|
Post by Robot on May 28, 2004 18:33:39 GMT -5
Trà tang thầm - ðồ uống dân gian ðộc ðáoTang thầm là tên Ðông y của quả dâu tằm chín. Nó ðýợc dùng trong nhiều loại trà dýợc nhằm chữa ðau lýng mỏi gối, mất ngủ, râu tóc bạc sớm, táo bón... Ðây cũng là loại ðồ uống bổ dýỡng, rất tốt trong mùa hè. Tang thầm vị chua ngọt, tính lạnh, có công dụng dýỡng huyết, bổ gan thận, sinh tân dịch, nhuận tràng, làm ðen râu tóc và trừ phong thấp. Nó thýờng ðýợc dùng ðể chữa các chứng bệnh do gan thận yếu gây ðầu choáng mắt hoa, lýng ðau gối mỏi, tai ù ðiếc, râu tóc bạc sớm, mất ngủ hay mê, tiêu khát (ðái ðýờng), táo bón, các khớp vận ðộng khó khãn... Sách Bản thảo kinh sõ viết: “Quả dâu chín vị giúp tinh thần trở nên thanh sáng an bình, trí tuệ minh mẫn, âm khí hồi phục, khiến râu tóc ðen lại mà trýờng thọ". Sách Bản thảo cýõng mục viết: “Quả dâu chín dùng lâu giúp an thần trấn tĩnh, làm cho con ngýời trở nên thông minh". Sách Trấn nam bản thảo cho rằng, dâu chín giúp bổ thận, làm cho tinh khí vững chắc, dùng lâu có thể ðen tóc và sáng mắt. Kết quả nghiên cứu hiện ðại cho thấy, trong quả dâu có nhiều loại ðýờng, vitamin B1, B2, A, C và nhiều nguyên tố vi lýợng cần thiết khác. Dịch chiết quả dâu có tác dụng tãng cýờng hệ miễn dịch, thúc ðẩy sự tạo máu. Ðể chế biến trà tang thầm, nên chọn những quả dâu ðã chín, lành lặn, loại bỏ các tạp chất, dùng nýớc sạch rửa thật kỹ (chú ý nhẹ tay ðể tránh dập nát), ðem phõi hoặc sấy thật khô rồi ðựng trong lọ kín (tốt nhất là lọ sành) ðể dùng dần. Mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần lấy 10-15 g hãm với nýớc sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng ðýợc, uống thay trà. Cũng có thể phối hợp tang thầm với một số vị thuốc khác ðể nâng cao và mở rộng hiệu quả phòng chống bệnh tật của trà dýợc: - Chữa dễ vã mồ hôi ban ngày (tự hãn) và ra mồ hôi trộm (ðạo hãn): Tang thầm 10 g, ngũ vị tử 10 g. - Chữa mất ngủ: Tang thầm, thục ðịa, bạch thýợc mỗi thứ 15 g; hoặc tang thầm 15 g và toan táo nhân 12 g. - Chữa cao huyết áp: Tang thầm, cát cãn mỗi thứ 15 g, hoàng cầm, cúc hoa, tiểu kế mỗi thứ 8 g. - Chữa chậm tiêu: Tang thầm 10 g, bạch truật 6 g. - Chữa ðầu choáng mắt hoa: Tang thầm, kỷ tử, ðại táo mỗi thứ 15 g. - Chữa thiếu máu: Tang thầm, long nhãn mỗi thứ 15 g; hoặc tang thầm 15 g, thỏ ty tử, nữ trinh tử, kỷ tử mỗi thứ 12 g, thục ðịa, tiên linh tỳ, phá cố chỉ mỗi thứ 8 g. - Chữa râu tóc bạc sớm: Tang thầm, hà thủ ô, nữ trinh tử mỗi thứ 15 g, cỏ nhọ nồi 10 g. - Chữa táo bón: Tang thầm, nhục dung, vừng ðen mỗi thứ 15 g, chỉ xác sao 8 g. - Chữa bế kinh: Tang thầm 15 g, hồng hoa 3 g, kê huyết ðằng 12 g. Lýu ý: - Tang thầm tính lạnh và có tác dụng nhuận tràng, không nên dùng cho những ngýời hay bị rối loạn tiêu hóa, ði lỏng do tỳ vị hý yếu, ngýời bị cảm mạo, ho nhiều do phong hàn. - Khi pha loại trà này, tuyệt ðối không dùng ấm chén bằng kim loại. ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khỏe & Ðời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jun 2, 2004 15:36:04 GMT -5
Cây lá bỏng làm thuốc Cây bỏng. Cây có tên này vì được dân gian dùng làm thuốc chữa bỏng. Nó còn được gọi là sống đời, lạc địa sinh căn, trường sinh... vì một chiếc lá rụng xuống có thể mọc thành nhiều cây mới. Theo Đông y, cây bỏng vị nhạt, hơi chua, tính mát, có tác dụng tiêu sưng, giảm đau, tẩy độc, ra da; thường được dùng chữa vết bỏng, vết thương trầy da loét thịt, viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, đi ngoài ra máu, đau mắt đỏ... Có thể dùng lá tươi giã đắp, hoặc giã vắt lấy nước bôi. Lá tươi có thể ăn sống hoặc sắc uống. Một số bài thuốc Nam thường dùng: - Chữa mụn nhọt chưa có mủ: Lá thuốc bỏng 30 g, lá táo 20 g, lá đại 15 g. Tất cả giã nhỏ, đắp chỗ đau, ngày 1-2 lần. - Chữa đi lỵ và bệnh trĩ: Lá thuốc bỏng và rau sam mỗi vị 5-6 g nhai sống hay sắc uống. Nếu lòi dom và lở hậu môn thì nấu nước bồ kết ngâm rửa và giã lá thuốc bỏng đắp ngoài. - Chữa lỵ: Lá thuốc bỏng 40 g, cỏ seo gà 20 g, lá mơ lông 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang. - Chữa đi ngoài ra máu: Lá thuốc bỏng 30 g, lá trắc bá 10 g sao cháy, cỏ nhọ nồi 10 g, ngải cứu sao cháy 10 g. Sắc uống ngày một thang. - Chữa viêm tai giữa cấp tính: Lá thuốc bỏng giã nát, vắt lấy nước nhỏ vào tai. - Chữa viêm loét dạ dày: Lá thuốc bỏng ăn sống mỗi ngày 40 g. - Chữa nôn ra máu (do bị đánh, bị thương): 7 lá thuốc bỏng giã nát, thêm rượu và đường vào uống trong ngày. BS Quách Tuấn Vinh, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 9:12:52 GMT -5
