|
Post by Oshin on Apr 21, 2004 15:07:29 GMT -5
Củ riềng làm thuốc Riềng chữa được chứng đầy bụng. Để chữa đầy bụng, nôn mửa, lấy riềng củ, gừng khô, củ gấu phơi khô lượng bằng nhau đem tán nhỏ, rây lấy bột mịn. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4-6 g. Củ riềng (còn có tên là cao lương khương) và quả hột riềng đều vị cay, tính ấm, làm ấm bụng, chống khí lạnh, thường được dùng để chữa đau bụng, nôn mửa, nấc. Liều dùng 3-10 g đối với củ, hoặc 2-6 g đối với quả. Một số bài thuốc Nam được dùng trong dân gian: - Chữa đau bụng lạnh, nôn mửa, tiêu chảy: Riềng, củ gấu, gừng khô liều lượng bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 6 g, ngày uống 3 lần. - Chữa sốt rét cơn, ăn không tiêu, buồn nôn hoặc đau bụng thổ tả: Hạt riềng tán nhỏ, uống 6-10 g. - Chữa hắc lào: Củ riềng già 100 g, giã nhỏ, ngâm với 200 ml rượu hoặc cồn 70 độ. Chiết ra dùng dần, khi dùng, bôi dung dịch cồn nói trên vào chỗ tổn thương, ngày bôi vài lần. - Chữa ho, viêm họng, tiêu hóa kém: Riềng củ thái lát mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. BS Quang Minh, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on May 5, 2004 15:50:14 GMT -5
Ổi là một vị thuốc quý chữa bệnh đường ruộtỔi là thứ cây hết sức quen thuộc trong đời sống chúng ta. Nhiều bộ phận của cây ổi như búp non, lá non, quả, vỏ rễ và vỏ thân được dùng để làm thuốc. Theo dược học cổ truyền, lá ổi vị đắng sáp, tính ấm, có công dụng tiêu thũng giải độc, thu sáp chỉ huyết; quả ổi vị ngọt hơi chua sáp, tính ấm, có công dụng thu liễm, kiện vị cố tràng; các bộ phận của cây ổi thường được dùng để chữa các chứng bệnh như tiết tả (đi lỏng), cửu lỵ (lỵ mạn tính), viêm dạ dày ruột cấp và mạn tính, thấp độc, thấp chẩn, sang thương xuất huyết, tiêu khát (đái tháo đường), băng huyết. Xin giới thiệu một số cách dùng cụ thể. Viêm dạ dày, ruột cấp và mạn tính. Lá ổi non, sấy khô, tán bột, uống mỗi lần 6 g, mỗi ngày 2 lần. . Lá ổi một nắm, gừng tươi 6 - 9 g, muối ăn một ít, tất cả vò nát, sao chín rồi sắc uống. . Quả ổi, xích địa lợi và quỷ châm thảo, mỗi thứ từ 9 - 15 g, sắc uống. Cửu lỵ . Quả ổi khô 2 - 3 quả, thái phiến, sắc uống. . Lá ổi tươi 30 - 60 g, sắc uống. . Với lỵ trực khuẩn cấp và mạn tính dùng lá ổi 30 g, phượng vĩ thảo 30 g, cam thảo 3 g, sắc với 1 lít nước, cô lại còn một nửa, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 50 ml. Trẻ em tiêu hóa không tốtLá ổi 30 g, hồng căn thảo (tây thảo) 30 g, hồng trà 10 - 12 g, gạo tẻ sao thơm 15 - 30 g, sắc với 1lít nước, cô lại còn một nửa, cho thêm một chút đường trắng và muối ăn. Uống mỗi ngày: từ 1 - 6 tháng tuổi 1/4 lít, 1 tuổi trở lên nửa lít, chia uống vài lần trong ngày. Tiêu chảy. Búp ổi hoặc vỏ dộp ổi 20 g, búp vối 12 g, búp hoặc nụ sim 12 g, búp chè 12 g, gừng tươi 12 g, rốn chuối tiêu 20 g, hạt cau già 12 g, sắc đặc uống. . Với tiêu chảy do lạnh: Dùng búp ổi sao 12 g, gừng tươi 8 g nướng cháy vỏ, hai thứ sắc cùng nửa lít nước, cô còn gần phân nửa, chia uống 2 lần trong ngày. . Với tiêu chảy do nóng (thấp nhiệt) dùng vỏ dộp ổi 20 g sao vàng, lá chè tươi 15 g sao vàng, nụ sim 10 g, trần bì 10 g, củ sắn dây 10 g sao vàng, tất cả tán bột; người lớn mỗi lần uống 10 g, trẻ em uống bằng nửa liều người lớn. . Với tiêu chảy do công năng tỳ vị hư yếu dùng lá hoặc búp ổi non 20 g, gừng tươi nướng cháy 10 g, ngải cứu khô 40 g, sắc cùng 3 bát nước, cô còn 1 bát, chia uống vài lần trong ngày. . Với trẻ em đi lỏng dùng lá ổi tươi 30 g, rau diếp cá 30 g, xa tiền thảo 30 g, sắc kỹ lấy 60 ml, trẻ dưới 1 tuổi uống 10 - 15 ml, trẻ em từ 1 - 2 tuổi uống 15 - 20 ml, mỗi ngày uống 3 lần. Thổ tảLá ổi, lá sim, lá vối và hoắc hương lượng bằng nhau, sắc hoặc hãm