|
Post by Robot on Dec 10, 2004 13:15:16 GMT -5
Cây lựu chữa bệnh giun sánTheo Đông y, vỏ quả lựu vị chua, chát, tính ôn, có tác dụng làm săn ruột, cầm tiêu chảy, trừ giun. Vỏ rễ có tác dụng tẩy sán (chú ý có độc). Lựu có tên khoa học là Puni-cagranatum L., là một cây gỗ nhỏ cao đến 3-4 mét, được trồng làm cây ăn quả hoặc làm cảnh; hoa màu đỏ hoặc trắng (bạch lựu). Quả lựu to bằng nắm tay, có lớp vỏ dày, trong chứa nhiều hạt, áo hạt mọng, màu vàng ngà, có vị ngọt, thơm. Cây lựu được trồng ở nhiều nước châu Á và châu Âu làm cây ăn quả, cây cảnh, cây thuốc. Ở Pháp người ta dùng vỏ rễ, vỏ thân cây lựu để chiết suất alkaloid làm thuốc tẩy giun sán. Các nghiên cứu cho thấy, vỏ quả lựu có tác dụng diệt trực khuẩn lỵ, dùng chữa lỵ trực khuẩn khá tốt. Vỏ rễ và vỏ thân cây lựu có tác dụng làm cho sán tê liệt và bị đẩy ra ngoài theo phân. Mới đây, các nhà khoa học Israel đã chứng minh, quả lựu có chứa chất chống oxy hóa rất mạnh. Nước ép quả lựu, hạt lựu, vỏ lựu có tác dụng hạ cholesterol, chống lão hóa, chữa bệnh hẹp động mạch cảnh (uống nước ép quả lựu liên tục 30 ngày có kết quả rõ rệt). Đông y thường dùng lựu để trừ giun sán, chữa tiêu chảy hoặc bệnh phụ khoa. Một số ví dụ: - Chữa lỵ kinh niên, phân có máu, mủ: Vỏ quả lựu, a giao, đương quy mỗi thứ 10 g, hoàng liên, hoàng bá, gừng tươi mỗi thứ 5 g, cam thảo bắc 3 g. Sắc 3 nước, cô lại còn 250 ml, chia làm 4 lần uống trong ngày, uống 7-10 ngày. - Trị tiêu chảy hoặc tiêu ra máu, di tinh, bạch đới, lỵ trực khuẩn: Vỏ quả lựu 15 g, sắc 3 lần, mỗi lần với một bát nước, cô lại còn 250 ml, chia làm 3-4 lần uống trong ngày cho đến khi khỏi bệnh. - Tẩy giun đũa, giun kim, giun tóc: Vỏ quả lựu 15 g; binh lang (hạt cau già) 10 g. Sắc sắc 3 lần rồi cô lại còn 100 ml, thêm đường đủ ngọt (20 g). Uống vào buổi tối trước khi đi ngủ (sau khi ăn 3 giờ ), liên tục trong 3 ngày. - Tẩy sán: Vỏ rễ lựu 40 g, đại hoàng 4 g, hạt cau già 4 g. Làm bột thô (to như mảnh ngô xay), sắc 3 lần, cô lại còn 250 ml thuốc. Tối hôm trước ăn nhẹ (cháo hoặc sữa), sáng sớm hôm sau chia nước sắc làm 3 lần uống, mỗi lần cách nhau 30 phút. Khi đi ngoài, phải nhúng mông vào chậu nước ấm (37 độ C) để sán ra hết (nhớ bổ sung nước nóng để đảm bảo nhiệt độ luôn ở khoảng 35-37 độ C). Chú ý: Chỉ dùng ấm đất hoặc nồi, xoong nhôm, thép không rỉ để sắc thuốc vì lựu có hàm lượng tanin cao. Vỏ quả lựu cần sao khô, giã cho dập thành bột thô rồi mới sắc để rút hết chất thuốc. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Dec 11, 2004 9:32:41 GMT -5
Bồn bồn, vị thuốc quýBồn bồn vốn là một loài cỏ mọc hoang ở các đồng lầy ruộng thấp. Mấy năm gần đây, người dân trồng để lấy ngó và lá non làm dưa chua được rất nhiều người ưa chuộng. Ít ai biết hoa bồn bồn có tác dụng tốt trong điều trị bệnh, nhất là những bệnh của phụ nữ. Cây bồn bồn có tên khoa học là Typha orientalis G.A. và một số khác mang các tên: Typha auhustata Bory et Chaub, Typha latifoliaL, Typha daviana Hand Mazz hoặc Typhaminima Funk... Tất cả đều cùng họ hương bồ(Typhaceae). Bồn bồn còn có nhiều tên khác như: Thủy hương bồ, hương bồ thảo, cỏ nến, cỏ lác... Hoa bồn bồn thuộc loại đơn tính, nằm trên cùng một trục, hoa đực ở trên có lông ngắn màu vàng nâu, hoa cái ở dưới có lông màu nâu nhạt. Khi thu hái cây bồn bồn, cắt lấy hoa đực phơi khô, giã nhỏ, rây lấy phấn hoa, đem phơi lại lần nữa. Loại phấn hoa này có tên là bồ hoàng (Pollel Typhae), nếu để nguyên như thế gọi là sinh bồ hoàng, đem sao đen gọi là hắc bồ hoàng. Theo các tài liệu đông y cổ, bồ hoàng có vị cam, tính bình; đi vào ba kinh can, tỳ và tâm bào. Sinh bồ hoàng có tác dụng hoạt huyết, hành ứ, tiêu viêm; dùng chữa các loại bệnh trật đã tổn thương, phụ nữ đau bụng kinh, kinh bế, kinh nguyệt không đều, huyết ứ, đau ngực, đau hông, bạch đái, tiểu tiện không thông và một số trường hợp bị viêm nhiễm. Riêng hắc bồ hoàng có tác dụng thu liễm, chỉ huyết, dùng để chữa các chứng ho ra máu, khạc ra máu, chảy máu cam, thổ huyết, rong kinh, rong huyết, tiểu tiện ra huyết... Bồ hoàng được dùng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột đều có hiệu quả. Liều dùng mỗi lần từ 4-8g. Tuệ Tĩnh, danh y của Việt Nam, rất tâm đắc với vị thuốc bồ hoàng, ông đã để lại trong Nam dược thần hiệu những bài thuốc hay có bồ hoàng như: - Thổ huyết: Bồ hoàng sao đen mỗi lần uống từ 4 - 8g. - Chảy máu cam: Bồ hoàng sao đen 4g và thanh đại 4g; uống một lần. - Đại tiện ra máu: Bồ hoàng sao đen, mỗi lần uống từ 4 - 8g với nước cốt lá sen và nước cốt củ cải. - Khạc ra máu: Bồ hoàng và lá sen, hai vị bằng nhau, sao, tán bột; mỗi lần uống từ 8 - 12g. - Đau bụng kinh, rong kinh, kinh nguyệt không đều: Bồ hoàng sao, lá lốt tẩm muối sao, tán nhỏ luyện mật làm hoàn bằng hạt đậu; mỗi lẫn uống 30 hoàn. - Sản phụ đau bụng do máu hôi ra không hết: Bồ hoàng sao qua một lớp giấy, mỗi lần uống 4g. Một số y thư của Trung Quốc cũng ghi lại nhiều bài thuốc kinh nghiệm có bồ hoàng như sau: - Lưỡi sưng đầy miệng: Sinh bồ hoàng đặt dưới lưỡi, ngày thay vài lần là khỏi (Giản tiện phương). - Thổ huyết, tiểu tiện ra huyết: Bồ hoàng sao tán bột, mỗi lẫn uống 4g với nước cốt sinh địa (Thánh tể Tổng lục phương) . - Mụn mọc trong ruột, trĩ ra huyết, ra nước vàng: Bồ hoàng tán bột, mỗi lần uống 8g với nước lạnh (Trửu hậu phương) . - Phụ nữ có mang bị động thai như muốn đẻ non: Bồ hoàng sao đen tán bột, uống 4g với nước giếng (Tập nhất phương) ... - Hạ bộ bị thấp nhiệt, ẩm ướt gây ngứa ngáy, khó chịu: Sinh bồ hoàng tán bột thoa vài lần là khỏi (Thiên kim phương) . - Lỗ tai bị thối: Sinh bồ hoàng tán bột thổi vào vài lần là khỏi (Thánh huệ phương). Giáo sư Đỗ Tất Lợi cũng ghi lại một bài thuốc kinh nghiệm trong tác phẩm Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam dùng chữa các chứng xuất huyết bên trong: Bồ hoàng 5g, cao ban long, cam thảo 2g; sắc uống. Bồ hoàng là vị thuốc đã được ông bà ta và nhiều dân tộc ở phương Đông sử dụng từ hàng ngàn năm trước. Thời gian gần đây cũng được nhiều nhà khoa học thử nghiệm và xác nhận có tác dụng cầm máu rất tốt; dùng trong đa số các chứng xuất huyết đều có hiệu quả. Cây bồn bồn hiện nay có rất nhiều ở nước ta, thế nhưng vị bồ hoàng vẫn còn phải nhập từ nước ngoài, thiển nghĩ cũng nên có kế hoạch khai thác và đưa vào sử dụng loài dược thảo quý này. Sài Gòn giải phóng
