ đó là Tiến sĩ gì? (Quốc gia, Đại học hay...), không được lấp lửng đánh lừa người khác;
- Từ đây về sau đào tạo văn bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ phải chia thành nhiều cấp, không được nhầm lẫn giữa cấp nầy với cấp kia; chỉ số lương, chức vụ của từng cấp tương xứng với trình độ của từng cấp;
Ngoài ra Quốc hội cũng cần phải có luật về đào tạo và sử dụng khoa bảng. Nếu đào tạo và sử dụng khoa bảng không đúng luật là phạm pháp. Người chịu trách nhiệm đào tạo và sử dụng khoa bảng phạm luật phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
|
|
|
Post by Robot on Nov 1, 2004 17:05:34 GMT -5
Lời kết
"Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp chung của toàn dân tộc" Trí thức là người cần đạt trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ chứ không phải cần đạt mảnh bằng. Khi đã có trình độ, mảnh bằng đương nhiên sẽ tìm đến với mình chẳng phải lo chạy chọt, giành giật làm gì. Mảnh bằng chỉ có công dụng hợp thức hoá trình độ trước mắt xã hội. Phát bằng thiệt cho những người không đủ trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ để những người nầy hợp thức hoá chức vị của mình là xúc phạm đến trí thức.
Học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ là cái chuẩn cao nhất của bất cứ một nền giáo dục nào. Đó là cái đích để cho tuổi trẻ có thực tài vươn lên. Nếu những cái đích đó là đồ dỏm, không có giá trị thì lấy gì làm đích cho tuổi trẻ vươn lên? Pháp luật đã đưa những người làm hàng dỏm, hàng giả ra toà, đến bao giờ pháp luật mới đưa những người có trách nhiệm trong việc phát bằng thiệt cho những người học giả, đưa những người học giả chạy chọt để có bằng thiệt?
Là một người cầm bút, quanh quẩn với các đề tài Triều Nguyễn và Huế xưa, lại không xuất thân khoa bảng, tôi biết chuyện lạm bàn về khoa bảng - giáo dục của tôi quả là chuyện “đá lộn sân”. Bởi thế, thực hiện bài viết nầy tôi không hy vọng cung cấp được một điều gì mới mẽ để các vị có trách nhiệm với sự nghiệp giáo dục tham khảo mà chỉ mong nêu một điển hình về sự quan tâm của quần chúng đối với sự nghiệp giáo dục của nước nhà mà thôi. Nếu có điều gì sơ suất bất cập thất thố kính mong quí thức giả lượng thứ cho một người “ngoại đạo”. Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Nếu tất cả những người quan tâm đến giáo dục đều thể hiện ý tưởng của mình lên báo chí, thì thế nào cũng xuất hiện được những ý tưởng hay. Tôi mong nhận được những ý kiến phản hồi.
N.Đ.X
(2) Trích lại của Vu Gia, Chọn Nhân Tài, VN số 35-36 (2-9-2004), tr. 27
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 13:39:36 GMT -5
BÀI 3: Trọng dụng nhân tài
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(Nhà văn-Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế )
"Nay đất nước bước vào giai đoạn kinh tế thị trường, vai trò người tài trong xã hội đã khác trước" Lâu nay nhà nước ta đã thực hiện tốt chính sách vinh danh và trọng thưởng những người có công, những người tốt việc tốt, những anh hùng trong chiến đấu và trong xây dựng đất nước. Nhưng việc trọng dụng và vinh danh hiền tài/người tài (sage et talentueux) thì chưa được đặt ra một cách tương xứng.
Do đó, khi đất nước hội nhập, phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn, chuyện đào tạo và sử dụng người tài để giúp nước bổng trở nên nóng bỏng.
Ý TƯỞNG 3
Thực hiện chủ trương trọng dụng người tài, bắt đầu từ đâu ?
Các vị lãnh đạo, các vị chức trách nhà nước và các đoàn thể không ngừng kêu gọi người tài trong và ngoài nước tham gia việc nước. Lời kêu gọi đó tuy chưa thành nghị quyết mà người dân cũng đã biết là thực chứ không phải chỉ là một sách lược mang tính tình thế. Tuy nhiên, người dân bao giờ cũng thực dụng, họ chỉ tin khi thấy lời nói đã đi đôi với việc làm. Một vài nơi đã bắt đầu chứng tỏ trọng dụng người tài như ngành giáo dục TP.HCM công khai ưu tiên cho sinh viên Sư phạm đỗ cao chọn nhiệm sở trước rồi mới đến các sinh viên đỗ thấp, công khai thi tuyển những người giỏi vào các chức vụ quản lý ở thành phố v.v... Để những việc “tiên tiến” theo kiểu TP.HCM nêu trên được áp dụng tại tất cả các địa phương, các ngành, các cơ quan Trung ương thì Quốc hội và Nhà nước cần phải có luật định và những văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành.