uống. Băng huyếtQuả ổi khô sao cháy tồn tính, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 9 g với nước ấm. Đái tháo đường. Quả ổi 250 g rửa sạch, thái miếng, dùng máy ép lấy nước, chia uống 2 lần trong ngày. . Lá ổi khô 15 - 30 g, sắc uống hằng ngày. Đau răng Vỏ rễ cây ổi sắc với giấm chua, ngậm nhiều lần trong ngày. Mụn nhọt mới phátLá ổi non và lá đào lượng vừa đủ, rửa sạch, giã nát rồi đắp lên vùng tổn thương. Vết thương do trật đảDùng lá ổi tươi rửa sạch; giã nát đắp vào nơi bị thương. Giải ngộ độc bả đậu Quả ổi khô, bạch truật sao hoàng thổ, vỏ cây ổi, mỗi thứ 10 g, sắc với l bát rưỡi nước, cô lại còn 1 bát, chia uống vài lần. Khánh Toàn (Thuốc & Sức Khoẻ )
|
|
|
Post by Oshin on May 6, 2004 8:08:27 GMT -5
Chanh: Vị thuốc thần kỳ Từ 3 nghìn năm trước, con người đã biết đến tác dụng chữa bệnh của quả chanh - vị thuốc tốt nhất trong họ cam quýt. Vào thời Trung cổ, người ta tin rằng loại quả này có thể ngừa bệnh dịch hạch và chữa rắn cắn. Sử dụng mỗi ngày vài miếng chanh là cách phòng stress hiệu quả nhất. Nhiều bằng chứng khoa học đã chứng tỏ chanh có khả năng củng cố hệ miễn dịch và mạch máu, làm cho quá trình trao đổi chất diễn ra mạnh hơn và tăng cường chuyển canxi vào xương và răng. Nó còn kích thích hoạt động tiết dịch dạ dày, tăng cường tiêu hóa thức ăn, cải thiện trạng thái của mô liên kết, tóc và móng, hãm chảy máu lợi, đặc biệt làm cơ thể sảng khoái và khắc phục tình trạng thừa cân. Trong y học dân tộc, chanh được dùng để trị hoại huyết, vàng da, phù nề, phong thấp, sỏi thận, thống phong, viêm dạ dày với độ axit thấp, ho lao. Do quả chanh có lượng lớn vitamin C, nên người ta thường dùng chanh để làm mau liền vết thương và chỗ gãy xương. Có thể dùng nước chanh để súc miệng khi bị viêm họng và niêm mạc. Rửa bằng nước chanh giúp khắc phục bệnh nấm trên da, eczema, trĩ mạn tính và hoại thư. Nước chanh còn có tác dụng làm mềm và trắng da. Mỗi ngày dùng vài miếng chanh sẽ giúp ngăn ngừa stress. Có thể pha nước chanh theo cách: vắt 3 quả chanh, trộn với 3 thìa mật ong và uống hết ngay. Thức uống này sẽ giúp nhanh chóng hồi phục sức lực sau khi cơ thể phải chịu tải trọng nặng. Ở Thổ Nhĩ Kỳ và Bungary, người ta trộn nước chanh vắt, mật và dầu hướng dương với tỷ lệ 1:2:0,5; uống mỗi sáng một thìa cà phê khi còn đói sẽ giúp trẻ mãi. (Theo KH&ĐS)
|
|
|
Post by Oshin on May 10, 2004 6:40:22 GMT -5
Hoa kim trâm - nữ hoàng vitamin vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2004/05/3B9D264D/04051007.jpg[/img]Hoa kim trâm. Loại hoa này không chỉ trang điểm cho các phòng khách sang trọng mà còn là vị thuốc quý chữa bệnh đường tiết niệu, chảy máu cam, động thai... Hoa kim trâm cũng là thứ "rau" cao cấp, rất giàu vitamin. Trong y dược học hiện đại, kim trâm là nguồn nguyên liệu tốt để bào chế tân dược. Loại hoa này chứa nhiều chất có lợi cho sức khỏe như protein, chất béo, nitơ tự do, đường khử, tinh bột... Nó là nguồn vitamin A, thiamin và vitamin C dồi dào. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: "Cây kim trâm dài chừng một thước, hình như cái trâm vàng nên gọi như thế". Nó còn có tên là hoa hiên, huyên thảo, rau huyên, hoàng hoa, kim trâm thái... Giống cây này ưa khí hậu nhiệt đới núi cao, quanh năm ẩm mát. Ở Việt Nam, kim trâm mọc hoang dã tại Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Từ lâu, kim trâm đã được sử dụng như một vị thuốc dân gian có nhiều công hiệu. Lá và hoa làm thuốc chữa đổ máu cam, an thai, lợi tiểu, trừ thấp nhiệt, làm yên ngũ tạng, khỏi bốc nóng, giúp ăn ngon ngủ yên, sáng mắt... Rễ cây vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thuỷ, lương huyết, chỉ huyết, được dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa sốt, lỵ, nôn ra máu, đại tiện ra máu; sỏi tiết niệu. Rễ cây cũng có tác dụng chữa ho ra máu, viêm gan, vàng da, viêm tuyến mang tai, viêm tai giữa, đau răng. Lá và rễ giã đắp có thể trị sưng vú. Nước sắc hoa kim trâm có thể làm tăng tiểu cầu, hồng cầu nhưng không ảnh hưởng đến số lượng và công thức bạch cầu nên có tác dụng bổ máu. Hơn thế nữa, thứ nước sắc này có tác dụng đối kháng với dicoumarin (chất kéo dài thời gian đông máu), làm giảm rõ rệt thời gian đông máu, tránh mất máu nhiều cho người bệnh. Tuy nhiên, không nên lạm dụng kim trâm, vì với liều quá cao, nó có thể gây ngộ độc với biểu hiện: không kiềm được tiểu tiện, giãn đồng tử, ức chế hô hấp... Các bài thuốc dân gian thường chỉ dùng vị thuốc này với liều lượng xấp xỉ 30 g/ngày. Ngoài tác dụng làm thuốc, kim trâm cũng là một món ăn ngon dành cho dân sành điệu. Cách chế biến thông dụng nhất là nấu canh. Gần đây, các đầu bếp đã nghĩ ra các món như xào thập cẩm, băm lẫn với thịt nạc hay hấp cách thuỷ cùng tim, cật lợn. Dù làm cách nào, kim trâm vẫn giữ được vị ngon, ngọt rất đặc trưng của mình. Vài năm gần đây, nông dân một số vùng như Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Sa Pa (Lào Cai), Đà Lạt (Lâm Đồng)... thử trồng kim trâm để làm cảnh và cung cấp cho địa phương làm thức ăn. Hoa kim châm rất ít được "xuống núi" nhưng mỗi khi xuất hiện ở Hà Nội, nó đều được bán với giá cắt cổ: gần 40.000 đồng/kg. (Theo Lao Động)
|
|
|
Post by Oshin on May 13, 2004 2:40:31 GMT -5
Mơ - vị thuốc giải khát kỳ diệu www.thanhnien.com.vn/TinTuc/SucKhoe/2004/5/12/16751/mo_A2.jpg[/img] Nước quả mơ tươi pha đường hoặc nước mơ ngâm đường pha nước uống có tác dụng giải khát rất tốt, tăng sức bền bỉ, chống mệt mỏi, giảm mất mồ hôi, giúp bạn ăn ngon miệng, ít bị rối loạn tiêu hóa.Từ xa xưa, mơ được nhiều dân tộc trên thế giới, nhất là ở phương Đông, biết đến với tính chất “sinh tân, chỉ khát” tuyệt vời. Trong thịt quả mơ có nhiều loại vitamin (đặc biệt là vitamin A và vitamin C), acid citric và muối khoáng. Bạch mai (mơ muối) có tác dụng cân bằng sự thẩm thấu giữa tế bào và máu, kích thích ăn ngon. - Rượu mơ có tác dụng giúp ăn ngon, tiêu cơm, thịt, chất béo và tăng thị lực, dùng vào mỗi bữa ăn với 1 chén con 25-30 ml. Rượu mơ xanh tính hàn, vị ấm, chữa kém ăn, bụng có giun, phong thấp (trong uống ngoài xoa), nôn mửa, đau bụng, phòng cảm nắng, ra mồ hôi tay chân. - Ô mai, mứt và kẹo mơ dùng ngậm chữa ngứa họng, buồn nôn, ho, có đờm. - Quả mơ chín giã nát đắp vào răng chữa răng đau nhức. - Chữa đau bụng giun: Lấy 300 g bạch mai, 3 thìa đường, sắc nước uống. - Trúng phong, răng nghiến chặt: Dùng ô mai đánh gió, chà răng. - Giải rượu: Dùng mơ nấu với trà uống (rất hiệu nghiệm). - Làm đẹp da: Dùng thịt quả mơ phối hợp quả lê chế thành mặt nạ đắp mặt và cổ trước khi đi ngủ vài giờ để làm giảm nếp nhăn (phương pháp của bà Barbara Liebhart Heinerman - Mỹ ). - Mụn cóc (hạt cơm) trên da: Ô mai 30 g ngâm nước muối 24 g (bỏ hạt) và ít giấm, nghiền mịn, đắp lên mụn cơm. Một số bài thuốc có bạch mai:- Chữa ho lâu ngày: Bạch mai, hoàng kỳ mỗi thứ 20 g, cát cánh, mạch môn, trần bì mỗi thứ 10 g, cam thảo 5 g, cho 2 bát nước sắc còn nửa bát, chia 2 lần uống trong ngày. - Đái tháo đường, không tự chủ được tiểu tiện: Bạch mai, thục địa, hoài sơn, đan phiến, ngũ vị tử mỗi loại 10 g; nhục quế 2 g. Sắc uống. - Sỏi mật, viêm đau túi mật: Bạch mai, cam thảo chế, kim tiền thảo, hải kim sa, diên hồ tố, kê nội kim mỗi loại 15 g, sắc uống. - Đi lỏng dài ngày do tỳ hư: Bạch mai, bạch truật, kha tử, đẳng sâm, mỗi loại 10 g, sắc uống. - Ra mồ hôi trộm: Bạch mai, hoàng kỳ, ma hoàng căn, đương quy mỗi loại 10 g, sắc uống. - Tẩy giun