|
|
|
Post by Robot on Dec 11, 2004 9:34:14 GMT -5
Ðậu xanh, vị thuốcÐậu xanh tính mát, vị ngọt, không độc, có tác dụng: thanh nhiệt giải độc, giải cảm nắng, lợi thủy. Xin giới thiệu một số bài thuốc chữa bệnh từ hạt đậu xanh. Ðậu xanh còn gọi là lục đậu, thanh tiểu đậu. Là hạt của cây đậu xanh, thực vật thuộc họ đậu. Tính mát, vị ngọt, không độc. Thành phần chính có: anbumin 22,1%, chất béo 0,8%, cacbua hydro 59%, calci, phốt-pho, sắt, caroten, vitamin B1, B2. 100g có thể cho 332 kcal nhiệt lượng. Anbumin chủ yếu là anbumin khối, một số ít a-xít a-min an-by-mu-nô-ít, try-tô-phan, ty-rô-sin, a-xít ni-cô-ti-níc và a-xít béo có phốt-pho. Vỏ hạt đậu cứng có thể dùng làm dược liệu. Tác dụng: thanh nhiệt giải độc, giải cảm nắng, lợi thủy. Chủ yếu dùng chữa cảm nắng, phù thũng, tả lị, nên mụn độc, bạc nước, giải độc do thuốc. Cách dùng: ăn, đun thành canh. Nghiền bột hoặc xay hạt sống lọc lấy nước. Chữa bên ngoài: nghiền nhỏ mà đắp. Kiêng kị: Tì vị hư do hàn, hay đi ngoài thì không nên dùng. Chữa trị: - Chữa cảm nắng: Ðậu xanh lọc sạch cho vào nồi đổ thêm nước. Ðun cho sôi. Chắt nước có mầu trong xanh để nguội uống. Nước có mầu đục thì thuốc không tốt. Giải khát, đi tiểu bình thường. Ðậu xanh 60g lọc sạch cho vào 1.000ml nước đun nhừ, chắt nước uống sáng và tối trước lúc ăn cơm mỗi lần 200ml. - Ði lỵ đỏ mạn tính: Ðun đậu xanh nhừ, ăn tùy thích. Viêm tuyến mật: Ðậu xanh tươi 60g. Bỏ vào nồi đun cho nhừ, cho lõi bắp cải 2-3 cái, đun thêm 20 phút. Chắt nước ra uống. Ngày một, hai lần. Nếu phát hiện bệnh sớm, uống ngay thời kỳ đầu thì hiệu quả càng tốt hơn. - Nhiễm độc chì: Mỗi ngày dùng 120g đậu xanh, 15g cam thảo, đun thành canh, chia làm hai lần uống với 300mg vitamin C. 15 ngày là một liều chữa trị. Nói chung liên tục điều trị hai liều là cơ bản có thể chữa được bệnh. - Nóng sốt với viêm ruột: Vỏ hạt đậu xanh 15g đun với nước cho thêm 15g đường trắng mà uống cho đến khi hết bệnh. Bị phong cảm: Ðậu xanh 30 g, ma hoàng 9g. Ðun với nước uống; Ðậu xanh 30 (giã nát), lá chè 9g (bỏ vào trong túi vải). Một bát to nước lã đổ vào nấu. Khi còn nửa bát, lấy túi chè ra, cho đường đỏ vào mà uống. - Ðề phòng nóng sốt: Ðậu xanh, rễ cỏ gianh tươi 30g, song hoa 15g, cho hai bát nước vào đun đến khi còn một phần hai bát thì uống. Ngày ba lần, uống liên tục trong ba ngày. - Ðau bụng nôn ọe: Ðậu xanh 100g hạt, hồ tiêu 10 hạt, cùng nghiền bột nhỏ, rót nước sôi vào ngâm mà uống; hoặc đậu xanh, đường phèn, mỗi loại 16g đun với nước mà uống. - Viêm niệu đạo: Giá đậu xanh 500g, ép lấy nước cho đường trắng vào uống. - Nhiễm độc 666: Ðậu xanh, đậu tương mỗi thứ 125g, cũng xay bột uống với nước cơm. - Trúng độc thuốc nông dược lân hữu cơ: Ðậu xanh bốn phần, cam thảo một phần. Ðun sôi cho vào rửa ruột. - Bị bỏng: Vỏ đậu xanh 30g, sa hoàng, thêm một ít băng phiến. Nghiền nát thành bột, đắp vào chỗ bỏng. Ít sữa: Ðậu xanh, đường đỏ vừa đủ. Ðun thành canh uống thay chè. - Bệnh đái đường: đậu xanh 200g, lê hai quả, củ cải xanh đun chung cho chín mà ăn. - Giải cảm nhiệt, phòng cảm nắng, tiêu phù thũng, chữa cao huyết áp, bớt mỡ trong máu, viêm túi mật: Ðậu xanh 100g, mơ chua, đường trắng mỗi thứ 50g. Ðun đậu xanh và mơ chua cho nhừ, cho đường vào khuấy đều. Ðể nguội rồi ăn; Ðậu xanh gạo cũ mỗi thứ lượng vừa đủ, cùng đun thành cháo, cho thêm ít đường phèn mà ăn. Viêm gan mạn tính: Ðậu xanh 100g, táo tầu 10 quả... Cho nước vừa đủ đun thành cháo. Mỗi ngày ăn một lần. - Bạch đới quá nhiều: Ðậu xanh 500g, mộc nhĩ đen 100g, cùng rang vàng, nghiền thành bột nhỏ. Mỗi ngày hai lần. Mỗi lần 15g, ăn cùng với cơm hoặc nước cháo. - Huyết áp cao: Ðậu xanh, rau sen, đường phèn mỗi thứ 100g. Ðun nước uống. Mỗi ngày hai lần. - Ho lao: Ðậu xanh 200g, rong biển 50g, đường trắng vừa đủ. Cho nước vừa đủ đun đậu chín nở. Rong biển ngâm cho mềm rửa sạch cắt thành sợi nhỏ, cho lên trên đậu, rồi rải một lớp đường trắng lên trên, làm lại ba lớp như thế. Cho vào nồi chưng lửa nhỏ trong 30 phút. Mỗi ngày ăn từ hai đến ba lần. - Viêm vòm họng, vòm họng bị lở loét: Ðậu xanh 20g, trứng gà tươi một quả. Ðập trứng vào trong bát đánh kỹ. Ðun đậu xanh cho chín tới (không đun quá kỹ ). Lấy nước đun đậu đánh trứng vào mà húp. Mỗi ngày hai lần vào sáng và tối. Theo sách "Thức ăn - vị thuốc", Viện nghiên cứu và phổ biến kiến thức bách khoa
|
|
|
Post by Robot on Dec 12, 2004 13:32:02 GMT -5
Thêm một số bài thuốc từ sen
Hạt sen 4 g, bạch truật 12 g (sao tẩm), phục linh 6 g, nhân sâm 4-8 g, thục địa 4 g, chích thảo 3 g, gừng nướng 3 lát, táo ta 2 quả, sắc uống trong ngày. Thuốc dành cho người đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, phân sống, gầy yếu, phù thũng, vàng da, trẻ tiêu hóa kém.