Nhân tài là người có tài năng xuất sắc (homme de talent), cũng gọi là người hiền tài/hiền nhân (homme vertueux, le sage). Hiền tài đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc trị nước như báo chí lâu nay đã nhắc đi nhắc lại: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh…” (Bia Văn Miếu). Đặc điểm của người tài: Không giống ai. Người có tài thường “có tật”. Chính quyền thích ổn định, người tài - trí thức thì muốn làm khác, “cải tiến” để vươn lên. Bởi thế gặp những người có quyền mang nặng thói độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, người tài thường hay bị qui kết là “phá”, là làm “rách việc”. Chính vì “cái tật” đó mà người tài bị mai một suốt trong thời gian bao cấp. Nay đất nước bước vào giai đoạn kinh tế thị trường, vai trò người tài trong xã hội đã khác trước. Vậy nên làm việc gì trước để cho xã hội tin nhà nước đang thi hành chính sách tôn vinh và sử dụng người tài? 1. Xã hội tiến cử người tài "Nhà nước cũng cần có một bộ phận chuyên trách theo dõi, phát lộ người tài, thử thách, đề xuất sử dụng và vinh danh người tài ngay" Người tài ở trong dân cũng như tài nguyên nằm dưới đất, cần phải thăm dò, tìm kiếm mới phát lộ được. Các địa phương, các cơ quan tổ chức nhà nước phải có trách nhiệm tìm người tài. Có người tài trong nhiều việc, nhiều lãnh vực, cũng có người tài chỉ trong một việc, một lãnh vực. Một việc, một lãnh vực khi người khác không làm được mà người ấy làm được đã là người tài. Anh Trương Cảm vốn là một “lâm tặc” ở vùng rừng quốc gia Bạch Mã, nhưng sau đó đã trở thành người làm ăn chân chính, anh có thể giả tiếng chim/thú bằng miệng, gọi được chim/thú về, xưa nay chưa ai làm được, ấy là người tài. Ông “thần đèn” Nguyễn Cẩm Lũy ở Nam Bộ, dùng những phương tiện thô sơ di dời nhà cửa, lầu gác đến những nơi cần đến, ấy là người tài. Ông Trần Thanh Phương Phó TBT báo Đại Đoàn Kết, gần bốn mươi năm qua cắt báo dán thành hàng trăm bộ đề tài lịch sử văn hoá nghệ thuật, hình thành một kho tư liệu tham khảo cực kỳ phong phú, xưa nay chưa từng có, ông Phương là người tài…
Công dân, báo chí phát lộ tiến cử được người tài thì thưởng, tiến cử sai thì phê phán, ai cố tình che giấu, làm cho người tài thui chột thì phạt. Lúc sinh thời, Bác Hồ đọc báo hằng ngày thấy có người tốt việc tốt là lưu ý khen ngay. Nay nhà nước cũng cần có một bộ phận chuyên trách theo dõi, phát lộ người tài, thử thách, đề xuất sử dụng và vinh danh người tài ngay.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 13:39:53 GMT -5
2. Ban hành chính sách khoan dung với người tài
"Muốn sử dụng người tài, trước hết phải biết người tài là ai..." Do đặc điểm của lịch sử, một số người tài Việt Nam có một thời trưởng thành trong vùng đối nghịch với chính thể hiện hữu, có những hành vi không thuận với công cuộc giải phóng và thống nhất đất nước trước đây. Nay xét thấy tài năng của họ đã thực sự có đóng góp cho quốc gia dân tộc, đánh động được sự quan tâm của thế giới đối với Việt Nam, nhà nước nên thực thi chính sách khoan dung đối với những hành vi không thuận nhất thời trong quá khứ của họ để tôn vinh họ và sử dụng tài năng của họ (hoặc thành quả khoa học - văn học nghệ thuật của họ để lại). Ví dụ như Bác sĩ Bửu Hội ở Pháp với các công trình nghiên cứu trị bệnh phong cùi; Bác sĩ Nghiêm Đạo Đại, Trưởng khoa ghép tạng ở Mỹ; nhà thơ Vũ Hoàng Chương với các tác phẩm Mây, Say, Lửa Từ Bi…; nhạc sĩ Phạm Đình Chương với toàn bộ tác phẩm âm nhạc của ông; bác sĩ Bùi Minh Đức (ở Mỹ ) - người đầu tiên dùng ống nội soi để vá nhĩ - sử dụng ống nội soi để đặt ống thông khí; Giáo sư Tạ Trọng Hiệp (ở Pháp) với toàn bộ công trình nghiên cứu Hán Nôm của ông v.v…
3. Vinh danh ngay những người đã sáng ngời tài năng trong xã hội "Một dân tộc lớn không phải do đông dân và nước rộng mà là do có nhiều người tài" Trong lúc chờ đợi kết quả đi tìm người tài để vinh danh và sử dụng, nhà nước có thể vinh danh ngay những người đã sáng ngời tài năng như nhà triết học Việt Nam nổi tiếng thế giới Trần Đức Thảo, nhà nghiên cứu dân tộc nhạc học Trần Văn Khê, nhà soạn nhạc Tôn Thất Tiết, nhà soạn nhạc Nguyễn Thiện Đạo, nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, nhà sư Thích Thiện Siêu, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn v.v…
Những dẫn chứng trên minh hoạ cho đề nghị của người viết, rất hạn hẹp. Nếu nhà nước thực hiện ba việc cần làm ngay trên, người viết có thể cung cấp một danh sách với hàng trăm người tài trong tất cả các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, thương mại, văn học nghệ thuật, văn hoá xã hội v.v…
Mỗi người tài luôn có những đệ tử, những người hâm mộ hướng đến giống như một định tinh, có nhiều hành tinh nhỏ quay chung quanh. Thu hút được người tài trong các lĩnh vực, ở khắp nơi trên thế giới là thực hiện được chính sách đại đoàn kết dân tộc tốt nhất.
