|
Post by Robot on Jul 23, 2004 1:02:11 GMT -5
Hạt gấc làm thuốcÐể chữa trĩ, có thể dùng hạt gấc giã nát, thêm một ít giấm thanh, gói bằng vải, ðắp vào hậu môn ðể suốt ðêm. Mỗi ðêm ðắp thuốc một lần. Ðông y gọi hạt gấc là "mộc miết tử" (con ba ba gỗ ) vì nó dẹt, hình gần nhý tròn, vỏ cứng, mép có rãng cýa, hai mặt có những ðýờng vân lõm xuống, trông tựa nhý con ba ba nhỏ. Theo các sách cổ, nhân hạt gấc vị ðắng, hõi ngọt, tính ôn, hõi ðộc, vào 2 kinh can và ðại tràng, có tác dụng chữa mụn nhọt, tiêu thũng. Nó ðýợc dùng trong những trýờng hợp ngã, bị thýõng, sang ðộc, phụ nữ sýng vú, hậu môn sýng thũng. Hạt gấc có thể dùng uống (ngày 1 nhân nýớng chín) nhýng chủ yếu là dùng bôi ngoài, không kể liều lýợng. Trong nhân dân, nhiều gia ðình có thói quen ðể dành hạt gấc sống hoặc ðã qua ðồ xôi. Khi cần ðến thì chặt ðôi ðem mài với ít rýợu hoặc giấm thanh ðể bôi chỗ sýng tấy do mụn nhọt, sýng quai bị; bôi nhiều lần trong ngày, cứ khô lại bôi; rất mau khỏi. Có ngýời giã nhân hạt gấc với một ít rýợu, ðắp lên chỗ vú sýng, ðắp liên tục, ngày thay thuốc 1 lần, rất chóng khỏi. Một số ứng dụng khác: - Chữa chai chân (thýờng do dị vật gãm vào da, gây sừng hóa các tế bào biểu bì ở một vùng của gan bàn chân, ảnh hýởng tới việc ði lại): Lấy nhân hạt gấc, giữ cả màng hạt, giã nát, thêm một ít rýợu trắng 35-40 ðộ, bọc trong một cái túi nylon. Dán kín miệng túi, khoét một lỗ nhỏ rộng gần bằng chỗ chai chân, buộc vào nõi tổn thýõng, 2 ngày thay thuốc một lần. Bãng liên tục cho ðến khi chỗ chai chân rụng ra (khoảng 5-7 ngày sẽ có kết quả ). - Chữa sang chấn ðụng giập trong những trýờng hợp bị ngã, bị thýõng, tụ máu: Dùng hạt gấc ðốt vỏ ngoài cháy thành than (nhân bên trong chỉ vàng, chýa cháy), cho vào cối giã nhỏ, cứ khoảng 30-40 hạt thì cho 400-500 ml rýợu vào ngâm ðể dự trữ dùng dần. Dùng rýợu ngâm hạt gấc bôi vào chỗ sang chấn, có tác dụng tốt gần nhý mật gấu. BS Vũ Nguyên Khiết, Sức Khoẻ & Ðời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jul 23, 2004 1:10:34 GMT -5
Cây hýõng nhu tía chữa cảm Cây hýõng nhu tía. Ở Việt Nam có 2 loại hýõng nhu: trắng và tía. Cả 2 loại ðều có tác dụng chữa bệnh nhýng hýõng nhu tía ðýợc coi là tốt hõn. Hýõng nhu tía còn có tên gọi là é rừng hay é tía. Ðây là loại cây nhỏ, cao khoảng 1,5-2 m, thân vuông, thân và cành thýờng có màu tía, có lông quặp, lá mọc ðối có cuống dài thuôn, hình mác hay hình trứng, dài 1-5 cm, mép lá khía rãng cýa, hai mặt lá ðều có lông. Hoa màu tím mọc thành chùm, xếp từng vòng từ 6-8 chiếc thành chùm. Lá và hoa vò ra có mùi thõm ðinh hýõng. Hýõng nhu thýờng mọc hoang ở nhiều nõi trong cả nýớc, nhýng cũng ðýợc trồng làm thuốc ở quanh nhà. Ngýời ta có thể trồng hýõng nhu bằng hạt hoặc bằng gốc giống vào mùa xuân, hạt hýõng nhu dùng làm giống ðýợc thu hái ở cây có quả từ nãm thứ hai trở ði và hạt phải gieo ngay mới mọc. Cây hýõng nhu ýa ẩm, ðất mùn, ðất bùn ao và ánh nắng, rất thích hợp ở các bờ mýõng, bờ ao. Dùng hýõng nhu tía làm thuốc cần thu hái lúc cây ðang ra hoa vì lúc này có tác dụng tốt nhất. Hýõng nhu tía vị cay ấm, dùng toàn cây (trừ rễ ), có thể dùng týõi hoặc phõi khô trong râm mát. Sử dụng hýõng nhu tía ðể chữa cảm nắng, làm ra mồ hôi, ðau bụng ði ngoài, ðau ðầu, giảm sốt. Mỗi lần dùng 6-12 g, nếu nấu nýớc xông thì dùng liều gấp 3 lần. Chú ý không sắc lâu quá 15 phút, không dùng kéo dài ðối với ngýời suy nhýợc cõ thể nặng, ðã ra mồ hôi nhiều. Theo kinh nghiệm dân gian, có thể dùng hýõng nhu tía chữa hôi miệng theo cách sau: lấy 10 g hýõng nhu sắc với 200 ml nýớc, dùng ðể súc miệng và ngậm. Khi bị cảm mạo, lấy hýõng nhu tán nhỏ, mỗi lần dùng 8 g pha với nýớc sôi hay dùng rýợu hâm nóng mà chiêu thuốc, ra ðýợc mồ hôi là khỏi bệnh. BS Hạnh Liên, Sức Khỏe & Ðời Sống
|
|
|
Post by Robot on Jul 23, 2004 1:24:37 GMT -5
Cỏ seo gà chữa viêm ðýờng tiết niệu Cỏ seo gà. Những ngýời bị viêm ðýờng tiết niệu có thể lấy cỏ seo gà 30 g, lá mã ðề 20 g, rau sam 20 g, cam thảo ðất 16 g; sắc uống ngày một thang. Cỏ seo gà có nhiều tên gọi nhý phýợng vĩ thảo, hùng kê thảo, kê cýớc thảo, kim kê vĩ... Ðây là loại cây nhỏ sống nhiều nãm, lá mọc thành chùm xòe ra nhý ðuôi gà; thýờng mọc ở nõi ẩm thấp, ven khe, bãi ðất hoang; ðýợc dùng toàn cây ðể làm thuốc. Theo Ðông y, cỏ seo gà vị ðắng nhạt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải ðộc, lợi thấp, giảm ðau, mát huyết, cầm máu. Nó thýờng ðýợc dùng ðể chữa lỵ, viêm tử cung, viêm dạ dày, ruột, viêm ðýờng tiết niệu, cảm mạo, phát sốt, viêm họng, khí hý bạch ðới, bãng lậu, trúng ðộc, ung thý... Sau ðây là một số bài thuốc: - Chữa viêm họng: Cỏ seo gà 30 g, bồ công anh 20 g, cam thảo ðất 16 g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc: Cỏ seo gà 30 g, bồ công anh 20 g, lá húng chanh 12 g, lá rẻ quạt 6 g, cam thảo ðất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần. - Chữa ðái ra máu: Cỏ seo gà 30 g, lá trắc bá sao ðen 20 g, hoa hòe sao ðen 16 g. Sắc uống ngày một thang. - Chữa lỵ: Cỏ seo gà 30 g, lá mõ lông 20 g, cam thảo ðất 16 g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc: Cỏ seo gà 30 g, rau sam 30 g. Sắc uống ngày một thang. - Chữa viêm tử cung: Cỏ seo gà 30 g, rễ củ gai 20 g, cỏ xýớc 20 g, bồ công anh 20 g. Sắc uống ngày một thang. - Chữa ung thý ruột, ung thý tử cung: Cỏ seo gà 60 g týõi hoặc 30 g khô. Sắc uống ngày một thang. BS Tiến Quang, Sức Khoẻ & Ðời Sống