Tất cả các bộ phận của cây sen đều có thể dùng làm thuốc, đặc biệt có tác dụng đối với các bệnh về thần kinh và tiêu hóa... Một số ứng dụng:
Si-rô an thần gây ngủ: Cao mềm lá sen 4 g, cồn 45 độ 20ml, si-rô đơn vừa đủ 1.000 ml. Liều uống một ngày trước khi đi ngủ, người lớn 15 ml, trẻ em 5 ml.
Thuốc bổ tỳ giúp ăn ngủ ngon, đại tiểu tiện dễ dàng: Hạt sen, hà thủ ô đỏ, hoài sơn, ý dĩ, cỏ xước, râu mèo mỗi vị 12 g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc: Hạt sen 16 g, sâm bố chính 12 g, hoài sơn 12 g. Tán bột viên với mật ong, uống mỗi ngày 20-30 g.
Chữa suy nhược thần kinh: Liên nhục, thục địa, hoài sơn, tang ký sinh, hà thủ ô đỏ, kim anh mỗi vị 12 g; quy bản, kỷ tử, thỏ ty tử, ngưu tất, đương quy, táo nhân mỗi vị 8 g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa suy nhược cơ thể ở người thiếu máu, phụ nữ sau khi sinh mất máu: Hạt sen, sa sâm, mạch môn, kỷ tử mỗi vị 12 g; long nhãn 9 g, tâm sen, táo nhân mỗi vị 8 g; đăng tâm 6 g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa rong huyết: Ngó sen 12 g, quy bản 24 g, mẫu lệ 20 g, sinh địa 16 g; hoàng cầm, a giao, sơn chi, địa du mỗi vị 12 g; địa cốt bì 10 g, cam thảo 4 g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa tiểu tiện ra máu do viêm nhiễm cấp tính đường tiết niệu: Ngó sen 12 g, sinh địa 20 g, hoạt thạch 16 g; tiểu kế, mộc thông, bồ hoàng sao, đạm trúc diệp, sơn chi mỗi vị 12 g; chích thảo, đương quy mỗi vị 6 g. Sắc uống ngày một thang.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Dec 18, 2004 14:06:00 GMT -5
Các bài thuốc từ cây hướng dươngKhi bị táo bón, lấy rễ hoa hướng dương 15-20 g rửa sạch, ép lấy nước rồi pha thêm chút mật ong, chia uống vài lần trong ngày. Cũng có thể lấy lõi cành hoa hướng dương sấy khô, đốt thành than rồi tán bột, mỗi ngày uống chừng 6 g với nước ấm. Hoa hướng dương có tên khoa học là Helianthus annuus L., dân gian còn gọi là hướng nhật quỳ hoa, văn cúc, tây phan liên, nghênh dương hoa, vọng nhật liên, thái dương hoa, triều dương hoa… Theo dược học cổ truyền, hoa hướng dương vị ngọt, tính ấm, không độc, có công dụng trừ phong, minh mục (làm sáng mắt). Nó thường được dùng để chữa các chứng bệnh như đầu choáng mắt hoa, phù mặt, nặng mặt, đau răng... Hạt hướng dương có tác dụng chữa chứng huyết lỵ, mụn nhọt, tẩy giun kim. Lá hướng dương thường dùng để trị cao huyết áp. Rễ hướng dương có công dụng chữa các chứng đau ngực sườn, đau do viêm loét dạ dày, tá tràng, đại tiểu tiện không thông thoáng, tổn thương do trật đả... Đài hoa hướng dương chủ trị đau đầu hoa mắt, đau răng, đau dạ dày, thống kinh, vết thương viêm loét... Lõi cành cây hướng dương có tác dụng chữa chứng tiểu ra máu, sỏi đường tiết niệu, tiểu tiện không thông... Vỏ hạt hướng dương chữa chứng ù tai. Các thí nghiệm trên tai thỏ cho thấy, dịch chiết hoa hướng dương có tác dụng làm giãn mạch. Nếu tiêm vào tĩnh mạch thì có thể gây hưng phấn hô hấp, hạ huyết áp và làm tăng co bóp tiểu tràng rõ rệt. Nếu tiêm dưới da mèo thì sẽ làm hạ huyết áp trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, dịch chiết hoa hướng dương còn có tác dụng hạ sốt. Một số cách dùng hoa hướng dương chữa bệnh Chữa viêm phế quản mạn tính: - Lõi cành hướng dương lượng vừa đủ, rửa sạch, giã nát, cho thêm chút nước lọc rồi ép lấy nước uống (có thể pha thêm một ít đường) hoặc sắc uống. - Đài hoa hướng dương 1-2 cái, sắc uống với một chút đường phèn. - Cành hoa hướng dương để lâu năm 90 g sắc uống. Chữa hen: - Đài hoa hướng dương tươi 30-60 g, sắc kỹ rồi bỏ bã, cho thêm chút đường phèn, chia uống 2 lần trong ngày. - Cánh hoa hướng dương phơi khô trong bóng râm, thái nhỏ thành sợi rồi quấn thành điếu hút như hút thuốc lá. Ho gà: - Lõi cành hoa hướng dương 30-60 g, sắc kỹ bỏ bã, cho thêm chút đường phèn, chia uống 2 lần trong ngày. - Cành hướng dương lượng vừa đủ, sắc uống khi đói. - Cành hướng dương 15 g, cam thảo 6 g, sắc uống. - Hoa hướng dương 12 g rửa sạch, giã nát, hòa thêm chút đường phèn rồi uống. Đau đầu: - Đài hoa hướng dương 30-60 g sắc uống. - Đài hoa hướng dương 1 cái, câu đằng 9 g, hương nhu 9 g, sắc uống. Hoa mắt chóng mặt: - Đài hoa hướng dương 30-60 g, sắc uống hoặc lấy dịch chiết luộc với 2 quả trứng gà ăn. - Hoa hướng dương tươi 60 g hầm với thịt gà ăn. - Hạt hướng dương bỏ vỏ lượng vừa đủ hầm với thịt gà mái ăn. - Hạt hướng dương bỏ vỏ sao qua, tán bột, mỗi ngày uống 6 g trước khi đi ngủ. - Rễ hướng dương 60 g, thái vụn, sắc uống. - Đài hoa hướng dương 1 cái, sắc uống với đường phèn. - Lá hướng dương lượng vừa đủ, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước, chế thêm chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Cao huyết áp: - Lá