|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:30:09 GMT -5
Nuôi con bằng sữa mẹ
PGS.TS. Nguyễn Công Khẩn- TS. Cao Thị Hậu Từ ngàn đời nay, các bà mẹ Việt Nam đều mong muốn nuôi con bằng chính dòng sữa của mình, đó là điều phù hợp với tập quán nuôi con và đúng khoa học.Vì sao lại nói sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ em nhất là trẻ trong năm đầu của cuộc đời?
Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất đối với trẻ, vì trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết như đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ thích hợp cho sự hấp thụ và phát triển cơ thể trẻ. Bú mẹ, trẻ sẽ lớn nhanh, phòng được suy dinh dưỡng.
Sữa mẹ chứa nhiều chất kháng khuẩn, tăng cường sức đề kháng cho trẻ, chống các bệnh đường ruột và bệnh nhiễm khuẩn, do tác dụng kháng khuẩn của sữa mẹ nên trẻ được bú sữa mẹ sẽ ít mắc bệnh.Trẻ bú mẹ ít bị dị ứng, eczema như ăn sữa bò.Cho con bú sữa mẹ sẽ thuận lợi và kinh tế vì không phụ thuộc vào giờ giấc, không cần phải đun nấu, dụng cụ pha chế. Trẻ bú sữa mẹ sẽ kinh tế hơn nhiều, vì sữa mẹ không mất tiền mua. Khi người mẹ ăn uống đầy đủ, tinh thần thoải mái sẽ có đủ sữa cho con bú.
Nuôi con bằng sữa mẹ có điều kiện gắn bó mẹ con, người mẹ có nhiều thời gian gần gũi tự nhiên, đó là yếu tố tâm lý quan trọng giúp cho việc phát triển hài hòa của đứa trẻ.Cho con bú góp phần hạn chế sinh đẻ, cho con bú làm giảm tỷ lệ ung thư vú.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:32:25 GMT -5
Cách cho con bú
Nhiều bà mẹ sau khi sinh chỉ thường cho con bú khi căng sữa, người ta thường quen gọi là xuống sữa, như vậy là không đúng, càng làm sữa xuống chậm và càng dễ bị mất sữa. Tốt nhất, ngay sau khi sinh trong vòng nửa giờ đầu người mẹ nên cho trẻ bú. Bú càng sớm càng tốt. Vì sữa mẹ tiết ra theo phản xạ, bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa sớm, trẻ được bú sữa non sẽ phòng bệnh được tốt. Ðộng tác bú có tác dụng co hồi tử cung và cầm máu cho người mẹ sau đẻ.
Số lần cho trẻ bú không gò bó theo giờ giấc mà tùy thuộc vào yêu cầu của trẻ. Ban đêm vẫn có thể cho trẻ bú nếu trẻ khóc đòi ăn. ở những bà mẹ ít sữa, nên cho trẻ bú nhiều để kích thích bài tiết sữa tốt hơn.
Khi cho trẻ bú, người mẹ ở tư thế thoải mái, có thể nằm hoặc ngồi cho bú, để toàn thân trẻ sát vào người mẹ: miệng trẻ ngậm sâu vào quầng đen bao quanh núm vú để động tác bú được tốt hơn. Thời gian cho bú tùy theo đứa trẻ. Cho trẻ bú đến khi trẻ no, tự rời vú mẹ. Sau khi bú xong một bên, nếu trẻ chưa đủ no thì chuyển sang cho bú vú bên kia.
Cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu. Khi trẻ bị bệnh, ngay cả khi trẻ bị tiêu chảy, vẫn tiếp tục cho trẻ bú. Trẻ đẻ non yếu không mút được vú mẹ, hoặc trường hợp mẹ bị ốm nặng, bị mắc một số bệnh không cho trẻ bú được, cần vắt sữa cho trẻ ăn bằng cốc.
Nên cho trẻ bú kéo dài 24 tháng hoặc có thể lâu hơn, không cai sữa cho trẻ trước 12 tháng. Khi cai sữa cho trẻ cần chú ý:
Không cai sữa quá sớm, khi trẻ chưa đủ thức ăn thay thế hoàn toàn sữa mẹ. Không nên cai sữa vào mùa hè nóng nực, trẻ kém ăn.
Không nên cai sữa đột ngột dễ làm trẻ quấy khóc, biếng ăn.
Không cai sữa khi trẻ bị ốm, nhất là khi bị tiêu chảy. Sau khi cai sữa, cần có các chế độ ăn thay thế đảm bảo đủ chất cho trẻ, nhất là chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, đậu đỗ...), chất béo (dầu, mỡ ) và các loại rau, quả...