Một dân tộc lớn không phải do đông dân và nước rộng mà là do có nhiều người tài. Do đó chỉ có người tài mới có thể nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, muốn hội nhập và phát triển, mỗi quốc gia phải tự phát huy nội lực của mình. Suy cho cùng, nội lực đó là người tài của nước. Muốn sử dụng người tài, trước hết phải biết người tài là ai, vinh danh họ, dành cho họ một chỗ ngồi thích đáng trong xã hội. Khi người tài được vinh danh và sử dụng tốt, tuổi trẻ sẽ vươn lên học tập, rèn luyện để trở thành người có thực tài chứ không chỉ vì bằng cấp như hiện nay.
Cuối tháng 9.2004
N.Đ.X
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 13:51:58 GMT -5
BÀI 4: Dạy gì cho lớp trẻ hôm nay? NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(Nhà văn-Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế ) "Người truyền đạt những nội dung về đạo đức ý thức dân tộc không chỉ bằng giáo án, bằng lời rao giảng..." Lâu nay nền giáo dục của ta đã truyền thụ cho tuổi trẻ Việt Nam những ý tưởng lạc quan: Việt Nam là một dân tộc anh hùng, nồng nàn tình cảm yêu nước, người dân thông minh, đất nước có rừng vàng, biển bạc, tài nguyên phong phú v.v... và v.v…
Mang những ý tưởng lạc quan ấy để bước vào thời kỳ hội nhập, cạnh tranh quốc tế, tuổi trẻ Việt Nam gặp phải loạt câu hỏi: Các nước khác cũng đấu tranh với thực dân đế quốc để giành độc lập dân tộc, vậy họ không anh hùng sao? Họ yêu nước họ thua ta yêu nước ta sao? Ai đã thống kê, so sánh để có kết luận nầy? Người dân thông minh, tại sao sau 30 năm lập lại hoà bình, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi thân phận một nước kém phát triển? Việt Nam có rừng vàng biển bạc, có dầu thô xuất khẩu mà sao thu nhập hằng năm trung bình của người dân chỉ đạt 450 USD?
Những người có ý thức thì ngỡ ngàng. Những người thiếu ý thức thì ỷ lại, nếu có điều kiện thì tiêu xài vô tư, và không tránh khỏi tâm lý cao ngạo. Đời bố đã hy sinh nên đời con được hưởng. Họ xem việc thụ hưởng cuộc sống tinh thần và vật chất của xã hội hôm nay như một mặc định.
Sự thực thì như thế nào?
Dân tộc anh hùng trong việc chống ngoại xâm nhưng lại bất lực trước quốc nạn tham nhũng;
Dân tộc thông minh mà không đủ người tài ra giúp nước, từ việc lớn (như nhà máy lọc dầu) đến việc nhỏ (như quãng bá du lịch, nuôi bò sữa) đều phải nhờ đến chuyên gia nước ngoài?
Rừng vàng đã bị chiến tranh và sự kém phát triển tàn phá sạch, phải nhập gỗ ngoại để dùng, không còn rừng để giữ nước, hằng năm lũ lụt cuốn trôi không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của dân nghèo;
Biển bạc đã bị hủy diệt, phải vay tiền đóng nhiều đội tàu đi đánh bắt xa bờ.
Và hàng trăm sự kiện nghịch lý khác.