đũa: Bạch mai 10 g, xuyên tiêu 6 g, gừng 3 lát, sắc uống. Không chỉ thịt quả mà cả nhân hạt mơ cũng được dùng làm thuốc (hạnh nhân). Nó chứa nhiều vitamin E, có tác dụng chống lão hóa. Hạnh nhân giúp chữa nhiều bệnh ngoài da bằng cách bôi ngoài hoặc uống. Nhiều bệnh trong phủ tạng cũng dùng hạnh nhân chữa có hiệu quả, đặc biệt là phổi co thắt gây khó thở (như viêm phế quản thể hen). Một nghiên cứu năm 1951 cho thấy trong dịch nhân hạt mơ có vitamin B15, giúp phục hồi sức khỏe, chữa bệnh tim phổi, kéo dài tuổi thọ. Năm 1968, các nhà khoa học đã chiết xuất được từ quả mơ một chất chống trực khuẩn lao. (Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Oshin on May 18, 2004 16:35:01 GMT -5
Khoai tây giúp chữa trầm cảm Đây là tin vui cho những người thường bị trầm cảm vào mùa đông. Một cuộc nghiên cứu mới nhận thấy việc ăn khoai tây nấu bằng hơi nước (chưng cách thủy) rất có hiệu nghiệm trong việc chữa trị chứng trầm cảm mùa đông. Trầm cảm mùa đông, còn được gọi là Rối loạn xúc cảm theo mùa (SAD), được cho là do thiếu ánh sáng trong những tháng mùa đông. Serotonin, cũng còn được gọi là hormone hạnh phúc, và các chất dinh dưỡng khác như folate thường thiếu hụt nơi những người bị trầm cảm. Trung tâm Liệu pháp Tâm lý thần kinh Úc nhận thấy khoai tây nấu bằng hơi nước có thể giúp sử dụng nhiều serotonin hơn trong việc chữa SAD. Rod Markham, giám đốc trung tâm nói trên, cho biết: "Nếu tập thể dục, tiếp xúc với ánh sáng mạnh đầy đủ trong ngày, có mối quan hệ xã hội tốt và ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, bạn có thể không cần phải dùng thuốc chống trầm cảm như Prozac chẳng hạn”. Khoai tây nấu cách thủy giúp giữ lại các axit amin ở mức cao nhất so với các phương pháp nấu nướng khác đã được nghiên cứu. Trung tâm nhận thấy các yếu tố dinh dưỡng nắm một vai trò quan trọng trong bước đầu của chứng trầm cảm, và ăn nhiều thực phẩm chứa các vitamin cần thiết có thể làm giảm thiểu các triệu chứng của bệnh này. (Theo Hindustantimes, BSGĐ )
|
|
|
Post by Oshin on May 18, 2004 16:52:20 GMT -5
Chữa bệnh bằng cây rau dền Cây rau dền. Rau dền có 2 loại: trắng và đỏ. Ngoài tác dụng làm món ăn, cả 2 loại rau này đều là những vị thuốc hay. Rau dền vị ngọt, tính lạnh, không độc, giúp dễ sinh, trị lở môi, lở loét do sơn ăn và sát trùng, khử độc nọc ong, rắn. Trong Đông y, rau dền có thể dùng trong các trường hợp sau: - Trị chứng máu nóng sinh kiết lỵ, lở loét: Bệnh này xuất hiện do bên trong quá nóng mà sinh ra bị kiết lỵ, lở loét hoặc bị cả 2 bệnh trong cùng một thời gian. Dùng rau dền đỏ luộc chín tới, ăn cả nước lẫn cái. Mỗi ngày ăn khoảng 15-20 g, ăn trong vài ngày là khỏi. Nếu mắc chứng ho lâu ngày, dai dẳng không khỏi thì bài thuốc này cũng trị được. - Trị rắn cắn: Lấy rau dền đỏ giã nát, vắt lấy khoảng 1 bát nước cho uống, còn bã đắp lên vết thương. Khi bị rắn cắn, phải lập tức băng chặt (bằng dây chun hoặc dây vải) phía trên vết cắn (phía gần với tim hơn) rồi mới dùng thuốc. Sau đó, phải đưa ngay đến bệnh viện gần nhất. - Chữa vết ong đốt: Nếu bị ong đốt (nhất là giống ong to có độc) thì lấy rau dền vò nát, xát cả vào vết đốt là khỏi. Lưu ý: Không nên ăn thịt ba ba cùng với rau dền vì theo Đông y, việc 2 thứ này kết hợp với nhau có thể gây độc. Gặp trường hợp này, cần uống nước rau muống giã hoặc ăn rau muống sống để giải độc. BS Ngọc Khôi, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on May 18, 2004 16:54:31 GMT -5