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 11:23:52 GMT -5
Thuốc từ quả quýtVỏ quả quýt phơi khô được dùng nhiều trong các bài thuốc y học cổ truyền, gọi là trần bì. Vị thuốc này được dùng chữa kém ăn, không tiêu, nôn mửa, sốt rét và ho có đờm. Liều dùng 4-12 g/ngày dưới dạng thuốc sắc. Theo tài liệu cổ, trần bì vị cay đắng, tính ôn, có tác dụng kiện tỳ, lý khí, táo thấp, hóa đờm. Hạt quýt vị đắng, tính bình, thường được dùng chữa các bệnh như sa đì, thiện trụy (tinh hoàn nóng đau). Ngày dùng 6 đến 12 g. Nước quả quýt uống giải say rượu, giải khát, bổ sung thêm vitamin. Lá quýt hơ nóng đắp chữa đau bụng, ho, vú sưng. Ngày dùng 6 đến 12 g. Đơn thuốc có trần bì và hạt quýt: - Chống đầy hơi khó tiêu, ăn kém: Trần bì 0,5 g, hoàng bá 0,3 g, hoàng liên 0,3 g, đẳng sâm 0,3 g, cam thảo 0,3 g. Tất cả sấy khô, tán bột, trộn đều, chia 3 lần uống trong ngày. - Chữa ho mất tiếng: Trần bì 12 g sắc với 200 ml nước còn 100 ml, cho đường vừa đủ, uống dần trong ngày. BS. Ngô Trường Giang, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Oct 1, 2004 12:47:38 GMT -5
Thổ phục linh một cây thuốc quý Thổ phục linh là loại cây mọc hoang ở nhiều nước châu Á như Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Trung Quốc và Việt Nam. Cây thường mọc nơi đồi núi, những vùng rừng thưa hay thung lũng thuộc các tỉnh miền núi tây bắc nước ta, chạy dọc theo dải trường sơn xuống tận miền nam trung bộ như các tỉnh bình thuận, khánh hòa. Đặc biệt tại vùng đất đỏ cao nguyên cây phát triển rất tốt. Mô tả câyThổ phục linh thuộc họ Kim cang, có nhiều tên gọi tùy thuộc vào từng vùng hay từng dân tộc, như Khúc khắc, Kim cang; Dày chắt, Dày khum... Dân tộc Dao gọi là Mọt hoi đòi, người Tày gọi là khau dàu v.v... Đây là cây dây leo, sống nhiều năm, độ dài của cây thông thường từ 4-5m, có khi tới 10m. Cây nhiều cành, mảnh, không gai rễ và củ vặn vẹo. Lá mọc so le, hình bầu dục thuôn - đầu nhọn dài từ 5-12cm, rộng 1-5cm. Mang hai tua cuốn do lá kém biển đổi, nên thường tiêu giảm thành mũi nhọn ngắn - có khi kéo dài. Có 3 gân hình cung chạy dọc theo lá và nhiều gân phụ. Cuống lá dài 1cm, cụm hoa mọc ở nách lá. Tán đơn độc gồm 20-30 hoa nhỏ màu lục nhạt, cuống hoa dài hơn cuống tán, gồm hoa đực và cái mọc riêng rẽ. Quả mọng hình cầu gần như ba cạnh, chứa 3 hạt. Khi quả chín có màu tím đen. Mùa hoa từ tháng 5-7 và quả từ tháng 8-12. Bộ phận dùng làm thuốcBộ phận dùng làm thuốc là thân và rễ thổ phục linh. Thu hoạch thông thường vào mùa hè (tuy nhiên vẫn có thể thu hoạch quanh năm). Người ta đào lấy thân rễ tươi, rửa sạch và đem phơi khô hoặc sấy, cũng có thể ủ mềm để thái thành lát mỏng rồi mới sấy hoặc phơi khô. Phân tích thành phần hóa học ở thổ phục linh cho thấy trong lá và ngọn non chứa tới 83,3% nước, glucid 8,9%, protein 2,4%, chất xơ 2,2%, tro 1,2% và một lượng nhỏ carotene, vitamin C. Còn trong thân rễ chứa nhiều tinh bột, beta sitostérol, Stigmastérol, Smilax sapnin, Tigogenin. Đông y cho rằng thổ phục linh là vị thuốc trừ độc rất hiệu quả. Ngày nay, dù ngành tân dược đã phát triển khá mạnh nhưng thổ phục linh vẫn là vị thuốc được sử dụng rộng rãi để chữa trị nhiều bệnh như tiêu hóa không bình thường, đau bụng tiêu chảy, viêm thận, viêm bàng quang, phong thấp, viêm khớp, các chấn thương do té ngã, đòn đánh, chữa mụn nhọt độc, lở ngứa, viêm da có mủ, giang mai, tổ đỉa, vẩy nến, hạch, dị ứng, giải độc cho cơ thể, lợi tiểu, làm ra mồ hôi v.v... Đặc biệt là chữa trị giang mai, trừ thấp độc và các chứng bệnh ngoài da khó chữa. Liều dùng thông thường từ 13-30g dưới dạng thuốc sắc hay cao lỏng hoặc hoàn tán mỗi ngày. Lưu ý: Không được uống nước trà trong thời gian đang dùng thuốc có vị thổ phục linh. Một số phương thuốc chữa bệnh có vị thổ phục linh Chữa viêm da mủ Thổ phục linh 36g, kim ngân hoa 18g, cam thảo nam 15g. Tất cả cho vào sắc với 3 bát nước, lấy 1 bát, uống 1 lần trong ngày vào khoảng 9-10 giờ sáng. Chữa bệnh ngoài da do thấp nhiệt Thổ phục linh 24g, kim ngân hoa 18g, sài đất 14g, bồ công anh 12g, ké đầu ngựa 14g, hạ khô thảo 14g, cam thảo nam 12g, cúc tần 10g, rễ chanh 10g, nhân trần 18g. Đổ vào nồi 6 bát nước, đun nhỏ lửa còn lại 2 bát, chia 2 lần uống trong ngày vào trước bữa ăn. Chữa phong thấp, gân cốt tê đau Thổ phục linh 20g, hà thủ ô chế 12g, đinh lăng 15g, tang chi 13g, lá lốt 8g, cốt toái bổ 10g, bạch chỉ 6g, trần bì 6g. Cách bào chế: Hà thủ ô đã được chưng cất với đậu đen. Đinh lăng sao vàng, thổ phục linh, tang chi thái mỏng. Tất cả cho vào sắc với 750ml nước, đun nhỏ lửa, khi còn lại 250ml lấy ra, chia làm 2 lần uống trước bữa ăn chính trong ngày. Các món ăn chữa bệnh từ thổ phục linh Món ăn chữa suy tim, mất