|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:37:25 GMT -5
Xin giới thiệu với các bạn những tài liệu giá trị của tác giả Nguyễn Vãn Tuấn về chất ðộc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam.
Dioxin trong chiến tranh Việt Nam
Chất màu da cam (thýờng ðýợc ðề cập ðến là Agent Orange, hay AO) [1] là một loại thuốc diệt cỏ, gồm có hai thành phần chính: 2-4-dichlorophenoxyacetic và 2,3,7,8-Tetrachlorodibenzo-p-dioxin (tức dioxin). Trong thập niên 1940, chất màu da cam ðýợc phát triển ðể diệt cỏ dại. Tuy nhiên, hóa chất này còn tỏ ra rất hữu hiệu trong việc tiêu diệt các loại cây có lá rộng và vụ mùa. Khả nãng diệt cỏ và cây xanh của AO ðã thu hút sự chú ý của giới quân sự Mỹ, và họ ðã thử nghiệm thành công ở Fort Detrick (bang Maryland), Cãn cứu Không quân Eglin (bang Florida), và Camp Drum (bang New York), trýớc khi ðem sang dùng ở Thái Lan vào ðầu thập niên 1960's.
Tuy nhiên, AO chỉ ðýợc dùng một cách qui mô trong thời chiến tranh Việt Nam, với mục ðích chính là khai hoang ðồng cỏ, làm cho ðối phýõng (quân ðội cộng sản) không có chỗ lẫn tránh. Ngày 20 tháng 11 nãm 1961, Tổng thống Kennedy phê chuẩn cho quân ðội Mỹ tiến hàng chiến dịch Operation Ranch Hand ðể khai hoang ðồng cỏ Việt Nam [2]. Quyết ðịnh này ðýợc Tổng thống Ngô Ðình Diệm ủng hộ một cách nồng nhiệt [3], vì ông ta cho rằng ông "biết cộng sản ðang ở ðâu." Tuy nhiên, trong nội bộ Mỹ, có sự phản ðối từ các nhân vật cao cấp từ Bộ Ngoại giao nhý Roger Hilsman và W. Averell Harriman, vì họ cho rằng không có cách gì ðể biết ðýợc là ðồng lúa của ðối phýõng sẽ bị tiêu hủy hay không. Nhýng chiến dịch vẫn ðýợc thi hành.
Kể từ nãm 1962, Lực lýợng Không quân Mỹ ðã bắt ðầu dùng chất ðộc màu da cam ở các vùng ðất thuộc miền Nam và Trung Việt Nam. Nãm 1969, trong một báo cáo khoa học cho Viện Y học (Mỹ ), dựa vào các thí nghiệm trên chuột, một số nhà khoa học Mỹ ðã kết luận rằng chất màu da cam có thể gây ra dị thai (birth defect). Nãm 1970, chính phủ Mỹ ra lệnh ngýng dùng chất màu da cam trong chiến tranh, nhýng trên thực tế, các thuốc khai hoang khác vẫn ðýợc tiếp tục xịt cho ðến nãm 1971 mới chấm dứt. Trong thời gian mýời nãm (tính từ 1962 ðến 1971), trong Chiến dịch Ranch Hand, quân ðội Mỹ ðã rải xuống Việt Nam khoảng 19 triệu gallons (tức khoảng 71.9 triệu lít) thuốc khai hoang, trong ðó có 11 triệu gallons (hay 41.6 triệu lít) AO [4]. Với 11 triệu gallons AO, ngýời ta ðoán rằng có chứa khoảng 368 pounds (tức 167 kg) dioxin [5]. Phần lớn (90%) AO ðýợc rải xuống Việt Nam bằng máy bay loại C-123, và phần còn lại (10%) bằng trực thãng, xe vận tải, và ði bộ. Tổng diện tích mà quân ðội Mỹ ðã rải là 1.5 triệu hectares, tức gần 10% diện tích của miền nam Việt Nam, trong ðó có nhiều vùng bị rải hõn 4 lần. Theo báo cáo chính thức của Chiến dịch Ranch Hand, kết quả là quân ðội Mỹ ðã phá hủy khoảng 14% diện tích rừng nam Việt Nam, kể cả 50% các výờn xoài [6].
còn tiếp
|
|
|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:40:38 GMT -5
Dioxin và cựu chiến binh Mỹ
Sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, hai thành phần ðýợc công nhận là chịu ít nhiều ảnh hýởng của dioxin: ðồng bào Việt Nam sống trong các vùng bị rải AO, và quân nhân Mỹ, những ngýời trực tiếp rải hóa chất này. Sau nãm 1975, một số cựu chiến binh Mỹ và thân nhân của họ bắt ðầu phàn nàn tình trạng suy ðồi sức khỏe, ðặc biệt là ung thý, và tình trạng khuyết tật trong con cái của họ. Những cựu chiến binh này nghi ngờ rằng dioxin là thủ phạm của những bệnh tật nhý thế. Họ vận ðộng với chính phủ, và một số thýợng nghị sĩ cũng khẳng ðịnh rằng AO, hay dioxin, là ðộc chất gây ra bệnh tật cho giới cựu chiến binh, và kêu gọi chính phủ phải bồi thýờng cho những thiệt hại này. Tiếp theo ðó, Bộ phụ trách các dịch vụ cựu chiến binh (Department of Veterans Affairs) bắt ðầu tiến hành thủ thục bồi thýờng cho những cựu chiến binh mắc bệnh "non-Hodgkins lymphoma" hay "soft tissue sarcoma."
Nhýng ý kiến dioxin là thủ phạm của những vấn ðề sức khỏe trong giới cựu chiến binh bị một số nhà nghiên cứu y khoa thách thức. Các nhà nghiên cứu này trình bày dữ kiện cho thấy không có một sự liên ðới nào giữa AO hay dioxin và ung thý. Nhận xét này ðýợc phù hợp với một nghiên cứu ở Úc, mà trong ðó các nhà nghiên cứu Úc không tìm thấy mối liên hệ nào giữa dioxin và các vấn ðề sức khỏe trong cựu quân nhân Úc từng tham chiến ở Việt Nam.
Vấn ðề trở nên phức tạp hõn khi một số nhà nghiên cứu khác trình bày dữ kiện cho thấy dioxin có thể gây ra ung thý, dị thai, và một loạt tác hại khác cho sức khỏe. Một cuộc tranh luận "nóng" giữa các nhà nghiên cứu xảy ra trên các tập san y học. Các nhà nghiên cứu y học thýờng rất bình tĩnh, lạnh lùng, và ôn hòa trong lời vãn chữ viết, nhýng trong cuộc tranh luận này, ðã có lúc họ dùng ðến những danh từ nặng cảm tính nhý "huyền thoại" (myth), "sai lầm" (wrong, mistake) …
Ðể giải quyết tình trạng bất ðồng ý kiến này, chính phủ Mỹ ðã chi ra một ngân khoảng rất lớn (140 triệu ðô-la) ðể ủy nhiệm một số chuyên viên khoa học và bác sĩ tiến hành nghiên cứu ảnh hýởng của dioxin trong sức khỏe của cựu chiến binh Mỹ. Cuộc nghiên cứu này ðýợc lấy tên chiến dịch rải AO, tức là "The Operation Ranch Hand Study" [7]. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu theo dõi tình trạng sức khoẻ của hai nhóm cựu chiến binh từng tham gia vào chiến dịch này trong thời chiến tranh: nhóm I gồm khoảng 1000 ngýời từng trực tiếp rải AO xuống Việt Nam; và nhóm II có khoảng 1300 ngýời không trực tiếp rải chất AO, nhýng có mặt trong nhà kho, bảo quản chất AO trong thời chiến tranh. Trong thời gian từ 1982, 1985, 1987, 1992, 1997, và 2002 (sắp tới), mỗi cựu chiến binh (nếu còn sống) ðýợc khám ðể thu thập số liệu liên quan ðến ðộ tích tụ dioxin, và quá trình phát triển bệnh tật. Một loạt báo cáo khoa học ðã ðýợc công bố trên các tạp san y khoa danh tiếng, và kết quả có thể ðýợc tóm tắt nhý sau:
a. Tử vong. Nói chung, không có sự khác biệt ðáng kể về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm. Tuy nhiên, nhóm rải AO (nhóm I) có tỷ lệ chết vì bệnh tim mạch cao hõn nhóm II.
b. Bệnh tiểu ðýờng. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng dioxin có khả nãng làm tãng sự nghiêm trọng của bệnh tiểu ðýờng, làm giảm ðộ insulin và dung nạp glucose (glucose tolerance). Tỷ lệ bị bệnh tiểu ðýờng trong nhóm I cao hõn trong nhóm II khoảng 5%.
c. Bệnh ung thý. Trong một bài báo ðãng trên Tập san American Journal of Epidemiology, các nhà khoa học kết luận rằng không có mối quan hệ nào giữa dioxin và ung thý da, ung thý tiền liệt.
d. Hệ thống miễn nhiễm. Kết quả nghiên cứu trong hai nhóm cựu chiến binh cho thấy không có mối liên hệ nào giữa dioxin và các chỉ số sinh hóa nhý lymphocytes, immunoglobulin, tế bào clonal B, v.v. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu không tìm thấy ảnh hýởng của dioxin ðến hồng huyết cầu hay bạch huyết cầu, hay haematocrit, haemoglobin, hay ESR.
e. Dùng số liệu từ nãm 1982 ðến 1997, các nhà nghiên cứu ýớc lýợng rằng tính trung bình, mức ðộ tồn tại trung bình của dioxin trong cõ thể là khoảng từ 7 ðến 8.2 nãm.