Tỏi tây thải độc Tỏi tây. Món thịt bò xào cần tỏi vốn rất quen thuộc trong các bữa ăn hằng ngày, song ít người biết đến tác dụng thải độc của tỏi tây. Phần thân xanh của loại rau này rất giàu caroten, vitamin C và E - bộ ba vi chất giúp cơ thể đề kháng tốt với cảm cúm và viêm đường hô hấp. Ở nhiều nước, tỏi tây được dùng thường xuyên như hành lá ở Việt Nam. Người ta ăn sống tỏi hoặc ướp nướng cùng một số loại cá như một loại gia vị ngon và an toàn. Các nghiên cứu cho thấy, đường thực vật trong phần đầu trắng của cây tỏi và muối kali trong phần thân là những chất bổ sung năng lượng mà không gây béo. Tỷ lệ muối không đáng kể trong tỏi tây giúp giảm nhẹ gánh nặng sàng lọc chất độc của thận. Trong loại rau này lại có nhiều chất xơ, phủ lên thành dạ dày một lớp "men" đặc biệt xóa cảm giác đói. Chính vì vậy, món salad với tỏi tây hoặc tỏi xào suông là thực đơn lý tưởng cho người ăn kiêng. Không những thế, caroten, vitamin C và E trong thân xanh của tỏi giúp bảo vệ tế bào trước sự tấn công của không khí ô nhiễm và các chất phóng xạ. Tỏi tây còn có một số công dụng ít được biết đến như làm đẹp da và tẩy những nốt mụn mới xuất hiện. Uống nước sắc từ tỏi tây sẽ làm cho cơ thể tỉnh táo, đỡ đau họng và thanh giọng. Nên dùng tỏi tây với: - Tỏi thường: Cả hai đều là những thức ăn nghèo muối và giàu kali. Kết hợp hai loại tỏi này sẽ giúp giảm huyết áp và tạo thành phần kháng sinh tự nhiên. - Cá béo: Vitamin E từ tỏi tây kết hợp với các loại cá béo như cá thu, cá hồi, cá basa... sẽ làm tăng tác dụng của omega-3 có lợi trong cá. - Cần tây: Sự kết hợp truyền thống này cung cấp nguồn vitamin dồi dào, đặc biệt an toàn cho tiêu hóa và đường ruột. Dùng bao nhiêu là thích hợp?200 g tỏi tây sẽ cung cấp đủ lượng kali hằng ngày. Theo kinh nghiệm, nếu ăn đều tỏi tây 3 ngày/tuần thì cơ thể sẽ không bị thiếu vitamin và sức đề kháng được tăng cường. Đối với người ăn kiêng, thực đơn bổ dưỡng với tỏi tây gồm: 1 lát cá thu (hoặc cá hồi hay saba Nhật) ướp với 8 lát tỏi tây thái mỏng đập giập, 1/2 thìa cà phê rượu trắng, một chút sa tế tôm, hạt tiêu, gia vị, một vài lát quả bơ. Tất cả bọc vào tấm giấy bạc và đem nướng ở nhiệt độ trung bình trong vòng 30 phút. Món này có thể ăn kèm với bánh mỳ hoặc cơm. (Theo Người Đẹp Việt Nam)
|
|
|
Post by Robot on May 21, 2004 15:41:01 GMT -5
Vỏ cam, quýt có thể giảm cholesterol TTO - Vỏ cam quýt có thể không phải là món khoái khẩu của bạn nhưng nó lại rất tốt cho bạn, giảm cholesterol xấu, một nghiên cứu cho biết.
Các nhà khoa học Mỹ vỗ béo những con chuột đồng bằng thực đơn có nhiều cholesterol, và sau đó nuôi chúng bằng một hợp chất của vỏ quả quýt và quả cam. Các chuyên gia nhận thấy hợp chất này có thể làm giảm luợng cholesterol xấu ( LDL cholesterol), có liên quan đến bệnh tim. Một thực đơn có chức 1% là PMFs có thể làm giảm 40% lượng cholestreol trong cơ thể, các chuyên gia cho biết.
Nhóm nghiên cứu cũng thử nghiệm hai chất flavonoid đặc trưng khác là hesperetin và naringenin trên một số con chuột có cholesterol cao, và tác dụng hạ cholesterol LDL cũng được ghi nhận. Tuy nhiên, hai chất này phải cần tới một lượng lớn gấp 3 lần hợp chất PMF từ vỏ cam, quít mới cho hiệu quả tương tự.
Hợp chất từ vỏ cam quít có tên khoa học là polymethoxylated flavones (PMFs), một chất chống oxy hóa, thuộc về một nhóm hóa chất có từ thực vật, flavonoids (được sinh ra từ nhiều loại rau, trái cây, trà và rượu đỏ ). Chất siêu -flavonoid (super-flavonoids) có khả năng tìm kiếm và tiêu diệt cholesterol, làm suy yếu hiệu quả của một số đơn thuốc, tiến sĩ Elzbieta Kurowska, công ty KGK Synergize (Canada) cho biết.
Tiến sĩ Elzbieta Kurowska cho biết thêm cam quýt có chứa một lượng rất nhỏ các chất có chứa PMFs, chỉ như là hợp chất không thể hòa tan trong nước, trong khi đó, vỏ của nó lại chứa một lượng cao gấp 20 lần. Và các hợp chất có nguồn gốc từ vỏ thường cô đặc hơn, tác động nhiều hơn và dễ chuyển hóa trong cơ thể hơn.