Ý TƯỞNG 4
Chương trình giáo dục Việt Nam cần nhấn mạnh thêm điều gì? "Chấp nhận hy sinh để cho đất nước vươn lên" Những ý tưởng lạc quan truyền thụ cho học sinh sinh viên lâu nay đã quá khác biệt với thực tế. Vì vậy cần phải có những ý tưởng mới để rao giảng cho tuổi trẻ.
a) Muốn cho tuổi trẻ quan tâm đến việc nước, quan tâm đến việc xoá đói giảm nghèo, lo phát triển đất nước ngang tầm thời đại thì trước tiên phải xác định cho tuổi trẻ thấm nhuần đặc điểm Việt Nam đang là một nước kém phát triển, đông dân mà nguồn tài nguyên rừng biển đã kiệt quệ, bão lũ tàn phá hằng năm. Kém phát triển như thế mà luôn bị ngoại bang đe doạ lấn chiếm, đe doạ cấm vận và trừng phạt về kinh tế. Nợ ngân hàng quốc tế ngày càng chồng chất, phải trả trong nhiều thế hệ chưa chắc đã xong. Chiến tranh đã lùi vào quá khứ 30 năm, nhưng hậu quả chất độc màu da cam chưa biết bao giờ mới khắc phục được trong máu huyết dân tộc;
b) Muốn thoát khỏi tình trạng kém phát triển để hội nhập, không còn con đường nào khác là con đường giữ vững bản lãnh dân tộc, học tập rèn luyện tri thức tiên tiến, nắm được kỹ thuật cao, không ngừng sáng tạo để làm ra những sản phẩm mới để cạnh tranh;
c) Phải triệt để tiết kiệm, chống tham ô lãng phí và chấp nhận hy sinh để cho đất nước vươn lên.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 13:52:15 GMT -5
Tôi nghĩ những đề xuất trên là chưa đầy đủ, chưa hoàn toàn chính xác và do đó chưa chắc đã được nhà nước chấp nhận. Tuy nhiên tôi nêu ra để ít nhất đặt lại những vấn đề về phương pháp sau đây:
"Chiến tranh đã lùi vào quá khứ 30 năm, nhưng hậu quả chất độc màu da cam chưa biết bao giờ mới khắc phục được trong máu huyết dân tộc" - Phải phân biệt tuyên truyền và giáo dục: Tuyên truyền có mục đích vận động dư luận tập trung hướng về một khẩu hiệu, một vấn đề gì đó trong từng hoàn cảnh, từng giai đoạn, sau đó có thể khác. Còn giáo dục thì phải thiết thực đưa vào dạy dỗ học trò biến nó thành ý thức của tuổi trẻ. Ví dụ cán bộ tuyên truyền ngày nào cũng hô hào “hiện đại hóa, công nghiệp hóa, phải lấy khoa học kỹ thuật làm đầu”… nhưng người hô hào chuyện ấy chưa chắc đã hiểu những vấn đề công nghiệp hoá - hiện đại hoá ra sao. Trong lúc đó, ngành giáo dục (ví dụ của Nhật Bản) chỉ nói hai chữ “kỹ thuật” không thôi mà đã phải tổ chức thực hiện giáo dục rất công phu, tốn kém để làm sao cho đứa trẻ từ lúc còn nằm trong nôi đã được lắc lắc con búp bê biết cười, biết hát cho đến lúc lớn lên đã sử dụng biết bao đồ dùng kỹ thuật, rồi làm sinh viên ngồi trong giảng đường đại học ghi chép bài và thu tiếng giảng bài của giáo sư bằng máy điện toán xách tay (Laptop). Suốt thời gian ngồi trên ghế nhà trường cho đến lúc ra đời người thanh niên Nhật luôn nghĩ kỹ thuật, luôn nghĩ đến việc sáng tạo ra một sản phẩm kỹ thuật mới để sinh tồn;
- Phải phân biệt rõ tuyên truyền và giáo dục. Tuyên truyền là một thủ đoạn chính trị, mang tính tình thế, giai đoạn trong lúc đó giáo dục phải thực tế, bền vững, có tầm chiến lược kéo dài hàng thế hệ. Trong một thời điểm nào đó tuyên truyền và giáo dục gặp nhau nhưng thường là khác nhau; "Phải đưa giáo dục đạo đức gần gũi với đời thường" - Phải đưa giáo dục đạo đức gần gũi với đời thường. Giáo dục của Việt Nam hiện nay trang bị cho học sinh sinh viên một số kiến thức cần thiết để đi thi chứ thiếu những nội dung dạy cho tuổi trẻ làm người trí thức, làm người tử tế, người có trách nhiệm với quốc gia dân tộc. Mặt khác chúng ta đang dạy cho tuổi trẻ những vấn đề lớn, chung chung, độ tin cậy thấp, mang nặng hình thức mà bỏ qua những chuyện nhỏ rất cần thiết cho việc tu dưỡng làm người. Ví dụ như việc giáo dục đức