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:33:42 GMT -5
Bảo vệ nguồn sữa mẹ
Muốn có sữa cho con bú thì người mẹ ngay trong thời kỳ có thai cần được ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, có chế độ nghỉ ngơi, lao động hợp lý, tinh thần thoải mái, giúp người mẹ tăng cân tốt (10-12kg), đó là nguồn dự trữ mỡ để sản suất sữa sau khi sinh.
Khi cho con bú, điều trước tiên cần phải quan tâm là người mẹ cần phải ăn đủ, uống đủ ngủ đẫy giấc.
Người mẹ nên ăn uống bồi dưỡng. Khẩu phần ăn cần cao hơn mức bình thường. Hàng ngày ăn thêm vài bát cơm, một ít thịt, cá, trứng hoặc một ít rau đậu. Nên ăn thêm quả chín để có đủ vitamin, các món ăn cổ truyền như cháo chân giò gạo nếp, ý dĩ thường có tác dụng kích thích bài tiết sữa. Nên hạn chế các thức ăn gia vị như ớt, hành, tỏi có thể qua sữa gây mùi khó chịu, trẻ dễ bỏ bú.
Khi cho con bú, nên hạn chế dùng thuốc vì một số thuốc có thể qua sữa gây ngộ độc cho trẻ và làm giảm tiết sữa.Người mẹ cho con bú nên uống nhiều nước nhất là cháo, nước quả, sữa... (mỗi ngày khoảng một lít rưỡi đến hai lít).
Vì sữa mẹ được tiết theo cơ chế phản xạ, cho nên tinh thần của người mẹ phải thoải mái, tự tin tránh những căng thẳng, cảm xúc buồn phiền, lo âu, mất ngủ. Chế độ lao động nghỉ ngơi sau khi sinh đẻ có ảnh hưởng đến bài tiết sữa.
Ðể phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ, các bà mẹ cần thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ. (Cho bú sớm trong vòng nửa giờ đầu sau khi sinh. Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn cho đến 6 tháng và tiếp tục cho bú đến 24 tháng hoặc lâu hơn)
PGS.TS. Nguyễn Công Khẩn- TS. Cao Thị Hậu
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:36:33 GMT -5
Cá chép - thuốc quý cho phụ nữ Cá chép rất có ích cho thai phụ.
Khi mang thai được 5-6 tháng, phụ nữ thường bị sưng mặt, chân tay phù thũng, tiểu tiện ít. Có thể khắc phục bằng cách lấy một con cá chép nặng 500 g, đậu đỏ nhỏ hạt 120 g, cho thêm ít gừng, hành vào nấu chín (chú ý nấu nhạt). Hiệu quả của bài thuốc này khá rõ rệt.Người Trung Quốc cổ đại từng liệt "đuôi cá chép" vào một trong "bát trân" (8 cái quý), ngang với chân gấu. Kinh Thi viết: "Khởi kỳ thực ngư, tất hà chi" (Muốn ăn cá, tất phải ăn cá chép ở sông). Đào Hoàng Cảnh, nhà y học thời Hậu Lương (Trung Quốc) đã gọi cá chép là "chư ngư chi trưởng, vi thực phẩm thưởng vị" (đứng đầu các loại cá, là loại thực phẩm đứng đầu vị ).Đối với phụ nữ, cá chép càng hữu ích.
Dân gian Trung Quốc coi loại cá này là "ích mẫu hà tiêu" (thuốc tiên chữa bệnh phụ khoa) vì nó có tác dụng nổi bật trong lĩnh vực này. Sau đây là một số ứng dụng cụ thể:
- An thai: Phụ nữ mang thai dễ có các triệu chứng khí huyết yếu kém, tâm tính không yên. Nên lấy một con cá chép nặng khoảng nửa cân, để cả vảy, mổ bỏ ruột, trộn thêm nửa lạng gạo nếp, ít vỏ quýt, gừng sống. Đổ tất cả vào nồi ninh chín, thêm ít muối, ăn 5-7 lần sẽ có hiệu quả.
- Chữa nôn mửa: Phụ nữ thời kỳ đầu mang thai thường xuất hiện các triệu chứng nôn mửa, chóng mặt..., y học cổ truyền gọi là "nhiên thần ác trở" (triệu chứng xấu khi mang thai). Nguyên nhân là tỳ vị suy yếu, mạch đập mạnh... Lấy một con cá chép nặng khoảng 250 g, đánh vảy, mổ bỏ nội tạng, rửa sạch, cho thêm 6 g sa sâm đập nhỏ, 10 g gừng tươi thái mỏng. Bỏ cả hai thứ vào trong bụng cá, hầm chín, ăn trong ngày.