ngủ: Thổ phục linh 8g, hạt sen 50g, long nhãn nhục 12g, ngó sen 45g, tim heo (lợn) 100g. Cách chế biến và sử dụng: Hạt sen ngâm nước lạnh 30 phút. Sau đó luộc sơ qua, vớt ra để ráo nước. Tất cả các vị trên đổ vào một cái thố có nắp, đổ ngập nước trên các vị thuốc chừng 2-3cm. Đậy kín và chưng cách thủy, sau 2-3 giờ mới mở nắp, nêm ít muối ăn và chưng tiếp 10 phút nữa là được. Dùng ăn hết trong ngày. Món ăn chữa tiêu độc và bồi bổ cơ thể Thịt heo nạc (lợn) 200g, thổ phục linh 100g, sinh địa hoàng 25g. Cách chế biến và sử dụng: Chọn thịt heo toàn nạc, rửa sạch, thái lát thành từng miếng như ngón tay. Bỏ vào nồi với 750ml nước, đun sôi tất cả 3 thứ trên (thêm vào 1 vỏ quýt khô). Sau 2 giờ đun thêm muối cho vừa ăn và tiếp tục đun thêm 10 phút nữa là được. Ăn hết trong ngày. Chú ý: Món ăn này không dùng cho người tỳ, vị hư hàn và phụ nữ đang mang thai. Phương thuốc thổ phục linh dạng cao lỏng Dùng chữa các chứng phong thấp, đau nhức chân tay, đại tiện bị rối loạn do dùng nhiều thuốc bổ. Ngoài ra còn chữa trị thấp độc ngoài da, nhọt độc, ghẻ, lở, hắc lào... Phương phục linh cao Thổ phục linh 3kg, cành dâu (trang chi) 900g, mao căn (tức rễ cỏ tranh) 900g và sinh địa hoàng 300g. Cách bào chế: Tất cả 3 vị trên thái lát mỏng, riêng rễ cỏ tranh giã nát, cho hết 4 vị vào nồi to đổ gần đầy nước, nấu liên tục với lửa to từ 8-9 giờ, sau đó lấy nước, bỏ bã. Nước gạn được cho vào nồi khác, đun nhỏ lửa nhiều giờ để cô đặc thành cao lỏng là được. Liều dùng hàng ngày từ 6-8 thìa canh, chia 2 lần, uống trước bữa ăn chừng 1 giờ (khi uống có thể pha loãng cao với nước đun sôi để nguội cho dễ uống). Sức khỏe và Đời sống
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 7:29:58 GMT -5
Rau, củ khoai lang – Thức ăn và vị thuốc quý Khoai lang là một trong những cây lương thực quan trọng, được dùng làm nhiều loại thức ăn quen thuộc như bánh, cháo, chè, mứt… Lá khoai lang là loại rau dân dã vừa ngon, vừa mát và bổ. Củ và rau khoai lang là vị thuốc phòng chữa bệnh đã được dùng từ lâu trong dân gian, có nơi gọi nó là “Sâm Nam”. Khoai lang có nhiều loại 1. Loại to vỏ trắng, ruột trắng hoặc vàng sẫm, nhiều bột. 2. Khoai lang bí, củ dài vỏ đỏ, ruột vàng tươi. 3. Loại khoai lang củ dài cũng vỏ đỏ ruột vàng. 4. Loại khoai lang ngọc nữ vỏ tím, ruột tím... Ở Đà Lạt có loại khoai lang đặc sản vỏ đỏ thịt vàng, rất thơm ngon. Tác dụng của khoai lang theo đông y Theo Đông y, khoai lang có nhiều tên như: Cam thử, Phiên chử. Củ khoai lang tính bình, vị ngọt, vào hai kinh tỳ và thận. Tác dụng bồi bổ cơ thể, ích khí, cường thân, kiện vị, tiêu viêm, thanh can, lợi mật, sáng mắt; chữa vàng da, ung nhọt, viêm tuyến vú, phụ nữ kinh nguyệt không đều (dùng trước kỳ kinh), nam giới di tinh, trẻ em cam tích, lỵ. Rau lang tính bình, vị ngọt, không độc, bổ hư tổn, ích khí lực, kiện tỳ vị, tư thận âm. Chữa tỳ hư, kém ăn, thận âm bất túc. Kiêng kỵ với các trường hợp thấp trệ, tiêu chảy, viêm dạ dày đa toan, đường huyết thấp. Khoai lang vàng đỏ có tính chất bổ nhiều hơn công, còn khoai lang trắng thì công nhiều hơn bổ. Đặc điểm này phần nào đã được chứng minh qua thành phần hóa học ngày nay. Một số điểm lưu ý khi dùng khoai lang 1. Để có tác dụng bổ dưỡng, nên ăn khoai vỏ đỏ ruột vàng. Để giải cảm và chữa táo bón phải dùng khoai vỏ trắng ruột trắng. 2. Không nên dùng khoai lang (củ và rau) lúc quá đói vì khi đó đường huyết đã thấp, lại làm hạ thêm gây mệt mỏi. 3. Không ăn thường xuyên rau lang vì chứa nhiều calci có thể gây sỏi thận. 4. Nên ăn kèm đạm động vật, thực vật để cân bằng thành phần dưỡng chất. 5. Trong khoai lang có chất đường, nếu ăn nhiều, nhất là khi đói sẽ gây tăng tiết dịch vị làm nóng ruột, ợ chua, sinh hơi trướng bụng. Để tránh tình trạng này khoai phải được nấu, luộc, nướng thật chín hoặc cho thêm ít rượu vào nấu để phá hủy chất men. Nếu bị đầy bụng, có thể uống nước gừng để chữa. 6. Vỏ khoai lang chứa nhiều vitamin và khoáng chất. Do đó phải bảo vệ phần vỏ không bị sây xát, không gọt vỏ nếu không cần thiết. Vỏ còn giúp bảo vệ dưỡng chất bên trong, vì vậy khi luộc khoai nên để cả vỏ (đã rửa sạch). 7. Bảo quản khoai ở nơi sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát, không có chuột bọ và chỉ nên dùng trong một tuần. 8. Phải bỏ hết khoai hà (sùng), khoai đã có mầm và vỏ xanh chứa chất độc. 9. Khi luộc rau lang để ăn và chữa bệnh, nên lấy nước thứ hai vì nước thứ nhất thường chát và hăng. 10. Khoai lang có thể dùng làm lương khô dưới 2 dạng: Khoai lang sống thái lát cả vỏ phơi khô và khoai lang luộc cả vỏ, sau đó thái lát phơi khô (còn gọi là khoai lang gieo). Khi phơi cần phủ vải màn để tránh ruồi nhặng. Các dạng này có thể dùng sống hoặc nấu chín tùy mục đích.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 7:30:25 GMT -5
Món ăn và bài thuốc từ khoai lang
1. Chữa cảm sốt mùa hè
- Thời tiết mùa hè dễ gây sốt vì cảm thử, không ra được mồ hôi. Với người sức khỏe tốt, có thể nấu khoai lang trắng với cải bẹ xanh ăn thay cơm để giúp ra mồ hôi, hạ sốt, giải thử.