hy sinh. Những tấm gương hy sinh lấy thân mình lấp lỗ châu mai (Bế Văn Đàn), lấy thân mình làm ngọn đuốc sống thiêu đốt đồng giặc (Lê Văn Tám).v.v… Những tấm gương đó rất hấp dẫn trong thời chiến nhưng lại quá xa vời với tuổi trẻ thời bình. Xã hội hiện nay cần phải rao giảng những tấm gương hy sinh đời thường như cha mẹ nghèo phải lao động cật lực để nuôi con cái học hành thành tài; thanh niên không sợ hy sinh dám lao vào bắt cướp để cứu nguy cho kẻ khốn cùng; dám bỏ cuộc sống tiện nghi ở đô thị để về giúp dân vùng sâu vùng xa sản xuất, xây dựng đời sống mới, làm nhân viên không sợ bị đuổi việc dám đứng lên tố cáo bọn chủ làm ăn gian giối, tham ô, móc ngoặt; công chức sẵn sàng nhường chỗ quyền cao chức trọng với bao lợi lộc của mình cho tuổi trẻ tài ba năng động hơn thay mình v.v…
Những nội dung trên không những được đưa vào chương trình công dân giáo dục, chương trình chính trị học đường mà còn phải lồng ghép vào tất cả các môn học khác. Người truyền đạt những nội dung về đạo đức ý thức dân tộc không chỉ bằng giáo án, bằng lời rao giảng mà bằng chính cuộc đời của các thầy đã sống và làm việc theo những điều thầy dạy, được như thế học sinh sinh viên mới tin và noi gương.
Tôi không hy vọng những điều tôi viết trên được chấp nhận. Nhưng ít ra những người quan tâm đến giáo dục, đào tạo nhân tài cũng đồng ý với tôi một điều là: Nếu không quan tâm đến giáo dục đạo đức-ý thức dân tộc cho tuổi trẻ thì không tránh được sẽ có những thế hệ thanh niên vong bản ngay trên đất nước mình.
Đầu tháng 10.2004
N.Đ.X
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 13:58:20 GMT -5
Bài 5: Về cải cách giáo dục
NGUYỄN ĐẮC XUÂN (Nhà văn-Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế )
Quốc gia giáo dục là một hoạt động xã hội nhân văn có hệ thống liên quan đến nhiều khâu như chủ trương, chính sách, luật lệ của nhà nước, thị trường lao động, trường ốc, ngân sách, học phí, trình độ dạy dỗ của thầy giáo và khả năng tiếp thu của học sinh, phẩm chất sách giáo khoa, thư viện, đồ dùng dạy học, phòng thí nghiệm, bối cảnh xã hội và gia đình, v.v. và v.v.
Về chi tiết có thể có khác nhau, đại thể thì nền giáo dục của bất cứ một nước tiên tiến hay chậm tiến nào trên thế giới cũng đều phải tùy thuộc vào những khâu nêu trên. Tuy nhiên, trong những khâu ấy có những khâu thuộc loại cần và những khâu thuộc loại đủ. Do vậy, nói đến cải cách giáo dục trước tiên phải xét đến những khâu cần, nếu không có nó (cần) thì không có giáo dục.
Quan sát sinh hoạt của các cháu thiếu nhi ở độ tuổi đi nhà trẻ ta thấy các cháu có một nhu cầu tự phát là tìm hiểu thế giới chung quanh, các cháu hỏi hết chuyện nầy đến chuyện kia. Hỏi để hiểu biết, để khám phá. Đã hỏi thì phải có người trả lời. Người đó là ông bà, cha mẹ, anh chị em, cô nuôi dạy trẻ... Những người ấy là người thầy đầu tiên của đứa trẻ. Có thể nói khái quát: làm người là có nhu cầu “học”. Ở đâu có con người là ở đó có nhu cầu học. Đáp ứng cho nhu cầu học của con người, chính là ông thầy. Ông thầy quyết định “phẩm chất người” cho con người. Bởi thế từ xa xưa ông cha ta đã đúc kết “Không thầy đố mầy làm nên” (nên người, nên sự nghiệp).
Cách đây mấy ngàn năm, không nghe đề cập đến chủ trương, chính sách, pháp luật, trường ốc, sách giáo khoa… gì cả mà các bậc thầy như Đức Phật Thích Ca, Đức Khổng Tử… đã dạy, đã đào tạo ra các thế hệ học trò thành Phật, thành Thánh, làm thầy thiên hạ bằng chính phương tiện truyền khẩu. Về sau đệ tử của các Thầy mới ghi chép những lời thầy dạy thành kinh, thành sách lưu truyền cho đến ngày nay. Vậy thì, ông thầy là khâu quan trọng nhất trong bất cứ nền quốc gia giáo dục nào.