Các bài thuốc từ cỏ dùi trống Cỏ dùi trống. Cây này còn có tên là cốc tinh thảo, cỏ đuôi công. Theo Đông y, cỏ dùi trống vị cay, ngọt, tính hơi ôn, có tác dụng thanh nhiệt, làm sáng mắt; thường được dùng chữa các bệnh ho do phong nhiệt, đau mắt, đau đầu. Cỏ dùi trống là cây nhỏ sống hằng năm, mọc hoang. Bộ phận dùng làm thuốc là nụ hoa hoặc toàn cây. Sau đây là một số bài thuốc: - Đau mắt đỏ: Cỏ dùi trống 10 g, lá dâu 20 g, đậu xanh 20 g, cam thảo đất 10 g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc: Cỏ dùi trống, phòng phong lượng bằng nhau, tán nhỏ thành bột. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 1-2 g. - Nhức đầu: Cỏ dùi trống 10 g, lá dâu 20 g, hoa đại 16 g, cam thảo đất 15 g. Sắc uống ngày một thang. - Nhức đầu, nhức lông mày: Cỏ dùi trống 8 g, giun đất (địa long) 12 g, nhũ hương 4 g. Tất cả tán nhỏ, mỗi lần dùng 4 g đốt cháy, hun khói vào lỗ mũi bên đau. - Thiên đầu thống: Cỏ dùi trống tán bột, trộn với hồ, dán vào nơi đau. - Viêm họng: Cỏ dùi trống 10 g, bồ công anh 16 g, củ giẻ quạt 12 g, cam thảo đất 12 g. Sắc uống ngày một thang. - Ho do phong nhiệt: Cỏ dùi trống 10 g, lá dâu 16 g, vỏ rễ cây dâu 12 g, cam thảo đất 12 g. Sắc uống ngày một thang. - Giảm thị lực (mắt mờ ): Cỏ dùi trống 10 g, quyết minh tử (hạt muồng) sao 12 g, kỷ tử (quả cây khởi tử ) 12 g. Sắc uống ngày một thang. - Cảm cúm, cảm mạo: Cỏ dùi trống 30-50 g, sắc uống nóng, đắp chăn cho ra mồ hôi. Chỉ dùng cho người bị cảm không ra mồ hôi. BS Quách Tuấn Vinh, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jun 23, 2004 13:04:48 GMT -5
Mã thầy chữa viêm đường hô hấpMã thầy (rửa sạch, gọt vỏ, thái miếng), chanh tươi (gọt bớt vỏ xanh, bổ đôi) mỗi thứ 100 g, cho vào nồi cũng với 1 lít nước đun sôi để nguội rồi sắc uống. Thuốc có công dụng sinh tân dịch, giải khát, an thai, chữa viêm đường hô hấp trên và cao huyết áp. Mã thầy là một loại củ mọc dưới nước, to bằng củ hành, bên ngoài mang lớp vỏ màu nâu đen. Tên khoa học là Heleocharis dulcis (Burm.f.). Trong dân gian, mã thầy còn có nhiều tên gọi khác như củ năn, bột tề, thủy vu, ô vu, ô từ, hắc sơn lăng, địa lật, hồng từ cô... Củ mã thầy chứa puchiin, một chất có tính kháng khuẩn. Điều này giải thích tại sao dịch ép củ mã thầy lại có tác dụng ức chế đối với một số loại vi khuẩn như tụ cầu vàng, trực khuẩn coli... Mã thầy được nói đến rất sớm trong các y thư cổ như Biệt lục, Bản thảo cương mục, Bản thảo cầu nguyên, Bản thảo cầu chân... Mã thầy vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt, sinh tân, lương huyết giải độc, hóa đàm, tiêu tích, lợi niệu, tiêu thũng, minh mục, chỉ huyết... Nó thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao mất nước, vàng da, tiểu ra máu do huyết nhiệt, trĩ, đại tiện ra máu do trĩ hoặc lỵ, sỏi đường tiết niệu, đau mắt đỏ, viêm phế quản, viêm họng... do đàm nhiệt, mụn nhọt, viêm loét da niêm mạc, nhọt độc, mụn cóc... Chẳng hạn, nước ép mã thầy, lê, rễ lau, mạch môn và ngó sen có thể hỗ trợ trị liệu bệnh nhiễm trùng có sốt cao, khát nước nhưng không có mồ hôi. Mã thầy sắc uống thay trà giúp chữa vàng da và tiểu tiện bất lợi. Mã thầy ngâm rượu uống có thể chữa đại tiện ra máu tươi và chứng đầy bụng. Nước ép mã thầy tươi chữa viêm hầu họng; bột mã thầy sao tồn tính bôi vào nơi tổn thương giúp chữa viêm loét miệng... Một số cách dùng cụ thể: - Mã thầy 500 g, đường phèn 250 g. Mã thầy rửa sạch, bỏ vỏ ngoài, thái miếng rồi ép lấy nước (nếu có máy ép là tốt nhất), lọc qua vải sạch rồi hòa với đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt, hóa đàm, nhuận phế, dùng làm đồ uống giải khát có tính mát bổ và chữa các bệnh lý viêm nhiễm cấp tính đường hô hấp trên như viêm họng, viêm amiđan, viêm phế quản... - Mã thầy 500 g, mật ong 500 g. Mã thầy rửa sạch, nghiền nát, ép lấy nước rồi hòa mật ong để uống. Công dụng: Thanh nhiệt, trừ đàm, nhuận phế, dùng làm đồ uống bổ mát và phòng chống các bệnh lý viêm nhiễm cấp tính đường hô hấp. - Mã thầy 200 g, đường phèn 80 g, mía 350 g, cà rốt 200 g. Mã thầy rửa sạch, gọt vỏ, ngâm nước muối một lát rồi lại rửa sạch; mía róc vỏ, chặt khúc, ngâm qua nước muối; cà rốt rửa sạch thái miếng. Tất cả cho vào nồi đun trong 30 phút với lượng nước vừa đủ, để nguội, uống trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt, hóa đàm, tiêu tích hóa thực, sinh tân, chỉ khát, lợi niệu, hạ áp, dùng rất tốt cho những người bị viêm đường tiết niệu, viêm họng, tiểu tiện bất lợi, viêm thận mạn tính, cao huyết áp, say rượu... - Mã thầy 200 g, đường phèn 150 g, hoài sơn, hạt sen, khiếm thực, sa sâm, ngọc trúc, bách hợp, ý dĩ và long nhãn mỗi thứ 25 g. Tất cả đem sắc với một lượng nước vừa đủ trong 60 phút, để nguội uống trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt, sinh tân, lương huyết, giải độc, hóa đàm, tiêu tích, mát gan, sáng mắt, dùng làm đồ uống trong mùa hè rất tốt. - Mã thầy 10 củ, hải đới 25 g, râu ngô 25 g. Mã thầy gọt vỏ, rửa sạch, thái miếng, đem sắc cùng hải đới và râu ngô, uống trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt, lợi niệu, giáng áp, dùng làm đồ uống để phòng chống cao huyết áp. - Mã thầy lượng vừa đủ, dạ dày lợn 1 cái. Mã thầy gọt vỏ, rửa sạch, thái vụn; dạ dày lợn làm sạch rồi cho mã thầy vào trong, buộc kín miệng, đem hầm chín, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Kiện tỳ, tiêu tích, dùng cho người ăn kém, chậm tiêu, hay đầy chướng bụng. Vì có tính lạnh nên mã thầy không thích hợp với những người có thể chất hoặc bệnh lý thuộc thể hư hàn, biểu hiện bằng các triệu chứng: sợ lạnh, tay chân lạnh, hay đau bụng khi ăn đồ sống lạnh, đại tiện lỏng hoặc nát, dễ bị cảm lạnh, ăn kém tiêu. ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on Jun 24, 2004 13:18:24 GMT -5
Tác dụng chữa bệnh của quả vải Để chữa mụn nhọt, lấy múi vải giã nát với ô mai, tạo thành cao đắp lên mụn; hoặc lấy 5-7 múi vải giã nát với ít hồ nếp, dàn thành miếng cao, dán lên nơi mụn nhọt. Vải còn gọi là lệ chi, được trồng nhiều ở nước ta, quả vải thu hoạch vào tháng 5-6, dùng ăn tươi hay sấy khô. Hạt vải (lệ chi hạch) thái mỏng phơi hay sấy khô được dùng làm thuốc. Trong hạt vải có tanin, độ tro, chất béo. Theo Đông y, hạt vải vị ngọt chát, tính ôn, có tác dụng tán hàn, chữa tiêu chảy ở trẻ em với liều từ 4-8 g dưới dạng bột hay sắc uống. Phần áo hạt vải thường gọi là múi vải, thành phần chủ yếu là đường, ngoài ra có vitamin A, B, C. Vitamin A và vitamin B chỉ có trong múi vải tươi. Múi vải cũng là một vị thuốc trong Đông y, vị ngọt chua, tính bình, có tác dụng dưỡng huyết, làm hết phiền khát, chữa những bệnh mụn nhọt với liều 10-16 g múi khô. Ngoài ra, người ta còn dùng hoa vải, vỏ thân và rễ cây vải sắc lấy nước dùng súc miệng có thể chữa viêm miệng và đau răng. Các đơn thuốc dùng múi vải và hạt vải: - Chữa nấc: Vải cả quả đốt thành than, tán bột, hòa với nước nóng uống. - Chữa đau răng: Vải cả quả thêm ít muối, đốt thành than, nghiền nhỏ, xát vào chỗ răng đau. - Chữa tinh hoàn sưng đau: Hạt vải đốt thành than, nghiền nhỏ, hòa với rượu cho uống ngày 4-6 g. Hoặc: Hạt vải, trần bì, hồi hương 3 vị bằng nhau, tán nhỏ, ngày uống 4-6 g. Có người sau khi ăn quả vải bị nôn nao, nổi mề đay, đau bụng, nôn mửa... Các triệu chứng đó không phải do vải mà do một loại nấm sống ở những núm quả vải bị dập nát, úng thối gây ra. BS Hương Tú, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on Jun 24, 2004 13:28:36 GMT -5