Nhýng những kết quả nghiên cứu trên ðây bị giới cựu chiến binh chất vấn một cách mạnh mẽ. Sau khi ðiều tra và thậm ðịnh lại các phýõng pháp nghiên cứu và cách thức làm việc của các nhà khoa học dính dáng ðến chýõng trình này, một số cựu chiến binh phát hiện nhiều vấn ðề nghiêm trọng. Chẳng hạn nhý có 2 báo cáo về tình trạng dị thai trong các cựu quân nhân bị nhiễm dioxin ở mức ðộ cao, nhýng không ðýợc công bố. Lại còn có một báo cáo về mối liên hệ giữa dị thai và dioxin bị thay ðổi từ ngữ làm cho kết quả kém quan trọng. Phần lớn các nhà khoa học làm việc trong chýõng trình nghiên cứu này là quân nhân, họ chịu ảnh hýởng từ các cấp chỉ huy cao hõn trong việc phân tích số liệu, và ðiều này làm cho ngýời ta có lí do ðể chất vấn tính trung thực của việc làm của họ.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:42:21 GMT -5
Dioxin và ngýời Việt Nam
Ở Việt Nam, sau một loạt trýờng hợp dị thai ðýợc ghi nhận ở các tỉnh miền Trung mà trong thời chiến tranh chịu ảnh hýởng chất AO, ðã bắt ðầu nghi ngờ tác hại của dioxin. Nhà cầm quyền Việt Nam ðã cố công thu thập và trýng bày trong vài bệnh viện ở Sài Gòn nhiều trýờng hợp dị thai, và rải rát trên báo chí ngýời ta týờng trình các trýờng hợp cha mẹ bị nhiễm AO thýờng sinh con có tật hoặc bị bệnh. Việt Nam còn ðýa ra một số số liệu thống kê ðể chứng minh AO gây ra dị thai. Tuy nhiên, hầu hết số liệu và nghiên cứu của Việt Nam ðều bị giới khoa học thế giới ðánh giá thấp, nếu không muốn nói là không ðýợc công nhận. Lí do ðõn giản là tất cả các nghiên cứu của Việt Nam trong lĩnh vực này chýa ðạt ðýợc tiêu chuẩn của một "nghiên cứu" nghiêm túc, tức là thiếu khoa học tính. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, Việt Nam có cõ hội tiến hành những nghiên cứu có chất lýợng cao, và có tiềm nãng cống hiến nhiều dữ kiện quan trọng cho y học thế giới mà không nõi nào có ðýợc. Song, trong vài nãm gần ðây, phía Việt Nam tỏ ra miễn cýỡng trong việc hợp tác với ngýời Mỹ trong việc nghiên cứu AO ở Việt Nam, vì chính phủ Việt Nam quan tâm ðến một kết quả từ những nghiên cứu nhý thế sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, nếu không muốn nói là có hại, cho nền kinh tế xuất khẩu nông sản của Việt Nam! Nếu thế giới biết ðýợc những vùng nhý Ban Mê Thuột bị nhiễm dioxin thì kỹ nghệ sản xuất và xuất cảng cà phê của Việt Nam ắt hẳn phải gặp khó khãn.
Do ðó, các tranh luận ở Mỹ và sự miễn cýỡng của Việt Nam trong vài nãm qua ðã biến vấn ðề mang bản chất khoa học này trở thành vấn ðề chính trị và kinh tế. Cộng thêm vào ðó là những ồn ào trong giới cựu chiến binh, và sự quan tâm của công chúng và ðặc biệt là công nhân trong các cõ xýởng kỹ nghệ về tác hại của dioxin ðến sức khỏe của họ, ðã biến dạng AO thành một vấn ðề ðầy cảm tính. Hậu quả của một sự tranh luận cảm tính nhý thế là sự lẫn lộn. Công chúng, nhất là những ngýời không hiểu nhiều về y học, hay không quen thuộc với các phýõng pháp nghiên cứu y khoa, cảm thấy bị ðộng bởi các bản tin lúc thì cho rằng AO gây ra ung thý, lúc lại có tin cho rằng AO là một chất hoàn toàn vô hại! Vậy sự thật ra sao? Trong bài viết này, tôi sẽ cố gắng trình bày một cách ngắn gọn kết quả của những nghiên cứu liên quan ðến sự ảnh hýởng của AO trong sức khỏe con ngýời.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:43:37 GMT -5
Mức ðộ nhiễm dioxin
Ýớc ðịnh mức ðộ nhiễm ðộc là một chìa khóa ðể xác ðịnh mối quan hệ giữa một cãn bệnh và một ðộc chất. Mức ðộ này ðýợc ðo lýờng bằng thời gian, và mức ðộ tích tụ (concentration levels) của dioxin trong máu của cá nhân bị nhiễm. Thời gian mà cá nhân bị ảnh hýởng bởi dioxin chỉ ðýợc ðánh giá qua lời khai của "nạn nhân" và không có phýõng pháp nào ðể biết những lời khai này chính xác hay không. Mức ðộ dioxin trong con ngýời có thể ðýợc xác ðịnh qua thử máu, da, hoặc sữa, bằng cách dùng quan phổ kế (spectrometry). Quan phổ kế ðo ðộ dioxin trên mỗi nghìn tỉ particles, hay còn gọi là ppt (parts per trillion). Theo kinh nghiệm lâm sàng, một mức ðộ tích tụ dioxin từ 10 ppt hay cao hõn ðýợc xem là bất bình thýờng và có hại cho sức khỏe.
Tuy nhiên, trong cả hai chỉ số ðo ðạt này ðều có một số hạn chế nhất ðịnh. Do ðó, các ðo lýờng ðýợc ứng dụng trong tất cả các nghiên cứu chỉ là týõng ðối, và trong nhiều trýờng hợp mức ðộ chính xác còn rất thấp, thấp ðến ðộ không có ý nghĩa lâm sàng gì cả.
Dù số liệu chính xác về mức ðộ nhiễm dioxin vẫn còn trong thời gian hoàn thiện, một số số liệu thống kê rút ra từ một loạt nghiên cứu gần ðây cho thấy mức ðộ dioxin trong các cựu chiến binh Mỹ, tính trung bình, thấp hõn các công nhân trong các hãng xýởng kỹ nghệ. Tuy nhiên, các cựu chiến binh trong chiến dịch Operation Ranch Hand có mức ðộ tích tụ dioxin cao hõn trung bình. Trong các cựu chiến binh trực tiếp tham gia rải chất AO xuống Việt Nam, mức ðộ tích tụ dioxin trung bình là 12.7 ppt (tối thiểu là 0, và tối ða là 617 ppt); trong nhóm không rải chất AO, mức ðộ dioxin trung bình chỉ 4.2 ppt (min: 0, max: 54.8).
Tuy nhiên, một nhóm nghiên cứu thuộc Trýờng Ðại học Yale ðã chất vấn sự chính xác của các con số trên ðây. Dùng số liệu thu thập từ Việt Nam, nhóm này khẳng ðịnh rằng mức ðộ dioxin trong cựu chiến binh cao hõn trung bình trong dân số ðáng kể. Ngoài ra, cũng có thể giải thích bằng một giả thiết rằng các cựu chiến binh Mỹ có mức ðộ tích tụ cao và họ ðã qua ðời (nên ðã làm cho con số trung bình trong nhóm cựu chiến binh thấp hõn các công nhân).
Còn trong ngýời Việt Nam thì thế nào? Trong một nghiên cứu khoa học gần ðây [8], Giáo sý Arnold Schecter thuộc Trýờng Ðại học Texas (một ngýời ðã bỏ ra cả ðời làm khoa học của ông ðể nghiên cứu tác hại của AO) ðã ðo lýờng ðộ tích tụ dioxin trong 100 cý dân ở Hà Nội (nõi không bị rải AO trong thời chiến tranh) và 100 cý dân ở Biên Hoà (từng bị rải AO nhiều nhất). Giáo sý Schecter kết luận rằng mức ðộ tích tụ dioxin trong cý dân Biên Hòa cao hõn mức ðộ dioxin trong ngýời Hà Nội ðến 135 lần (Nguyên vãn: "A comparison, pooled sample from 100 residents of Hanoi, where Agent Orange was not used, measured blood TCDD levels of 2 ppt. TCDD levels of UP TO 271 ppt, a 135-fold increase, were found in Bien Hoa residents.") Con số này ðýợc giới truyền thông quốc tế loan tải rộng rải nhý là một báo ðộng. Tuy nhiên, sau khi dọc kỹ bài báo khoa học này, tôi có lí do ðể cho rằng ðây là một con số cýờng ðiệu, và giới truyền thông ðã hiểu sai. Thực ra, Giáo sý Schecter ðã so sánh mức ðộ tích tụ tối ða ở Biên Hòa (271 ppt) với mức ðộ trung bình ở Hà Nội (2 ppt), và ðây là một việc làm không nghiêm túc, vì cách làm này cũng giống nhý lấy chiều cao của một ngýời Mỹ cao nhất nýớc Mỹ ðể so với chiều cao trung bình của dân số Việt Nam! Cách ðây khoảng 6 nãm, Giáo sý Schecter [9] và ðồng nghiệp ở Việt Nam từng công bố một nghiên cứu mà trong ðó họ ðo ðộ tích tụ dioxin ở các tỉnh và thành phố nhý Quảng Ninh, Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Ðà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Ðồng Nai, Biên Hòa, Sông Bé, Tây Ninh, Bến Tre, Sài Gòn, Hậu Giang, An Giang, Kiêng Giang, v.v. Kết quả cho thấy mức ðộ tích tụ dioxin trong cý dân (khoảng 900 ngýời) cý ngụ trong các vùng bị rải AO nhý sau:
Trong máu: 12.6 ppt (tối thiểu: 3.4, tối ða: 32 ppt) Trong sữa: 7.5 ppt (tối thiểu: 1, tối ða: 17 ppt) Trong mô mỡ: 14.7 ppt (tối thiểu: 2, tối ða: 103 ppt) Trong nhóm cý dân không cý ngụ trong các vùng bị rải AO (khoảng 150 ngýời), kết quả nhý sau: Trong máu: 2.2 ppt (tối thiểu: 1, tối ða: 2.9 ppt) Trong sữa: 1.9 ppt (tối thiểu: 1, tối ða: 2.1 ppt) Trong mô mỡ: 0.6 ppt (tối thiểu: 1, tối ða: 1.4 ppt)
Bài báo này còn tính chỉ số trung bình cho mỗi tỉnh. Ở các tỉnh miền Bắc, mức ðộ tích tụ dioxin trung bình chỉ khỏang 2.2 ppt, miền Trung là 13.2 ppt, và miền Nam là 12.9 ppt. Tuy nhiên, mức ðộ không phải ðồng ðều nhý thế, có vài nõi cao hõn, và có nõi thấp hõn, trung bình. Ở miền Trung, các tỉnh nhý Ðà Nẵng có mức ðộ tích tụ cao nhất (khoảng 19 ppt). Riêng ở miền Nam, các tỉnh sau ðây có mức ðộ dioxin khá cao: Ðồng Nai-Biên Hòa (28 ppt), Sông Bé (32), và huyện Trà Nóc (Hậu Giang) với mức ðộ tích tụ lên ðến 33 ppt. Nhý vậy, dù Biên Hòa có mức ðộ tích tụ dioxin cao hõn các nõi khác trong nýớc, nhýng mức ðộ không quá báo ðộng nhý 135 lần. Dựa vào số liệu của Giáo sý Schecter và theo sự ýớc ðoán của ngýời viết bài này, mức ðộ tích tụ dioxin ở Biên Hòa – Ðồng Nai cao hõn Hà Nội khoảng 8,5 lần. Nhýng ðó vẫn là một mức ðộ rất ðáng quan tâm.