- Làm tăng lượng sữa: Sau khi sinh, nếu không có sữa hoặc ít sữa, có thể dùng một con cá chép nặng khoảng 250 g, một chân giò lợn (loại bé), 3 g thông thảo, hầm thật nhừ, ăn dần 1-2 ngày, sẽ có nhiều sữa.
- Chữa bệnh ứ huyết: Phụ nữ sau khi sinh có thể bị chứng khí huyết ứ trệ, đau bụng dưới, máu xấu không kịp bài tiết ra ngoài... Nên lấy vảy cá chép tán nhỏ, cho vào ít nước, đun sôi, uống với ít rượu nếp.
- Làm tăng công năng dạ dày: Dạ dày của phụ nữ sau khi sinh có thể thay đổi cường độ co bóp. Nên dùng một con cá chép nặng nửa cân, làm sạch vảy và ruột, cho vào nồi nấu canh. Khi cá chín nhừ, cho thêm ít gia vị, hồ tiêu, muối. Ăn cả nước và cái.
DS Hồ Hoà Bình, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on Mar 13, 2004 7:37:03 GMT -5
Lợi ích của sữa mẹ ðối với sức khỏe của trẻ Theo thống kê cả nýớc chỉ có 31,1% bà mẹ cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4 tháng ðầu. Xuất phát từ nhiều nghiên cứu về sữa mẹ và lợi ích trong việc nuôi con bằng sữa mẹ, Tổ chức Y tế Thế giới ðã khuyến cáo nên nuôi con bằng sữa mẹ từ lúc trẻ ðýợc sinh ra ðến 6 tháng tuổi.
Thời gian nuôi con bằng sữa mẹ quá ngắn sẽ ảnh hýởng xấu ðến sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Vì thức ãn bổ sung thay thế sữa mẹ có giá trị dinh dýỡng thấp, gây nhiều nguy cõ suy dinh dýỡng cho trẻ, làm trẻ dễ bị nhiễm khuẩn, nhất là mắc bệnh tiêu chảy. Ngoài ra, sự phát triển của trí tuệ và thị lực ở trẻ cũng bị ảnh hýởng.
Sữa mẹ bảo vệ trẻ chống lại bệnh tật
Nucleotide là một thành phần tự nhiên trong sữa mẹ ðóng vai trò quan trọng trong việc tối ýu hóa các phản ứng miễn dịch khi trẻ ðýợc tiêm phòng vaccine. Chất này chịu trách nhiệm cung cấp sự miễn dịch ðể chống lại các dịch bệnh ở trẻ.
Hàng nãm trên thế giới có khoảng 26% trẻ bị viêm ðýờng hô hấp, 30-50% trẻ bị tiêu chảy và suy dinh dýỡng. Ðến tháng thứ 9 sau sinh, tổng toàn bộ kháng thể trong cõ thể của trẻ chỉ ðạt 60% so với ngýời trýởng thành. Tiêm phòng vaccine là công việc rất quan trọng ðể trẻ tãng cýờng sức ðề kháng, phát triển hệ thống miễn dịch.
Sữa mẹ có các bạch cầu, kháng thể (IgA) và các tiểu thể (lysozyme) làm giảm nguy cõ mắc các bệnh nhiễm khuẩn gây tử vong cao ở trẻ. Mới ðây, theo công bố của các công trình nghiên cứu lâm sàng, trong sữa mẹ còn có tổng toàn bộ Nucleotide (viết tắt là TPAN), là dýỡng chất hiện diện tự nhiên trong sữa mẹ với hàm lýợng thay ðổi từ 69- 72 mg/lít. TPAN giúp hỗ trợ sự phát triển của hệ thống miễn dịch của trẻ, làm gia tãng lýợng kháng thể và giảm tần suất tiêu chảy, ðáp ứng miễn dịch ðối với vaccine chủng ngừa viêm màng não (Hib) và vaccine bạch hầu. Ðiều này có nghĩa là nó giúp tãng sức ðề kháng của cõ thể ðối với những bệnh nhiễm khuẩn thông thýờng ở trẻ nhý tiêu chảy, bạch hầu, viêm màng não.
Sữa mẹ là nguồn thực phẩm lý týởng
Trẻ lớn lên rất nhanh trong thời kỳ sõ sinh. Vì vậy nhu cầu về chất dinh dýỡng rất lớn, trong khi bộ máy tiêu hóa lại chýa hoàn chỉnh. Trong giai ðoạn này, chỉ có sữa mẹ là thức ãn lý týởng ðáp ứng ðýợc. Nuôi con bằng sữa mẹ là một phýõng pháp tự nhiên và ðem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả bà mẹ và trẻ em.