Hoa mào gà đỏ chữa tiêu viêm - cầm máu Theo Đông y, mào gà đỏ vị ngọt, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, cầm máu. Người bị rong kinh có thể lấy hoa mào gà 20g, ngải cứu 20g sao cháy, sắc uống ngày một thang. Một số bài thuốc khác: - Ho ra máu: Hoa mào gà đỏ 15 g, lá huyết dụ 20 g sao cháy, lá trắc báo 20 g sao cháy, cỏ nhọ nồi 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Tiêu chảy: Hoa mào gà 10 g, vỏ dộp cây ổi 8 g, vỏ quả lựu 10 g. Sắc uống ngày một thang. - Lỵ lâu ngày: Hoa mào gà 20 g, cỏ seo gà 20 g, lá mơ lông 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Khí hư: Hoa mào gà 20 g, rễ cây bấn 20 g, bồ công anh 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Sốt xuất huyết: Hoa mào gà 20 g, lá trắc bá sao đen 20 g, hoa hòe sao đen 15 g, ké đầu ngựa 15 g, lá dâu 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Viêm đường tiết niệu (đái buốt, đái rắt): Hoa mào gà 20 g, bồ công anh 20 g, mã đề 20 g, râu ngô 15 g, rau má 20 g. Sắc uống ngày một thang. (Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Robot on Jun 29, 2004 14:09:55 GMT -5
Xương rồng giảm dư vị khó chịu do uống rượu Chất chiết xuất từ xương rồng lê gai có thể làm dịu bớt một số triệu chứng khó chịu vào buổi sáng sau một đêm uống rượu. Xương rồng lê gai mọc ở khắp các sa mạc Bắc Mỹ. Quả và phần lá xanh của nó được nấu và ăn như rau. Theo các nhà nghiên cứu Mỹ, chất chiết xuất trên giảm triệu chứng buồn nôn, chán ăn và khô miệng vốn ảnh hưởng tới các tình nguyện viên vào buổi sáng sau khi họ dành bốn giờ uống rượu mạnh ban đêm. Đánh giá tổng thể về dư vị khó chịu sau khi uống rượu, được dựa trên chín triệu chứng, cho thấy mức độ khó chịu giảm gần 1/5. Tuy nhiên, kết quả này không đáng kể về mặt thống kê. Jeff Wiese thuộc ĐH Tulane, New Orleans (Mỹ ), nhấn mạnh: ''Mối quan tâm của chúng tôi không phải là khử các triệu chứng khó chịu sau khi uống rượu cồn để mọi người có thể uống thả phanh. Phương pháp chữa trị duy nhất hiện nay đối với dư vị khó chịu là không uống rượu. Điều chúng tôi quan tâm là khám phá nguyên nhân gây khó chịu và điều tra tác hại liên quan tới hội chứng này''. Theo nhóm nghiên cứu của Wiese, dư vị khó chịu sau khi uống rượu cồn qua đêm gây ra những hậu quả lớn về sức khoẻ cũng như kinh tế. Mặc dầu vậy, giới khoa học hiểu rất ít về cơ chế của nó. Dư vị khó chịu liên quan tới sự gia tăng phản ứng viêm nhiễm của cơ thể với các tạp chất trong rượu cồn - congener và một số chất bảo quản. Trước kia, giới khoa học đã chỉ ra rằng chất chiết xuất từ da của quả xương rồng lê gai hay OFI làm giảm phản ứng viêm nhiễm. Do vậy, nhóm nghiên cứu của Wiese đã cho 55 người trưởng thành trong độ tuổi 21-35 uống OIF hoặc không gì cả năm giờ trước khi ''tiệc rượu'' bắt đầu. Tiếp đến họ sử dụng đồ ăn nhanh vào bữa tối rồi được phép chọn loại rượu từ vodka, gin hoặc rum (chứa ít tạp chất) hay uýt-ky, scotch hoặc tequila (chứa lượng tạp chất cao). Nhóm cũng tạo ra tình huống thực đối với việc uống rượu bằng cách tổ chức một bữa tiệc. Nguyên nhân là nghiên cứu trước kia cho thấy hành vi tại các bữa tiệc có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu như đau cơ, do... khiêu vũ quá mức. Sau đó, người đi dự tiệc say xỉn được đưa về nhà. Hai tuần sau đó, bữa tiệc rượu tương tự được tổ chức cho các đối tượng trên. Lần này, người đã uống OFI lần trước không uống bất kỳ loại thuốc nào trong khi người chưa uống lại được uống OFI. Buổi sáng sau các bữa tiệc, người được uống OFI có ít dư vị khó chịu hơn so với những người không uống. Đặc biệt là chất chiết xuất OFI giảm nguy cơ khó chịu nghiêm trọng 50%. Nhóm nghiên cứu cũng đo mức protein phản ứng C do gan tạo ra. Loại protein này liên quan tới tiến trình viêm nhiễm. Họ phát hiện mức protein phản ứng C càng cao, dư vị khó chịu càng tồi tệ. Theo họ, đây là nghiên cứu đầu tiên chỉ ra điều này. Mức protein phản ứng C cao hơn 40% ở những người không uống gì cả so với người uống OFI. Do vậy, các nhà nghiên cứu tin rằng OFI giảm nhẹ dư vị khó chịu bằng cách hạn chế phản ứng viêm nhiễm đối với rượu cồn. Minh Sơn (Theo NewScientist)
|
|
|
Post by Robot on Jun 29, 2004 14:12:14 GMT -5