hướng dương tươi 60 g, thổ ngưu tất (cỏ xước) tươi 60 g, sắc uống. - Đài hoa hướng dương 30 g, hạ khô thảo 15 g, sắc uống. - Đài hoa hướng dương 60 g, râu ngô 30 g, sắc uống, có thể cho thêm chút đường phèn. - Hạt hướng dương sống 1 nắm, bỏ vỏ lấy nhân ăn, phối hợp với uống nước ép rau cần tây mỗi ngày 1 cốc. - Đài hoa hướng dương 30-60 g, sắc kỹ, chia uống 2 lần trong ngày. Tai ù do thận hư: - Vỏ hạt hướng dương 9-15 g sắc uống. - Đài hoa hướng dương 15 g, hà thủ ô 6g, thục địa 9 g, sắc uống. Viêm loét dạ dày tá tràng: - Rễ hướng dương 15 g, tiểu hồi hương 9 g, sắc uống. - Đài hoa hướng dương 60 g, sắc uống hoặc đem hầm với dạ dày lợn 1 cái làm canh ăn. - Rễ hướng dương sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6 g. Xuất huyết dạ dày: Đài hoa hướng dương 1 cái, sắc uống. Ung thư dạ dày: Lõi cành hoa hướng dương 4-6 g, sắc hoặc hãm uống thay trà hàng ngày. Viêm đường tiết niệu và sỏi tiết niệu: - Lõi cành hướng dương 15 g sắc uống. - Đài hoa hướng dương 1 cái sắc uống. - Rễ hướng dương tươi 30 g sắc uống. Phù thũng, tiểu tiện không thông: Rễ hướng dương 15 g, vỏ bí đao 30 g sắc uống hằng ngày. Lưu ý: Phụ nữ có thai không được dùng các vị thuốc lấy từ cây hoa hướng dương vì có thể gây sẩy thai. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Jan 1, 2005 11:01:59 GMT -5
Vị thuốc từ cây khế Để chữa dị ứng, mày đay, mẩn ngứa, lở loét, lấy lá khế giã nát, xoa và đắp lên chỗ bị dị ứng; kết hợp dùng 16 g vỏ núc nác sắc uống. Dùng lá khế, lá thanh hao, lá long não, lá thông mỗi thứ 15-20 g, nấu nước tắm. Khế được trồng khắp nơi để lấy quả và làm thuốc. Lá khế chữa lở sơn, dị ứng, mày đay, cảm nắng, sổ mũi, sốt, ho, sốt xuất huyết, đái buốt, đái ra máu, mụn nhọt, viêm tiết niệu, viêm âm đạo, ngộ độc. Hoa khế chữa trẻ em kinh giật, ho gà, thận hư. Quả khế chữa ho, viêm họng, sổ mũi, dị ứng, lở sơn, thúc sởi, bí đái. Vỏ thân, vỏ rễ cây khế chữa đau khớp, đau đầu mạn tính, viêm dạ dày, ruột, trẻ lên sởi, ho, viêm họng. Ngoài ra, quả khế vắt lấy nước dùng tẩy các vét gỉ sắt, hoen ố trên vải lụa, quần áo. Một số bài thuốc có khế: - Chữa lở sơn: Lá khế tươi được dùng riêng 40 g hoặc phối hợp với lá muồng thuổng mỗi thứ 20 g, giã nát, gói vào vải sạch, đắp lên chỗ lở sơn. Có thể dùng quả khế giã nát đắp. - Phòng sốt xuất huyết trong thời gian có dịch: Lá khế 16 g, lá dâu, sắn dây, lá tre, mã đề, sinh địa mỗi thứ 12 g, sắc uống thay nước hằng ngày. - Thuốc làm thúc sởi, làm sởi chóng mọc và mọc đều: Quả khế thái lát phơi khô 20 g, rau rệu 20 g, lá mọc sởi 20 g sao vàng hạ thổ, sắc chia làm 2 lần uống trong ngày. Có thể dùng vỏ cây hoặc vỏ rễ cây khế cạo bỏ vỏ ngoài và vỏ xanh, ngày 20-40 g sao vàng, sắc uống. - Chữa cảm nắng: Lá khế tươi 20 g, lá chanh 10 g giã nát, vắt lấy nước uống. - Chữa sốt cao lên cơn giật ở trẻ em: Hoa khế, hoa kim ngân, lá dành dành, cỏ nhọ nồi mỗi thứ 8 g, cam thảo 4 g, bạc hà 4 g, sắc đặc chia nhiều lần uống trong ngày. - Chữa đái buốt, đái ra máu, viêm bàng quang: Lá khế 80 g, rễ cỏ tranh 40 g, sắc uống. - Chữa tiểu không thông: Dùng 7 quả khế chua, cắt mỗi quả lấy 1/3 phía cuống, đổ vào một bát nước, sắc còn nửa bát, uống khi còn ấm. Kết hợp lấy 1 quả khế và 1 củ tỏi, giã nát, đắp vào rốn. - Phòng bệnh cho phụ nữ sau đẻ: Quả khế 20 g, vỏ cây hồng bì 30 g, rễ cây quả giun 20 g, sắc uống thay nước. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Jan 2, 2005 9:51:06 GMT -5
Hoa hướng dương chữa bệnh phụ nữwww.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2005/01/3B9D9B8B/04123007.jpg[/img]Những sản phụ khó sinh có thể dùng đài hoa hướng dương 1 cái sắc uống, quá trình sinh nở sẽ diễn ra nhanh hơn. Sau sinh nếu ra nhiều mồ hôi, lấy lõi cành hoa hướng dương lượng vừa đủ sắc uống. Hướng dương được dùng chữa nhiều bệnh khác của phụ nữ, cụ thể là: Thống kinh: - Đài hoa hướng dương 30-60 g, đường đỏ 30 g, sắc uống. - Hoa hướng dương 15 g, sơn tra 30 g, sao đen, tán bột, chia 2 lần uống trong ngày với nước đường đỏ, trước kỳ kinh 2 ngày thì bắt đầu uống, mỗi kỳ kinh uống 2 thang, uống liên tục trong vài kỳ kinh. Bế kinh: Cành hướng dương 9 g, móng lợn 150 g sắc uống. Khí hư: - Rễ hướng dương 60 g, rễ ké đầu ngựa 30 g, cả hai vị đem sao với rượu rồi sắc uống. - Lõi cành hướng dương 30 g, hồng táo 10 quả, thêm chút đường đỏ, sắc uống. - Lõi cành hướng dương sấy khô, sao đen, tán bột, uống mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần 3-4 g với nước đường đỏ. - Đài hoa hướng dương sao đen, tán bột, mỗi ngày uống 12 g với rượu vàng. - Hoa hướng dương 30 g, phơi khô trong bóng râm (âm can), tán bột, mỗi ngày uống 6 g khi bụng đói với rượu ấm. Băng huyết, rong kinh: Đài hoa hướng dương 