- Khoai lang trắng khô một nắm, nghệ một củ, giấm 1/2 chén con, sắc uống nóng.
- Khoai lang trắng khô 16g, gừng 16g, sắc uống hoặc nấu cháo.
- Khoai lang trắng tươi luộc chín để xông, rồi ăn khoai nóng, uống nước luộc khoai nóng cho ra mồ hôi.
- Thanh nhiệt giải độc: khoai lang 1 củ (400g), gạo 200g, đậu xanh 1/2 bát cơm, mã thầy 4 củ, củ cải 1 củ, tỏi 3 nhánh, thịt gà 150g, tôm nõn 70g, gia vị. Tất cả giã nát hoặc thái nhỏ nấu nhừ, riêng đậu xanh và mã thầy cho vào sau rồi nấu nhừ tiếp.
2. Chữa táo bón
- Ăn khoai luộc đơn thuần hoặc chấm mật, chấm vừng, ăn với cà pháo cả quả hoặc thái chỉ nghiền cùng khoai thành khối. Có thể uống nước luộc khoai (khoai phải rửa sạch).
- Nấu chè khoai tươi hoặc khô với vừng và ít hoa quế.
- Dùng nước cốt luộc khoai tươi hay khô đã giã nát, nếu bị trĩ thì uống hàng tháng nước cất này vào buổi sáng.
- Ăn bánh làm bằng khoai lang với vừng hoặc dừa. Khoai lang tươi xào dầu vừng. Canh rau lang. Rau lang luộc chấm nước mắm gừng tỏi hoặc nước sốt cà chua, chấm vừng lạc (giã nhỏ ).
- Nên làm sẵn bột khoai khô với vừng tán mịn, quấy uống mỗi sáng với nước đường.
3. Phòng chống béo phì
- Ăn khoai và rau lang luộc.
- Ăn chế độ 1/2 gạo, 1/2 khoai riêng rẽ, hoặc độn với nhau nấu cơm, cháo, bánh...
4. Trị chứng biếng ăn ở trẻ: cho ăn dặm bằng bột khoai lang vàng đỏ quấy với bột, sữa.
5. Chữa cam tích trẻ em: lá khoai lang non 100g, màng mề gà 2g. Sắc uống hoặc quấy với bột sữa.
6. Quáng gà: lá khoai lang non xào gan gà hoặc gan lợn.
7. Thiếu sữa: lá khoai lang tươi non 250g, thịt lợn 200g thái chỉ. Xào chín mềm, thêm gia vị.
8. Viêm tuyến vú: Khoai lang trắng gọt vỏ, giã nhuyễn đắp lên vú, có thể phối hợp với tỏi giã nhuyễn để đắp.
9. Thận âm hư, đau lưng mỏi gối: Lá khoai lang tươi non 30g, mai rùa 30g, sắc kỹ lấy nước uống.
10. Thận dương hư đi tiểu nhiều lần: Hầm thịt chó với khoai lang, cho thêm chút rượu và gia vị.
11. Chữa viêm dạ dày thiểu đoan: Lấy nước cốt khoai lang sắc uống ngày 3 lần. Mỗi lần một chén, uống liền 3 tuần, nghỉ 1 tuần có thể uống tiếp. 12. Chữa ngộ độc sắn: Khoai lang gọt vỏ giã nát thêm nước, vắt lấy nước cốt. Uống cách nhau 1/2 giờ.
13. Say tàu xe: Củ khoai lang tươi nhai nuốt cả nước và bã.
14. Phụ nữ băng huyết: Rau lang tươi một nắm giã nát, lấy nước cốt uống.
15. Chữa vàng da: Nấu cháo đặc bằng khoai với gạo hoặc bột ngô.
16. Chữa tiểu đường: Lá khoai lang tươi 250g, bí đao 50g. Nấu canh ăn.
17. Chữa bệnh ngoài da
a. Đắp mụt nhọt: Khoai lang củ 40g, lá bồ công anh 40g, đường hoặc mật mía giã nhuyễn bọc vào vải, đắp lên mụn nhọt.
b. Hút mủ nhọt đã vỡ: Lá khoai lang non 50g, đậu xanh 12g, thêm chút muối, giã nhuyễn bọc vào vải đắp.
c. Ngứa lở âm nang: Sắc lá rau lang với ít muối, ngâm rửa hàng ngày vào buổi tối.
d. Bỏng: Lá khoai tươi rửa sạch, giã nhuyễn đắp lên vết bỏng.
18. Chế độ ăn có khoai lang trong điều trị ung thư:
a. Ung thư kết tràng, trực tràng: Cháo khoai lang - khoai lang tươi cả vỏ nấu cháo với gạo tẻ, đường.
b. Ung thư tử cung (bạch đới nhiều): viên hẹ, bột khoai lang 150g, khoai tây 200g, hạt hẹ 3g, thịt lợn nạc 50g, ít tôm nõn, táo đỏ, gia vị tùy ý. Hai loại khoai tạo vỏ, các thứ khác tạo nhân vo viên hấp chín (hạt hẹ rang thơm tán bột).
(Theo SK&ĐS)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 8:45:31 GMT -5
Công dụng của đỗ đen
Đỗ đen hay còn gọi đậu đen là loại thực phẩm chứa nhiều protein, đường, lypid, axit amin và các vitamin B1, B2... nên có giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra, theo y học cổ truyền, đỗ đen tính lạnh, vị ngọt và không độc. Do vậy, người có tỳ vị dễ hàn, đi ngoài, tiêu hoá kém không nên dùng.
1. Thanh nhiệt giải độc:
Đỗ đen 20-40g ninh nhừ, không đường, uống nước và ăn cả bã, nên dùng luôn trong ngày sẽ giúp bạn giảm bớt nhiệt, bổ thận, đi tiểu trong.
2. Phong thấp:
Đỗ đen ủ lên mộng dài 2-3 cm, phơi khô, sao với giấm, tán nhỏ, uống mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần một thìa nhỏ trước khi ăn.
3. Chữa rong huyết:
Đỗ đen 60g, ngải cứu 20g ninh nhừ, uống trong 10 ngày, mỗi ngày 2 lần vào lúc đói.
4. Tắc kinh, kinh nguyệt thất thường
Đỗ đen 80g, ích mẫu 30g, đường vàng 10g, ninh nhừ. Dùng mỗi ngày một lần, trong 7 ngày liền vào cuối tháng kinh.
5. Đầy bụng:
Đỗ đen 0,4g, 3 lát gừng, uống nóng chữa khó tiêu, đau bụng do lạnh.
6. Mồ hôi trộm:
Đỗ đen 50g, long nhãn 10g, táo tàu 5 quả, đun kỹ, uống mỗi ngày 3-4 lần, trong 3 ngày liền.
7. Táo bón ở trẻ em:
Đỗ đen 50g, vừng đen 10g đun kỹ lấy nước uống lúc đói, ngày 2 lần.
8. Tiểu buốt, gắt ở trẻ em:
Đỗ đen 30g, mã đề 30g, gạo tẻ 50g nấu cháo ăn ngày 2 lần, trong 3 ngày.
9. Chữa các rối loạn tiền mãn kinh
Các rối loạn như chóng mặt, ù tai, mất nhủ, bốc hoả, bứt rứt, khó chịu, rối loạn kinh nguyệt. Đỗ đen 50g, củ mài 100g, mật ong 20g đun nhừ, ăn ngày một lần voà lúc đói trong 7-10 ngày.
10. Chữa bạc tóc:
Đỗ đen, vừng đen dùng với lượng bằng nhau, rang chín cùng một ít muối thành món muối vừng đỗ đen, ăn với cơm hàng ngày có tác dụng chữa bạc tóc.
(Theo T&GĐ )
|
|
|
Post by Robot on Oct 13, 2004 8:27:07 GMT -5
Lưu ý khi giải khát với nước nha đam Cây lô hội - Ảnh: K.S. TT - Đông y sĩ Dương Thành Phát đã cảnh báo về việc thời gian gần đây nhiều người - kể cả người già, trẻ con - sử dụng nước giải khát nha đam (cây nha đam còn gọi là cây lô hội) quá thoải mái. Khi sử dụng một dược phẩm tuy thuộc loại thảo dược cũng có những tác dụng phụ không nhiều thì ít vốn có của nó. Tác dụng phụ có thể người bệnh không cảm nhận ngay mà tiềm ẩn lâu dài. Ông Phát đã gặp trường hợp một bệnh nhân lớn tuổi bị cao huyết áp và xơ vữa động mạch, để nhuận trường đã uống lá nha đam khoảng một tuần nên dẫn đến rối loạn nhịp tim. Nhiều gia đình mua nước giải khát nha đam để sẵn trong tủ lạnh, trẻ con vốn thích ngọt uống thay cho nước lọc thì rất tai hại, nhất là với những trẻ bị bệnh tim bẩm sinh. Theo bài viết của DS Bùi Kim Tùng, cây lô hội còn gọi lưỡi hổ (tên khoa học là Aloe vera hay Aloe barbadensis, họ Aloaceae, trước đây thuộc họ Liliaceae). Người ta thường bóc vỏ lấy cùi lá. Nước ép từ nhu mô lá lô hội được xử lý và ổn định bằng một phương pháp riêng. Nước ép này có tính mát và nhuận trường nhẹ nhưng không ngọt và cũng không an toàn bằng sương sâm, thạch... Aloe vera gel bán tràn lan ở các siêu thị và được quảng cáo là thần dược. Cùi lá ép nước được bôi ngoài da với tính cách làm mềm da, chống viêm và kháng khuẩn. Đã có một số mỹ phẩm dùng nước ép lá lô hội. Có người thấy vậy bèn cắt lá lô hội (không bóc vỏ ) để tự làm mỹ phẩm nên da bị phồng đỏ, vì nước ép từ cùi lá có thành phần khác với nước ép toàn lá (có thêm nhựa). Lô hội có thành phần khác nhau tùy theo loài cây, nơi trồng và cách làm. Nhờ các phương pháp phân tích hiện đại mà người ta phân biệt được nhựa cây Aloe vera với Aloe capensis cũng như những cây Aloe. Một vài chất trong lô hội bị nghi ngờ là tác nhân gây ung thư đại tràng. Ngoài ra nó còn có phản ứng tương tác với một số chất khác. Người bệnh tim tránh dùng vì có nguy cơ gây loạn nhịp tim. Đông y xếp lô hội vào loại thuốc tả hạ, để tẩy xổ và trục thủy, dùng nhiều làm tổn thương tân dịch và chính khí. Về tác dụng và dược lý, theo quyển Những cây thuốc và vị thuốc VN của GS Đỗ Tất Lợi, lô hội là một vị thuốc bổ (liều nhỏ 0,05-0,10g), giúp sự tiêu hóa vì nó kích thích nhẹ niêm mạc ruột và không cho cặn bã ở lâu trong ruột. Với liều cao, nó là một vị thuốc tẩy mạnh nhưng tác dụng chậm, gây xung huyết ở các cơ quan bụng, nhất là ở ruột già. Đối với đơn thuốc có lô hội, viên nhuận trường chứa 0,08g bột lô hội và một số chất khác dùng chữa táo bón, khó tiêu vì thiếu nước mật, vàng da, yếu gan, yếu ruột - tài liệu cũng cho biết trẻ em dưới 15 tuổi không dùng được. Theo Từ điển Bách khoa dược học, liều dùng cho người lớn: uống 20-50mg bột nhựa khô (tương đương 1-2 lá tươi) để giúp ăn ngon, kiện tì vị, nhuận gan, lợi mật; 50-100mg bột nhựa khô (tương đương 2-5 lá tươi) để nhuận trường, tẩy nhẹ; 300- 500mg nhựa khô (tương đương 10-20 lá tươi) để tẩy mạnh. Nhựa khô lô hội dùng liều cao có thể gây ngộ độc. Và cũng lưu ý là không dùng cho trẻ em. KIM SƠN tổng hợp
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 10:25:40 GMT -5