Cỏ dại - kho thuốc bị bỏ quên Các nhà nghiên cứu đang lùng sục trong rừng nhiệt đới để tìm thảo dược lạ song lại bỏ qua những thực vật ở ngay cạnh nơi họ sống: cỏ dại. Cỏ goldrod. Các thực vật đáng thương đó luôn xuất hiện ở nơi con người ít chào đón chúng nhất. Theo John Richard Stepp thuộc ĐH Florida, cỏ dại chiếm hơn 1/3 tổng số thực vật được sử dụng trong dược phẩm. Mặc dù vậy, chỉ có chừng 3% thực vật trên thế giới được xếp là cỏ dại. Sau khi xem xét các tài liệu kỹ thuật, Stepp kết luận cỏ dại là mỏ vàng thực sự đối với các công ty dược phẩm trong quá khứ. Trong nhiều trường hợp, chúng mang lại lợi ích lớn hơn so với thực vật lạ trong rừng sâu. Stepp phát hiện cây anh túc, được sử dụng để sản xuất morphin, là loài cỏ dại nổi tiếng nhất song còn có nhiều loại khác nữa. Chất chiết xuất từ cỏ dại được sử dụng để sản xuất thuốc trị say xe scopolamin, thuốc trị ung thư vinblastin và ung thư máu ở trẻ em vincristin. Một số chuyên gia làm vườn có thể coi anh túc không phải là cỏ dại song nó phù hợp với định nghĩa cổ điển - về cơ bản, cỏ dại là thực vật linh hoạt, lớn nhanh và sinh trưởng mạnh ở những khu vực bị xáo trộn. Dù được định nghĩa như thế nào chăng nữa thì cỏ dại vẫn tồn tại quanh chúng ta và chúng xuất hiện với số lượng lớn ngay sau khi cắm rễ vào đất. Chiến dịch bảo vệ các loài cỏ dại thấp kém của Stepp bắt đầu cách đây hơn mười năm, khi ông nghiên cứu người Maya ở vùng cao nguyên bang Chiapas, Mexico. Nước tại đó nhiễm ký sinh trùng và chẳng mấy chốc Stepp bị đau dạ dày. Ông hỏi người dân địa phương về cách đối phó với vấn đề này và họ đưa cho ông một loại thực vật mà họ gọi là cây đậu chổi. Dân địa phương thường luộc đậu chổi lấy nước uống. Stepp đã thử và nó có tác dụng. Cây đậu chổi (tên khoa học là Baccharis vaccionoides) là một loài cỏ sinh trưởng trong các vùng bị xáo trộn ở bìa rừng. Stepp phát hiện ra rằng người Maya sử dụng cỏ dại để trị mọi loại bệnh, bao gồm cảm lạnh, phát ban và các dạng đau nhức thông thường. Dân tộc mà ông nghiên cứu trong hơn mười năm không có sự lựa chọn nào khác ngoại trừ tự bào chế thuốc. Họ sống trên vùng núi cao, cách xa các trung tâm y tế. Thực vật là vũ khí chính bảo vệ họ khỏi mọi loại bệnh tật. Theo Stepp, đó là nguyên nhân tại sao trẻ em ở đó có thể gọi tên ít nhất 100 loại thực vật khác nhau và biết giá trị của chúng. Người Maya cao nguyên có hơn 1.500 thảo dược. Phần lớn thảo dược mà họ sử dụng được tìm thấy ở bên ngoài các khu rừng và là cỏ dại phổ thông. Stepp nhớ rằng nhiều năm sau đó khi ông làm trợ giảng tại ĐH Georgia, ông yêu cầu sinh viên thu thập thực vật dọc đường tàu và trong một khu rừng rậm. Họ nhận dạng mọi loài thực vật và kiểm tra loài nào được người da đỏ sử dụng. Kết quả cho thấy người da đỏ sử dụng một số lượng lớn thực vật được tìm thấy dọc đường tàu. Giống như người Maya, những người da đỏ đã phát hiện cỏ dại là vũ khí hữu ích nhất điều trị các loại bệnh tật. Chẳng hạn, người Maya sử dụng bồ công anh để trị cảm lạnh trong khi người da đỏ sử dụng chúng làm trà. Cây đậu chổi. Tất cả những điều trên đều có ý nghĩa khi chúng ta xem xét số phận khốn khổ của cỏ dại. Là mồi dễ dàng cho động vật và côn trùng, cỏ dại phát triển mạnh bởi chúng có nhiều cách tự vệ như dùng hoá chất. Thường thì các hợp chất trong cỏ làm cho chúng có vị đắng hơn. Đó là một trong những cách mà người Maya cổ xưa tìm ra thực vật nào có giá trị y học. Stepp nói: ''Mùi vị thường là dấu hiệu cho thấy thực vật có thể có giá trị chữa bệnh. Có lẽ loại hợp chất quan trọng nhất được dùng làm thuốc là alkaloid và alkaloid thường có xu hương đắng hơn. Do vậy, bằng cách nếm nó, bạn có thể nhận ra loại thực vật này có alkaloid trong đó hay không''. Tất nhiên, việc nếm cỏ dại có lẽ đã gây hậu quả nghiêm trọng đối với một số người thử nghiệm ban đầu. Một số thực vật rất độc nếu con người ăn phải, như brugmansia. Nó được nghiền thành một loại bột nhão và được người Maya sử dụng để giảm sưng tấy. Nó hiệu quả nếu được đắp ở ngoài da. Stepp không khuyên mọi người ăn cỏ dại song quan điểm của ông là các nhà nghiên cứu nên quan tâm nhiều hơn tới những loài thực vật bị người làm vườn nguyền rủa và căm ghét trên khắp thế giới. Minh Sơn (Theo ABCNews)
|
|
|
Post by Robot on Jul 10, 2004 21:39:37 GMT -5