1 cái, sao cháy, tán bột, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 3 g với rượu vàng. Phụ nữ sau sinh đau bụng: Nhụy hoa hướng dương lượng vừa đủ, sắc uống. Viêm loét âm đạo: Hoa hướng dương khô 60 g, sắc lấy nước ngâm rửa âm đạo hàng ngày. Lưu ý: phụ nữ có thai không được dùng các vị thuốc lấy từ cây hoa hướng dương vì có thể gây sẩy thai. Ngoài ra, hướng dương còn được dùng chữa các bệnh sau: Sởi mọc chậm: Hoa hướng dương lượng vừa đủ sắc kỹ, cho thêm tí rượu rồi chia uống vài lần trong ngày; hoặc dùng hoa hướng dương sắc lấy nước, để nguội bớt rồi dùng khăn tẩm chườm suốt dọc cột sống và vùng bụng, ngực cho đến khi ban sởi nổi đều thì thôi. Viêm da dị ứng: Hoa hướng dương 9 g, hoa mào gà đỏ 6 g, đường đỏ 30 g, sắc uống. Sốt rét: Hoa hướng dương và bạch đầu ông lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6-9g, hoặc cánh hoa hướng dương lượng vừa đủ, sắc hoặc hãm uống thay trà. Mày đay: Đài hoa hướng dương 15 g, rau sam 6 g, hoa mào gà đỏ 6 g, lá tía tô 5 g, sắc uống. Nhọt vùng lưng: Hoa hướng dương sao tồn tính, tán bột, trộn với dầu vừng bôi vào vùng tổn thương, kết hợp với uống nước sắc 60 g hoa hướng dương có pha thêm chút rượu. Viêm khớp: Đài hoa hướng dương lượng vừa đủ, sắc cô đặc thành dạng cao, phết vào giấy bản rồi dán lên tổn thương. Ngứa da không rõ nguyên nhân: Vỏ hạt hướng dương và cuống quả ớt lượng vừa đủ, sắc lấy nước lau rửa. Xuất huyết do chấn thương: Dùng lõi cành hoa hướng dương rửa sạch, giã nát rồi đắp lên vết thương. Bỏng lửa: - Hoa và lá hướng dương sấy khô tán bột, trộn với dầu thực vật bôi lên tổn thương. - Hoa hướng dương lượng vừa đủ ngâm vào dầu thực vật, sau 2 tuần dùng dầu này bôi lên tổn thương. - Hoa hướng dương, bột đại hoàng lượng bằng nhau và vừa đủ, đem ngâm với 240 g dầu vừng, sau khoảng 2 tuần có thể lấy dầu này bôi lên tổn thương. Đau răng: Hoa hướng dương lượng vừa đủ sấy khô, thái sợi, cuốn điếu hút như hút thuốc lá hoặc đài hoa hướng dương 1 cái, rễ kỷ tử lượng vừa đủ, sắc uống. Loét miệng: Lõi cành hướng dương sao cháy thành than, tán bột, trộn với dầu vừng bôi vào nơi bị bệnh. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Jan 12, 2005 10:53:31 GMT -5
11 bài thuốc từ cây dâu tằm Để chữa thiếu máu, mất ngủ, lấy quả dâu chín ngâm với đường (hoặc mật ong), pha nước uống mỗi ngày. Uống liên tục nhiều ngày càng tốt. Nếu mất ngủ, nên uống vào buổi tối trước khi lên giường.
10 bài thuốc khác từ cây dâu:
1. Bổ huyết, dưỡng huyết
Phù tang chí bảo là một bài thuốc hay đã được đề cập trong các y thư cổ như Nam dược thần hiệu, Hải Thượng y tông tâm lĩnh... Uống được ít lâu nếu thân thể mọc đầy mụn thì đó là do sức thuốc đẩy ra, không nên cho là quái lạ. Nhưng sau 3 tháng, khắp mình sẽ tươi sáng, da dẻ mịn màng. Nếu uống liên tục nửa năm thì khí lực trở nên mạnh mẽ lạ thường, tật bệnh dần dần tiêu tan. Trường kỳ uống mãi thì gân cốt rắn chắc, khí huyết dồi dào, tỏ tai sáng mắt, tinh thần khoan khoái, tăng thêm tuổi thọ.
Cách bào chế: Lá dâu và vừng đen lượng bằng nhau. Vừng xát tróc vỏ, đem đồ chín, “cửu chưng cửu sái” (nghĩa là chín lần đồ, chín lần phơi). Cả hai thứ đem tán bột, luyện mật làm thành viên hoàn.
Theo Tuệ Tĩnh, lá dâu cần chọn lá non, hái lúc mặt trời chưa mọc, độ vài ba chục cân (cân ta), rửa sạch bụi đất, phơi nắng cho khô. Dùng lá dâu vườn càng tốt vì các cụ cho rằng dâu núi có thể bị nọc độc của rắn, rết dây vào.
2. Chữa thong manh, đau mắt
Lá dâu tươi đem về giã nát, phơi khô, đốt thành than, nấu lấy nước rửa mắt.
Để chữa đau mắt gió hay chảy nước mắt: Lá dâu hái vào tháng Chạp, hãm lấy nước rửa hằng ngày.
3. Chữa đau nhức
Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt chưa dứt đã vội động phòng, sinh chứng toàn thân đau nhức như dùi đâm. Có thể chữa bằng bài thuốc: lá dâu già, lược gãy, nệm rách, tóc rối liều bằng nhau, đem đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 3 đồng cân (khoảng 12 g) với nước nóng.
4. Chữa hen suyễn
Lá dâu già, lá thầu dầu già, trấu (sao mật) tán nhỏ, thắng mật làm viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống một viên với nước sôi.
5. Chữa huyết áp cao
- Lá dâu bánh tẻ một nắm nhỏ, cá diếc sống một con. Cá diếc cho vào chậu nước muối để nhả hết nhớt dãi; không mổ, để nguyên con đem luộc, gỡ lấy thịt nấu canh với lá dâu ăn.
- Thịt trai sống 50-100 g, lá dâu tươi 20 g thái nhỏ, nấm hương 20 g, hành củ khô 2-3 củ. Nấu cháo ăn hằng ngày, có tác dụng hạ huyết áp tốt. Bài thuốc này thích dụng với người cao tuổi bị tăng huyết áp và u xơ tiền liệt tuyến có các dấu hiệu tiểu không thông, tiểu đêm, tiểu nhiều lần... Đặc biệt người tăng huyết áp bị suy giảm khả năng tình dục cũng nên dùng.