Quả bưởi - Vị thuốc từ vỏ đến hạt Nước ta có nhiều loại bưởi ngon nổi tiếng (bưởi Hương Sơn, bưởi Phúc Trạch, bưởi Đoan Hùng, bưởi Biên Hoà, bưởi Năm Roi...), và được dùng khá phổ biến. Nhưng ít ai lại nghĩ rằng từ vỏ tới hạt của nó đều và những vị thuốc rất quý giá. Theo y học cổ truyền, dịch quả bưởi có vị chua ngọt, tính mát, khí hàn nhưng không độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, sinh tân dịch. Dịch quả bưởi chứa glucid, acid cittric, vitamin C, vitamin P, đặc biệt có pectin esteraz và peroxydaz. Ăn bưởi sẽ kích thích tiêu hoá, chữa được bệnh ăn kém tiêu (vì sẽ làm tăng cường tiết mật và dịch vị). Dùng vào buổi sáng, lúc bụng đói, bưởi có tác dụng lợi tiểu và giúp lọc máu, thải những chất bẩn, độc ở thận và gan. Người béo phì, tiểu đường, cao huyết áp nên ăn bưởi vì bưởi là loại thức ăn sinh nhiệt thấp. Lâu nay, cùi trắng của bưởi người ta thường vứt đi rất uổng phí. Đông y dùng cùi bưởi để làm thông kinh thoát lạc, trị nhức mỏi. Phân tích thành phần hoá học, cùi bưởi có chứa pectin, tinh dầu và 2 flavonoid chính là hesperidin và narigin. Pectin là chất sợi hoà tan, nó ngoại hấp cholesterol trong thức ăn và muối mật nên góp phần làm giảm chất cholesterol trong máu, gián tiếp ngăn ngừa béo phì và xơ cứng mạch máu. Hesperidin và narigin giúp bảo vệ tính đàn hồi của mạch máu, ngừa xơ cứng động mạch, gián tiếp chống cao huyết áp và tai biến mạch máu não. Hạt bưởi đốt cháy thành than rồi nghiền thành bột bôi lên chỗ bị chốc lở ngày 2 lần, có thể lành trong vòng 3-6 ngày. Hoa bưởi có mùi thơm dễ chịu, được dùng làm hương liệu pha vào bánh mứt hoặc nấu chè ăn. Cả lá, hoa, vỏ quả bưởi đều chứa tinh dầu dùng để xông hơi giải cảm tốt. Anh Xuân, Thanh niên, 14/12
|
|
|
Post by Robot on Oct 16, 2004 7:28:12 GMT -5
Những loại rau quả có ích trong mùa thu
TTO - Người Trung Hoa theo truyền thống thường có xu hướng thích ăn các loại thịt như thịt cừu, thịt bò, và thịt chó (thịt cầy) vào mùa mùa thu khi mà thời tiết trở nên bắt đầu lạnh lên, vì trong thịt có một hàm lượng calorific rất cao.
Tuy nhiên, rất nhiều rau quả cũng chứa giá trị dinh dưỡng và hàm lượng calorie cao, ngoài ra còn có thêm một số chất dinh dưỡng đặc biệt mà trong thịt không thể tìm thấy được.
Khoai sọ rất mềm và dễ tiêu hóa. Đây là loại củ rất tốt cho những ai yếu tì, dạ dày. Nó cũng rất hữu dụng cho những người có bệnh liên quan đến đường ruột và đang phục hồi vì bệnh lao phổi.
Cải bắp chứa gấp ba lần hàm lượng vitamin C so với cà chua. Vitamin C có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư rất cao. Trong cải bắp còn chứa gấp hai lần lượng canxi so với dưa chuột. Nó cũng rất giàu chất molyđen và chất mangan, là những thành phần rất quan trọng để sản xuất các hoạt chất như enzymes và các loại hormones. Bắp cải còn có lợi cho quá trình phát triển của trẻ em.
Khoai lang cung cấp khá nhiều protein, đường, vitamin A và C. Nó giúp phục hồi lại cơ bắp, và kích thích việc ăn ngon miệng. Khoai lang con tốt cho thận, dạ dày và phổi. Các chất chứa trong đó có thể ngăn ngừa sự liên kết của các tế bào trong cật, gan khỏi bị co lại.
Củ sen chứa rất nhiều chất dinh dưỡng như protein và vitamin C. Củ sen sống có thể làm dịu sức nóng của các mạch máu và xóa bỏ các vết thêm. Củ sen nấu chín rất cho tim và giúp các chức năng của dạ dày hoạt động tốt hơn. Nó cũng làm giàu lượng máu khi ăn kết hợp táo ta, đó cũng là phương pháp trị bệnh loét dạ dày nhẹ.
NHƯ BÌNH (Theo Shenzhen Daily)
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 10:40:46 GMT -5
Những phát hiện mới về nghệ
Một nghiên cứu của Viện Đại học California (Mỹ ) đã chứng minh, chất curcumin trong nghệ giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh sa sút tâm thần. Ở chuột thí nghiệm, chất này làm giảm các triệu chứng Alzheimer mà không gây tác dụng phụ nào.
Nghệ là cây thảo mộc sống lâu năm, thuộc họ gừng (Zingiberaceae), thân rễ có củ nằm dưới đất, được dùng từ lâu đời làm gia vị, thuốc nhuộm vải và thuốc kích thích ăn uống trong y học. Nghệ còn được dùng như một loại mỹ phẩm giúp da hồng hào tự nhiên. Ở vùng Nam Ấn Độ và Indonesia, nó được trồng ở vùng đồng bằng và trên các đảo.
Nghệ được dùng từ lâu để chữa viêm loét dạ dày-tá tràng, viêm gan, vàng da, kinh nguyệt không đều, bế kinh, tổn thương tụ máu do té ngã, thấp khớp, mụn nhọt, ghẻ lở. Liều dùng ngày 3-12 g dưới dạng bột, sắc. Nó cũng được dùng ngoài bôi vết thương mới lành để chống sẹo.
Nghệ có tác dụng chống ung thư
Tỷ lệ ung thư đại tràng, tiền liệt tuyến và phổi ở Ấn Độ thuộc loại thấp nhất thế giới. Còn ở di dân Ấn Độ sinh sống tại các nước Phương Tây, tỷ lệ ung thư và bệnh tim mạch, tiểu đường lại tăng cao một cách đáng sợ. Việc thay đổi cách ăn uống cổ truyền là yếu tố chính làm thay đổi tần suất của bệnh. Chính nghệ, một thành phần không thể thiếu trong món ca-ri, đã đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống ung thư.
Gần đây, các nghiên cứu đã chứng minh tác dụng phòng chống ung thư của nghệ, cafein, epigallocatechin gallate (EGCG) và trà trên những con vật thí nghiệm. Kết quả thực nghiệm lâm sàng đã cho thấy chúng có hiệu quả ngăn ngừa rất mạnh đối với các loại ung thư da, miệng, thực quản, dạ dày và đại tràng ở những đối tượng có nguy cơ cao.
Nghệ chống viêm
Nghệ có khả năng ức chế COX-2, một loại men đóng vai trò chủ yếu trong quá trình phát triển của một số bệnh ung thư và viêm mạn tính.
Nghệ cũng có tác dụng với các chứng viêm ruột bao gồm viêm đại tràng mạn tính và bệnh Crohn.
Nghệ chống kết tụ tiểu cầu
Nghệ đã được chứng minh có khả năng ức chế sự kết tụ tiểu cầu bất thường - yếu tố dẫn đến nhồi máu cơ tim. Tuy nhiên, để phát huy tác dụng này, nó phải được kết hợp với piperine (một thành phần có trong hạt tiêu).
Nghệ chống oxy hóa
Một nghiên cứu tại Đức cho biết chế phẩm chiết xuất từ các thành phần của nghệ đều có tác dụng chống oxy hóa rất mạnh. Nó có hiệu quả hơn hẳn tỏi, cây vuốt quỉ và dầu cá hồi. Gần đây, người ta còn phát hiện nghệ có thể phòng ngừa được chứng đục thủy tinh thể ở chuột thử nghiệm.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 9:12:24 GMT -5
Lợi ích từ yến mạch
Báo Daily Mail của Anh ra ngày 9/11 tổng hợp kết quả các cuộc nghiên cứu khoa học trước đây cho thấy yến mạch không chỉ cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể mà còn đem lại nhiều lợi ích khác.
Để cải thiện làn da bị vảy nến hay chàm eczema có thể ngâm mình trong yến mạch pha với nước trong 20 phút vì yến mạch có khả năng chống viêm và làm lành các vết thương trên da. Thêm yến mạch vào khẩu phần ăn hằng ngày có thể giảm nguy cơ bị bệnh tim, tiểu đường, giảm lượng cholesterol trong máu và phòng tránh bệnh loãng xương, ung thư, béo phì... Yến mạch cũng giúp tăng cường khả năng tập trung, tránh suy nhược thần kinh, cũng cố hệ miễn dịch của cơ thể và là thức ăn cho "tình yêu" vì có khả năng tăng cường kích thích tố sinh dục. Ngoài ra, cháo yến mạch cũng có thể là giải pháp cho những lúc quá chén hay bị táo bón. (DM)
Uyên Phi
|
|
|
Post by Robot on Nov 17, 2004 11:49:53 GMT -5
Sen - vị thuốc chữa được nhiều bệnhNói đến sen nhiều người chỉ cho rằng đó là một loại hoa dân dã đẹp. Song trên thực tế sen có tác dụng trị được nhiều bệnh. Người ta có thể dùng mọi bộ phận của sen để chữa bệnh, từ ngó sen, lá sen, gương sen, hạt sen, tâm sen... - Liên ngẫu: (Ngó sen) người ta thường dùng để làm thức ăn, thuốc cầm máu, dùng trong những trường hợp đi ngoài ra máu, tiểu tiện ra máu, nôn ra máu, máu cam, tử cung xuất huyết. Ngày dùng từ 6-12g dưới dạng thuốc sắc. - Thạch liên tử: người ta vẫn gọi nhầm hạt sen chính là quả sen; có vỏ nếu bóc lấy hạt ta sẽ được liên nhục hay liên tử. Trong liên nhục người ta đã phân tích thấy có nhiều tinh bột, đường, protit, chất béo, cacbon hydrat, canxi, photpho, sắt. Thạch liên tử thường dùng để chữa lỵ cấm khẩu với liều từ 6-12g dưới dạng thuốc sắc. Liên nhục dùng làm thuốc bổ, cố tinh, chữa di tinh, mất ngủ, thần kinh suy nhược. Ngày uống từ 10-30g dưới dạng sắc hay thuốc bột. Theo tài liệu cổ, liên tử có vị ngọt, tính bình. Có tác dụng bổ tỳ, dưỡng tâm, sáp trường, cố tinh. Dùng chữa tỳ hư sinh tiết tả (đi ngoài), di mộng tinh, băng lậu, đới hạ. - Liên phòng: là gương sen già sau khi đã lấy hết quả rồi phơi khô. Trong liên phòng có protit 4,9%, chất béo 0,6%, cacbon hydrat 9%, carrrotin 0,00002%, nuclein 0,00009%, vitamin C 0,017%. Công dụng và liều dùng: Làm thuốc cầm máu: dùng chữa bệnh đi đại tiện ra máu, bệnh băng đới. Ngày dùng 15-30g dưới dạng thuốc sắc. Theo tài liệu cổ, liên phòng có vị đắng, chát, tính ôn, vào 2 kinh can và tâm bào. Có tác dụng tiêu ứ, cầm máu. Dùng chữa ứ huyết bụng đau, đẻ xong nhau chưa ra, băng huyết, tiểu tiện ra máu, tiểu tiện khó khăn. - Lá sen: Trong lá sen có chừng 0,20%-0,30% tanin, một lượng nhỏ ancaloit. - Liên tu: tức là tua nhị đực của hoa sen bỏ hạt gạo đi, rồi phơi khô. Có tác dụng chữa băng huyết, thổ huyết, di mộng tinh. Ngày uống 5-10g dưới dạng thuốc sắc. Một số bài thuốc được dùng trong dân gian - Đơn thuốc chữa băng huyết sau khi đẻ: Gương sen 5 cái, hương phụ 80g. Đốt cháy, tán nhỏ. Ngày uống 8-24g, chia 2-3 lần uống. Người ta thường cho lá sen vào cùng một công dụng với gương sen. Nhưng khi bệnh cấp thì dùng lá sen. Liều dùng 15-20g: dưới dạng thuốc sắc. Theo tài liệu cổ lá sen có vị đắng, tính bình, vào 3 kinh can, tỳ và vị. Có tác dụng thăng thanh tán ứ, thanh thử hành thủy. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thủy chí phù thũng, lôi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. - Chữa chứng đái buốt và nóng: Lấy củ sen tươi, củ sinh địa tươi, hai thứ giã vắt lấy một bát nước gạn trong, cho vào một chút muối và vắt vào nửa quả chanh cho uống lúc khát. - Chữa cảm sốt khát nước: Trong lúc cảm cúm miệng khát như cào, lấy một chén nước ngó sen hòa vào thìa mật ong hoặc mật mía hay nước mía tươi cho uống dần dần từng ngụm nhỏ. - Chữa ứ máu, nhổ ra máu: Lấy ngó sen phơi khô 500g, tán nhỏ ngâm với một lít rượu. Mỗi lần uống 1 thìa. Ngày uống 2 lần. Có thể lấy núm cuống lá sen thay thế cho ngó sen cũng được. - Chữa chứng nôn ra máu: Bỗng nhiên bị nôn ra máu. Lấy ngó sen và núm lá sen giã lấy một bát nước cho uống dần dần từng thìa nhỏ. Có thể pha lẫn vào một thìa mật ong càng tốt (có thể lấy lá, núm cuống lá sen để thay). - Chữa chứng khát nước sau khi bị đi ngoài: Sau khi đi ngoài đã khỏi nhưng còn bực bội khát nước háo ruột. Lấy lá sen non còn cuộn và cuống lá sen non thái làm rau ăn ghém như cách ăn rau sống thường ngày. - Chữa chứng di tinh đái đục: Lấy hạt sen bóc vỏ, bỏ lõi, rang vàng, tán nhỏ, uống thường xuyên với nước lọc. Uống càng lâu càng tốt. Nếu có thể tìm mua thêm được vị bạch linh cho vào cùng tán nhỏ mịn thì càng có tác dụng nhanh chóng. - Chữa chứng đi tiểu buốt ra máu: Lấy bầu gương sen rang gần cháy (tồn tính) tán nhỏ cho uống mỗi lần hai thìa nhỏ với nước cháo nếu không tìm được bầu gương sen thì có thể lấy lá để thay thế cũng được. - Chữa mụn nhọt sưng: Lấy núm cuống lá sen nấu nước đặc để ngâm rửa. Sau lại lấy độ vài cái lá sen giã với cơm nếp để đắp lên nhọt. - Chữa viêm mũi, ngạt mũi kinh niên: Lấy cánh hoa sen thái nhỏ phơi khô 100g và mua 100g bạch chỉ (ở cửa hàng dược) tán nhỏ trộn vào với nhau, rồi lấy giấy quấn thuốc lá quấn lại thành từng điếu. Người ta thường cho lá sen vào cùng một công dụng với gương sen. Nhưng khi bệnh cấp thì dùng lá sen. Liều dùng 15-20g: dưới dạng thuốc sắc. - Chữa kiết lỵ ra máu: Lấy núm cuống lá sen giã vắt lấy nước, đun sôi, để gần nguội cho uống. Theo Tư vấn tiêu dùng
|
|
|
Post by Robot on Nov 23, 2004 14:22:50 GMT -5
Khoai mài - vị thuốc bổ quý Cây khoai mài. Đông y gọi vị thuốc này là hoài sơn, có tác dụng bổ tỳ rất tốt. Hoài sơn được sử dụng trong các bài thuốc chữa chán ăn, rối loạn tiêu hóa, đi tiêu lỏng do tỳ yếu. Khoai mài là loại cây leo, thân rễ phình thành củ dài 0,5-1 m, đường kính 2-10 cm, có nhiều rễ con. Lá đơn mọc đối hoặc có khi mọc so le, đầu lá nhọn, phía cuống hình tim, kẽ lá có những củ con. Phiến lá dài 8-10 cm, rộng 6-8 cm. Hoa đực, hoa cái khác gốc. Quả khô có ba cạnh và có rìa. Cây mọc hoang khắp miền rừng núi, hiện được trồng ở nhiều nơi. Từ rất xa xưa, các nhà y học cổ đã quy chức năng tiêu hóa của cơ thể cho một cơ quan gọi là tạng Tỳ. Tài liệu xưa nhất về lâm sàng là 2 cuốn Thương hàn và Kim quỹ (khoảng thế kỷ 2-3) xác định bệnh của tạng Tỳ chủ yếu là đi tiêu lỏng, sợ lạnh... Cách chữa là dùng các vị thuốc nóng nhất như can khương (gừng khô), nhục quế (quế loại tốt), phụ tử... Dần dần qua thực tế, thầy thuốc đời sau ghi nhận các mức độ bệnh khác nhau của Tỳ, đưa ra nhiều bài thuốc có các vị thuốc bổ dưỡng hoặc kích thích tiêu hóa như đảng sâm, bạch truật, trần bì, sa nhân. Từ thực tế Tỳ bị bệnh sẽ sinh ra các triệu chứng như đi tiêu lỏng, sợ lạnh, để chữa bệnh phải dùng các vị thuốc nóng, hầu tiếp thêm “lửa” cho Tỳ; một quan niệm đã hình thành: Tỳ là dương và thuốc vào Tỳ cần phải ấm nóng. Lối phân tích trên phù hợp với đa số bệnh Tỳ. Nhưng còn một số trường hợp có các triệu chứng trái ngược, điều trị bằng các bài thuốc cũ tỏ ra không hiệu quả. Đó là các trường hợp Tỳ có bệnh, cũng chán ăn chậm tiêu, nhưng trong người không thấy lạnh, trái lại còn thấy nóng, khát nước; phân chỉ hơi lỏng, thậm chí có khi còn táo bón. Điều đó chứng tỏ Tỳ có cả âm và dương. Khi Tỳ âm bị suy tổn sẽ sinh ra khô khát, nóng trong, đại tiện bí, nặng hơn có thể thổ huyết, gây chán ăn, chậm tiêu, gầy mòn... Để chữa bệnh, ngoài các vị thuốc bổ Tỳ, cần dùng thêm các vị thuốc mát nhằm đồng thời nâng đỡ âm và dương. Có một vị thuốc độc đáo đảm nhiệm được cả hai nhiệm vụ nêu trên: đó là Hoài sơn. Trong dân gian, nhiều người vẫn cho Hoài sơn là vị thuốc vô thưởng vô phạt, ăn cả một gánh cũng không chết. Các thầy thuốc thì chỉ khoe giỏi dùng phụ tử, thục địa, chứ không ai dám thú nhận vẫn dùng Hoài sơn hằng ngày. Thế nhưng ai cũng phải công nhận Hoài sơn là một trong những vị thuốc cổ nhất, được ghi trong sách từ cách đây 2.000 năm, và ngày nay vẫn được dùng phổ biến. Đông y cho rằng Hoài sơn vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ Tỳ bổ âm, trị tiêu khát, cầm tiêu chảy, mạnh Tỳ, Phế, Thận. Hoài sơn bổ Tỳ mà không làm khô ráo, bổ âm mà không làm đầy trệ. Người xưa dùng Hoài sơn trong bài Lục vị để bổ âm, trị chứng nóng trong, người gầy, đổ mồ hôi trộm: Thục địa 32 g, phục linh 12 g, sơn thù 16 g, trạch tả 12 g, hoài sơn 16 g, đan bì 12 g. Hoài sơn cũng được dùng trong bài Sâm linh bạch truật tán để bổ Tỳ, trị chứng tiêu chảy kéo dài, cơ bắp teo nhão, chán ăn, mệt mỏi không có sức: Đảng sâm, hoài sơn, bạch truật, bạch linh, cam thảo mỗi thứ 80 g; biển đậu, hạt sen, ý dĩ, cát cánh, sa nhân mỗi thứ 40 g; trần bì 30 g, tán bột, ngày uống 12 g. Ngày nay, Hoài sơn được dùng để trị các chứng suy dinh dưỡng trẻ em, tiểu đường, ho đàm nhiều do viêm phế quản mãn, tiêu chảy kéo dài, suy nhược cơ thể ở phụ nữ có thai, người mới ốm dậy... Có thể dùng phối hợp trong bài thuốc hoặc dùng đơn độc. Một số đơn thuốc đơn giản: - Trị suy dinh dưỡng trẻ em: Hoài sơn 15 g, ý dĩ 10 g tán bột; gan gà 1 cái thái nhỏ. Hấp chín, ngày ăn 2 lần. - Trị tiểu đương type 2 thể nhẹ và trung bình: Hoài sơn 20 g, hoàng kỳ 16 g, sinh địa 16 g, mạch môn đông 12 g, thiên hoa phấn 12 g, sắc uống ngày một thang. Có thể chỉ dùng 100 g hoài sơn, nấu thành cháo, ăn hàng ngày để trị viêm phế quản mãn, tiểu đường, suy nhược. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|