Cây đơn kim chữa viêm họngwww.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2004/07/3B9D4404/04070609.jpg[/img] Cây đơn kim. Đơn kim còn có tên là đơn buốt, cúc áo, quỷ châm thảo, thích châm thảo, tiểu quỷ châm, cương hoa thảo... Đây là cây thảo mọc hoang, có nhiều hoa nhỏ màu trắng, quả có gai nhỏ. Lá đơn kim giã nhỏ với ít muối, ngậm nuốt nước dần có thể chữa viêm họng. Theo Đông y, cây đơn kim vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khu phong, hoạt huyết, tan máu ứ; thường dùng để chữa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, viêm họng, viêm ruột thừa, viêm gan truyền nhiễm, viêm dạ dày - ruột, tiêu hóa kém, đau nhức xương khớp, sốt rét. Nó còn được dùng ngoài chữa rắn cắn, nhọt lở, chấn thương sưng đau. Liều dùng có thể đến 40-80 g. Một số bài thuốc Nam thường dùng trong dân gian: - Rắn cắn, mề đay, nổi mẩn, bị thương, lở trĩ: Dùng lá đơn kim giã nhỏ, xát hoặc đắp vào chỗ đau. - Viêm họng, viêm thanh quản: Đơn kim cả hoa và lá, kim ngân hoa, sài đất, lá húng chanh, cam thảo đất, mỗi thứ 10-15 g. Sắc uống ngày một thang. - Viêm gan virus: Đơn kim cả hoa và lá 20 g, chó đẻ răng cưa 20 g, cam thảo đất 15 g, bồ bồ 15 g, hạt dành dành 12 g. Sắc uống ngày một thang. - Chấn thương phần mềm, tụ máu đau nhức: Đơn kim cả lá và hoa, lá cây đại, các thứ lượng bằng nhau, giã nát, băng đắp vào chỗ đau, ngày 1-3 lần. - Đau răng, sâu răng: Đơn kim cả hoa và lá, cho vào ít muối, giã nhỏ đặt vào chỗ đau. - Trẻ sốt cao: Cỏ cúc áo cả hoa và lá 20 g, sài đất 20 g, giã nát vắt lấy nước cho uống, bã đắp lòng bàn chân. BS. Quách Tuấn Vinh, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jul 10, 2004 21:42:06 GMT -5
Cây thổ phục linh làm thuốc Cây thổ phục linh. Để điều trị đau thần kinh tọa, lấy thổ phục linh 30 g, dây đau xương, cỏ xước, tang ký sinh mỗi thứ 20 g, cốt toái bổ 10 g; sắc uống ngày một thang. Thổ phục linh còn có tên là cây khúc khắc, vũ dư lương, thổ tỳ giải, sơn kỳ lương, thường mọc hoang ở rừng núi. Rễ củ được thu hái làm thuốc. Theo Đông y, thổ phục linh vị ngọt, nhạt, tính bình, có tác dụng tiêu độc, trừ phong thấp, mạnh gân xương, tán uất kết, thanh nhiệt, lợi thấp... Nó thường được dùng để chữa tê thấp, đau mỏi, lở ngứa, tiêu hóa kém, viêm thận, viêm bàng quang, lở ngứa, giang mai, viêm da mủ, giải độc thủy ngân và bạc, eczema (chàm) và một số bệnh ung thư. Liều dùng 25-40 g. Một số đơn thuốc có thổ phục linh: - Phong thấp, gân xương đau nhức, tê buốt: Thổ phục linh 20 g, dây đau xương 20 g, thiên niên kiện, đương quy đều 8 g, bạch chỉ 6 g, cốt toái bổ 10 g. Sắc uống ngày một thang. - Giang mai: Thổ phục linh 10 g, hà thủ ô 16 g, vỏ núc nác 16 g, gai bồ kết đốt tồn tính 8 g, ké đầu ngựa 12 g. Sắc uống ngày một thang. - Viêm bàng quang: Thổ phục linh 30 g, mã đề 20 g, râu ngô. Sắc uống ngày một thang. - Viêm phần phụ ở phụ nữ, nổi hạch 2 bên âm hộ, nóng rét, đau nhức: Thổ phục linh, rễ quýt rừng, rễ bươm bướm mỗi vị 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Ung thư bàng quang: Thổ phục linh 30 g, trà thụ căn 20 g, tề thái 20 g. Sắc lấy nước pha với nước đường để uống. Hoặc thổ phục linh tươi 60 g, bẹ móc (tông lư ) 30 g. Sắc uống ngày một thang. - Ung thư đường tiêu hóa: Thổ phục linh 30 g, nấm hương 10 g, bạch truật 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Ung thư hạch: Thổ phục linh 100 g, tán bột mịn để sắc nước uống hoặc thêm gạo nấu cháo ăn hằng ngày. - Ngộ độc thủy ngân: Thổ phục linh 30 g, cam thảo bắc 10 g, đậu xanh (lục đậu) 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Viêm da mủ: Thổ phục linh 30 g, bồ công anh, kim ngân hoa, bèo cái mỗi thứ 20 g, cam thảo nam 10 g, vỏ núc nác 15 g. Sắc uống ngày một thang. BS. Tuấn Vinh, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jul 10, 2004 21:44:52 GMT -5