"PMF có thể đã khống chế khả năng phân tiết cholesterol LDL của gan", Kurowska cho biết và nhóm đang tính đến việc tăng cường hiệu quả chống loại cholesterol độc hại này bằng việc kết hợp PMF với vitamin E. Tuy nhiên, lời khuyên đáng tin cậy nhất vẫn là năng vận động cơ thể, ăn nhiều rau quả và hạn chế tối đa chất béo no để giảm cholesterol.
T.LÊ (Theo BBC News)
|
|
|
Post by Robot on May 21, 2004 15:56:02 GMT -5
Các dược thảo trị bệnh gan - mật Trong các loại dược thảo có tác dụng lợi mật, trị viêm gan, ác-ti-sô chiếm một vị trí quan trọng. Nó làm tăng mạnh lượng mật bài tiết, tăng lượng nước tiểu và nồng độ urê trong nước tiểu, giảm lượng urê và cholesterol trong máu.
Ác-ti-sô được dùng làm thuốc thông mật, điều trị hỗ trợ trong các bệnh viêm gan, suy gan. Dạng dùng là lá tươi hoặc khô (liều tương đương 2-10 g lá khô một ngày), sắc uống hoặc nấu cao rồi bào chế thành viên, hay chiết xuất thành dạng cao lỏng tinh chế, dùng dưới hình thức giọt.
Viên cynaraphytol chứa 200 mg cao tinh chế từ lá tươi ác-ti-sô. Ngày dùng 2-4 viên. Trà túi lọc ác-ti-sô được bào chế từ các bộ phận của cây với tỷ lệ: thân 40%, rễ 40%, hoa 20%. Mỗi túi chứa 2 g, liều dùng không hạn chế.
Dành dành: Cao chiết từ quả dành dành làm tăng sự tiết mật. Trong thử nghiệm trên thỏ đã thắt ống dẫn mật chủ, cao nước và hoạt chất từ dành dành ức chế sự gia tăng bilirubin trong máu. Dành dành còn có tác dụng kháng khuẩn và chống viêm. Trong y học cổ truyền, nó là một vị thuốc được dùng từ lâu đời chữa bệnh vàng da. Ngày dùng 6-12 g quả dưới dạng nước sắc hoặc hoàn tán.
Đại hoàng: Có tác dụng làm tăng tiết mật, kháng khuẩn, lợi niệu. Với liều vừa phải (0,5-2 g), nó chữa các chứng vàng da, kém ăn, ăn không tiêu. Ở liều cao, nó là thuốc tẩy nhẹ dùng cho người bị vàng da nặng, đầy bụng, đại tiện bí. Ngày dùng 3-10 g sắc uống. Phụ nữ có thai, đang cho con bú hoặc người bị sỏi niệu calci oxalat không dùng đại hoàng.
Hoàng cầm: Có tác dụng ức chế kháng nguyên bề mặt của virus gây bệnh viêm gan B. Trong y học cổ truyền, hoàng cầm được dùng điều trị bệnh vàng da. Ngày uống 6-15 g dạng thuốc sắc hoặc bột.
Nghệ: Tinh dầu nghệ có tác dụng làm tăng tiết mật nhờ thành phần p-tolylmethyl carbinol. Nghệ còn có tác dụng chống viêm và kháng khuẩn. Một bài thuốc có nghệ đã được áp dụng điều trị viêm gan do virus và hầu hết bệnh nhân thử nghiệm đều khỏi. Trong y học cổ truyền, nghệ được dùng chữa bệnh vàng da. Ngày uống 2-6 g dưới dạng bột hoặc thuốc sắc, chia làm 2-3 lần.
Nhân trần: Cao chiết từ nhân trần có tác dụng làm tăng tiết mật, tăng chức năng thải trừ của gan, kháng khuẩn và chống viêm. Nhân trần đã được áp dụng điều trị cho các bệnh nhân mắc viêm gan do virus cấp tính, bệnh vàng da. Trong y học cổ truyền, nhân trần được dùng chữa vàng da, sốt nóng, tiểu tiện không thông. Ngày dùng 8-20 g, dưới dạng thuốc sắc, siro hoặc thuốc viên.
Các bài thuốc cụ thể:
- Vàng da, vàng mắt, sốt: Dành dành 5 g, hoàng bá 5 g, cam thảo 2g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc: Nhân trần 20 g, dành dành 12 g, đại hoàng 4 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan, vàng da, vàng mắt: Nhân trần 30 g, dành dành 12 g, vỏ đại 10 g (hoặc chút chít 8 g). Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan, tắc mật: Đại hoàng tẩm rượu sao, tán bột. Ngày uống 2-4 lần, mỗi lần 2 g.