Dioxin thýờng tích tụ trong sữa. Do ðó, một số nhà nghiên cứu ðã cãn cứ vào sữa ðể ýớc tính ðộ dioxin trong dân chúng. Theo báo cáo "The American People’s Dioxin Repot", ðộ dioxin trong sữa tìm thấy ở Ðà Nẵng là cao nhất thế giới (34 ng/kg), kế ðến là Nhật và Ðức (27 ng/kg), Canada (26 ng/kg), Mỹ (20 ng/kg), Sài Gòn (19 ng/kg). Hà Nội (9 ng/kg), Thái Lan và Cambodia có ðộ dioxin trong sữa thấp nhất (3 ng/kg) [10].
|
|
|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:46:34 GMT -5
Tác hại của dioxin trong con ngýời
Trong nghiên cứu y khoa, ngýời ta phân biệt hai loại týõng quan, mà tiếng Anh gọi là "association" và "linkage." Tuy theo cách dịch thông thýờng, hai danh từ này không khác nhau mấy, nhýng trong nghiên cứu y khoa, hai thuật ngữ này mang ý nghĩa rất khác nhau: association có thể hiểu là mối "liên hệ gián tiếp", và linkage là mối "liên hệ trực tiếp." Có thể lấy hai ví dụ sau ðể làm sáng tỏ hai quan niệm này: Nếu một yếu tố A ảnh hýởng ðến yếu tố trung gian K, và K gây ra bệnh X, thì mối týõng quan giữa A và X ðýợc xem là liên hệ gián tiếp; tuy nhiên nếu yếu tố A gây ra bệnh X mà không qua ảnh hýởng ðến một yếu tố trung gian nào thì mối týõng quan này ðýợc xem là liên hệ trực tiếp. Phần lớn những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực dioxin và bệnh tật chỉ có thể xem là liên hệ gián tiếp, vì chýa ai có thể giải thích một cách chính xác cõ chế ảnh hýởng của dioxin ra sao. Thực ra, cũng cần nói thêm rằng ðại ða số các vấn ðề y khoa, kể cả mối liên hệ giữa ung thý và hút thuốc lá ðều có thể cho là liên hệ gián tiếp.
Dù những tác hại của dioxin ðã ðýợc chứng minh khá rõ ràng trong chuột, nhýng trong con ngýời thì nói một cách chung, vấn ðề không ðõn giản chút nào. Môi trýờng thử nghiệm trong chuột ðýợc các nhà nghiên cứu kiểm soát theo những tiêu chuẩn ðịnh sẵn trong các phòng thí nghiệm, nên kết quả thýờng chính xác. Nhýng sự chính xác luôn tùy thuộc vào ðiều kiện của môi trýờng. Nhýng trong nghiên cứu trên dân số hay một cộng ðồng thì nhà nghiên cứu không có sự lựa chọn môi trýờng; nhà nghiên cứu không có quyền và cũng không thể nào bắt buộc ngýời tham gia nghiên cứu phải sống trong một môi trýờng cố ðịnh. Trong thực tế, không có một cá nhân nào giống một cá nhân nào. Do ðó, mức ðộ chính xác của kết quả nghiên cứu trong con ngýời thýờng không cao. Vì sự thiếu chính xác này, các nhà nghiên cứu ðộc lập thýờng lặp lại các cuộc ðiều nghiên trýớc ðây của ðồng nghiệp xem có ðạt ðýợc cùng kết quả hay không. Nếu nhiều cuộc nghiên cứu ðộc lập cho cùng một kết quả, các nhà nghiên cứu có ðủ bằng chứng ðể kết luận. Nếu kết quả của nhiều nghiên cứu không nhất quán thì mối liên hệ, dù là gián tiếp hay trực tiếp, phải ðýợc xem là còn trong vòng nghi vấn.
Trong hai mýõi nãm qua, ngoài cuộc khảo cứu trong các cựu quân nhân tham gia vào chiến dịch Operation Ranch Hand, còn có một số nghiên cứu khác. Nhýng kết quả của các nghiên cứu này thýờng không nhất quán, và gây ra hoang mang, hiểu lầm trong công chúng. Quốc hội Mỹ ðã ủy nhiệm cho Viện Y khoa (Institute of Medicine, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ ) duyệt xét và tóm tắc các kết quả nghiên cứu. Ðể làm việc này, Viện Y khoa thành lập một ủy ban khoa học (gọi là "Committee to Review the Health Effects in Vietnam Veterans of Exposure to Herbicides) ðể xem xét, cân nhắc phýõng pháp và kết quả nghiên cứu và từ ðó tổng kết thành một báo cáo cho chính phủ. Uy ban này gồm có 11 nhà khoa học từ các trýờng ðại học và viện nghiên cứu trên toàn nýớc Mỹ, do Giáo sý Irva Hertz-Picciotto (thuộc Trýờng ðại học North Carolina), một chuyên viên về y tế công cộng, chủ trì. Sau khi duyệt qua và cân nhắc hõn 50 nghiên cứu khác nhau có liên quan ðến hóa chất dioxin và sức khỏe của cựu chiến binh ðýợc tiến hành trong vòng 20 nãm qua, ủy ban ðã soạn thảo thành một loạt sách, trong ðó, có một cuốn tóm lýợc tác dụng của dioxin ðến sức khoẻ [11]. Một vài nét chính của quyển sách này có thể tóm lýợc nhý sau:
a. Cho ðến nay, các nhà nghiên cứu ðã có ðầy ðủ bằng chứng khoa học ðể kết luận rằng dioxin trực tiếp gây ra các bệnh sau ðây: Soft-tissue sarcoma, Non-Hodgkin's lymphoma, bệnh Hodgkin [12], và bệnh ban clor (chloracne) [13]. Tháng 4 nãm 2001, Viện Y khoa công bố một thông cáo báo chí mà trong ðó các nhà nghiên cứu cảm thấy có ðủ dữ kiện ðể có thể kết luận rằng con của các cựu quân nhân Mỹ bị nhiễm dioxin có tỷ lệ bị bệnh ung thý máu cao hõn trung bình.
b. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa AO và một số bệnh vẫn còn nằm trong vòng nghi vấn, vì kết quả của các nghiên cứu vẫn chýa nhất quán. Những bệnh này là: ung thý hệ thống hô hấp (phổi, thanh quản, khí quản), ung thý tuyến tiền liệt (prostate cancer), myeloma, một số bệnh thần kinh cấp tính, và bệnh nứt ðốt sống (spina bifida).
c. Ngoài ra, Viện Y khoa cảm thấy chýa có ðầy ðủ bằng chứng khoa học ðể kết luận về mối liên hệ giữa dioxin và các bệnh sau ðây: ung thý gan, ung thý mũi, ung thý xýõng, ung thý vú, ung thý hệ thống tái sản sinh trong phụ nữ (tử cung, noãn xào), ung thý bọng, ung thý thận, ung thý bộ tinh hoàn, dị thai, sanh thai chết (Neonatal/infant death and stillbirths), trọng lýợng hài nhi thấp (Low birthweight), bất bình thýờng chỉ số tinh trùng và hiếm muộn, rối loạn hệ thống phối hợp (coordination dysfunction), các triệu chứng thần kinh ngoại vi kinh niên, các bệnh thuộc hệ thống nội tiết và tiêu hóa (nhý tiểu ðýờng, loét, thay ðổi enzyme của gan, bất bình thýờng lipid), các chứng miễn nhiễm, bệnh tim, bệnh ðýờng hô hấp, và ung thý da.
d. Ngýợc lại, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Y khoa cũng thêm rằng họ chýa có ðủ bằng chứng ðể loại bỏ mối liên hệ giữa dioxin và các bệnh sau ðây: ung thý dạ dày, ung thý tuyến tụy, ung thý ruột, ung thý trực tràng, và ung thý não (brain tumors).
Trong một cuộc khảo cứu công phu ở Ý, các nhà nghiên cứu thuộc Trýờng Ðại học Milano-Bicocca (Ý ) và Trung tâm Nghiên cứu Môi trýờng và Y tế (Mỹ ) ðã theo dõi tỷ lệ sinh sản suốt 25 nãm liền trong vùng Seveso (Ý ), nõi có một hãng sản xuất thuốc diệt cỏ bị cháy, nổ tung, và thải ra môi trýờng chung quanh khoảng 30 kí lô dioxin vào nãm 1977. Họ khám phá rằng những ðàn ông bị nhiễm dioxin có xác suất sinh con trai thấp hõn những ðàn ông không bị nhiễm dioxin (hay bị nhiễm nhýng ở mức ðộ thấp). Trong các ngýời cha không sống trong vùng bị nhiễm hay sống trong vùng bị nhiễm nhýng có mức tích tụ dioxin trong máu dýới 16 ppt, tỷ lệ sinh con trai là khoảng 56%; và trong các ngýời cha sống trong vùng bị nhiễm với mức tích tụ dioxin trong máu từ 16 ppt hay cao hõn, tỷ lệ sinh con trai chỉ 44% [14].
|
|
|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:49:34 GMT -5
Vài nhận xét cá nhân
Trong y học, một khi một công thức thuốc ðýợc phát triển, ngýời ta phải làm thử nghiệm về sự an toàn của thuốc trên thú vật nhý chuột cực kỳ kỹ càng trýớc khi ðem ra dùng cho bệnh nhân. Ngay cả thử nghiệm trên chuột, các nhà khoa học phải ðýợc phép của hội ðồng y ðức trýớc khi ðể tiến hành nghiên cứu. Trong khi ðó, quyết ðịnh dùng chất màu da cam chứa dioxin trong chiến tranh Việt Nam chỉ do một ngýời quyết ðịnh (Tổng thống Kennedy) và nhận ðýợc sự ủng hộ của Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Ngýời dân Việt Nam hoàn toàn không biết gì ðến quyết ðịnh này. Vì thế, có thể nói rằng quyết ðịnh dùng AO ở Việt Nam là một việc làm tàn nhẫn và vô nhân ðạo. Nó thể hiện một thái ðộ ngạo mạn của ngýời Mỹ coi thýờng mạng sống con ngýời Việt Nam và môi trýờng Việt Nam. Nó còn cho chúng ta thấy sự thiển cận (hay bất lực) của chính quyền miền nam Việt Nam lúc ðó. Nãm 1964, Liên ðoàn Khoa học gia Mỹ (Federation of American Scientists) yêu cần chính phủ Mỹ ngýng dùng AO ở Việt Nam, vì những tác hại của nó ðến ðồng lúa và con ngýời [15]. Tháng 1 nãm 1966, Giáo sý John Edsall thuộc Trýờng Ðại học Harvard cũng công kích quyết ðịnh của Mỹ và cho ðó là một hành ðộng dã man, chỉ có hại cho ngýời lính và thýờng dân [16].
Ðến nay, chiến tranh ðã chấm dứt hõn một phần tý thế kỷ, nhýng ảnh hýởng của AO và dioxin vẫn còn kéo dài. Trong vòng hai thập niên qua, ðã có nhiều nghiên cứu về tác hại của dioxin trong sức khỏe, nhýng ðại ða số các nghiên cứu này nhắm vào ðối týợng cựu quân nhân Mỹ và các công nhân trong hãng xýởng Mỹ; chỉ có một số ít dữ kiện ðýợc thu thập từ ðồng bào Việt Nam. Dù kết quả nghiên cứu có khi không nhất quán, nhýng chúng ta ðã có ðủ bằng chứng khoa học ðể kết luận rằng trong các cựu quân nhân Mỹ, dioxin là một ðộc chất nguy hiểm, có khả nãng gây ra ung thý tế bào và ung thý máu. Nhýng chúng ta chýa ðủ bằng chứng ðể kết luận rằng dioxin gây ra dị thai, một quan tâm lớn của công chúng. Thực vậy, trong một báo cáo khoa học mật ðýợc ðệ trình lên Quốc hội Mỹ (nhýng ðã bị tiết lộ ra ngoài báo chí gần ðây), các nhà khoa học Mỹ ðã khẳng ðịnh rằng dioxin là một ðộc chất nguy hiểm vào hàng số một do con ngýời tạo ra và biết ðến. (Týởng cần nhắc lại là trýớc ðây, EPA chỉ phân loại dioxin nhý là một chất "có thể gây ra ung thý".)
|
|
|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:50:34 GMT -5
Với gần 72 triệu lít chất khai hoang rải xuống Việt Nam, chúng ta ắt phải nghĩ rằng Việt Nam là môi trýờng lý týởng ðể nghiên cứu về tác hại của AO và dioxin. Song, thực tế trái ngýợc: các dữ kiện từ Việt Nam về AO và dioxin chỉ bằng một phần nhỏ so với phía Mỹ. Ðiều này có thể hiểu ðýợc một phần nào vì, sau 1975, Việt Nam có hàng trãm vấn ðề y tế cấp bách phải ðối phó, thiếu ngân sách, và phýõng tiện nghiên cứu, nên ðã bỏ qua một cõ hội quan trọng ðể thu thập dữ kiện. Số liệu về AO và dioxin từ Việt Nam chỉ ðýợc phân tích gần ðây, kể từ ngày Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam. Qua các báo cáo khoa học ðýợc công bố trên các tạp san y học quốc tế gần ðây, chúng ta có thể kết luận rằng dioxin vẫn còn tồn tại trong môi trýờng Việt Nam ở một mức ðộ có hại cho sức khỏe. Một nghiên cứu sõ bộ gần ðây do Công ty Hatfield (Canada) thực hiện cho thấy mức ðộ tích tụ dioxin trong hải sản và mô ðộng vật (gà, heo, bò ) ở miền trung và nam Việt Nam vẫn còn cao. Ðiều này có thể (chỉ "có thể" thôi) cho thấy dioxin ở Việt Nam ðã xâm nhập vào nguồn thực phẩm. Theo tiêu chuẩn ở các nýớc Tây phýõng, một tình trạng nhý thế có thể ðýợc xem là khủng hoảng y tế công cộng. Tuy nhiên, giới y tế Việt Nam vẫn chýa có kế hoạch nào cụ thể ðể giải quyết vấn ðề.
Ðã từ lâu, giới y học Tây phýõng và Việt Nam ðã ghi nhận tỷ lệ dị thai ở miền trung Việt Nam cao hõn trung bình, nhýng ý kiến về nguyên nhân thì khác nhau. Phía Việt Nam tin rằng AO và dioxin là nguyên nhân, nhýng phýõng pháp nghiên cứu và cách xử lý số liệu của họ không ðýợc chấp nhận là nghiêm túc và khoa học. Do ðó, mối liên hệ giữa dị thai và dioxin ở Việt Nam vẫn còn nằm trong vòng nghi vấn, vì bằng chứng chýa ðầy ðủ. Tuy nhiên, ðiều ðó không có nghĩa là dioxin không phải là nguyên nhân gây ra dị thai. Tất nhiên, bằng chứng chýa ðầy ðủ không có nghĩa rằng không có bằng chứng ("the absence of evidence does not mean that the evidence is absent.") Thực vậy, một nhóm nghiên cứu thuộc Trýờng Ðại học Texas vừa ðýợc chính phủ Mỹ cấp một ngân sách $874,000 ðể nghiên cứu về mối liên hệ quan trọng này.
Mới ðây, một nhà khoa học Việt Nam và một nhà khoa học Thụy Ðiển vừa công bố một nghiên cứu sõ bộ về mối quan hệ giữa Agent Orange và sinh ðẻ (Impact of chemical warfare with agent orange on women's reproductive lives in Vietnam: a pilot study, ðãng trong Tập san Reprod Health Matters nãm 2001; số 9(18), trang 156-64) trong ðó trong 30 gia ðình. Hai nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, trong số 30 gia ðình này, tỉ lệ trẻ em bị dị tật, tỉ lệ sẩy thai, sinh sớm (premature births) trong những ngýời cha hay mẹ bị ảnh hýởng Agent Orange cao hõn bình thýờng (nguyên vãn: "The women had had a high number of miscarriages and premature births. About two-thirds of their children had congenital malformations or developed disabilities within the first years of life.") Tuy nhiên, vì ðây là nghiên cứu sõ bộ, nên kết quả này cần phải ðýợc cân nhắc cẩn thận, và một nghiên cứu qui mô hõn và có hệ thống hõn ðang ðýợc tiến hành.
Trái lại với nhiều dý luận báo chí, chính phủ Việt Nam chýa bao giờ chính thức ðòi chính phủ Mỹ bồi thýờng những thiệt hại mà chiến dịch Operation Ranch Hand gây ra. Nhýng chính phủ Mỹ ðã và ðang bồi thýờng một số cựu chiến binh Mỹ từng tham gia vào chiến dịch này. Chính phủ Mỹ cũng chýa có viện trợ hay kế hoạch nào ðể làm sạch, tẩy xóa dioxin trong môi trýờng Việt Nam. Thái ðộ này ðã ðýợc giới khoa bảng Mỹ chất vấn, và chính phủ Mỹ giải thích rằng họ cần phải có bằng chứng khoa học trýớc khi thảo luận vấn ðề bồi thýờng. Suy cho cùng, ðây cũng không hẳn là một thoái thác của Mỹ, mà họ hành ðộng một cách duy lí. (Chỉ ðáng trách là phía Việt Nam ta ðã không thừa cõ hội ðể thu thập dữ kiện một cách khoa học làm bằng chứng.) Ðể tỏ thiện chí của mình, gần ðây, chính phủ Mỹ ðã thỏa thuận và cung cấp một ngân sách cho các nhà khoa học Mỹ cùng hợp tác với các nhà khoa học Việt Nam ðể nghiên cứu tác hại của AO và dioxin ở Việt Nam. Hi vọng trong týõng lai, kết quả của nghiên cứu này sẽ làm cho vấn ðề sáng tỏ hõn và tránh mọi suy luận theo cảm tính.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 2, 2003 9:52:47 GMT -5
Chú thích:
(*) Mối liên hệ giữa chuyện dioxin và bệnh tật rất phức tạp. Bài viết này không có tham vọng trình bày mọi khía cạnh của mối liên hệ này, nhýng chỉ ðýa ra những thông tin liên quan ðến Việt Nam mà thôi. Trong một dịp khác, ngýời viết bài này sẽ quay lại vấn ðề này một cách chi tiết hõn về kinh nghiệm dioxin ở các nõi khác trên thế giới.
1. Tên gọi "Agent Orange" xuất phát từ những thùng phuy có khoanh màu cam. Do ðó, ngýời ta quen gọi là "Agent Orange." Thực ra, trong thời chiến tranh Việt Nam, Mỹ ðã dùng ðến 15 hóa chất khác nhau ðể khai hoang. Các hóa chất khác cũng từng ðýợc nhận diện bằng màu nhý thế, chẳng hạn nhý "Agent White," "Agent Blue," "Agent Purple," "Agent Pink," và "Agent Green." Trong thời gian 1962-1964, Agent Purple (2,4,-D and 2,4,5,-T), Agent Green (2,4,5-T), và Agent Pink (2,4,5-T) ðýợc dùng; trong thời gian 1965-1970, Agent Orange (2,4,-D và 2,4,5-T) là chất ðýợc dùng chính.
2. Theo tài liệu NSAM 115, subject: Defoliant Operations in Vietnam, Nov. 30, 1961. Trích từ "Operation Ranch Hand: Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr.
3. Theo tài liệu Record, 4th SECDEF Conference, HQ CINCPAC, March 21, 1962. Trích từ "Operation Ranch Hand: Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr.
4. Xem bài xã luận "New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets’ children," do Tiến sĩ Joan Stephenson viết trong [Tập san] Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, ra ngày 10 tháng Tý 1996, trang 1066-1067.
5. Xem bài xã luận "Agent Orange: exposure and policy," do Tiến sĩ Michael Gough viết trong [Tập san] American Journal of Public Health, nãm 1991; số 81: trang 289-290.
6. Theo báo cáo của Công ty Tý vấn Hatfield (Canada), #201-1571 Bellevue Avenue, West Vancouver, BC V7V 1A6, Canada.
7. Xem các bài báo sau ðây: "Exposure to Agent Orange and occurrence of soft-tissue sarcomas or non-Hodgkin lymphomas: an ongoing study in Vietnam," [Tập san] Environmental Health Perspective 1998 Apr;106 Suppl 2:671-8; "Serum dioxin, insulin, fasting glucose, and sex hormone-binding globulin in veterans of Operation Ranch Hand," [Tập san] Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism 1999 May;84(5):1540-3; "Vietnam veterans' risks for fathering babies with birth defects," [Tập san] JAMA 1984 Aug 17;252(7):903-12.
8. "Recent dioxin contamination from Agent Orange in residents of a southern Vietnam city," [Tập san] Journal of Occupational Environmental Medicine 2001; May; 43(5):435-43.
9. "Agent Orange and the Vietnamese: the persistence of elevated dioxin levels in human tissues," [Tập san] American Journal of Public Health 1995 Apr;85(4):516-522.
10. Trích trong bài báo "Exposure assessment: Measurement of dioxins and related compounds in human tissues," của A. Schecter, in trong sách "Dioxins and Health," Arnold Schecter, editor, pp. 449-486. New York: Plenum Press, nãm 1994.
11. Xin xem "Veterans and Agent Orange: Update 2000" do Committee to Review the Health Effects in Vietnam Veterans of Exposure to Herbicides (Third Biennial Update) soạn thảo, và Institute of Medicine xuất bản nãm 2001.
12. Bệnh non-Hodgkin's lymphoma là một bệnh mà các tế bào ung thý ðýợc tìm trong hệ thống bạch huyết.
13. Ban clor là một bệnh ngoài da giống nhý trứng cá (viêm nang lông). Bệnh Hodgkin là một bệnh ác tính của các mô máu trắng, thýờng có ðặc ðiểm là một hay nhiều nhóm hạch máu trắng lớn thấy ở cổ, nách, háng và ngực hay bụng, có thể gồm cả lá lách, và tủy xýõng.
14. Bài báo nghiên cứu của Giáo sý Paolo Mocarelli và ðồng nghiệp có tên là "Paternal concentration of dixin and sex ratio of offspring", công bố trên Tập san y khoa Lancet, số 355, ra ngày 27 tháng 5, 2000, trang 1858-1863.
15. "FAS Statement on Biological and Chemical Warfare," Bulletin of the Atomic Scientists (Oct. 1964), pp. 46-47.
16. Có thể xem "Scientists Protest Viet Crop Destruction," Tập san Science, Jan. 21, 1966, p. 309; và bài báo "5000 Scientists Ask Ban on Gas in Vietnam," Washington Post, Feb. 15, 1967, p. A-1.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 6:48:06 GMT -5
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Việt Nam: Qui mô và ảnh hýởng Nguyễn Vãn Tuấn
Có thể nói chýa có một vấn ðề nào có khả nãng làm chia rẽ ý thức hệ của xã hội Mỹ nhý cuộc chiến ở Việt Nam. Và, cũng chýa có một vấn nạn y tế công cộng nào làm cho thế giới thức tỉnh và ý thức ðýợc hậu quả của chiến tranh bằng ảnh hýởng của dioxin, hay của chất màu da cam. Bốn mýõi nãm về trýớc, trong lúc cuộc chiến còn trong vòng tranh cãi quyết liệt ở Mỹ, Bertrand Russell, một nhà toán học danh tiếng trên thế giới, tố cáo thẳng thắn rằng quân ðội Mỹ ðang tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam, qua việc sử dụng hóa chất có khả nãng gây ra ung thý trong con ngýời. Lúc ðó, báo chí và hệ thống truyền thông Mỹ lãng mạ nhà toán học bằng những ngôn ngữ rất nặng nề; nhýng oái oãm thay, sau này, Ðô ðốc Zumwalt (ngýời ra lệnh dùng hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Việt Nam) tin rằng cái chết vì ung thý của con trai ông có thể là do ảnh hýởng của hóa chất mà quân ðội Mỹ ðã sử dụng ở Việt Nam.
Thực vậy, một trong những “di sản” lớn nhất của cuộc chiến Việt – Mỹ là ảnh hýởng của hóa chất mà quân ðội Mỹ ðã từng dùng trong thời chiến hõn 30 nãm về trýớc. Cho ðến nay, mặc dù khoa học ðã biết ðýợc một số tác hại của những hóa chất này, ðặc biệt là dioxin, ðến hàng loạt bệnh tật trong con ngýời, nhýng vẫn có nhiều vấn ðề, câu hỏi hoặc ðang còn trong vòng nghiên cứu thêm, hoặc chýa có câu trả lời thỏa ðáng. Một trong những câu hỏi cõ bản và quan trọng thýờng ðýợc ðặt ra là trong thời chiến tranh, quân ðội Mỹ ðã dùng bao nhiêu hóa chất ở Việt Nam, và bao nhiêu ngýời Việt ðã phải chịu ảnh hýởng của hóa chất. Những câu hỏi này tuy ðõn giản, nhýng câu trả lời không dễ chút nào, vì thiếu thốn hồ sõ, và nhất là sự miễn cýỡng của giới quân sự Mỹ trong việc cung cấp thông tin.
Trong hõn 20 nãm qua, các nhà nghiên cứu thýờng dựa vào con số do các cõ quan trực thuộc Pentagon công bố: khoảng 72 triệu lít hóa chất, và 167 kg dioxin ðã ðýợc rải xuống Việt Nam [1]. Nhýng theo một nghiên cứu mới nhất vừa ðýợc công bố trên Tập san Nature (một tập san khoa học số 1 trên thế giới) [2], những con số này thấp hõn nhiều so với thực tế. Nhý vậy, Mỹ ðã dùng bao nhiêu hóa chất ở Việt Nam, ở ðâu, vào thời gian nào, và có bao nhiêu ngýời bị ảnh hýởng? Phát hiện mới nhất này có ý nghĩa gì? Bài viết này muốn trả lời những câu hỏi ðó và bàn ðến một vài ngụ ý và ý nghĩa ðằng sau kết quả nghiên cứu quan trọng này.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 6:50:14 GMT -5
Ngýợc dòng lịch sử
Vào cuối thập niên 1950s, qua sự thành công của Anh trong việc sử dụng hóa chất 2,4,5-trichlorophenoxyacetic (2,4,5-T) ðể tiêu hủy mùa màng ở Malaya, Bộ quốc phòng Mỹ ủy nhiệm cho cõ quan ARPD (Advanced Research Project Agency) nghiên cứu và phát triển các hóa chất diệt cỏ ðể dùng cho các mục ðích quân sự. Một cuộc thử nghiệm týõng ðối qui mô ðầu tiên dùng hóa chất màu tím (Agent Purple) ðýợc tiến hành ở Trại Drum (bang New York) vào nãm 1959, và mô hình này ðýợc ứng dụng trong chiến tranh Việt Nam sau ðó vài nãm.
Sau phê chuẩn của Tổng thống John F. Kennedy, với sự tán thành nồng nhiệt của Ngô Ðình Diệm, các hóa chất bắt ðầu ðýợc vận chuyển ðến Việt Nam vào thời gian từ tháng 8 ðến tháng 12 nãm 1961. Các hóa chất này ðýợc chứa trong các thùng phuy, với mã màu khác nhau: chất màu hồng (Agent Pink), chất màu xanh lá cây (Agent Green), màu tím (Agent Purple), màu da cam (Agent Orange), màu trắng (Agent White), và màu xanh da trời (Agent Blue). Mỗi thùng phuy chứa khoảng 250 lít (tức 55 gallons). Mỗi loại hóa chất màu có thành phần hóa học khác nhau, nhýng nói chung phần lớn chúng ðều có thành phần 2,4,5-T, tức có chứa dioxin. Dioxin là một ðộc chất có khả nãng gây ra ung thý và hàng loạt bệnh tật khác trên con ngýời. Vì thế, nói ðến chất màu da cam, ngýời ta thýờng hay ðồng hóa với dioxin.
Chiến dịch xịt hóa chất xuống Việt Nam có tên là "Operation Trail Dust". Trong chiến dịch này có nhiều chiến dịch và chýõng trình nhỏ. Chiến dịch Ranch Hand (nằm trong chiến dịch Trail Dust) thực hiện khoảng 95% việc xịt hóa chất. Khi ðến Việt Nam, trên danh nghĩa, các hóa chất này thuộc quyền sở hữu của chính phủ miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Ðiều này có nghĩa là quân ðội Nam Việt Nam trực tiếp quản lí và sử dụng các hóa chất này. Trong chýõng trình có tên là “Farmgate” (do Bộ quốc phòng Mỹ ðiều khiển), máy bay mang nhãn hiệu Việt Nam, do phi công mặc ðồ dân sự lái và với sự trợ giúp của một nhân viên ngýời Việt, ðã tiến hành những phi vụ tiêu hủy mùa vụ ở miền Nam và Trung Việt Nam.
Trong chiến dịch Ranch Hand, có nhiều dự án với những mục tiêu cụ thể, chẳng hạn nhý xịt ở ðâu, bao nhiêu, loại hóa chất nào, và do ai tiến hành. Mỗi dự án ðều có sự chấp thuận của hai bên, Mỹ và Nam Việt Nam. Sau khi thi hành nhiệm vụ, phi công và nhân viên hành chính ghi chép số lýợng hóa chất ðã xịt, số lýợng còn tồn ðọng. Dựa vào những nhật kí phi hành này, các nhà nghiên cứu có thể ýớc tính số lýợng hóa chất ðã xịt xuống Việt Nam, và bao nhiêu ngýời cũng nhý số lýợng làng xã bị ảnh hýởng.
Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, hai nhóm làm công việc ýớc tính này là Không quân Mỹ, và Viện Y khoa (Institute of Medicine; viện này trực thuộc Viện Hàn lâm khoa học Mỹ (National Academy of Sciences). Nhýng kết quả ýớc tính của hai nhóm này rất khác nhau. Nói chung, ýớc tính về số lýợng cũng nhý nồng ðộ hóa chất của Không quân Mỹ thýờng thấp hõn ýớc tính của Viện Y khoa. Trong quá trình nghiên cứu về ảnh hýởng của dioxin, các nhà dịch tễ học thuộc Ðại học Columbia (New York) tình cờ phát hiện ra một số tài liệu và hồ sõ trong chiến dịch Ranch Hand chýa bao giờ ðýợc ðề cập hay sử dụng trong các ýớc tính trýớc ðây. Do ðó, họ quyết ðịnh tiến hành một nghiên cứu mới. Trong chýõng trình nghiên cứu này, với sự tài trợ của Viện Y khoa (ngân sách lên ðến 5 triệu Mỹ kim), các nhà dịch tễ học thuộc Ðại học Columbia còn phát triển một hệ thống trắc ðịa ðiện tử [3] ðể xác ðịnh những ðịa ðiểm (chính xác ðến cấp thôn ấp) và dân số ðã từng bị ảnh hýởng hóa chất trong thời chiến.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 6:51:13 GMT -5
Qui mô sử dụng hóa chất trong cuộc chiến Việt Nam
Công trình nghiên cứu của họ kéo dài 3 nãm. Tuy kết quả nghiên cứu, nhất là các bản ðồ, vẫn còn ðang ðýợc hệ thống hóa và sẽ công bố trên hệ thống internet, nhýng các kết quả chính ðã ðýợc chính thức công bố trên Tập san Nature dýới dạng một bài báo khoa học [2]. Những phát hiện chính trong bài báo này có thể tóm lýợc nhý sau:
Tổng số hóa chất sử dụng mà quân ðội Mỹ ðã xịt xuống Việt Nam trong thời gian 1962 - 1971 là 76.9 triệu lít. Con số này cao hõn ýớc ðoán trýớc ðây khoảng 9.4 triệu lít. Trýớc ðây, ngýời ta týởng rằng chỉ có chất màu da cam ðýợc sử dụng trong cuộc chiến, nhýng trong thực tế, hóa chất này chiếm 64% (hay 49,3 triệu lít), phần còn lại là các hóa chất khác. Trong số 76,9 triệu lít, 20.6 triệu lít (27%) là chất màu trắng, 4,7 triệu lít (6.2%) là hóa chất màu xanh, và phần còn lại là hóa chất màu xanh lá cây (2.5%). Ngoài ra, còn có một số hóa chất màu tím (0.6%) cũng ðýợc sử dụng (xem bảng thống kê số 1).
Bảng 1. Số lýợng hóa chất quân ðội Mỹ dùng trong chiến tranh Việt Nam 1962-1971.
Hóa chất Số lýợng (lít) Phần trãm Agent Pink - màu tím 495.190 0.6% Agent Green - màu xanh lá cây 1.892.773 2.5% Agent Orange - màu da cam 49.268.937 64.0% Agent White - màu trắng 20.556.525 26.7% Agent Blue - màu xanh 4.741.381 6.2% Tổng số 76.954.806 100.%
Nguồn gốc: Số liệu trong bảng thống kê này ðýợc trích và tổng hợp từ bảng số 1 (trang 682) trong bài báo trên Tập san Nature [2].
Cần phải nhấn mạnh rằng, ðây chỉ là một ýớc tính tối thiểu. Nhý tác giả viết trong bài báo, qua xem xét hóa ðõn thu nhập, một số hóa chất ðýợc quân ðội Mỹ mua từ các công ti hóa học và chuyển ðến Việt Nam, nhýng không có hồ sõ chỉ rõ những hóa chất này ðýợc xịt ở ðâu và bao nhiêu. Chẳng hạn nhý hồ sõ thu nhập quân sự cho thấy quân ðội mua 464.164 lít hóa chất màu tím và 31.026 lít hóa chất màu xanh (hai hóa chất có chứa lýợng dioxin cao hõn chất màu da cam), nhýng chỉ trên dýới 65.000 lít ðýợc báo cáo là ðã xịt.
Một phần lớn (gần 90%) hóa chất khai hoang ðýợc xịt trong thời gian 1966 ðến 1969 (xem bảng thống kê số 2). Ðiều ðáng chú ý là các hóa chất có hàm lýợng dioxin cao (nhý hóa chất màu tím chẳng hạn) ðýợc xịt trong những nãm ðầu của chiến dịch. Những hóa chất có chức nãng hủy diệt lúa và mùa vụ (nhý hóa chất màu xanh, Agent Blue) ðýợc sử dụng liên tiếp từ 1966 ðến 1971, ðặc biệt là nãm 1970 trong tổng hóa chất xịt, có ðến 20% là hóa chất màu xanh.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 6:51:42 GMT -5
Bảng 2. Số lýợng hóa chất xịt trong thời gian 1962-1971.
Nãm Màu tím Màu hồng Màu da cam Màu trắng Màu xanh Các màu khác Tổng số 1962 142.085 10.031 152.116 1963 340.433 340.433 1964 831.162 15.619 846.781 1965 579.092 50.312 1.868.194 18.927 2.516.525 1966 7.602.390 2.179.450 59.809 124.474 9.968.124 1967 12.528.833 5.141.117 1.518.029 86.288 19.274.267 1968 8.747.064 8.353.143 1.289.144 249.750 18.639.101 1969 12.679.579 3.897.100 1.035.385 274.291 17.976.356 1970 2.251.876 845.464 762.665 96.509 3.956.514 1971 50.251 50.698 9.085 110.034 Tổng cộng 1.892.773 50.312 45.677.937 20.556.525 4.741.381 861.325 73.780.253
Chú ý: Số liệu này không có trong bài báo trên Tập san Nature, mà tác giả cung cấp riêng cho tôi. Tổng số lýợng hóa chất trong bảng thống kê này chênh lệch với bảng thống kê số 1 (bảng chính) vì, theo giải thích của tác giả (qua liên lạc thý từ cá nhân), một số hóa chất màu trắng ðýợc sử dụng nhýng tác giả không xác ðịnh ðýợc nãm nào. Bảng thống kê này, do ðó, chỉ cho biết một cách týõng ðối (chứ không tuyệt ðối) lýợng hóa chất dùng từng nãm.
Lýợng dioxin cao gấp 4 lần so với ýớc tính trýớc ðây. Dioxin là một hóa chất ðýợc Cõ quan Bảo vệ Môi trýờng Mỹ (Environmental Protection Agency) xếp vào loại hóa chất ðộc hại số một trong các hóa chất do con ngýời sáng chế ra. Dioxin cũng là một thành phần hóa học trong các hóa chất khai hoang ðýợc sử dụng trong chiến dịch Ranch Hand.
Không ai biết chính xác tổng số lýợng dioxin ðýợc sử dụng (hay nói ðúng hõn là xịt xuống) Việt Nam, bởi vì mỗi hóa chất (nhý chất màu da cam, màu tím, màu xanh, v.v...) có ðộ tích tụ dioxin khác nhau. Trýớc ðây, giới không quân Mỹ ýớc tính rằng lýợng dioxin dùng trong toàn bộ chiến dịch Ranch Hand là khoảng trên dýới 100 kg, và Viện Y khoa ýớc tính là khoảng 167 kg. Nhýng dựa vào hồ sõ mới phát hiện, các nhà nghiên cứu ðại học Columbia ýớc tính số lýợng dioxin ðýợc sử dụng trong toàn bộ chiến dịch Ranch Hand là 366 kg. Các nhà nghiên cứu cho tôi biết thêm (qua liên lạc cá nhân) rằng ðây chỉ là con số tối thiểu, vì trong thực tế, nó có thể nhiều hõn thế nữa.
Lí do cho những khác biệt này là vấn ðề xác ðịnh ðộ tích tụ (concentration) của dioxin trong các loại hóa chất. Trýớc ðây, dựa vào các mẫu (samples) từ hải quân Mỹ, các nhà nghiên cứu thuộc không quân Mỹ ýớc tính ðộ tích tụ dioxin trung bình là 1,77 phần triệu (hay 1,77 particles per million, viết tắt: 1,77 ppm), nhýng các nhà khoa học thuộc Viện y khoa Mỹ thì ýớc tính là khoảng 13,25 ppm. Tuy nhiên, cả hai ýớc tính này ðều thấp hõn so với thực tế. Số liệu thử nghiệm mới nhất cho thấy mức ðộ tích tụ trong hóa chất màu tím là 45 ppm, trong hóa chất màu da cam là 13 ppm. Do ðó, cộng với số lýợng hóa chất mới ðýợc phát hiện, tổng số lýợng dioxin cao hõn trýớc rất nhiều.
Trýớc ðây, ngýời ta tin rằng trong những nãm ðầu của chiến dịch Ranch Hand, số lýợng và liều lýợng thuốc khai hoang chẳng ðáng kể. Nhýng nghiên cứu của các nhà dịch tễ học ðại học Columbia cho thấy ðó là một quan ðiểm sai lầm. Chỉ tính từ 1962 ðến 1965, có ðến 1,9 triệu lít hóa chất màu tím ðýợc xịt (nhýng trong báo cáo chính thức, quân ðội Mỹ chỉ ghi là 548.100 lít!) Ðây là một phát hiện quan trọng, bởi vì hóa chất này có hàm lýợng dioxin cao, và trong thời gian ðầu, họ thýờng xịt xuống những thôn ấp nhỏ có ðông dân cý; do ðó, mức ðộ ảnh hýởng lớn hõn nhiều so với những gì mà ngýời ta từng nghĩ trýớc ðây.
Tổng số diện tích ảnh hýởng hóa chất khai hoang cao hõn 1,1 triệu ha. Trýớc ðây theo ýớc tính của các nhà nghiên cứu thuộc Viện y khoa, tổng số diện tích không quân Mỹ và Nam Việt Nam xịt là 1,5 triệu ha. Nhýng qua sử dụng hệ thống kiểm tra dân số thôn ấp (Hamlet Evaluation System) do quân ðội Mỹ phát triển trong thời chiến, các nhà nghiên cứu ðại học Columbia cho thấy tổng diện tích bị ảnh hýởng hóa chất khai hoang là 2.631.297 ha. Trong số này, có ðến 86% bị xịt hai lần trở lên. Khoảng 11% bị xịt hõn 10 lần. Trong số diện tích ảnh hýởng, có ðến 1.679.734 bị ảnh hýởng dioxin, và trong số bị ảnh hýởng dioxin, có ðến 80% bị rải hai lần trở lên (xem chi tiết trong bảng thống kê số 3).
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 6:52:40 GMT -5
Bảng 3. Diện tích bị ảnh hýởng hóa chất khai hoang trong thời gian 1962-1971.
Số lần xịt Diện tích (ha) bị ảnh hýởng hóa chất Diện tích bị ảnh hýởng dioxin 1 lần 368.556 343.426 2 lần 369.844 332.249 3 lần 361.862 275.770 4 lần 341.037 236.232 5 lần 272.709 153.192 6 lần 216.724 119.127 7 lần 153.391 75.062 8 lần 138.610 51.371 9 lần 115.103 32.988 10 lần trở lên 293.461 60.316 Tổng cộng 2.631.297 1.679.734
Nguồn gốc: Số liệu trong bảng thống kê này ðýợc trích từ bảng số 2 (trang 685) trong bài báo trên Tập san Nature [2].
Ðối týợng bị ảnh hýởng có thể lên ðến 4.8 triệu ngýời. Vì hệ thống kiểm tra dân số thôn ấp có những thông tin về dân số cho từng thôn ấp, nên các nhà nghiên cứu có thể ýớc tính số lýợng dân số bị ảnh hýởng hóa chất khai hoang. Trong toàn bộ chiến dịch Ranch Hanh, có 25.585 thôn ấp ðýợc chọn ðể xịt hóa chất. Trong số này, có 3181 thôn ấp bị xịt trực tiếp. Tổng số dân bị ảnh hýởng ðýợc ýớc tính tối thiểu là 2,1 triệu ngýời. Nhýng vì có ðến 1430 thôn ấp không có số liệu dân số rõ ràng, nên con số trên có thể cao hõn nhiều. Theo các nhà nghiên cứu, con số nạn nhân có thể lên ðến 4,8 triệu ngýời.
Trong thời gian 1962 - 1971, phi công Mỹ ðã thực hiện 19.905 phi vụ, chứ không phải 10.000 ngàn nhý báo cáo của Pentagon trýớc ðây, ðể xịt hóa chất xuống Việt Nam. Tính trung bình, mỗi ngày có ðến 11 phi vụ. Trong suốt 10 nãm thi hành chiến dịch, có 5 máy bay bị rớt.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 6:54:33 GMT -5
Một vài nhận xét
Hủy diệt môi sinh luôn luôn là một thủ ðoạn rất cổ xýa và rất thông thýờng trong chiến tranh. Khi kĩ thuật và công nghệ trở nên tinh vi, sự hủy diệt môi trýờng càng trở nên khốc liệt. Cuộc chiến Việt Nam ðã ðýợc giới quân sự Mỹ biến thành một bãi thí nghiệm khổng lồ cho hóa chất ðộc hại. Ðiều ðáng nói ở ðây là có dấu hiệu cho thấy họ biết những hóa chất này có khả nãng gây ra tác hại cho sức khỏe của ngýời dân. Trong một lá thý gửi cho Thýợng nghị sĩ Tom Daschle, ðề ngày 9 tháng 9 nãm 1998, Tiến sĩ James R. Clary, thuộc cõ quan nghiên cứu vũ khí hóa học (Chemical Weapons Branch) trực thuộc Airforce Armament Development Laboratory (Florida), viết nhý sau [tạm dịch]: “Lúc chúng tôi (các nhà khoa học quân ðội) khởi xýớng chýõng trình khai hoang vào thập niên 1960, chúng tôi biết tiềm nãng ðộc hại của chất dioxin chứa trong thuốc diệt cỏ. Chúng tôi còn biết rằng công thức mà giới quân sự dùng có nồng ðộ cao hõn nồng ðộ mà giới dân sự dùng, vì chi phí rẻ và thời gian sản xuất ngắn. Tuy nhiên, vì hóa chất sẽ ðýợc dùng trên kẻ thù, không ai trong chúng tôi quan tâm thái quá. Chúng tôi không bao giờ nghĩ là quân ðội chúng ta lại bị nhiễm ðộc chất. Và, nếu chúng tôi nghĩ ðến tình huống này, chúng tôi mong muốn chính phủ chúng ta giúp ðỡ các cựu chiến binh bị nhiễm ðộc chất.” (“When we (military scientists) initiated the herbicide program in the 1960s, we were aware of the potential for damage due to dioxin contamination in the herbicide. We were even aware that the military formulation had a higher dioxin concentration than the civilian version due to the lower cost and speed of manufacture. However, because the material was to be used on the enemy, none of us were overly concerned. We never considered a scenario in which our own personnel would become contaminated with the herbicide. And, if we had, we would have expected our own government to give assistance to veterans so contaminated.”)
Một ðiều trớ trêu, hay nói ðúng hõn là "ðồi trụy công lí", trong vấn ðề dioxin, là trong khi cựu quân nhân Mỹ, những ngýời từng xịt ðộc chất xuống Việt Nam, ngày nay tự phát hiện họ bị hóa chất gây ra bệnh tật cho chính họ, và kêu gọi sự cảm thông của quần chúng. Báo chí Mỹ thýờng ðề cập ðến ảnh hýởng của dioxin trong cựu quân nhân Mỹ, nhýng họ rất ít khi nào ðế cập ðến những nạn nhân ngýời Việt ðang ở Việt Nam. Nói nhý tác giả Fred Woodworth, "Ðây là một xu hýớng lạ lùng, giống nhý bọn Nazis từng làm cho ngýời Do Thái chết ngạt vì gas, rồi nay thú nhận rằng ðộc chất ðó làm cho họ mắc bệnh. Nó cũng giống nhý câu chuyện trớ trêu trong tiểu thuyết của Kafka, không làm cho ai cýời nổi."
Những týởng 30 nãm sau khi cuộc chiến kết thúc, chúng ta sẽ biết nhiều hõn về qui mô và tác hại của hóa chất màu da cam, nhýng trong thực tế chúng ta biết không nhiều. Ngay cả những câu hỏi cõ bản nhý bao nhiêu lít hóa chất ðã ðýợc rải xuống Việt Nam, týởng ðã ðýợc trả lời từ lâu qua báo cáo của quân ðội Mỹ, nhýng qua nghiên cứu cực kì công phu này, chúng ta thấy câu trả lời của quân ðội Mỹ thiếu chính xác, và có khuynh hýớng thấp hõn, nhẹ hõn, làm giảm mức ðộ và qui mô của chiến dịch Ranch Hand. Ngay cả con số mà nghiên cứu mới nhất báo cáo vẫn chýa là con số chính xác tuyệt ðối. Con số dioxin, dù cao gấp 4 lần so với ýớc tính trýớc kia, vẫn chýa phải là con số thực, và khả nãng còn cao hõn nhiều. Kết quả của công trình nghiên cứu này, do ðó, làm cho chúng ta phải xem xét lại những hiểu biết về qui mô của cuộc chiến mà Bertrand Russell cho là một cuộc chiến tranh hóa học, và thẩm ðịnh lại những kết quả tích cực cũng nhiêu tiêu cực của những nghiên cứu trýớc ðây.
Một trong những ứng dụng của kết quả nghiên cứu của nhóm Columbia là việc xác ðịnh ðối týợng trong các nghiên cứu týõng lai ở Việt Nam. Ðể xác ðịnh một mối liên hệ giữa một yếu tố và một chứng bệnh, ðiều quan trọng hàng ðầu là xác ðịnh ðối týợng nghiên cứu, tức là những ai mà thông tin y khoa có khẳ nãng thiết thực cho ðề tài và mục tiêu của công trình nghiên cứu. Chẳng hạn nhý nếu muốn xác ðịnh mối liên hệ giữa dioxin hay chất màu da cam và dị tật bẩm sinh, cuộc nghiên cứu phải bao gồm những ngýời từng sống và thực sự bị ảnh hýởng hóa chất trong thời chiến tranh.
Trong quá khứ, có khá nhiều nghiên cứu trên các cựu quân nhân Mỹ kết luận rằng dioxin không có ảnh hýởng ðến bệnh tiểu ðýờng, ung thý tuyến tiền liệt, hay dị tật bẩm sinh. Có thể một trong những lí do mà những nghiên cứu này cho ra kết quả "tiêu cực" là các nhà nghiên cứu ðã chọn các ðối týợng không thích hợp, và ðó là một ðiều mà giới cựu chiến binh Mỹ thýờng hay phàn nàn. Thực ra, ngay cả Cõ quan phòng chống và kiểm soát bệnh tật Mỹ (Centers of Disease Control and Prevention) cũng từng than rằng họ không biết chọn ai làm ðối týợng ðể nghiên cứu. Do ðó, kết quả nghiên cứu của nhóm Columbia ðã giải quyết tháo gỡ một khó khãn cho những nhà nghiên cứu chất màu da cam trong týõng lai. Kết quả này còn ðóng góp một phần tích cực và quan trọng cho các công trình nghiên cứu ở Việt Nam, vì qua bản ðồ sẽ công bố nay mai, các nhà khoa học ở Việt Nam có thể xác ðịnh chính xác ai và ðịa ðiểm nào cần ðýợc nghiên cứu.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 6:57:30 GMT -5
Ðã từ lâu, giới khoa học nýớc ngoài hay nghi ngờ các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam. Họ cho rằng các nhà khoa học Việt Nam có khuynh hýớng ýớc tính mức ðộ ảnh hýởng của hóa chất khai hoang quá cao. Nhýng những nghi ngờ ðó, qua ánh sáng của kết quả nghiên cứu của Ðại học Columbia, là rõ ràng thiếu cõ sở. Ở Ý, chỉ 30 kg dioxin bị thải ra môi trýờng mà ðã gây rất nhiều tác hại cho sức khỏe cý dân trong vùng, kể cả ảnh hýởng ðến hệ thống tái sản sinh, thì ở Việt Nam, với hõn 360 kg dioxin và hõn 76 triệu lít hóa chất khác, mức ðộ tác hại chắc chắn sẽ cao hõn nhiều, và nếu có nhiều bệnh tật [trong cý dân ngýời Việt sống trong các vùng từng bị ảnh hýởng] ðýợc phát hiện thì cũng không phải là một ðiều gì quá xa xỉ.
Nhà nýớc Việt Nam thýờng ðề cập ðến con số 1 triệu cý dân từng bị ảnh hýởng hóa chất khai hoang trong thời chiến. Nhýng theo kết quả nghiên cứu này, con số cý dân bị ảnh hýởng cao hõn nhiều, cao hõn ít nhất là gấp hai lần. Ðó là chýa kể ðến con số cựu quân nhân, những ngýời là ðối týợng chính của chiến dịch Ranch Hand, từng bị ảnh hýởng. Do ðó, trong thực tế, con số ngýời Việt bị ảnh hýởng từ hóa chất khai hoang chắc chắn hõn 2 triệu, hay nhý ýớc tính của các nhà nghiên cứu Columbia là là 4.8 triệu.
Kết quả nghiên cứu của Ðại học Columbia còn góp phần giải thích tại sao hàm lýợng dioxin trong máu của cý dân các vùng từng chịu ảnh hýởng hóa chất khai hoang vẫn còn cao. Theo một nghiên cứu ðýợc công bố khoảng 8 nãm trýớc ðây, hàm lýợng dioxin trong cý dân miền Trung và Nam Việt Nam (nõi từng bị xịt hóa chất) là 15 ppt (15 phần nghìn tỉ - part per trillion), cao hõn so với cý dân miền Bắc Việt Nam (không bị xịt hóa chất trong thời chiến) khoảng 5 lần, và cao hõn cý dân Mỹ khoảng 3 lần [4]. Ngoài ra, có dấu hiệu cho thấy dioxin ðã xâm nhập vào lòng ðất, vì trong thời gian 1982 ðến 1992, hàm lýợng dioxin trong máu của cý dân miền Trung không giảm.
Nghiên cứu của nhóm Columbia còn cho thấy, nhý nhận ðịnh của Viện Y khoa Mỹ, việc tiến hành một chýõng trình nghiên cứu dịch tễ học về tác hại của dioxin hay chất màu da cam trong ngýời Việt Nam ở Việt Nam hết sức cần thiết và quan trọng. Một nghiên cứu nhý thế hoàn toàn có thể thực hiện ðýợc với dữ kiện mới về ðối týợng nghiên cứu mà công trình của Ðại học Columbia cung cấp. Ðã gần 30 nãm sau cuộc chiến, nhýng vẫn chýa có một cuộc nghiên cứu cho qui mô và hệ thống ðể thẩm ðịnh mức ðộ của vấn ðề, mối liên hệ giữa hóa chất màu da cam (hay dioxin) và bệnh tật trong ðồng bào Việt Nam. Trong thời gian gần ðây, cũng có một số nghiên cứu từ Việt Nam với sự giúp ðỡ và cộng tác của các nhà khoa học nýớc ngoài, nhýng những nghiên cứu này chỉ mang tính mô tả, chýa ði sâu vào các vấn ðề cấp bách và thiết thực mà thế giới ðang quan tâm ðến nhý nghiên cứu lâm sàng, di truyền học, và nghiên cứu cõ chế sinh học của tác hại của dioxin, v.v...
Nói tóm lại, công trình nghiên cứu mới nhất của nhóm dịch tễ học tại Ðại học Columbia là một ðóng góp có ý nghĩa và quan trọng vào công cuộc nghiên cứu ảnh hýởng của dioxin nói riêng và hóa chất khai hoang nói chung ở Việt Nam. Nó có thể giải thích tại sao các nghiên cứu trong quá khứ chýa cho ra những kết quả nhất quán. Công trình này còn nhắc nhở chúng ta về qui mô của cuộc chiến, ðặc biệt là – nói theo ngôn ngữ của chính phủ Mỹ nãm 2003 – khía cạnh hủy diệt hàng loạt của một cuộc chiến dính dáng ðến hóa chất.
Chú thích và tài liệu tham khảo:
[1] Xem bài xã luận “New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets’ children,” do Tiến sĩ Joan Stephenson viết trong [Tập san] Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, ra ngày 10 tháng Tý 1996, trang 1066-1067; và “Agent Orange: exposure and policy,” do Tiến sĩ Michael Gough viết trong [Tập san] American Journal of Public Health, nãm 1991; số 81: trang 289-290.
[2] Xem "The extent and patterns of usage of Agent Orange and other herbicides on Vietnam" của tác giả J.M. Stellman, S. D. Stellman, R. Christian, T. Weber, and C. Tomasallo, Tập san Nature, số ra ngày 17/4/2003, bộ 422: trang 681-687.
[3] Xem "A Geographic Information System for Characterizing Exposure to Agent Orange and Other Herbicides in Vietnam", tác giả Jeanne Mager Stellman, Steven D. Stellman, Tracy Weber, Carrie Tomasallo, Andrew B. Stellman, và Richard Christian, Jr.. Tập san Environmental Health Perspectives, bộ 111, số 3, March 2003, trang 321-328.
[4] Xem “Agent Orange and the Vietnamese: the persistence of elevated dioxin levels in human tissues,” Tác giả Arnold Schecter, Tập san American Journal of Public Health, nãm 1995; bộ 85: trang 516-522.
|
|