Cây chân vịt chữa được nhiều bệnh Cây chân vịt. Gần đây, nhiều người tìm cây này để chữa đau bụng kinh, huyết trắng, đau nhức xương khớp, viêm xoang... Tại nơi bán thường để sẵn một nồi nước sôi để cho chân vịt khô vào, sau 1-2 giờ nó sẽ nở to ra như cây rẽ quạt và có màu xanh tươi rất đẹp. Vì đặc điểm trên nên cây chân vịt còn được gọi là cải tử hoàn thảo, hồi sinh thảo, trường sinh thảo. Cây cũng có tên là móng lưng rồng, thạch bá chi, nhả nung ngựa, vạn niên tùng, hoàng dương thảo, linh chi thảo... Tên khoa học Selaginella Tamariscina Spring, thuộc họ quyển bá (Selaginellaceae). Đây là cây thảo sống lâu năm, cao 15-30 cm, mọc trong rừng râm mát, rễ phụ bám chắc vào các phiến đá. Thân đứng hoặc nằm, tròn, màu cánh gián, phân nhánh theo lối rẽ đôi. Rễ phụ từ gốc tỏa các nhánh đâm xuống đất. Lá nhiều, nhỏ, có lưỡi nhỏ, hình trứng, đầu nhọn, mép lá có răng cưa thưa. Đầu các cành có bông sinh bào tử, cấu tạo bởi các lá đặc biệt, gọi là lá bào tử. Cây chân vịt chỉ thấy có tại các tỉnh miền núi Tây Bắc và Việt Bắc, khi khô cuộn tròn xếp lại giống như chân vịt. Cây chịu khô hạn tốt, cho vào túi nylon giữ trong thời gian bao lâu cũng được, khi cần dùng cho vào nước đun sôi là lại nở to ra. Để làm thuốc, người ta thu hái toàn cây rồi cắt bỏ rễ, dùng khô hoặc tươi đều được. Đến nay, chưa thấy có tài liệu nghiên cứu hiện đại về loại cây này. Theo tài liệu cổ Trung Quốc, Hàn Quốc, chân vịt vị hơi đắng, không mùi, tính lạnh, không độc. Cây tươi có tác dụng tan huyết; dùng khô sao đen có tác dụng cầm máu. Do đó, nó được dùng để điều trị tiểu tiện ra máu, trĩ ngoại, đại tiện có máu tươi (Hemeroic), phụ nữ kinh nguyệt kéo dài quá lâu. Ngoài ra, chân vịt còn được dùng để chữa bỏng. Đặc biệt, chân vịt khô điều trị tốt bệnh viêm gan, vàng da, vàng mắt, tắc mật, hủy hoại tế bào gan, tiểu tiện vàng sánh hoặc bệnh Leptospira (da, mắt vàng và chảy máu). Nó cũng có tác dụng bổ máu (dùng chung với hạt sen, gà con múm đuôi tôm, củ tam thất để hầm ăn). Ngày dùng 20-30 g cả lá và rễ khô dưới dạng thuốc sắc, uống trong ngày. Dùng ngoài dưới dạng sao giòn, tán bột rắc lên vết thương. Một số đơn thuốc: - Bỏng lửa: Chân vịt sao thơm, tán bột, trộn với lòng trắng trứng gà, đắp lên nơi bỏng, sau 2-3 giờ thay một lần. - Váng đầu, hoa mắt, vàng da: Toàn cây chân vịt 30 g sắc với 400 ml nước, chia 2 lần uống trong ngày. - Đau do thoái hóa đốt sống cổ - vai, đau nhức vùng thắt lưng, thoái hóa cột sống cùng lưng, nhức mỏi toàn thân, viêm khớp xương bả vai, đau dây thần kinh tọa, viêm xoang, đau đầu, tiết dịch mũi: Dùng chân vịt khô 30 g sao thơm, hãm nước sôi uống thay trà, thời gian dùng có thể kéo dài hàng tháng. Lưu ý: Nên thận trọng khi dùng và phải căn cứ theo cơ địa của mỗi người nhằm tránh tác dụng phụ có thể xảy ra. BS. Tranh Xuân Chi, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jul 10, 2004 21:49:03 GMT -5
Cây dền gai chữa viêm da mủ Cây dền gai. Để chữa ung nhọt đã vỡ mủ, lấy lá rau dền gai giã nát hoặc nhai nát, đắp lên ung nhọt. Còn nếu bị viêm da mủ, lấy toàn cây rau dền gai rửa sạch, giã nát, đắp lên tổn thương. Cây dền gai (tên khoa học amaranthus spinosus) vị ngọt, nhạt, tính hơi lạnh, được dùng để lợi tiểu, điều kinh, chữa viêm đường hô hấp, long đờm, giảm ho, dùng ngoài chữa mụn nhọt, chốc lở. Theo sách Thảo dược Quảng Đông, cây có tác dụng chữa rắn cắn. Có thể dùng rễ, thân, lá, hạt để làm thuốc. Một số bài thuốc Nam thường dùng: - Rắn cắn: Hạt rau dền gai 5 g (1 muỗng đầy), phèn chua 0,5 g. Cả hai thứ đem giã nát, chia hai phần, một phần để uống, chiêu thuốc với rượu hoặc nước ấm (rượu dẫn thuốc nhanh hơn). Phần còn lại đem đắp lên vết cắn. Cần kết hợp với hút nọc rắn tại vết cắn. - Ung nhọt chưa vỡ mủ, đau nhức: Rễ rau dền gai giã nát, đắp lên ung nhọt, có tác dụng làm nhanh vỡ mủ. - Bỏng: Thân, lá cây rau dền gai rửa sạch, giã nát, đắp lên vết bỏng. - Ho đờm: Thân, lá cây rau dền gai 50-100 g, giã nát, vắt lấy nước uống. Hoặc dùng thân, lá cây rau dền gai 50 g, lá bồng bồng 20 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần. Hoặc dùng thân, lá cây rau dền gai 50 g, lá húng chanh 16 g, vỏ rễ dâu tằm 16 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần. - Viêm họng: Thân, lá cây rau dền gai, lượng vừa đủ, thêm một ít muối hạt, 1-3 lát gừng tươi. Tất cả nhai nát, nuốt nước dần. Ngày nhai ngậm 1-2 lần. - Chữa lỵ: Thân, lá cây rau dền gai 100 g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc dùng thân, lá cây rau dền gai 50 g, rau sam 30 g. Nấu canh ăn ngày 1-2 lần. BS Kim Ngân, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jul 10, 2004 21:50:58 GMT -5