- Viêm gan do virus cấp tính: Hoàng cầm, hoàng bá, hoàng liên, dành dành mỗi vị 12 g, nhân sâm, thạch xương bồ, đại hoàng sống mỗi vị 8 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan do virus mạn tính: Nhân trần 20 g, kim ngân 16 g, hoàng cầm, hoạt thạch đại phúc bì, mộc thông mỗi vị 12 g, phục linh, trư linh, bạch đậu khấu mỗi vị 8 g, cam thảo 4 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan, suy gan, vàng da: Bồ bồ 10 g, nghệ, dành dành, râu ngô mỗi vị 5 g. Mỗi ngày uống một thang dưới dạng thuốc sắc, siro hoặc cốm. Hoặc: Rau má 4 g, núc nác 3 g, nhân trần 3 g, nghệ, sài hồ nam, dành dành, nhọ nồi, hậu phác nam (vối rừng) mỗi vị 2 g.
(Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 13:09:57 GMT -5
Cành giao - cây thuốc hay
Loại cây này thường được trồng cùng với cây hoa quỳnh (cây quỳnh cành giao). Cành giao (còn gọi là càng cua, xương khô, san hô xanh, thập nhị ) có thể cao đến 3 m, thân nhánh tròn, màu xanh lục, khi bẻ cành có nhiều mủ trắng chảy ra. Dân gian thường dùng nó trị đau nhức, côn trùng đốt, chấn thương...
Một số bài thuốc Nam được dùng trong dân gian:
- Chữa viêm xoang, viêm mũi dị ứng: Dùng khoảng 15 đốt cành giao, cắt nhỏ từng đoạn 5 mm, cho vào túi nylon đập nát rồi đổ nước vào, đun sôi. Dùng giấy cuộn thành ống lắp vào đầu vòi, cho vào mũi để hít hơi thuốc vào mũi, thỉnh thoảng hít cả vào miệng. Thời gian xông 10-15 phút. Xông liên tục 3-5 ngày, bệnh nặng có thể xông 7-10 ngày. Không dùng cho phụ nữ có thai.
- Chữa côn trùng, ong, rắn cắn, bò cạp đốt: Dùng cành giao giã nhỏ, đắp lên tổn thương.
- Chữa chấn thương, đau nhức: Dùng cành giao giã nhỏ, băng đắp lên tổn thương ở cơ bắp, khi khô lại dùng rượu nhạt nhỏ thêm vào bã thuốc.
- Chữa mụn cơm: Dùng nhựa cây giao đắp lên mụn cơm. Không được để nhựa mủ cây thuốc này bắn vào mắt.
BS Quách Tuấn Vinh, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:32:40 GMT -5
Dâu tây và mâm xôi tăng cường khả năng tình dụcĂn dâu tây và quả mâm xôi có thể gia tăng hưng phấn tình dục ở cả phái nam và phái nữ. Đó là do hạt của chúng có hàm lượng kẽm rất cao và đặc biệt, những hạt này luôn được tiêu thụ chứ không phải vứt đi như ở các loại quả khác. Kẽm là chất dinh dưỡng quan trọng nhất cho sex. Nó kiểm soát hàm lượng testosterone, giúp phụ nữ vào cuộc nhanh chóng và đẩy mạnh sức mạnh tinh trùng của đàn ông. Patrick Holford, tại Viện dinh dưỡng tối ưu, đã phân tích các loại quả và nhận thấy dây tây, tiếp đến là mâm xôi, chứa nhiều kẽm nhất. "Thông điệp của tôi rất đơn giản, mỗi khi bạn chuẩn bị vào cuộc hoặc đơn giản muốn sẵn sàng phục vụ bạn tình, thì nên ăn trước một vài quả dâu tây hoặc mâm xôi". "Không chỉ hàm lượng kẽm trong các loại quả này có lợi cho sức khỏe tình dục, mà chúng còn có hàm lượng chất chống oxy hóa rất cao, giúp máu lưu thông tốt tới cơ quan sinh dục. Đồng thời chúng có hàm lượng glycaemic thấp nhất trong các loại quả, giúp duy trì sức lực mà không tổn hao nhiều calo". Nguyên Minh (theo Ananova)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:37:13 GMT -5
Cây trâu cổ chữa bệnh Cây trâu cổ cũng được trồng làm hàng rào. Loại cây này còn có tên là xộp, vảy ốc, bị lệ, tên khoa học Ficus pumila L. Nó mọc hoang ở nhiều nơi và được một số gia đình trồng làm cảnh. Trâu cổ chữa được nhiều bệnh như liệt dương, đau lưng, kinh nguyệt không đều, ung nhọt... Trâu cổ là loại dây leo, mọc bò, rễ bám lên đá, bờ tường hay cây cổ thụ. Toàn thân có nhựa mủ trắng. Ở các cành có rễ bám thì lá nhỏ, không cuống, gốc lá hình tim, nhỏ như vảy ốc nên có tên là cây vảy ốc. Lá ở các cành nhánh không rễ bám, mọc tự do thì lớn hơn, có cuống dài, mặt lá ráp. Chỉ ở các cành này mới có hoa và quả. Cây trâu cổ thường được trồng cho bám lên tường hay cây to để làm cảnh và che mát. Bộ phận dùng làm thuốc là quả (gọi là bị lệ thực, lương phấn quả, vương bất lưu hành), cành mang lá, quả