6. Tẩy sán xơ mít
Dùng dao tre cạo lấy vỏ trắng cành dâu 3 nắm, nước 3 bát, sắc lấy một bát. Tối hôm trước phải nhịn ăn, sáng sớm uống lúc bụng đói, sán sẽ ra hết. Uống 2-3 lần.
7. Chữa tiểu buốt, nước tiểu đục
Tổ bọ ngựa cây dâu mỗi lần 1 cái nướng khô, tán nhỏ, uống với rượu lúc đói, uống 2-3 lần là khỏi, chữa tiểu buốt.
Ngài tằm cấu bỏ đầu, chân, cánh; sấy khô, tán nhỏ, giã với cơm làm viên bằng hạt ngô, uống với nước muối lúc đói để chữa chứng đi tiểu nước tiểu đục, trắng.
8. Chữa viêm họng
- Mộc nhĩ cây dâu lấy vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, thứ trắng như vẩy cá. Khi dùng giã nhỏ, lấy lụa bọc lại thành viên, tẩm mật ngậm.
- Bạch cương tàm (con tằm vôi) 6 đồng cân, phèn chua 3 đồng cân, phèn chua phi 3 đồng cân. Tất cả tán nhỏ, mỗi lần dùng 1 đồng cân (khoảng 4 g) uống với nước gừng để gây nôn. Trẻ em thì pha thêm bạc hà vào nước gừng, nếu nôn ra với đờm đặc thì rất công hiệu.
- Bạch cương tàm sao, tán nhỏ, giã lẫn với quả mơ muối, viên bằng đầu ngón tay, bọc lụa lại mà ngậm, nuốt nước dần...
9. Chữa tóc rụng, tóc bạc
Nước quả dâu ngâm đường có thể giúp tóc đen và mọc nhiều.
10. Chữa viêm tuyến vú
Đọt dâu non 1 nắm, giã nhỏ đắp vào chỗ vú sưng, bên ngoài lấy giấy dấp nước đắp, khi khô lại thay, đến khi tan hết thì thôi.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jan 14, 2005 12:41:27 GMT -5
Vị thuốc từ củ khoai tây
Để chữa bỏng nhẹ, vết thương hay eczema, lấy khoai tây rửa sạch, có thể để cả vỏ, thái lát mỏng, dán lên vết thương hoặc giã nát đắp bỏng. Nếu bỏng nhẹ, có thể bóc lấy vỏ từ củ khoai tây đã luộc, giã nát rồi đắp.
Củ khoai tây vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ khí, kiện tỳ, tiêu viêm. Củ khoai tây chữa khó tiêu, đau bụng, viêm loét dạ dày, viêm tuyến nước bọt, say nắng, sốt, bỏng nhẹ, eczema, vết thương. Liều dùng trong ngày 10-30 g hoặc hơn. Hoa khoai tây chữa bệnh tăng huyết áp và là nguyên liệu chiết rutin để chữa bệnh. Quả và mầm củ khoai tây ít được dùng làm thuốc vì dễ gây độc. Trong công nghiệp dược phẩm, chúng được chiết lấy solanin để làm thuốc giảm đau, chữa đau bụng, đau gan, đau nhức xương khớp, chữa dị ứng, chống hen, viêm phế quản, động kinh.
Một số bài thuốc có khoai tây
Chữa đau và viêm dạ dày: Củ khoai tây mới thu hoạch rửa sạch, gọt vỏ, lấy 100 g, ép kiệt lấy nước uống trước bữa ăn nửa giờ. Ngày 2-3 lần.
Thuốc nhuận tràng: Khoai tây luộc chín, ăn 100 g hoặc hơn. Có thể phối hợp với bài thuốc chữa đau viêm dạ dày ở trên.
Chữa đau bụng: Vỏ củ khoai tây sống rửa sạch (10-20 g) sắc nước uống.
Chữa say nắng, nhức đầu, sốt: Củ khoai tây gọt vỏ, giã nát hoặc thái lát mỏng, đặt lên trán hoặc thái dương.
Chữa bỏng nhẹ, vết thương, eczema: Củ khoai tây rửa sạch, để cả vỏ hoặc gọt vỏ, thái lát mỏng, dán lên vết thương hoặc giã nát đắp bỏng. Nếu bỏng nhẹ, có thể bóc lấy vỏ từ củ khoai tây đã luộc, giã nát rồi đắp.
Chữa viêm tuyến nước bọt: Củ khoai tây mài với giấm bôi vào chỗ sưng đau.
Chú ý: Không dùng loại khoai tây đã biến chất, ngoài vỏ xanh, trong ruột thâm, khoai đã mọc mầm dễ bị ngộ độc.
BS Hương Tú, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jan 19, 2005 11:48:49 GMT -5
Trà hoa cúc có thể ngừa bệnh nhức mỏi cơ và cảm lạnh
Trà hoa cúc la Mã có thể bảo vệ cơ thể tránh được bệnh cảm lạnh và đau nhức cơ bắp TTO - Uống trà hoa cúc La mã có thể chống lại lại được bệnh cảm lạnh và sự rối loạn kinh nguyệt. Mỗt ngày uống 5 tách trà trong vòng nửa tháng là có thể đủ để thải ra một lượng chất độc trong nước tiểu giúp cơ thể loại trừ chứng đau nhức cơ bắp hay chống lại các chứng viêm sưng.
Trong nhiều năm, con người đã sử dụng hoa cúc như là một loại thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau, chống viêm loét. Nó cũng chống lại quá trình oxy hoá và những tinh dầu cần thiết chiết xuất từ cánh hoa được cho thấy là có chứa những chất khử trùng.
Một nhóm nghiên cứu của trường Đại học Imperial ở London đã kiểm tra nước tiểu của 14 người uống trà hoa cúc. Các nhà nghiên cứu đã lập ra một cuộc điều tra những thay đổi trong cơ thể khi con người dùng trà hoa cúc. Họ đã kiểm tra nước tiểu của những tinh nguyện viên hàng ngày trước và sau khi những người này dùng trà hoa cúc La mã. Khi sử dụng trà, chất Glyxin và chất chống viên khuẩn trong nuớc tiểu tăng cao, điều này có thể xoá sạch những triệu chứng mệt mỏi cơ bắp.
Sau khi những người tình nguyện dừng uống trà vào cuối tuần thứ hai, nồng độ glyxin và hippurate vẫn tăng lên trong 2 tuần tiếp theo, điều này khẳng định có thể những ảnh hưởng của trà hoa cúc La mã đối với con người là mãi mãi.
Tuy nhiên các nhà khoa học cũng cảnh báo những sản phẩm được gọi là "tự nhiên" không phải là vô hại. Loại trà này có thể gây ra những phản ứng khó chịu ở những người bị dị ứng cỏ phấn hương. Trà hoa cúc La mã cũng ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ chất sắt. Những phụ nữ trong thời kỳ mang thai nên thận trọng khi uống trà này vì những tác động của nó đến thai nhi.
NHƯ BÌNH (Theo BBC)
|
|
|
Post by Robot on Jan 19, 2005 11:51:57 GMT -5
Thảo dược chữa được chứng nghiện rượuCây ngải đắng TTO - Các nhà khoa học Ý cho biết họ vừa phát hiện ra một tiềm năng rất lớn của cây ngải đắng, có tên khoa học là Salvia Miltiorrhiza và là một loại thảo dược được sử dụng trong các bài thuốc cổ truyền Trung Quốc: chữa được chứng nghiện rượu. Các nghiên cứu trên chuột cho thấy cây ngải đắng có thể làm giảm được mức tiêu thụ rượu. Ông Giancarlo Colombo, thuộc Viện khoa học thần kinh của Ý tại Cagliari cho biết:" Bước tiếp theo là chúng tôi sẽ tiến hành thử nghiệm trên con người". Colombo và các cộng sự đã có một thời gian 10 năm nghiên cứu những tác động của rượu trên chuột. Nghiên cứu mới nhất của họ cho thấy chiếc xuất từ rễ khô cây ngải đắng có hiệu quả đặc biệt trong việc làm giảm lượng tiêu thụ rượu ở chuột và sau khi ngưng sử dụng thuốc thì những chú chuột này bắt đầu "nghiện rượu" trở lại. Công trình này của Colombo được công ty dược Indena của Ý tài trợ, một công ty rất quan tâm đến những loại thuốc có nguồn gốc từ thực vật. KINH LUÂN (Theo AFP)
|
|
|
Post by Robot on Jan 19, 2005 12:04:30 GMT -5
Cách dùng tỏi phòng chống cúm
Công dụng kháng khuẩn, kháng virus và kháng ký sinh trùng của tỏi là điều đã được chứng minh, nhưng cách thức sử dụng thế nào để đạt hiệu quả phòng chống cúm cao nhất thì không phải ai cũng tường tận. Trong bài viết này, chúng tôi xin được hướng dẫn một số cách dùng cụ thể để bạn đọc có thể tham khảo và vận dụng khi cần thiết.
Cách 1: Tỏi 100g, gừng tươi 100g, dấm ăn 500ml. Tỏi và gừng rửa sạch, thái nhỏ rồi cho vào lọ ngâm với dấm, bịt kín, sau chừng 30 ngày thì dùng được. Pha chế với nước chấm hoặc mỗi ngày uống 10ml sau bữa ăn.
Cách 2: Tỏi 1 củ, bóc vỏ, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước rồi dùng nước sôi để nguội pha loãng gấp 10 lần, nhỏ mũi mỗi ngày từ 3-5 lần. Hoặc dùng nửa tép tỏi, giã nhuyễn trong chén đã rửa sạch rồi cho 10ml nước muối sinh lý (Natri clorid 0,9%) vào chén, khuấy nhẹ, bỏ bã, gạn lấy phần nước trong, dùng nhỏ mũi 2-3 lần/ngày.
Cách 3: Tỏi 60g, đậu xị 30g. Hai thứ đem nấu thành canh ăn trong ngày, mỗi ngày 1 thang, dùng liền trong 3 ngày.
Cách 4: Tỏi 2 củ, lá tre tươi 20g, lá sen 10g, lá cải củ 30g. Tất cả rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước nhỏ mũi 2-3 lần trong ngày.
Cách 5: Tỏi 6 củ, gừng tươi 12g, một ít đường đỏ. Tất cả đem sắc lấy nước uống nóng, mỗi ngày 1 thang.
Cách 6: Tỏi 25g, hành củ 50g. Hai thứ rửa sạch, thái nhỏ, sắc kỹ với 250ml nước, uống mỗi lần 1 chén, mỗi ngày 3 lần.
Cách 7: Tỏi 1 củ, dấm gạo vừa đủ. Tỏi bóc vỏ, rửa sạch giã nát, chế thêm nước đun sôi rồi cho dấm gạo vào, đổ vào ấm pha trà, dùng hơi nóng để xông mũi và miệng.
Cách 8: Tỏi 6g, lá bạc hà 6g, lá đại thanh 20g, rễ chàm 12g. Các vị thuốc đem giã nát, bỏ vào trong một chén nhỏ, mỗi ngày ngửi vài lần.
Cách 9: Tỏi 100g, dấm gạo 200ml, đường đỏ 100g. Tỏi bóc vỏ, đem ngâm với dấm và đường đỏ, sau 10 ngày là dùng được, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10ml.
Cách 10: Tỏi 500g, sirô đường đơn (monosaccharide) 300ml, acid acetic 2ml, nước cất vừa đủ. Tỏi bóc vỏ, rửa sạch, giã nát và ép lấy nước; Đổ sirô đường đơn vào bã tỏi rồi tiếp tục nghiền đều, chế thêm acid acetic và một lượng nước cất vừa đủ thành 800ml; tiếp đó đổ nước ép tỏi vào, thêm nước cất thành 1.000ml là được. Cách dùng: mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 10ml.
(Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Robot on Jan 27, 2005 11:11:15 GMT -5
Vị thuốc từ cây hoa thủy tiên
Hoa thủy tiên có tác dụng khứ phong, thanh nhiệt, hoạt huyết điều kinh, giải độc... Xin giới thiệu tám bài thuốc chữa bệnh đơn giản từ loại cây này.
Thủy tiên là loài hoa gốc Trung Quốc, Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tô, Quý Châu. Có hai loại thủy tiên: loại hoa đơn và loại hoa kép. Củ và lá thủy tiên trông giống như củ và lá hành tây.
Người ta yêu thủy tiên vì vẻ đẹp quý phái và hương thơm đặc biệt, nhưng chắc hẳn sẽ thêm quý loài hoa này nếu biết rằng nó còn là một vị thuốc chữa bệnh. Hoa thủy tiên có tên khoa học là Narcissus tazetta L.var.chinensis Roem, trong thành phần hóa học của hoa có chứa 0,2-0,45% tinh dầu, trong đó chủ yếu là Eugenol, Benzaldehyde, Benzyl alcohol, Cinnamic alcohol. Ngoài ra, còn chứa Rutin, lsorhamnetin-3-rhamnoglucoside, Narcissin, Citronellol...
Theo dược học cổ truyền, hoa thủy tiên vị đạm, tính mát; rễ cây hoa có vị cay đắng, tính lạnh; có công dụng khứ phong thanh nhiệt, hoạt huyết điều kinh, tiêu thũng giải độc; được dùng để chữa các chứng bệnh như kinh nguyệt không đều, phụ nữ ngũ tâm phiền nhiệt (nóng lòng bàn tay, bàn chân và vùng giữa ngực), mụn nhọt, viêm loét, viêm tuyến vú, quai bị, viêm hạch... Y thư cổ Bản thảo cương mục cho rằng, hoa thủy tiên có công năng "khứ phong khí". Thường được dùng dưới dạng tươi hoặc khô, uống trong với liều từ 3-6g, dùng ngoài giã nát đắp hoặc nấu nước rửa.
Một số cách dùng cụ thể như sau:
* Kiết lỵ: Hoa thủy tiên 3g sắc kỹ lấy nước, pha thêm một chút đường trắng uống trong ngày.
* Quai bị: Hoa hoặc củ thủy tiên giã nát, sao nóng rồi đắp vào chỗ đau.
* Tiểu tiện không thông: Củ thủy tiên giã nát rồi đắp vào huyệt Dũng tuyền. Vị trí huyệt Dũng tuyền: nằm ở điểm nối giữa 2/5 trước và 3/5 sau của đoạn nối đầu ngón chân thứ hai với điểm giữa bờ sau gót chân.
* Phụ nữ ngũ tâm phiền nhiệt: Hoa thủy tiên, lá sen khô, xích thược, lượng bằng nhau. Tất cả sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g với nước ấm.
* Trẻ em co giật: Hoa thủy tiên 10 bông, phơi khô sắc uống, có thể pha thêm một chút đường.
* Áp-xe vú: Hoa thủy tiên giã nát, trộn với một chút rượu rồi đắp vào nơi bị bệnh, mỗi ngày đắp 2 lần.
* Mụn nhọt, đinh độc: Hoa hoặc củ thủy tiên tươi giã nát đắp lên nơi bị tổn thương; hoặc dùng củ thủy tiên, dã tường vi, lá phù dung và rễ cây chuối tiêu, giã nát rồi đắp vào nơi bị bệnh.
* Côn trùng đốt: Dùng hoa hoặc lá thủy tiên tươi giã nát đắp vào chỗ bị đốt.
(Theo TGM)
|
|
|
Post by Robot on Feb 1, 2005 11:18:58 GMT -5
Hoa hồng - Dược thảo lý tưởng
Hoa hồng là một loại thuốc thiên nhiên phổ thông nhất, nhưng cách thu lượm và chế biến cánh hoa là khâu rất quan trọng. Cần hái cánh hoa hồng vào buổi sáng sớm và sẽ tốt hơn nếu hái sau cơn mưa hoặc sau một đêm có nhiều sương.
Tinh dầu hoa hồng là thành phần chữa bệnh cơ bản, nó kích thích và điều hòa hệ kháng thể với hệ thần kinh của con người, đồng thời gia tăng hoạt động của các tuyến nội tiết, xóa bỏ những rối loạn phức tạp trong các cơ quan của cơ thể và tái tạo tế bào. Tinh dầu hoa hồng rất tốt cho bộ máy tiêu hóa nhờ khả năng hàn gắn các lớp màng, khử khuẩn và bù đắp lượng men thiếu hụt trong dạ dày và ruột. Hầu hết các khoáng chất trong bảng tuần hoàn Mendeleyev đều có ở cánh hoa hồng. Ngoài ra, cánh hoa hồng có chứa canxi - tác động đến quá trình trao đổi chất và tiêu hóa thức ăn, kali - thành phần vô cùng quan trọng đối với hoạt động của tim - cải thiện tình hình hoạt động của tuyến nội tiết...
Toàn bộ vi khuẩn bị chết trong vòng 5 phút sau khi tiếp xúc với cánh hoa hồng tươi khiến nó thực sự trở thành loại dược thảo lý tưởng. Cánh hoa hồng tươi giúp chữa trị các mụn mủ, vết bỏng hoặc giảm chứng dị ứng. Bột cánh hoa hồng sấy khô trộn lẫn với mật ong là một bài thuốc hiệu quả chữa chứng hôi và viêm miệng. Xông bột hoa hồng là một liệu pháp khuyến cáo đối với những người có hệ thần kinh yếu, loạn thần kinh chức năng và trầm cảm. Đặt một bát nước nóng có rắc cánh hoa hồng vào trong phòng nếu bạn cảm thấy căng thẳng, lạnh đỉnh đầu hoặc cảm cúm. Tinh dầu hoa hồng làm dịu cơ tim, nên các bác sĩ luôn kê đơn xông bột hoa hồng cho những người bị hẹp van tim. Đổ nước nóng vào nửa cốc đựng cánh hoa hồng và đậy kín nắp để giữ tinh dầu, sau đó đổ vào nước tắm sẽ giúp chữa các chứng bệnh thần kinh. Có thể cho thêm nước ép củ cải đường để tăng tính năng chữa bệnh. Trà cánh hoa hồng (một thìa cà phê bột hoa hồng sấy khô pha trong một ly nước đun sôi) là bài thuốc chữa cảm lạnh, viêm họng, viêm phổi và các chứng loạn thần kinh chức năng, đồng thời cũng là một thứ đồ uống giàu vitamin.
(Theo Đẹp)
|
|
|
Post by Robot on Feb 3, 2005 13:26:19 GMT -5
11 bài thuốc từ cây đào
Để chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, lấy đào nhân (nhân hạt đào), hồng hoa, ngưu tất, tô mộc, mần tưới, nghệ vàng mỗi vị 6-8 g, sắc nước uống.
Đào nhân vị đắng, ngọt, tính bình, có tác dụng phá huyết, hành ứ, nhuận táo, hoạt trường. Lá đào vị đắng, tính bình, có tác dụng khu phong, bài thấp, thanh nhiệt, sát trùng. Rễ đào vị đắng, tính bình.
Nhựa đào vị đắng ngọt, tính bình, có tác dụng làm tan kết tụ, giảm đau và lợi tiểu. Hoa đào vị đắng, tính bình, có tác dụng lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện.
Bài thuốc có đào:
- Chữa huyết bế sau khi đẻ: Đào nhân (bỏ vỏ) 12 hạt, ngó sen 1 cái, sắc nước uống.
- Chữa bế kinh, ứ huyết đau bụng kinh: Đào nhân 6 g, đương quy 10 g, xích thược 10 g, xuyên khung 3 g, hồng hoa 5 g. Sắc nước, chia làm nhiều lần uống trong ngày.
- Chữa ngứa âm hộ: Lá đào tươi, vỏ cây xoan, hoàng bá tươi mỗi thứ 30 g, vỏ rễ lựu tươi 50 g, lá khuynh diệp tươi 25 g, hạt tiêu 20 g, đun sôi, bỏ bã, cho thêm băng phiến, dùng nước xông rửa bên ngoài và ngâm, không được uống.
- Chữa ghẻ lở: Lá đào tươi giã nát, đắp tại chỗ.
- Chữa sốt rét: Lá đào tươi 70g, sắc nước uống ngày 1 lần, dùng 5 ngày.
- Chữa mề đay: Lá đào tươi 500 g, thái nhỏ ngâm vào cồn 500 ml trong vòng 24-48 giờ, lọc bỏ bã, dùng bôi ngày 2-3 lần.
- Chữa phụ nữ nhiều năm kinh không thông, da vàng vọt, môi trắng bệch: Rễ đào 600 g, rễ ngưu bàng 600 g, rễ ma tiền thảo 600 g, ngưu tất 1.200 g, các vị chặt nhỏ, thêm 6.000 ml nước đun sôi cô đặc còn 200 ml, lọc bã. Uống trước bữa ăn với rượu nóng, ngày 2 lần, mỗi lần 15 g.
- Chữa đái ra máu: Nhựa đào, thạch cao, mộc thông mỗi thứ 15 g, nghiền thành bột mịn, mỗi lần dùng 6 g, sắc với 200 ml nước còn 100 ml, uống trước bữa ăn.
- Chữa đái ra dưỡng chấp: Nhựa đào 10 g phối hợp với đường kính, đun cách thủy uống làm nhiều lần trong ngày.
- Chữa bệnh tiểu đường: Nhựa đào 20 g, tán nhỏ, uống với nước sắc địa cốt bì và râu ngô (mỗi vị 30 g).
BS Hương Tú, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|