Sữa mẹ tập hợp phong phú các yếu tố hóa sinh ở dạng ðang hoạt ðộng, một lýợng lớn các hormone và yếu tố tãng trýởng cùng với ít nhất 60 loại enzym bên cạnh thành phần hoàn hảo của những chất dinh dýỡng vi lýợng và ða lýợng.
Trong nãm ðầu ðời, trọng lýợng trẻ sõ sinh sẽ tãng gấp 3 lần và chiều cao tãng gấp 2 lần. Trẻ cần số nãng lýợng tính trên cân nặng cao gấp 3-4 lần so với ngýời lớn. Cụ thể, trẻ sõ sinh cần 90-120 kcal/kg, trong khi ðó ngýời lớn chỉ cần 30-50 kcal/kg. Nãng lýợng cho sự tãng trýởng và phát triển của trẻ từ các chất bột ðýờng (lactose) và chất béo chủ yếu có trong sữa mẹ. Chất ðýờng trong sữa mẹ có nhiều lactose hõn, cần thiết cho sự phát triển của thần kinh và giúp các vi khuẩn có ích trong ðýờng ruột phát triển. Chất bột ðýờng là nguồn cung cấp nãng lýợng, giúp tạo vị ngọt cho sữa. Ngoài ra, chế ðộ ãn giàu chất bột ðýờng giúp tãng cýờng sức ðề kháng ðối với một số bệnh lý ở trẻ. Chất ðạm cần cho sự tãng trýởng, giúp xây dựng và sữa chữa các tế bào hý hỏng.
Chất béo trong sữa mẹ có vai trò là chất chuyên chở những vitamin tan trong chất béo nhý vitamin A&D, cùng với axit béo thiết yếu là axit linoleic, ðóng vai trò sống còn cho sự phát triển của hệ thần kinh cũng nhý chức nãng mô. Thành phần axit béo trong sữa mẹ cho phép cải thiện sự hấp thu chất béo tại ruột.
Cõ thể cần khoảng 20 axit amin. Trong ðó có khoảng 8 axit amin thiết yếu cõ thể trẻ không thể tự sản sinh mà phải ðýợc cung cấp từ thực phẩm bên ngoài. Trong nửa nãm ðầu của trẻ, sữa ðóng vai trò cung cấp lýợng axit amin thiếu hụt này. Cõ thể trẻ có thể hấp thụ 66% lýợng canxi trong sữa mẹ, chỉ có 40% lýợng canxi trong các loại sữa bột.
Nuôi con bằng sữa mẹ còn có tác dụng tốt về phýõng diện tâm lý. Cho con bú mẹ làm gắn bó tình cảm giữa mẹ con, giúp trẻ phát triển tốt về mặt tình cảm và trí tuệ sau này. Sữa mẹ ðóng góp vào việc bảo vệ sức khỏe bà mẹ nhý: giảm thiếu máu, thiếu sắt, giảm nguy cõ ung thý vú, ung thý tử cung. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp kéo dài thời gian sinh sản, giảm xuất huyết sau sinh, giảm bài tiết hóc môn oxytocin (làm co cõ tuyến vú ðể tống sữa vào ống dẫn sữa) và các hóc môn ðiều hòa thần kinh.
(Theo VnExpress)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 20, 2004 5:49:45 GMT -5
Tăng sức đề kháng cho trẻ
1. Hãy nuôi con bằng sữa mẹ: Trẻ bú sữa mẹ ít, có khả năng bị nhiễm bệnh đường ruột.
2. Bảo đảm tiêm phòng vắc-xin ho gà, uốn ván, bạch hầu cho con: Nếu bạn không cho trẻ chủng ngừa các loại bệnh trên thì hậu quả cực kỳ nguy hiểm.
3. Hãy cho trẻ sống trong môi trường không có thuốc lá: Thuốc lá rất có hại cho sức khỏe của trẻ, cho dù trẻ chỉ hít phải khói thuốc. Qua khói thuốc trẻ có nguy cơ mắc các bệnh: viêm tai, cảm lạnh, viêm phổi, viêm amidan và hen suyễn.
4. Đừng cố gắng che chở cho con: Đừng cố gắng bao bọc con bạn trong vòng tay của mình. Hãy để trẻ phát triển một cách tự nhiên. Nhiều trường hợp do bố mