|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:05:55 GMT -5
Dioxin và tỷ lệ giới tính
Nguyễn Vãn Tuấn
Trong một bài báo khoa học trên Tập san y khoa danh tiếng, Lancet, mới ðây, Giáo sý Paolo Mocarelli và ðồng nghiệp của ông thuộc Trýờng Ðại học Milano-Bicocca (Ý ) và Trung tâm Nghiên cứu Môi trýờng và Y tế (Mỹ ) ðã trình bày một nghiên cứu về ảnh hýởng của chất hóa học 2,3,7,8-Tetrachlorodibenzo-p-dioxin (TCDD, hay còn ðýợc gọi ngắn gọn là dioxin) ðến tỷ lệ giới tính của thai nhi [1]. Theo kết quả của cuộc nghiên cứu này, những ðàn ông bị nhiễm dioxin có xác suất sinh con trai thấp hõn những ðàn ông không bị nhiễm dioxin (hay bị nhiễm nhýng ở mức ðộ thấp). Ðây là một khám phá týõng ðối mới và có tính khêu gợi sự tò mò của nhiều ngýời quan tâm ðến mối liên hệ giữa môi trýờng và sức khỏe của dân chúng. Trong bài viết này, tôi sẽ ðề cập vài chi tiết chính cần biết về dioxin và kết quả cuộc nghiên cứu trên, với hy vọng sẽ ðem lại một ít thông tin cập nhật hóa ðể hầu khai thác cho việc tiến hành một cuộc nghiên cứu týõng tự ở trong nýớc.
Vài hàng về dioxin
Nói ðến dioxin là ngýời ta nghĩ ngay ðến chất ðộc màu da cam (tiếng Anh là Agent Orange, hay AO). Chất ðộc này có hai thành phần hóa học (nói chính xác hõn là hai loại acid) chính: 2-4-dichlorophenoxyacetic và 2,3,7,8-Tetrachlorodibenzo-p-dioxin (tức dioxin). Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, kể từ nãm 1962, Lực lýợng Không quân Mỹ ðã bắt ðầu dùng chất ðộc màu da cam ðể tiêu diệt cỏ ở các vùng ðất thuộc miền Nam và Trung Việt Nam. Nãm 1969, trong một báo cáo khoa học cho Viện Y học, dựa vào các thí nghiệm trên chuột các nhà khoa học Mỹ ðã kết luận rằng một chất ðộc màu da cam có thể gây ra dị thai (birth defect). Nãm 1970, chính phủ Mỹ ra lệnh ngýng dùng chất ðộc màu da cam trong chiến tranh, nhýng trên thực tế, các thuốc khai hoang khác vẫn ðýợc tiếp tục xịt cho ðến nãm 1971 mới cha᭠dứt. Trong thời gian 1962-1971, Không quân Mỹ ðã xịt xuống Việt Nam khoảng 19 triệu gallons (tức khoảng 71.9 triệu lít) thuốc khai hoang, trong ðó có 11 triệu gallons (hay 41.6 triệu lít) AO [2].
Thực ra, dioxin còn ðýợc thấy từ các nguồn kỹ nghệ và thậm chí trong thiên nhiên. Trong những lò ðốt rác ðịa phýõng, lò ðốt các chất thải và dụng cụ y khoa dùng trong nhà thýõng, và các hãng sản xuất giấy cũng là những nõi ðýợc ghi nhận có mức ðộ tích tụ (concentration) dioxin. Ngoài ra, các thức ãn thông thýờng nhý thịt, rau cải, và nhất là các thức ãn ðồ biển (cá, tôm, mực), v.v. cũng chứa một ít dioxin. Vì thế, dân cý sống gần các vùng kỹ nghệ trên, hay những ngýời hay dùng thức ãn ðồ biển, thýờng có mức tích tụ dioxin cao hõn dân cý ở các vùng không khác. Mức ðộ dioxin trong con ngýời có thể ðýợc xác ðịnh qua thử máu, da, và sữa, bằng cách dùng quan phổ kế (spectrometry). Quan phổ kế ðo ðộ dioxin trên mỗi nghìn tỉ particles, hay còn gọi là ppt (parts per trillion).
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:06:20 GMT -5
Tai nạn và ảnh hýởng của dioxin ở Seveso (Ý )
Vào tháng Bảy, nãm 1976, một hãng sản xuất thuốc diệt cỏ 2,4,5-trichlorophenol (TCP) tại vùng Seveso (Ý ) bị cháy, nổ tung, và thải ra môi trýờng chung quanh khoảng 30 kí lô dioxin. Chính quyền ðịa phýõng và các nhà chức trách y tế Ý nghi ngờ là dân cý sống trong vùng có thể bị nhiễm ðộc chất dioxin. Do ðó, kể từ nãm 1977, Chính phủ Ý ðã thành lập một nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học và bác sĩ chuyên nghiên cứu về tác hại của dioxin trong sức khỏe của dân cý trong vùng Seveso và phụ cận.
Cho tới nãm 1996, các nhà nghiên cứu này ðã thu thập ðầy ðủ các số liệu lâm sàng và mẩu máu (dùng ðể xác ðịnh ðộ tích tựu chất dioxin) của nhiều cý dân; trong ðó có 296 bà mẹ và 239 ngýời cha. Trong vòng 20 nãm, có 328 em trai và 346 em gái sinh ra từ 535 cha mẹ này. Tính trung bình, ðộ tích tụ dioxin trong máu ðýợc ghi nhận là 96,5 ppt trong các ngýời cha và 62.5 ppt trong các bà mẹ. Ðể tiện việc so sánh, nhóm nghiên cứu chia các cha mẹ thành hai nhóm: nhóm A gồm các cha mẹ không sống trong vùng bị nhiễm hay sống trong vùng bị nhiễm nhýng có mức tích tụ dioxin trong máu dýới 16 ppt; và nhóm B gồm các cha mẹ sống trong vùng bị nhiễm với mức tích tụ dioxin trong máu từ 16 ppt hay cao hõn.
Trong các ngýời cha thuộc nhóm A, tỷ lệ sinh con trai là khoảng 56%; và nhóm B, chỉ 44%. Trong các bà mẹ thuộc nhóm A, tỷ lệ sinh con trai là 47%; và nhóm B, 49%. Tuy nhiên, nếu cả cha và mẹ bị nhiễm (tức thuộc nhóm B), tỷ lệ sinh con trai chỉ 44%. Nhý vậy, ảnh hýởng của dioxin trong các ngýời cha nghiêm trọng hõn trong các bà mẹ.
Phân tích trong nhóm các ngýời cha bị nhiễm dioxin cho thấy mức ðộ tích tụ dioxin trong máu càng cao càng có ảnh hýởng lớn ðến tỷ lệ sinh con trai. Chẳng hạn nhý trong các ngừõi cha có mức ðộ dioxin từ 61 tới 117 ppt, tỷ lệ sinh con trai là 47%; và dioxin từ 118 trở lên, tỷ lệ nam giới giảm xuống còn chỉ 40%! Quan trọng hõn nữa, các nhà nghiên cứu còn nhận xét rằng những ngýời cha bị nhiễm dioxin trong ðộ tuổi dậy thì có tỷ lệ sinh con trai chỉ khoảng 40%. Ðiều này cho thấy ảnh hýởng của dioxin bắt ðầu rất sớm và thể kéo dài một cách vĩnh viễn.
Ngoài khám phá trên ðây của các nhà nghiên cứu Ý, vài cuộc ðiều tra khoa học trong khoảng mýời nãm qua ở Mỹ và Tô Cách Lan (Scotland) cũng ði ðến một kết luận týõng tự. Trong một nghiên cứu ðýợc tiến hành ở một khu kỹ nghệ thuộc nýớc Scotland [3] ðýợc xem là bị ô nhiễm môi trýờng nhất nhì Aⵠchâu nãm 1992, các nhà khoa học cũng ghi nhận tỷ lệ sinh con trai ở vùng này thấp hõn trung bình. Bốn nãm sau ðó, một nghiên cứu khác ở tiểu bang Minnesota (Mỹ ), các nhà khoa học Mỹ cũng nhận xét là những ngýời cha hay gần gũi với các hóa chất diệt cỏ (nhý công nhân trong hãng thuốc diệt cỏ, công nhân dùng thuốc diệt cỏ, v.v.) có tỷ lệ sinh con trai thấp hõn trung bình (4). Có thể nói tất cả những nghiên cứu này cộng với các dữ kiện của Giáo sý Paolo Mocarelli là những bằng chứng ðáng tin cậy cho sự tác hại của dioxin trong vấn ðề làm mất cân bằng tỷ lệ giới tính, nhất là trong ðàn ông.
Cũng cần nói thêm là trên thế giới, tỷ lệ giới tính týõng ðối ổn ðịnh: cứ 100 trẻ em nữ thì có 106 trẻ em nam ðýợc sinh ra, hay nói theo ngôn ngữ thống kê, tỷ lệ nam giới là 51.4%. Tuy nhiên, ở các nýớc có nền kỹ nghệ tiên tiến nhý Mỹ, Gia Nã Ðại, Ðan Mạch, Thụy Ðiển, và Hoà Lan, tỷ lệ sinh con trai ðã giảm từ 51.6% trong thập niên 70 còn 51.3% trong thập niên 90. Giới nghiên cứu môi trýờng cho rằng vấn ðề ô nhiễm ở các nýớc này là một trong những yếu tố gây ra sự mất cân bằng trong giới tính. Vì thế, một số nhà nghiên cứu y học ðề nghị lấy tỷ lệ giới tính làm một chỉ tiêu về mức ðộ nhiễm ðộc tử cung, hay một chỉ tiêu về sự bất bình thýờng trong quá trình sinh sản.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:08:31 GMT -5
Nguyên nhân?
Nhýng câu hỏi ðýợc ðặt ra là tại sao? Khoa học nghiên cứu về giới tính vẫn còn ðang trong giai ðoạn phôi thai, và vì thế nhiều quan ðiểm về nguyên nhân gây ra sự mất cân bằng giới tính chỉ là những suy luận, chứ ít khi nào dựa vào các số liệu cụ thể. Cho ðến nay, chýa ai hiểu rõ tại sao dioxin lại có ảnh hýởng ðến sự thay ðổi tỷ lệ giới tính nhý thế. Ngay cả nhóm nghiên cứu của Giáo sý Paolo Mocarelli cũng không giải thích ðýợc hiện týợng này, và cũng không ðýa ra một giả thuyết nào ðáng tin cậy. Tuy nhiên, một "hiện týợng" sinh học mà các nhà nghiên cứu y khoa ðã ghi nhận từ lâu là trong mỗi giai ðoạn sống, ngay cả từ lúc thụ tinh, phái nam có tuổi thọ trung bình ngắn hõn phái nữ. Và nếu dioxin có khả nãng ảnh hýởng từ giai ðoạn thụ thai, thì hiện týợng thất thoát nam giới là một ðiều có thể hiểu ðýợc.
Nhýng bất kể vì lý do sinh học gì, một thực tế khó phủ nhận ðýợc là dioxin có nhiều tác hại ðến sức khỏe con ngýời, không những chỉ giới hạn trong việc làm thay ðổi tỷ lệ giới tính, mà còn gây ra nhiều cãn bệnh nguy hiểm khác, nhất là ung thý. Trong một báo cáo khoa học mật sắp ðýợc ðệ trình lên Quốc hội Mỹ (nhýng ðã bị tiết lộ ra ngoài báo chí gần ðây), các nhà nghiên cứu Mỹ ðã khẳng ðịnh rằng dioxin gây ra nhiều ung thý trong con ngýời, kể cả ung thý máu và ung thý phổi. Họ cũng ðề nghị Cõ quan Bảo vệ Môi trýờng Mỹ (Environmental Protection Agency, EPA) phân loại lại dioxin là ðộc chất số một, tức ðộc hại nhất trong các hóa chất. Týởng cần nhắc lại là trýớc ðây, EPA chỉ phân loại dioxin nhý là một chất "có thể gây ra ung thý". Nhý vậy, qua bản týờng trình này và các nghiên cứu trong vài thập niên qua, dioxin ðã từ từ lộ nguyên hình là một ðộc chất nguy hiểm nhất do con ngýời tạo ra và biết ðến.
Cõ hội trong nýớc
Nếu so sánh mức ðộ ô nhiễm ở vùng Seveso gây ra bởi 30 kg dioxin và hõn 42 triệu lít chất màu da cam ðýợc rải xuống Việt Nam, thì ai cũng thấy sự nghiêm trọng của vấn ðề ở nýớc ta. Trong hầu nhý tất cả các báo cáo khoa học có liên quan tới dioxin mà tôi ðã từng theo dõi, các nhà khoa học ðều ðề cập và trong ðợi các số liệu ðến từ phía Việt Nam. Ðiều này cũng dễ hiểu, vì ðại ða số các nghiên cứu trong thời gian qua về chất ðộc màu da cam và dioxin ðều tập trung vào ðối týợng là những ngýời dùng nó trong chiến tranh (tức là quân nhân Mỹ ), nhýng một ðối týợng ðáng lẽ cần và ðáng nhận ðýợc sự ýu tiên và quan tâm nhiều hõn là những nạn nhân của nó: ðồng bào Việt Nam sống ở các vùng bị ảnh hýởng ðộc chất này. Thực vậy, nếu sự tác hại của ðộc chất dioxin cần ðýợc chứng minh cụ thể và thuyết phục, những nạn nhân trực tiếp của nó (chứ không phải những ðối týợng gián tiếp) mới là những bằng chứng lý týởng cho nghiên cứu khoa học.
Tất cả các dữ kiện về ảnh hýởng của chất ðộc màu da cam ðến sức khỏe của dân chúng ở Việt Nam cần và nên ðýợc công bố trên các diễn ðàn khoa học có uy tín trên thế giới. Nhýng trên thực tế, số liệu về chất ðộc màu da cam trong dân số Việt Nam rất hiếm, do thiếu nghiên cứu. Theo tôi biết, chýa có một nghiên cứu nào ở Việt Nam liên quan ðến tác hại của chất ðộc màu da cam trong dân cý ngýời Việt ðýợc công bố trên các tờ tạp chí y học hàng ðầu nhý New England Journal of Medicine, Lancet, Annals of Internal Medicine, Journal of the American Medical Association, v.v.. Tuy nhiên, nếu các nghiên cứu ở Việt Nam ðýợc tiến hành một cách có hệ thống và phýõng pháp thì cõ hội ðýợc công bố trên các diễn ðàn quan trọng này không phải là một ðiều khó khãn. Tôi tin rằng các tạp chí này sẵn sàng công bố các dữ kiện từ Việt Nam.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học trong nýớc có cõ hội và ðiều kiện ðể tiến hành các cuộc nghiên cứu qui mô nhý các nhóm nghiên cứu Ý ðã làm. Nhýng có dấu hiệu cho thấy phía Việt Nam chýa có quyết tâm tiến hành nghiên cứu vì nhiều lý do liên quan ðến ngoại giao và kinh tế. Nhýng nếu không nghiên cứu thì vấn ðề này sẽ còn mù mờ, và phán ðoán theo cảm tính vẫn còn kéo dài.
Ghi chú
1.Bài báo nghiên cứu của Giáo sý Paolo Mocarelli và ðồng nghiệp có tên là "Paternal concentration of dixin and sex ratio of offspring", công bố trên Tập san y khoa Lancet, số 355, ra ngày 27 tháng 5, 2000, trang 1858-1863.
2.Xem bài xã luận "New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets’ children," do Tiến sĩ Joan Stephenson viết trong [Tập san] Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, ra ngày 10 tháng Tý 1996, trang 1066-1067. Xem báo cáo khoa học "Pesticide appliers, biocides, and birth defects in rural Minnesota", của nhóm nghiên cứu Garry VF, Schreinemachers D, Harkins ME, Griffith J, ðãng trên Tập san Environmental Health Perspective, số 104, tháng Tý , nãm 1996, trang 394-9.
3.Xem báo cáo khoa học "Low sex ratios of births in areas at risk from air pollution from incinerators, as shown by geographical analysis and 3-dimensional mapping", của nhóm nghiên cứu Williams FL, Lawson AB, Lloyd OL, ðãng trên [Tập san] International Journal of Epidemiology, số tháng Tý, nãm 1992, trang 311-9.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:18:49 GMT -5
Dioxin trong thực phẩm Mỹ và thực phẩm nhập cảng từ Việt Nam
Nguyễn Vãn Tuấn
Dioxin thýờng hiện diện trong môi trýờng, và thýờng hay tích lũy trong hệ sinh vật và thực phẩm, ðặc biệt là trong những thực phẩm có nhiều chất béo (nhý mỡ chẳng hạn) và sữa bò. Do ðó, có thể tìm thấy dioxins ở mọi tầng sinh quyển, kể cả mô (tissues) của con ngýời.
Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, Không quân Mỹ ðã xịt khoảng 71.9 triệu lít chất khai hoang xuống một số vùng thuộc miền Trung và Nam Việt Nam [1]. Trong số này có khoảng 41.6 triệu lít chất màu da cam (còn gọi là Agent Orange). Chất màu da cam có chứa dioxin. Tổng diện tích ðất bị ảnh hýởng chất màu da cam ðýợc ýớc tính là khoảng 1.5 triệu ha.
Nãm 1995, Giáo sý Arnold Schecter và một số ðồng nghiệp Việt – Mỹ tiến hành một nghiên cứu qui mô trên hõn 3200 cý dân sinh sống ở các vùng thuộc miền Nam và Trung ðýợc xem là bị ảnh hýởng chất màu da cam trong thời chiến, và một số ðịa ðiểm miền Bắc Việt Nam ðýợc xem là không bị rải chất màu da cam trong thời chiến. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số vùng thuộc tỉnh Sông Bé, Biên Hòa và Cần Thõ có mức ðộ tích tụ cao hõn các vùng khác trong miền Nam và Trung Việt Nam. Ngýợc lại, mức ðộ tích tụ TCDD ở miền Bắc Việt Nam thấp nhất. Qua so sánh, mức ðộ tích tụ TCDD trong máu ở miền Trung và Nam, tính trung bình, cao hõn mức ðộ ở miền Bắc ðến 6 lần. Tuy nhiên, mức ðộ khác biệt giữa hai vùng (Trung & Nam và Bắc) này không ðýợc ghi nhận trong các hợp chất khác nhý chlorinated dioxins hay furans. Bởi vì TCDD là một chất ô nhiễm chính trong chất màu da cam, kết quả nghiên cứu này cho thấy TCDD có thể ðã len lỏi vào nguồn thực phẩm trong một số cý dân.
Cho ðến nãm 2000, vẫn chýa có một nghiên cứu có hệ thống nào ðýợc tiến hành ðể ýớc lýợng nồng ðộ dioxins trong thực phẩm Việt Nam. Nhýng trên tờ nhật báo Orange County Register (OCR, California, Mỹ ), số ra ngày 3 Tháng Một, 2002, kí giả John Gittelsohn týờng thuật những phát biểu của ông Mai Thanh Truyết, ngýời ðang quản lí một phòng phân tích nýớc ở West Covina, và ông Nguyễn Minh Quang, một kỹ sý công chánh, cho rằng thực phẩm nhập cảng từ Việt Nam vào Mỹ bị nhiễm chất DDT. Tuy nhiên, hai ông không ðýa ra một bằng chứng khoa học ðáng tin cậy nào ðể làm cõ sở cho phát biểu quan trọng này. Nhiều báo chí Việt ngữ khắp thế giới thuật lại lời tuyên bố này, và gây ra nhiều hoang mang trong cộng ðồng ngýời Việt hải ngoại.
Theo sau phát biểu của hai ông Mai Thanh Truyết và Nguyễn Minh Quang, một số ngýời Mỹ gốc Việt còn thừa cõ hội này, phát ðộng một chiến dịch tẩy chay hàng hóa và thực phẩm Việt Nam. Họ tung ra những bản tin không rõ nguồn gốc cho rằng thực phẩm Việt Nam nhập vào Mỹ bị nhiễm dioxins. Có ngýời còn phóng lên internet những bài viết bằng tiếng Anh cho rằng cá tra (cá ba-sa) Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ ðýợc nuôi bằng phân ngýời. Cũng nhý nhiều vấn ðề cộng ðồng khác, những ngýời chống nhập thực phẩm Việt Nam không hề trýng dẫn một bằng chứng khoa học nào ðể làm cõ sở cho luận ðiểm của mình.
Nhýng gần ðây, Giáo sý Arnold Schecter vừa tiến hành một nghiên cứu liên quan ðến cá nhập cảng từ Việt Nam vào Mỹ. Ông thử nghiệm 20 mẫu cá sản xuất ở Việt Nam và ðýợc bày bán ở hai bang Texas và California, nõi tập trung ðông ðảo ngýời Việt. Kết quả nghiên cứu này cho thấy cá nhập cảng từ Việt Nam có hàm lýợng dioxin rất thấp [3]. Thấp nhý thế nào? Ông Schecter lấy một ví dụ nhý sau: chẳng hạn nhý trong một mẫu cá tra (catfish) ðýợc phân tích, hàm lýợng tích tụ dioxin chỉ 0.01 phần trong một ngàn tỉ (0.01 parts per trillion, hay 0.01 ppt) [4].
Mức ðộ tích tụ dioxin trong cá tra trên ðây quả rất thấp so với thực phẩm Mỹ. Theo một số nghiên cứu ðýợc công bố gần ðây, trong các thực phẩm bày bán ở Mỹ chứa một hàm lýợng dioxin týõng ðối cao, nhýng chýa hẳn ở mức ðộ ðáng quan tâm. Chẳng hạn nhý theo một nghiên cứu ðýợc công bố vào nãm 2001, nồng ðộ dioxin trong cá nýớc ngọt là 1.7 ppt; trong kem (ice cream), 0.33 ðến 0.51 ppt; trong sữa, 0.16 ppt; trong bõ (butter), 1.1 ppt [5]. Ngoài ra, còn có bằng chứng khoa học cho thấy những thực phẩm nhý cá tra ("catfish " ) khi ðýợc nấu chín hay ðun sôi thì nồng ðộ PCDD sẽ giảm xuống ðến 50% [6].
Ngay cả thức ãn làm sẵn (fast food) cũng có chứa dioxin, nhýng không ở mức ðộ nguy hiểm ðến sức khỏe con ngýời. Theo một nghiên ðýợc công bố nãm 1997, nồng ðộ dioxin trong hamburger (loại Big Mac của công ty McDonald) là 0.03 ðến 0.28 ppt; Pizza, từ 0.03 ðến 0.29 ppt; trong KFC, từ 0.01 ðến 0.31 ppt, và trong kem, từ 0.03 ðến 0.49 ppt [7].
Nhý vậy, qua nghiên cứu mới nhất của Giáo sý Arnold Schecter, chúng ta ðã có một số dữ kiện sõ khởi cho thấy cá nhập cảng từ Việt Nam vào Mỹ rất an toàn, thậm chí có nồng ðộ dioxin thấp hõn cá nýớc ngọt và một số thực phẩm của Mỹ.
|
|
|
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:19:11 GMT -5
Chú thích:
1.Theo tài liệu Record, 4th SECDEF Conference, HQ CINCPAC, March 21, 1962. Trích từ "Operation Ranch Hand: Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr; và bài xã luận "New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets’ children," do Tiến sĩ Joan Stephenson viết trong Tạp san Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, ra ngày 10 tháng Tý 1996, trang 1066-1067.
2.Báo cáo khoa học của Arnold Schecter và ðồng nghiệp tựa ðề "Agent Orange and the Vietnamese: the persistence of elevated dioxin levels in human tissues," Tập san American Journal of Public Health 1995 Apr;85(4):516-522.
3.Theo bản tin ngày 1 Tháng Ba, 2002, của kí giả David Brunnstrom ðánh ði từ Hà Nội nhân kỳ Hội nghị Việt – Mỹ về các vấn ðề liên quan ðến dioxins do Viện Môi Trýờng (Mỹ ) và Bộ Y tế (Việt Nam) tổ chức, nguyên vãn: "Tests for the University of Texas on 20 samples of Vietnamese fish bought in Texas and California found dioxin levels that were generally lower than in US food products." Mức ðộ tích tụ dioxin trong thực phẩm thýờng ðýợc ðo lýờng bằng Hệ số ðộc hại týõng ðýõng (toxic equivalents, hay Teq). Hệ số này ðýợc tính toán bằng cách lấy hàm lýợng dioxin nhân với một thừa số týõng ðýõng, ðể so sánh với mức ðộ ðộc hại của TCDD. TCDD là loại dioxin ðộc hại nhất trong các loại dioxins. Xem báo cáo khoa học "Intake of dioxins and related compounds from food in the U.S. population," [Tập san] Journal of Toxicology and Environmental Health A, nãm 2001, Bộ 11, trang 1-18.
4.Xem báo cáo khoa học "A comparison of dioxins, dibenzofurans and coplanar PCBs in uncooked and broiled ground beef, catfish and bacon," Tập san Chemosphere, nãm 1998, số Tháng 10-11, trang 1723-1730.
5.Xem báo cáo khoa học " Dioxins , dibenzofurans, dioxin-like PCBs, and DDE in U.S. fast food, 1995," Tập san Chemosphere, nãm 1997, Bộ 34, trang 1449-1457.
|
|
|
Post by Robot on Apr 1, 2004 15:33:12 GMT -5
Hỏi đáp về thông tin dioxin cho giới trẻ TTO - Nhóm Thông tin dioxin tại Pháp vừa giới thiệu trang web hỏi và đáp về chất độc màu da cam bằng tiếng Việt tại địa chỉ www.infres.enst.fr/~dang/dioxin/dioxin-faq.htm. Đây là kênh thông tin do một nhóm sinh viên VN tại Pháp thực hiện với sự giúp đỡ của nhiều cơ quan và cá nhân khác. Trước đây, các bạn đã lập ra hệ thống email tập thể để giải đáp và tuyên truyền các thông tin về chất độc màu da cam trong giới trẻ để ủng hộ vụ kiện của các nạn nhân Việt Nam tại địa chỉ email: thongtindioxin@hotmail.com. Mới ra đời, website này chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp các thông tin cơ bản về chất độc màu da cam và một vài hình ảnh xoay quanh vấn đề này. Các bạn hiện đang xây dựng một trang web khác hoàn chỉnh hơn để có thể giới thiệu thông tin nhiều chiều với thanh niên Việt Nam trên thế giới. T.V.NGUYÊN
|
|
|
Post by Robot on Jul 15, 2004 23:23:38 GMT -5
TP.HCM: Thiết bị siêu nhạy để phát hiện dioxin (VietNamNet) - Một thiết bị phân tích siêu nhạy, có thể phát hiện dioxin trong mẫu vật ở mức... "siêu vết" 0,01 picrogam (hay ppt, với 1ppt = 1 phần tỷ tỷ gam) vừa được UBND TP.HCM đầu tư, trang bị cho Trung tâm Dịch vụ Phân tích Thí nghiệm (TTDVPTTN) thuộc Sở Khoa học - Công nghệ TP.HCM. Thiết bị phân tích dioxin. (Ảnh: Thu Thảo) Đó là thiết bị sắc ký khí ghép khối phổ với độ phân giải cao, hoạt động theo nguyên lý bắn từ trường vào mẫu vật (đã qua xử lý). Sau đó, thiết bị tự động đo quang phổ của những ion phát ra từ mẫu vật để phát hiện xem có phải là dioxin không. Các kết quả phân tích sẽ được thể hiện và lưu trữ trên máy tính trong một phần mềm riêng. Trừ công đoạn xử lý mẫu (ba -bốn ngày), còn thời gian từ khi đưa mẫu vào thiết bị để phân tích chỉ trong ngày là biết kết quả. Đặc biệt, thiết bị này có thể phân tích 98 mẫu cùng lúc. Với thiết bị trị giá 6,7 tỷ đồng này, từ nay TTDVPTTN hoàn toàn có khả năng kiểm tra các mẫu vật (cá, thịt, dầu, mỡ, nông sản, thủy sản...) xem có chứa dioxin ở mức "siêu vết" hay không. Theo các tiêu chuẩn hiện hành của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), giới hạn tối đa cho phép của dioxin có trong cá là 4 picrogam, thịt heo 1 picrogam, thịt gia cầm 1 picrogam, sữa 3 picrogam, mỡ động vật 1 picrogam. www.vnn.vn/dataimages/original/images289491_t_tachchietmau160704.jpg[/img] Nhân viên phòng thí nghiệm xử lý mẫu vật trước khi đưa vào thiết bị phân tích để kiểm nghiệm dioxin. (Ảnh: Thu Thảo) Dự kiến giá xét nghiệm dioxin cho một mẫu vật vào khoảng mười triệu đồng. Dioxin là tên gọi chung của 210 hóa chất trong nhóm dibenzodioxin, dibenzofurans, và các PCB (polychlorinated diphenyl). Đây là một loại hóa chất cực độc, với liều lượng gây chết người là 0,1mg với một người có thể trọng 50kg. Nó cũng có thể tích lũy lâu dài trong cơ thể người và gây ra ung thư hoặc quái thai khi người bị nhiễm sinh con cái. Trước khi có thiết bị nói trên, TTDVPTTN cũng có một thiết bị để phân tích dioxin đã hoạt động được 15 năm. Thiết bị cũ ấy chỉ có thể phát hiện dioxin trong mẫu vật ở mức 0,5ppt và mỗi lần phân tích, chỉ xét nghiệm được một mẫu. Hiện TTDVPTTN đang gấp rút đào tạo nhân viên, chạy thử nghiệm thiết bị để đưa vào vận hành chính thức từ tháng 8 tới đây. Theo TS Đinh Công Tuấn, phó giám đốc TTDVPTTN, mỗi năm có khoảng 50 mẫu vật do khách hàng gởi đến Trung tâm yêu cầu phân tích dioxin. Trong thời gian tới, nhu cầu phân tích dioxin sẽ ngày càng tăng do yêu cầu xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ, EU. Các thị trường này thường đòi hỏi kiểm tra nghiêm ngặt nồng độ dioxin trong thực phẩm, nông sản, thủy sản và phải phân tích hàm lượng của 17 chất đồng phân trong tổng số hơn 200 hoá chất trong nhóm dioxin. ● Nông Khắc Ý Mẫu vật được hoà tan vào dung môi để làm sạch, sau đó được quay ly tâm để tiếp tục làm sạch. (Ảnh: Thu Thảo) Sau khi xử lý, mẫu vật chỉ còn lại là một dung dịch chứa trong ống nghiệm nhỏ, dung tích vài ml. Hộp đặt mẫu của thiết bị phân tích dioxin có thể chứa 98 ống nghiệm để phân tích 98 mẫu cùng lúc. (Ảnh: Thu Thảo) www.vnn.vn/dataimages/normal/images289497_t_maytinhdkmay160704.jpg[/img]Sau khi đặt mẫu vào hộp đặt mẫu, nhân viên cho thiết bị hoạt động và đọc kết quả trên máy tính xem mẫu có chứa dioxin không. (Ảnh: Thu Thảo)
|
|
|
Post by Robot on Jul 27, 2004 10:44:48 GMT -5
Dioxin: cứa qua nhiều thế hệ www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=43118&ChannelID=3 Hai chị em Vóat Thị Ri (phải) và Voát Chia - nạn nhân chất độc da cam ở sóc Thiết, xã Hòa Hiệp, huyện Tân Biên. Ri đã 18 tuổi, nhưng cơ thể bé tẹo, các chi rất ngắn. Ri năm nay học lớp bốn và là học sinh giỏi nhất lớp trong bốn năm liền TTO - Trong khi vấn đề nạn nhân chất độc hóa học trong chiến tranh VN đang nóng lên sau khi Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin VN phát đơn kiện 37 công ty Mỹ sản xuất chất độc hoá học, tại các vùng nông thôn VN, những nạn nhân của chất độc hóa học thời chiến tranh vẫn đang lặng lẽ sống, lặng lẽ cam chịu. Là một một trong những nơi bị rải nhiều chất dioxin nhất, toàn tỉnh Tây Ninh được ước tính có 7.000 người nhiễm chất dioxin. Và những mảnh đời bất hạnh ấy thường là kết quả tình yêu của những người lính. Mỗi mảnh đời là một câu chuyện buồn. Cả Em Nguyễn Thị Ngọc Hạnh và cha con anh Huỳnh Văn Sơn, Huỳnh Văn Tùng đều sống bằng nghề làm cỏ mướn - công việc rất khó khăn đối với những cơ thể tật nguyền do nhiễm chất độc da cam. Như hầu hết các nạn nhân nhiễm dioxin tại Tây Ninh, Hạnh không được đi học. Cuộc đời em cơ cực từ 18 năm nay. Nhìn đôi chân của em được chẩn đoán là bị khoèo do dị tật bẩm sinh, mọi người không thể tin rằng đôi chân ấy góp phần đáng kể vào thu nhập gia đình dù chỉ là đi làm cỏ mướn. Anh Đỗ Xuân Nghinh quê Thanh Hóa nhập ngũ từ năm 1974, vào chiến trường Tây Ninh từ đầu năm 1975 và sau đó chiến đấu tại chiến trường K tâm sự: “Tôi không biết mình bị nhiễm độc vào lúc nào, ở đâu, nhưng con tôi sinh ra thì như thế này”, anh Nghinh chỉ tay vào đứa con tên Đỗ Xuân Bằng đang nằm thiêm thiếp trên tay vợ. Em Đỗ Xuân Bằng trên tay mẹ 18 năm nay “Sinh con ra, đến nay đã tròn 18 năm, chưa bao giờ thấy con cười, cơ thể như là một đứa bé còn ẵm ngửa”, chị Mai - vợ anh tâm sự. Mười tám năm ôm con, nuôi con trong tuyệt vọng - một thử thách quá lớn đối với hai vợ chồng nghèo. Anh Nghinh làm nghề cắt chữ, vẽ bảng hiệu - một nghề đang bị lạc hậu bởi sự cạnh tranh của kỹ thuật vi tính hiện đại. Đã vậy, anh Nghinh cho biết ngay cả căn nhà anh đang sống hiện cũng đã đem thế chấp ngân hàng lấy tiền chạy thuốc cho con mỗi lần đi cấp cứu. Gia đình anh Nghinh là một trong những trường hợp nạn nhân ít được cá nhân hay tổ chức nào giúp đỡ vì ở tận vùng Tân Biên xa xôi. Ông Đỗ Văn Đức - cán bộ của Hội chữ thập đỏ huyện Tân Biên cho biết trong số 53 trường hợp bị nhiễm dioxin ở huyện, chỉ có 4-5 trường hợp là người dân tộc Khơ-Me. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là các gia đình bị nhiễm độc thường nghèo, nên một người bị bệnh thì tốn thêm một người trông coi, đời sống khó khăn, học hành không được… là nỗi bức xúc chưa có lối ra. Quay đi, lại thấy những ngả đường Tân Biên nắng bụi mưa lầy. Cách nơi này tròm trèm hai mươi cây số là đất CamPuChia, vùng xa xôi ấy đang nghe nỗi đau chiến tranh cứa qua từng thế hệ. Bởi chất độc dioxin khi đã vào máu người thì ít nhất cũng một trăm năm sau, tức tương đương thế hệ thứ tư mới bị gần hết khả năng bị tật bệnh. Do vậy, đến bây giờ VN mới khởi kiện các công ty sản xuất hóa chất độc sử dụng trong chiến tranh VN là một việc muộn màng. Muộn màng bởi đã sau 43 năm kể từ khi loạt chất độc đầu tiên rải xuống đất VN, khi con số người nhiễm chất độc trên toàn cõi VN đã lên đến 5 triệu người, khi mà, những ca nhiễm chất độc dioxin mới nhất được xác định là đang ở thế hệ thứ 3…. Tôi lại nhớ bé Hạnh, nhớ cha con anh Sơn và bé Tùng - những nạn nhân đã gắn bó nhiều đời với mảnh đất đã mang lại cho họ chất dioxin cay nghiệt tước mất quyền được làm một người lành lặn. Trên mảnh đất ấy, họ đang sống bằng cuộc đời làm thuê, không ruộng. Oái ăm thay! LAM ĐIỀN
|
|
|
Post by Robot on Nov 9, 2004 11:02:45 GMT -5
Quảng Nam:
250 kg chất độc hoá học ở hồ thuỷ điện A Vương
TTO - Sáng nay (9-11), tại cuộc làm việc với lãnh đạo tỉnh, Thượng tá Lê Trọng Thảo, Trưởng phòng hoá học, Bộ tư lệnh quân đoàn 3, Bộ Quốc phòng đã chính thức công bố kết quả khảo sát công tác xử lý chật độc hoá học của Mỹ rải xuống khu vực lòng hồ nhà máy thuỷ điện A Vương, huyện Đông Giang, Quảng Nam.
Qua công tác khảo sát đánh giá, xử lý chất độc hoá học trên diện tích 941,6 ha, đã phát hiện 11 khu vực, diện tích 95/941,6 ha bị nhiễm chất độc OB của Mỹ rãi xuống trong chiến tranh, với tổng khối lượng chất độc OB cần phải thu gom xử lý là 251,50 kg.
Toàn bộ lượng chất độc hoá học này đã nhiễm sâu vào lòng đất 0,5m, phát tán trong không khí và nguồn nước. Theo đánh giá ban đầu, lượng chất độc tại 11 khu vực này đều có cùng chung chủng loại, với tên khoa học là: OcTo Cloro Benzin Liden MaLaNo Ni Tril.
Đây là loại chất độc OB chậm tan, rất nguy hiểm, ảnh hưởng lâu dài đến môi trường sống và tác nhân gây nhiều loại bệnh, gây quái thai, di tật cho trẻ em khi phải tiếp xúc, đã tồn tại trong môi trường khu vực hơn 30 năm nay.
HOÀI NHÂN
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 8:55:05 GMT -5
Người quản lý website về dioxin đầu tiên tại VN
Hình ảnh những cựu chiến binh chịu ảnh hưởng chất độc da cam trong một đoạn phim cứ ám ảnh Nguyễn Thị Bích Ngọc, để rồi 3 năm sau, cô sinh viên năm thứ tư Khoa Quốc tế, ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, trở thành người quản lý website đầu tiên về chất độc da cam ở VN. Trang chủ của trang web chatdocdacam.org
Từ khi là sinh viên năm thứ hai, Nguyễn Thị Bích Ngọc đã tham gia nghiên cứu khoa học với đề tài “Chất độc da cam - Tình hình và hậu quả”. Công trình được đưa lên trang web của Diễn đàn sinh viên du học Pháp và được anh Trịnh Công Thanh, người quản lý diễn đàn thanh niên khuyết tật Việt Nam, động viên và góp ý nên thiết lập một trang web về dioxin.
"Những trang web về vấn đề này bằng tiếng Anh rất nhiều. Vậy tại sao, ngay trên đất nước mà hằng ngày, hằng giờ nhiều thế hệ Việt Nam đang phải chịu những mất mát, đau thương lại không có một địa chỉ cung cấp những thông tin đó”, Ngọc tâm sự.
Đầu năm nay, website được lập trình song do chưa vừa lòng về tên miền, đường truyền, biểu tượng, slogan, phải nhờ đường link của Diễn đàn Sinh viên du học Pháp nên phải đến ngày 13/9, website chatdocdacam.org mới chính thức ra mắt. Mới đầu, Ngọc và những người sáng lập muốn đặt một cái tên khác song khi nghe ý kiến góp ý của Giáo sư Nguyễn Trọng Nhân, Phó chủ tịch Hội nạn nhân da cam/dioxin, thì họ quyết định đặt một tên tiếng Việt cho dễ nhớ.
Những khó khăn trong việc thu thập tài liệu, chuẩn bị một thư viện ảnh đồ sộ về những nạn nhân dioxin Việt Nam khiến Ngọc mất rất nhiều công sức. Thư viện quốc gia trở thành nơi thường xuyên lui tới của cô sinh viên mỗi khi có thời gian rảnh rỗi. Để tìm hiểu về những hoàn cảnh cuộc sống của các nạn nhân, Ngọc cùng với những tình nguyện viên của các câu lạc bộ Tri thức xanh, Ước mơ xanh, Hội sinh viên khuyết tật Việt Nam... đến làng Hoà Bình, Hữu Nghị gặp gỡ, giúp đỡ những em nhỏ mang di chứng chiến tranh hoá học, tổ chức những hoạt động quyên góp từ thiện, thu thập tài liệu từ Uỷ ban 33, Uỷ ban 10-80 (những uỷ ban có nhiều nghiên cứu về dioxin tại Việt Nam). Nhờ sự giúp đỡ của những người bạn trong Câu lạc bộ Tình nguyện trẻ của báo Sinh viên Việt Nam nên công việc chuẩn bị cho trang web của Ngọc được tiến triển thuận lợi.
Đến nay, sau hơn 2 tháng ra đời, trang web đã có hơn 20.000 lượt người truy cập, nhiều thư từ mọi miền đất nước gửi về chia sẻ và cung cấp thông tin. Trao đổi với VnExpress về dự định sắp tới, Ngọc bày tỏ mong muốn tổ chức những chương trình chiếu phim liên quan đến dioxin tại các trường đại học: "Trước tiên, kế hoạch được triển khai tại 4 trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, ĐH Ngoại Ngữ, Học viện Quan hệ Quốc tế và Phân viện báo chí tuyên truyền".
Phương Vũ
|
|
|
Post by Robot on Dec 4, 2004 4:03:36 GMT -5
Lời cảnh báo từ "thung lũng chết" Biển báo nguy cơ nhiễm dioxin tại “thung lũng chết”. Trong đợt sinh hoạt chính trị "Thắp sáng lửa truyền thống" - hành trình về thăm quê hương Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại tỉnh Thừa Thiên - Huế do Trung ương Đoàn tổ chức giữa tháng 10/2004, Báo Thanh Niên đã kết hợp với Công ty Xe máy Đô Thành (TP Hồ Chí Minh) đến thăm, tặng tiền, quà cho các nạn nhân chất độc da cam tại A Lưới - một huyện biên giới miền núi của tỉnh này. Thế nhưng, trước khi đặt chân đến xã Đông Sơn của huyện A Lưới, một đồng nghiệp của chúng tôi ở Đài Truyền hình Thừa Thiên - Huế luôn nhắc đi nhắc lại rằng mọi người không nên ăn hoặc uống bất cứ thứ gì ở vùng đất này cả, lý do là ở đây dư lượng chất độc hóa học (trong đó có dioxin) tồn đọng trong môi trường còn rất cao. Cha con ông Lê Văn Dê - Lê Văn Loan (huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế ) đều bị nhiễm chất độc da cam - ảnh: Bùi Chiến. Quả thực, khi chúng tôi có mặt tại khu vực sân bay quân sự A Sao - căn cứ chiến lược cũ của quân đội Mỹ, một thung lũng nằm trơ trọi giữa xung quanh là núi, mới thấy hết ý nghĩa lời nhắc nhở của anh bạn đồng nghiệp. Cách khu dân cư và UBND xã Đông Sơn không quá 1 km, ven con đường cắt ngang sân bay A Sao có một tấm biển báo (ảnh) mà bất kỳ ai, sau khi đọc xong cũng phải giật mình. Nội dung như sau: "Trong chiến dịch Ranch Hand (1961- 1971), Mỹ đã rải xuống khu vực A Lưới lượng lớn bom đạn và chất độc hóa học (hơn 300 phi vụ rải với gần 500.000 gallons chất diệt cỏ, trong đó trên 50% là chất da cam có chứa dioxin). Sân bay A Sho (tức A Sao) - căn cứ quân sự của Mỹ xây dựng năm 1960, được giải phóng năm 1966. Chính nơi đây Mỹ đã rải chất da cam hủy diệt môi trường sinh thái nặng nề nhất với nồng độ trên 70 Gal/km2. Đến nay khu vực này môi trường vẫn còn bị ô nhiễm nặng bởi dioxin chứa trong chất diệt cỏ chiến tranh. Kết quả nghiên cứu (1994 - 2000) của UB 10 - 80, HATFIELD CONSUN Co. LTD CANADA đã chỉ ra khu vực trung tâm sân bay A Sho là "điểm nóng dioxin". Lượng tồn dư dioxin trong đất và một số loại thực phẩm như mỡ cá, gà, vịt... còn cao trên mức cho phép. Để phòng chống tái nhiễm dioxin: không sống, canh tác, nuôi trồng, đánh bắt trong khu vực sân bay A Sho; không ăn mỡ và gan của các loại cá, gà, vịt nuôi ở khu vực xã Đông Sơn (A Sho cũ )". Các nghiên cứu khoa học và thống kê cho thấy, chất độc hóa học - nhất là dioxin mà quân đội Mỹ rải xuống Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh không chỉ hủy diệt môi trường tự nhiên mà còn để lại di chứng cho hơn 1 triệu nạn nhân vô tội người Việt Nam với nhiều thế hệ khác nhau. Và hiện nay, các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đang tiến hành các thủ tục khởi kiện quân đội, các công ty hóa chất và chính phủ Mỹ, đòi bồi thường trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần bởi những thiệt hại gây ra từ chất độc hóa học quá thảm khốc. Vụ kiện đang được tòa án quận Đông, tiểu bang New York (Mỹ ) thụ lý xem xét và dự kiến phiên tranh tụng sẽ diễn ra vào ngày 13/1/2005. Dĩ nhiên, với nội dung công bố công khai trên tấm biển đặt ở sân bay quân sự A Sao, một lần nữa cho thấy đó là một trong vô số những bằng chứng sống động tố cáo tội ác của chính phủ và quân đội Mỹ thực hiện trong chiến tranh tại Việt Nam, đồng thời khẳng định rằng những cuộc chiến tranh xâm lược đều là chiến tranh phi nghĩa, vấy tội ác, không chối cãi được. Có thể nói, theo diễn tiến của vụ việc thì vụ kiện này không chỉ có nhân dân Việt Nam hết sức quan tâm theo dõi, mà còn được sự ủng hộ về nhiều mặt của đông đảo nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả những người dân có lương tri đang sinh sống trên đất Mỹ. Ở đây, chúng tôi cũng muốn đề cập thêm một vấn đề bức bách nữa mà khi nhắc đến mọi người luôn tỏ ra băn khoăn, đó là cuộc sống của hơn 1.000 người dân ở xã Đông Sơn, liệu họ sẽ thế nào khi đang cư ngụ tại "thung lũng chết" này ? Bởi ngoài việc sinh sống, nhiều hộ gia đình ở đây còn thả rong các loại gia súc, gia cầm như trâu, bò, heo, gà, vịt... ngay tại khu vực trung tâm sân bay A Sao. Đành rằng tấm biển báo này xuất hiện sau, rất sau so với lịch sử hình thành khu kinh tế mới A Sao vào thời kỳ đất nước vừa giải phóng, rồi phát triển kéo dài cho đến nay. Nhưng dù sao chăng nữa thì việc tiếp tục để cho các hộ dân sinh sống ở xã Đông Sơn là một việc hết sức được các cấp chính quyền sở tại lưu ý. Số liệu thống kê mới nhất cho thấy ở huyện A Lưới hiện có hơn 4.300 người bị nhiễm chất độc da cam, trong đó xã Đông Sơn có 54 người bị nhiễm loại chất độc này, đa số họ là những nguời sinh ra sau khi kết thúc chiến tranh. Vậy, ai dám đảm bảo không còn trường hợp tái nhiễm dioxin đối với người dân sống ở khu vực này ? Thiết nghĩ, đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận thẳng vào vấn đề nói trên, và bất luận một khó khăn nào chăng nữa thì việc di dời người dân ở trong khu vực xã Đông Sơn, nhất là ở sân bay A Sao đến nơi an toàn và có những biện pháp cách ly khu vực này để xử lý ngăn chặn triệt để sự lây nhiễm chất độc hóa học (đặc biệt là dioxin) đến nhiều vùng, khu vực khác là điều hết sức cấp bách. Nếu chậm trễ, hậu quả sẽ khó lường ! Bùi Chiến
|
|
|
Post by Robot on Dec 18, 2004 13:51:57 GMT -5
Nhà có 5 người điên Chị Nương luôn phải vá quần áo cho các con vì bị chúng xé nát "Coi chừng nó chém!" - Đám thanh niên tụ tập bên kia sông hét toáng khi chúng tôi từ đò bước lên. Thằng bé "bụ bẫm" có gương mặt ngây dại toòng teng trên võng, chạy lục ục ra sân rồi trở hướng quay vào nhà, rút vội một vật vắt trên vách lá. Anh bạn đồng nghiệp định ba chân bốn cẳng bỏ chạy thì hóa ra thằng nhỏ chỉ vớ lấy cái quần, khó khăn tròng vội vào cái thân hình tròn lẳn như đứa trẻ lên ba lần đầu tập mặc. Nó là Tính, sau nó còn có 4 đứa em nữa cũng thuộc diện "không bình thường" - như cách nói của bà con ở kinh Năm Dương, xã Khánh An, U Minh, Cà Mau. Nụ cười ướt má Qua mảnh sân dậy phèn, chúng tôi vào căn nhà trống hoác, nằm lưng lửng giữa ba bề là những cánh đồng tôm cũng trống huơ trống hoác. Hỏi đến câu thứ bảy, thứ tám, thằng nhỏ ôm tô cơm chan nước lã ngồi trước nhà chỉ cười ú ớ. Chúng tôi chỉ còn trông vào đứa lớn: "Cha mẹ em đâu?". Thằng nhóc ỏn ẻn, rồi vụt chạy ra bờ kênh, ném cái nhìn dè dặt và hoang dại về phía khách lạ. Nhà bên sông, ba bốn cái miệng la trỗi một lượt: "Ổng bả ra ngoài đê, chỗ mấy con trâu ớ". Xóm Năm Dương, xã Khánh An, huyện U Minh, Cà Mau chạy thẳng một đường với những ngôi nhà lá quay mặt về sông. Xóm nằm bên mép U Minh hạ mà trông cằn cỗi như vùng đất đang sa mạc hóa. Một người giải thích: "Ở đây tuy là đồng quê, nhưng cây củi, cọng rau cũng khó tìm. Vợ chồng tôi cũng mới về đây, giữ đất cho một người quen, chỉ mới có một đứa con đã khó, đằng này vợ chồng ông Minh có tới tám đứa con, thì năm đứa đã bị "khùng", vậy mà chịu được cũng hay". Vợ chồng anh Minh ngồi thòng chân tiếp khách trên bộ vạt còn buông cái mùng ám màu. Anh lắc đầu: "Khổ lắm, em ạ. Nhiều lúc anh chị cũng muốn "khùng" theo mấy cháu. Có khi xóm giềng đám tiệc người ta mời anh chị cũng không dám đi, vì sợ người ta hỏi tới tụi nhỏ". Nỗi buồn được định danh, hằn trên nét mặt của hai vợ chồng năm lần đớn đau cho những giọt máu không lành. Anh tên Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1957, cũng tại kinh Năm Dương này, trong gia đình có tới sáu người con. Như bao nhiêu người đã trải qua tuổi thơ trong chiến tranh, chạy bom, chống càn là chuyện cơm bữa. Nhưng có một lần không riêng gì anh mà nhiều bà con ở xóm Năm Dương này còn nhớ. Đó là năm 1968, buổi sáng nghe tiếng máy bay gầm rú, mọi người chạy ra hầm tránh bom. Thế nhưng, lần này máy bay Mỹ không thả bom tàn phá mà chỉ rải chất gì như sương mù. Mọi người từ hầm chui ra, phủi đít: "Tưởng gì". Thế nhưng mấy ngày sau thì: dừa quẹo đọt, cá chết, rau cỏ héo vàng lạ thường. Mọi người thắc mắc: ông trời thiệt khó hiểu. Mười sáu tuổi, anh Minh vào rừng theo du kích, đơn vị đóng tận các làng nằm khuất trong những cánh rừng U Minh. Anh kể: "Đơn vị 16 người, có bận tất cả đều bị nóng sốt liên miên. Nhiều người nghĩ chắc tại thời tiết thất thường. Thế rồi mọi người cũng khỏe lại". Sau 1975, anh về công tác tại Huyện đội U Minh, rồi có tình yêu và lập gia đình. Cuộc đời ngỡ sẽ mãi bình lặng từ ngày ngưng tiếng bom, nhưng cho đến khi vợ anh sinh cho anh hai nàng công chúa...
|
|
|
Post by Robot on Dec 18, 2004 13:52:23 GMT -5
Năm lần vật vã
Mong muốn có một thằng nhóc để nối dõi thôi thúc hai vợ chồng trẻ: Sinh nữa. Năm 1983, đứa thứ ba chào đời, là con trai, anh Minh đặt tên Tính - Nguyễn Văn Tính, bụ bẫm và kháu khỉnh. Suốt một năm sau đó, tuy rằng vẫn bữa rau bữa mắm, nhưng trong nhà niềm vui luôn đầy ắp. Thế rồi, một ngày khi bé Tính, được một tuổi rưỡi thì sự thể đã diễn ra. Đang ngồi vui cười trên bộ vạt, bỗng nó ngã ngang, trợn trắng, co giật, sùi bọt mép. Cả nhà xúm lại, người thoa dầu, người cạo gió, thấy có gì đó không ổn, anh Minh tức tốc chở bé Tính đến y sĩ ở xã, anh này đoán: "Nó bị bệnh giựt". Nhưng "bệnh giựt" là gì? Lắc đầu. Từ ngày đó, cứ cách ít lâu, triệu chứng cũ lại tái phát. Chị Nương kể: "Nhiều lúc bất thần cháu giựt, may mà vịn lại kịp, không cũng té chết". Đau đớn theo từng vật vã của con, nhưng anh chị cũng hy vọng có phương thuốc nào đó chữa cho cháu. Ngày lại, ngày qua, hết thầy thuốc này đến bác sĩ khác, hy vọng cạn dần. Còn trẻ, anh chị lại tìm hy vọng ở đứa con sau, cũng cầu, cũng khẩn sao cho nó lành lặn, đừng tật nguyền, bệnh hoạn. Đứa thứ hai chào đời, anh đặt tên là Nguyễn Văn Toán. Toán lành lặn, mặt mũi sáng rỡ, cả nhà lại vui như sóng vỗ. Trong những tháng ngày ngắn ngủi anh chị đã tạm quên nỗi bất hạnh của bé Tính, vốn như mũi kim thường trực trong đáy tim hai vợ chồng. Thế nhưng, bao hy vọng vào đứa con trai thứ hai lại như nước chảy theo rãnh, còn lại là nỗi đau chất chồng: cũng đến một tuổi rưỡi, Toán lại bị "bệnh giựt" giống như Tính.
Cứ thế, năm lần hai vợ chồng thắp lên hy vọng, năm lần vắt máu vắt xương và cũng năm lần anh trách than cho số phận. Sau Tính, Toán đến Thống, Nhất, Thật cũng cùng một chứng bệnh. Cứ đến một tuổi rưỡi lại bị giựt, rồi từ đó trí năng không phát triển. Cho đến nay, Tính đã 21 tuổi, Thật 17 tuổi, nhưng cả năm đứa đều như trẻ lên một, không nói được, không nhận biết xung quanh, duy cơ thể thì vẫn phát triển bình thường. Những lúc bình thường thì chúng cũng như bao đứa trẻ ít nói khác, chỉ khác là lúc cơn bệnh hành hạ. Lắm lúc, chúng vùng lên xé tung cả quần áo, mùng mền. Đồ đạc trong nhà có gì thì chúng đem ra đập cái ấy. Chị Nương kể: "Quần áo cái nào cũng bị mấy đứa xé nát". Không ngăn được, chị đã mặc cho chúng xé, một hai ngày lại gom để vá một lần. Lắm lúc, vì không phân biệt được mà chúng ăn cả bọc nilon, đất, thậm chí cả thứ do chúng thải ra. Có lần xã phát thuốc để cho chúng uống mỗi khi có triệu chứng co giật, anh chị đi vắng nhà, Thống đã uống hết một lượt chỗ thuốc được cấp, báo hại phải tức tốc chở đi cấp cứu. Lần đó, anh chị lại phải một phen vay mượn để có tiền thuốc men cho cháu.
Hàng xóm xì xào: chắc nhà "bị ếm". Anh thì không tin vào chuyện "bùa ngải". Có điều phải đeo đắm, vật vã theo những đứa con dại hơn bình thường, chạy chữa, thuốc men đã dìm gia cảnh anh chị vào hố vực nghèo khó. Anh phải đi cầm trâu mướn để đổi lấy gạo ăn. Lắm lúc nằm suy nghĩ, anh thấy mình có lỗi với các con, vì đã trót sinh chúng ra, cho hình hài nhưng không thể đem lại cho chúng chút tia sáng của trí năng con người. Trong nhà có một người "không bình thường" đã là cả một nỗi đa mang, đằng này có đến năm đứa một lúc. Khổ thì khổ, nhưng phải lo cho chúng có cái ăn, cái mặc. Nhiều người thấy vậy khuyên anh chị gửi tụi nhỏ vào trại để nhờ Nhà nước và cộng đồng nuôi giúp. Anh lắc đầu: mình còn làm được, chẳng lẽ sinh con ra để người khác nuôi. Bữa rau, bữa cháo anh chị kham được, nhưng những lúc một trong năm đứa nhỏ mắc bệnh, anh chị phải chạy đôn đáo vay hỏi. Tôi hỏi: "Anh chị đã nợ bao nhiêu?". Chị Nương lắc đầu: "Không dám nhớ tới, chỉ biết làm bao nhiêu trả nợ bấy nhiêu".
Một năm trở lại đây, xã Khánh An đã lập danh sách những gia đình là nạn nhân của chất độc da cam - dioxin để có những hỗ trợ thiết thực, nhằm chia sẻ phần nào những khó khăn, tổn thất của chiến tranh. Năm đứa: Tính, Toán, Thống, Nhất, Thật cũng đều được cấp sổ để lãnh tiền, lãnh thuốc hằng tháng. Tuy không thấm gì so với những khó khăn của gia đình anh Minh, chị Nương, nhưng cũng giúp anh chị phần nào giảm bớt nỗi cùng cực, và hơn hết là sự chia sẻ.
Khi chúng tôi từ giã ra về, thằng Thật chạy theo tới mé sông, ú ớ một điều gì đó. Tôi không hiểu, mà cũng không dám hiểu bởi từ đó ánh mắt hoang dại, xa xăm của đứa trẻ bị khuyết đi bản năng sống, và những cơn co giật vật vã mà các em phải chịu thường xuyên đã như muối xát vào vết thương lương tri của một con người.
Nguyễn Tiến Trình
|
|
|
Post by Robot on Jan 18, 2005 6:00:25 GMT -5
Thừa Thiên-Huế: Triển khai trồng thử nghiệm cỏ Vetiver để xử lý chất độc hóa học dioxin
Cỏ Vetiver - với đặc điểm bộ rễ có khả năng hấp thụ cao các chất thải rắn, kim loại... đang mở ra một triển vọng mới trong việc xử lý những vùng đất còn nhiễm chất độc hóa học dioxin tại nước ta.
Vừa qua, một đioàn chuyên gia môi trường gồm: TS Trần Tân Văn - Phó viện trưởng Viện nghiên cứu địa chất và khoáng sản, TS Lê Việt Dũng - Đại học Tổng hợp Cần Thơ, GS Paul Nguyen Viet Truong - phụ trách mạng lưới cỏ Vitiver khu vực châu Á - TBD và Bà Elisabeth Caroline Maria Pinners, chuyên gia tư vấn nông nghiệp, Tổ chức VECO (Vương quốc Bỉ) đã phối hợp với Sở TN&MT Thừa Thiên - Huế và UBND huyện A Lưới vừa có chuyến khảo sát thực địa tại khu vực sân bay A Sò, xã Đông Sơn (huyện A Lưới), khu vực bị nhiễm chất độc hóa học dioxin nặng nhất tại Thừa Thiên-Huế, để triển khai việc trồng thử nghiệm cỏ Vetiver tại đây.
Được biết, hiện cỏ Vetiver đang được Bộ GT-VT ứng dụng trồng để chống sạt lở đường Hồ Chí Minh và mới đây BQL dự án Sông Hương cũng đã trồng để chống xói lở bờ sông ở khu vực kè Xước Dũ, xã Hương Hồ, Huyện Hương Trà.
Bùi Ngọc Long
|
|