non phơi khô (bị lệ lạc thạch đằng). Quả vị ngọt, tính mát, có tác dụng tráng dương, cố tinh, thông sữa; dùng làm thuốc bổ chữa di tinh, liệt dương, đau lưng, lỵ lâu ngày, kinh nguyệt không đều, viêm tinh hoàn, phong thấp, ung thũng, thoát giang (lòi dom), tắc tia sữa. Thân và rễ vị hơi đắng, tính bình, có tác dụng hoạt huyết, giải độc; dùng chữa phong thấp tê mỏi, sang độc ung nhọt và kinh nguyệt không đều. Lá vị hơi chua chát, tính mát, có tác dụng tiêu thũng, giải độc. Dùng chữa viêm khớp xương, nhức mỏi chân tay, ngã, tổn thương, mụn nhọt, ngứa lở... Cách dùng: - Chữa tắc tia sữa, sưng vú, ít sữa: Quả trâu cổ 40 g, bồ công anh 15 g, lá mua 15 g sắc uống; dùng lá bồ công anh giã nhỏ, cho ít giấm, chưng nóng chườm hay đắp ngoài. - Chữa đau xương, đau mình ở người già, làm thuốc bổ, điều kinh, giúp tiêu hóa: Quả trâu cổ chín thái nhỏ, nấu với nước, lọc bỏ bã, cô thành cao. Ngày uống 5-10 g. - Chữa di tinh, liệt dương: Cành và lá, quả trâu cổ non phơi khô 100 g, đậu đen 50 g. Xay thô 2 thứ và ngâm trong 250 ml rượu trắng, ngâm 10 ngày, ngày uống 10-30 ml. TS Đức Quang, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:56:12 GMT -5
Ngọc bình phong ẩm - một loại trà dược quý Vị thuốc phòng phong. Đây là tên một bài trà thuốc cổ được ghi trong y thư nổi tiếng "Đan khê tâm pháp" của Chu Đan Khê, một danh y đời Kim (Trung Quốc). Ngọc bình phong ẩm thường được dùng chữa đổ mồ hôi do biểu hư, cảm mạo ở những người thể chất hư nhược. Công thức loại trà dược này hết sức đơn giản, chỉ gồm có 3 vị: hoàng kỳ sao 18 g, bạch truật sao 12 g và phòng phong 6 g. Các vị sấy khô, tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15-20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Trong bài, hoàng kỳ vị ngọt, tính ấm, có tác dụng dược lý rất phong phú như tăng cường công năng miễn dịch của cơ thể, cải thiện quá trình chuyển hóa tế bào, điều tiết đường huyết, cường tim, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống tạo huyết, bảo hộ tế bào gan và thận, chống lão hóa, chống mệt mỏi, chống phóng xạ, kháng khuẩn, kháng virus, chống viêm, tăng cường khả năng ghi nhớ, trấn tĩnh, giảm đau và ức chế các tế bào ung thư. Bạch truật vị đắng ngọt, tính ấm, có công dụng kiện tỳ, ích khí, lợi thủy, chống ra mồ hôi, an thai, tăng cường miễn dịch, chống lão hóa, làm giảm mỡ máu, hạ đường huyết, kháng khuẩn, lợi niệu, chống ung thư, lợi mật và bảo hộ tế bào gan. Phòng phong vị ngọt, tính hơi ấm, có công dụng trừ phong, giải cảm, giảm đau. Theo dược lý học hiện đại, phòng phong giúp giải nhiệt, kháng khuẩn, chống viêm, chống dị ứng, giảm đau, trấn tĩnh, chống co giật, kháng ung thư và nâng cao năng lực miễn dịch không đặc hiệu. Ngọc bình phong ẩm có tác dụng khá đặc biệt trên hệ thống miễn dịch của cơ thể. Nó đặc biệt tốt cho những người hay bị cảm mạo và các bệnh lý đường hô hấp. Loài trà dược này còn được gia giảm để chữa khá nhiều chứng bệnh như tự hãn (vã mồ hôi nhiều khi thức), đạo hãn (hay đổ mồ hôi trộm), ho do nhiều nguyên nhân, viêm thận, liệt mặt, sốt khi hành kinh, khí hư, bí tiểu sau khi sinh con, chứng nhiều mồ hôi ở trẻ em, viêm mũi dị ứng, mày đay, hồng ban đa hình, hen phế quản, viêm nhiễm đường hô hấp trên... Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 17:07:20 GMT -5
Cam thảo Cây cam thảo. Phụ nữ nên cẩn thận với cam thảo. Đó là lời khuyên của các nhà khoa học tại Đại học Yorkshire (Mỹ ). Nghiên cứu cho thấy, phụ nữ ăn nhiều cam thảo (khoảng 200 mg/ngày) có nguy cơ bị huyết áp cao dẫn đến đột quỵ. Ngoài ra, cam thảo chứa nhiều glycyrrhizic acid nên làm sụt giảm lượng kali, gây xương yếu dễ dẫn đến nguy cơ bị gãy xương. Trước đó, nghiên cứu cho thấy, cam thảo có tác dụng giảm táo bón, cảm lạnh, các triệu chứng dị ứng cũng như chống mệt và ung loét kinh niên. Tuy nhiên, mọi người được khuyến cáo không nên dùng quá 100g cam thảo/ngày. Châu Yên
|
|