Ý TƯỞNG 5 Cải cách giáo dục bắt đầu từ khâu nào?
Không phải là nhà nghiên cứu giáo dục, tôi không bàn đến người thầy giáo chung chung. Ý tưởng thứ 5 nầy, tôi dành để nói về người thầy giáo của Việt Nam thời mở cửa, hội nhập toàn cầu.
Nói đến hội nhập toàn cầu là nói đến thị trường. Nói đến thị trường là nói đến hàng hoá và con người làm ra hàng hoá đó - con người có tri thức, có chất xám. Để cho đất nước phát triển vươn lên, cả Đảng và nhà nước cùng dân chúng ngày đêm lo nghĩ làm sao trang bị nhà máy kỹ thuật hiện đại để sản xuất cho được những sản phẩm có chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, 9001, 9002, v.v... để đưa vào thị trường châu Âu, thị trường Nhật Bản, đặc biệt là thị trường Mỹ v.v... Nhưng hầu như ta chưa quan tâm đúng mức đến việc làm sao để có được những con người có trình độ như con người trong các thị trường hàng hoá mà Việt Nam đang tìm cách cạnh tranh, hay ngay các thị trường trong khu vực như Mã Lai, Tân Gia Ba, Thái Lan. Vì chưa có con người theo tiêu chuẩn quốc tế ấy cho nên hàng hoá Việt Nam đưa vào các thị trường là hàng gia công (may mặc, giày da), là nguyên liệu sơ chế (gạo, cà-phê, thủy sản đông lạnh, dầu thô). Việt Nam phải bán 7 tấn lúa mới mua được một máy vi tính xách tay loại xoàng. Trong lúc thế giới đang phấn đấu cho một nền kinh tế tri thức thì chúng ta vẫn dậm chân ở cái ngưỡng gia công và xuất khẩu nguyên liệu sơ chế. Như vậy Việt Nam muốn hội nhập, muốn phát triển, muốn rút tên khỏi bản danh sách các nước kém phát triển thì trước tiên phải có con người có tri thức hiện đại để làm ra những sản phẩm hiện đại. Người đào tạo ra con người có tri thức hiện đại đó chính là thầy giáo. Vấn đề đặt ra một cách nóng bỏng là Việt Nam đã có đội ngũ thầy giáo trong thế giới hiện đại chưa? Nếu chưa thì ngành giáo dục Việt Nam cần phải tập trung cải cách xây dựng đào tạo ra đội ngũ thầy giáo ấy.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 13:58:40 GMT -5
1. Thầy giáo trong thế giới hiện đại
Cái chuẩn của con người hiện đại trong nền kinh tế tri thức là con người có bằng Đại học. Thầy giáo trong thế giới hiện đại là thầy dạy Đại học, ít nhất phải có đủ các tiêu chí như:
- Nắm vững phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp sư phạm, dạy tích cực với những phương tiện và vật liệu mới.
- Có công trình nghiên cứu khoa học, giá trị, cập nhật.
- Thông thạo tối thiểu một ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh).
- Sử dụng thành thạo máy điện toán, qua máy điện toán tiếp cận thường xuyên với các nguồn thông tin tri thức mới nhất trên thế giới.
- Có đủ khả năng giao lưu, trao đổi, hợp tác với đồng nghiệp, với các Đại học trên thế giới v.v...
Những tiêu chí của người thầy giáo trong thế giới hiện đại nầy không có gì ghê gớm, không có gì quá cao xa đối với trí thức Việt Nam. Trên bước đường sống bằng nghề cầm bút tôi đã gặp và biết nhiều người Việt Nam làm thầy thiên hạ (GS Nguyễn Văn Hiệu, GS Phan Ngọc, GS Cao Xuân Hạo, GS Hoàng Tụy, GS Dương Thiệu Tống, nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng, GS Mai Quốc Liên, TS Nguyễn Thiện Tống v.v...), và biết nhiều người không những trong ngành giáo dục mà cả trong các ngành văn học (Nguyên Ngọc, Hồ Anh Thái, Nguyễn Quang Thiều…), báo chí (Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức), khoa học kỹ thuật (kỹ sư Bùi Hữu Lân), công nghệ thông tin (Vũ Thế Bình) và nhiều ngành khác mà tôi không thể nào nhớ hết tên. Nếu tính luôn cả số thầy giáo người Việt ở nước ngoài vẫn tha thiết muốn đóng góp với giáo dục Việt Nam thì có thể kể đến hàng trăm người có tên tuổi. Ví dụ như Giáo sư Trần Văn Khê (Dân tộc nhạc học, Pháp), GS Lê Thành Khôi (Sử, Pháp), GS Nguyễn Thế Anh (Sử, Pháp), GS Võ Quang Yến (Hoá học, Pháp), GS Cao Huy Thuần (Công pháp Quốc tế, Pháp), TS Thái Kim Lan (Triết, Đức), GS Nguyễn Đăng Hưng (Toán, Bỉ ), GS Trần Ngọc Ninh (Việt học, Mỹ ), GS Trần Thanh Vân (Vật lý, Pháp), GS Trịnh Xuân Thuận (Thiên văn, Mỹ ), GS Trần Chung Ngọc (Vật lý, Mỹ ), GS Nguyễn Thuyết Phong (Dân tộc nhạc học, Mỹ ), Giáo sư Võ Xuân Hân (Luật thương mại, Mỹ ), Tiến sĩ Thu Trang Công Thị Nghĩa (Lịch sử, Du lịch, Pháp)… Không thể nào kể hết trong một bài báo.
Thầy giáo, trí thức Việt Nam giỏi, hiện đại và đông đảo như vậy tại sao đến giờ nầy nền quốc gia giáo dục Việt Nam lại rơi vào khủng hoảng ? Có thể trả lời vắn tắt và thẳng thắn rằng: Vì những vướn mắc của lịch sử liên quan đến chủ trương chính sách dùng người của Việt Nam nên những lực lượng hiện đại ấy chưa được tập hợp và sử dụng đúng mức tài năng của họ. Trong khi đó những người làm nên nền giáo dục đang bị khủng hoảng hiện nay là một lực lượng khác.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:01:36 GMT -5
2. Thầy giáo Việt Nam, những hạn chế cần phải khắc phục
Qua tiếp xúc đời thường và qua tìm hiểu các thầy cô giáo của các con tôi, tôi thấy có những biểu hiện sau đây:
- Một số thầy hiện nay đang giữ những chức vụ chủ chốt, trong quản lý và trong các bộ môn chuyên môn phần lớn xuất thân từ thời “Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”, “ăn như sư, ngủ như phạm”. Nối tiếp sự nghiệp của họ là học trò của họ (tốt nghiệp Đại học trước thời Việt Nam đổi mới, 1986). Những thế hệ thầy giáo và học trò làm thầy giáo của họ thuộc loại 10+2, hoặc 10+3 về sau 12+3 (lớp 10 hoặc 12 học thêm 2 hoặc 3 năm), không học ngoại ngữ (trừ những người học trường ngoại ngữ ), không học chữ Hán, lương rất thấp, đời sống kinh tế hết sức khó khăn, không có thì giờ học thêm, nghiên cứu khoa học, soạn giáo án mới, đầu óc tư duy cứng nhắc… (Có thầy giáo dạy văn học phương Tây mà không biết một ngoại ngữ nào!). Số thầy giáo nầy đã và đang ngấp nghé hưu trí, không còn cơ hội đào tạo lại thành thầy giáo trong thế giới hiện đại.
- Số thầy giáo lưu dung ở miền Nam (loại 03), tuy được đào tạo chuyên môn kỹ hơn, nhưng sau 30.4.1975, được “tu nghiệp lại” cho khớp với cái khung ở miền Bắc đem vào, trở nên thụ động, không mấy người phát huy được khả năng của mình và đến nay hầu như cũng đã hưu trí.
- Lực lượng các thầy giáo đang nắm vận mệnh nền giáo dục trong tay đã tốt nghiệp Đại học sau năm 1975 (ở trong nước và một số nước ngoài, đặc biệt là ở Liên Xô cũ ) cho đến thời đổi mới. Lực lượng nầy được đào tạo theo kiểu cũ duy ý chí mà phải gánh vác công việc dạy dỗ theo yêu cầu đổi mới nên xuất hiện nhiều diễn biến phức tạp như báo chí lâu nay đã viết và trong "Ý tưởng 2" (báo Văn Nghệ số 38/2004) tôi đã đề cập qua. Những hiểu hiện không thể chấp nhận trong giáo dục xảy ra trong một bộ phận lực lượng nầy là: cần bằng chứ không cần tri thức, mua bằng, thuê người làm luận án, hối lộ cho thầy giáo. Riêng tôi, tôi đã gặp nhiều người đi học chung tiền nhau mời thầy giáo đi nhậu, đi bia ôm, đi hát Karaoke và cả… để cho thầy vui lòng, cho điểm đậu. Khi nắm được học vị, học hàm rồi họ khai thác tối đa. Họ đòi hỏi chức quyền lương bổng như Ý tưởng 1 và 2 tôi đã viết. Riêng trong chuyên môn, họ xách cặp đi dạy búa xua, đi lảnh các dự án của nhà nước với tiền đầu tư hàng tỷ đồng. Dạy và làm tiền như thế, ăn nhậu như thế còn thì giờ đâu mà học thêm, nghiên cứu khoa học, tìm cái mới cập nhật để dạy cho sinh viên? Nhiều ông PGS, TS gởi bài đến các Toà soạn báo, tạp chí hoặc ban tổ chức Hội thảo khoa học những bản thảo viết tay hoặc bản vi tính do các cửa hàng dịch vụ đánh thuê. Nhiều người tỏ ra dị ứng với con chuột máy điện toán, xa lạ với Internet và e-mail. Đối với những “bậc thầy” dị ứng với tin học ấy, tôi không tin họ có thể cập nhật được tri thức, không tin họ có thể trở thành “thầy giáo trong thế giới hiện đại” được. Tuyển chọn “thầy giáo trong thế giới hiện đại” trong lực lượng nầy quả là một việc làm cực kỳ khó khăn.