Bạc hà chống ung thư Lá bạc hà. Một chiết xuất trong lá bạc hà có thể trị ung thư bằng cách triệt phá các mạch máu nuôi khối u. Đây sẽ thành phần chính của một loại thuốc "thông minh", có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây ảnh hưởng đến mô lành. Hiện nay, tính hiệu quả của chiết xuất lá bạc hà đã được khẳng định trên các tế bào ung thư phổi và vú của người trong phòng thí nghiệm. Chiến lược tấn công của chiết xuất này là vô hiệu hóa huyết mạch cung cấp oxy và dưỡng chất cho khối u. Kẻ bị bỏ đói sẽ không thể phát triển và dần dần bị tiêu huỷ. Theo Trưởng nhóm nghiên cứu Alan McGown, Đại học Salford (Anh), thế mạnh của chiết xuất bạc hà so với các liệu pháp truyền thống là khả năng nhận biết mục tiêu tấn công - chỉ những mạch máu nuôi tế bào ung thư mới nằm trong tầm ngắm. Các huyết mạch của mô lành gần như không bị nguy hại. "Sẽ còn nhiều việc phải làm trước khi liệu pháp thông minh này được thẩm định trên cơ thể người bệnh", McGown cho biết. Nếu thành công, đây sẽ là một giải pháp tối ưu trong điều trị các dạng ung thư ở cả người lớn và trẻ em. Mỹ Linh (theo BBC)
|
|
|
Post by Oshin on Jul 14, 2004 9:50:18 GMT -5
Tác dụng chữa bệnh của măngTheo Đông y, măng vị ngọt hơi đắng, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, trừ đàm thấp... Nhiều nghiên cứu cho thấy, măng lau có tác dụng phòng chống ung thư. Măng tây có tác dụng tăng lực và tái lập sự cân bằng trao đổi chất đã bị mất đi do chế độ ăn có quá nhiều chất béo, đường, giúp phòng các bệnh lý tim mạch, thấp khớp... Ở vùng Kampo (Nhật Bản), người ta hay chế măng thành trà chữa chứng loét phần nối dạ dày và ruột. Ở đảo Hokaido, nhiều người đã chữa lành chứng hồi lưu dạ dày thực quản bằng nước luộc măng tre (bài thuốc Takenoko Suimono). Ở Việt Nam, măng được dùng trong một số trường hợp sau: - Đi lỵ mạn tính, trĩ ngoại: Ăn món cháo măng gạo tẻ. - Bệnh tim mạch, thận, gan: Uống nước sắc măng với lá bồ công anh, vỏ bí đao. - Trẻ lên ban, mày đay, sởi, thủy đậu: Ăn canh măng nấu cá diếc để thanh nhiệt, lợi tiểu, thải độc, khỏi sốt. Lưu ý:
- Khi ăn măng, phải luộc kỹ để loại bỏ chất độc HCN trong măng.
- Người bị bướu cổ đơn thuần phải kiêng măng vì HCN ảnh hưởng xấu lên quá trình hấp thu iốt của tuyến giáp. Sức Khoẻ & Đời Sống Đề phòng ngộ độc khi ăn măng: vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2002/11/3B9C186F/
|
|
|
Post by Robot on Jul 23, 2004 1:00:13 GMT -5
Cây ngọc lan chữa bệnhNgoài tác dụng làm cảnh, cây ngọc lan còn hiệu quả trong ðiều trị các bệnh kinh nguyệt không ðều, tiểu tiện khó, bạch ðới, ðau bụng kinh... Cả thân, lá và hoa ngọc lan ðều có thể dùng làm thuốc. Sau ðây là một số ứng dụng của cây ngọc lan: - Chữa sốt, kinh nguyệt không ðều, tiểu tiện khó: Lấy vỏ thân cây ngọc lan, cạo sạch lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, phõi khô. Lấy 30 g vỏ sắc với 400 ml nýớc cho ðến khi còn 100 ml, uống 2 lần trong ngày. - Chữa sýng tấy: Lấy lá ngọc lan loại non và bánh tẻ rửa sạch, giã nát, ðắp vào chỗ sýng tấy. - Chữa viêm phế quản mạn tính ở ngýời cao tuổi: Lá ngọc lan 30 g, lá cây gừa 30 g, giun ðất ðã chế biến 5 g, thái nhỏ, phõi khô, sắc uống. - Chữa ho, ðau bụng hành kinh: Hoa ngọc lan 30 g, mật ong 40 g, cho 2 thứ vào hấp cách thủy trong 20-30 phút ðể ãn. - Chữa bạch ðới, khí hý: Hoa ngọc lan 20 g, hạt ý dĩ 30 g, ðậu ván trắng 30 g, hạt mã ðề 5 g, sắc uống trong ngày. - Chữa viêm xoang: Lấy hoa ngọc lan lúc còn xanh, sấy khô giòn, tán và rây thành bột mịn, ðựng vào lọ kín. Khi bị chảy nýớc mũi, mở lọ ngửi và hít mạnh ðể bột thuốc bay vào mũi, ngày làm 2-3 lần. Lýu ý: Trừ bài thuốc chữa viêm xoang, hoa ngọc lan dùng làm thuốc phải là loại mới chớm nở, dùng týõi hoặc sấy nhẹ cho khô. DS Hữu Bảo, KH&ÐS
|
|