- Lực lượng thầy giáo thuộc thế hệ sinh sau năm 1975, tốt nghiệp Đại học cuối thế kỷ XX được đào tạo gần sát với nhu cầu của nền kinh tế thị trường, biết ngoại ngữ, giỏi vi tính, nhiều người được đi học trên Đại học ở các nước có nền giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, thấy giáo thuộc thế hệ nầy nói riêng, và trí thức của thế hệ nầy nói chung có nhiều điều đáng quan tâm: Ý thức dân tộc, hiểu biết lịch sử của họ kém, ngại hoạt động đoàn thể chính trị, những người giỏi đi làm cho nước ngoài để có lương cao hơn ít nhất là 5 đến 10 lần. Mai đây các trường Đại học quốc tế mở ra ở Việt Nam, những thầy giáo giỏi hiện nay sẽ được mời đến dạy, cuối cùng các Đại học công lập Việt Nam chỉ còn giữ chân được những thầy giáo “thứ cấp” yếu ngoại ngữ. Với chính sách dùng người chưa thoả đáng và lương bổng mỗi tháng trên dưới 100 USD như hiện nay, thì xu thế đó không thể không xảy ra.
|
|
|
Post by Robot on Nov 6, 2004 14:05:38 GMT -5
3. Những chủ trương vội vã làm hư đội ngũ thầy giáo
Dư luận trong và ngoài nước đã nhiều lần đề cập đến hiện tượng Việt Nam đã hoàn thành việc “vô hiệu hoá giá trị của học vị học hàm Việt Nam”. Chưa biết đến bao giờ mới phục hồi được chân giá trị của những học vị học hàm ấy. Trong lúc giáo dục đang khủng hoảng, chưa tìm được lối ra, chưa hình thành được một đội ngũ thầy giáo cho thời hội nhập thế giới hiện đại, nhiều trường Đại học ở TP HCM, Thủ đô Hà Nội kêu trời vì thiếu sinh viên thì vừa qua Chính phủ ký cho ra đời một loạt Đại học công lập ở khắp các địa phương. Chuyện gì sẽ xảy ra?
Các địa phương với vốn ngân sách và tiền vay ngân hàng một vài trăm tỷ có thể xây dựng được một cơ ngơi Đại học, khó nhưng có thể thực hiện được. Sinh viên ở các địa phương thay vì đến các trung tâm lớn để học sẽ thi vào học tại các Đại học địa phương. Nhưng lấy ai dạy?
- Rút các người có học hàm học vị (thật và dỏm) ở các cơ quan ban ngành trong tỉnh về làm thầy giáo (?). Lực lượng hỗn hợp nầy vừa thiếu phương pháp sư phạm, vừa không đồng bộ khó có thể đảm đương được việc dạy dỗ cho một Đại học; vì thế địa phương phải:
- Mời các vị khoa bảng “thứ cấp” ở các nơi về bổ sung. Khoa bảng địa phương và khoa bảng “thứ cấp” không thể đào tạo được một lớp sinh viên có chất lượng. Vô lẽ các trường Đại học địa phương tự đào tạo cho mình một lớp người kém chất lượng, không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của địa phương hay sao? Muốn cho sinh viên của các Đại học địa phương cũng có chất lượng, buộc lòng các địa phương phải mời các vị khoa bảng có học thật ở các trung tâm lớn về dạy. Các vị học thật hiện nay đã dạy quá nhiều giờ, không còn thời gian để nghiên cứu, học hỏi, biên soạn giáo án mới, sắp đến phải đảm đương thêm việc dạy dỗ ở các Đại học địa phương nữa thì vô hình trung các Đại học địa phương trở thành “thủ phạm” gây nên sự xuống cấp của những thầy giáo giỏi.
|
|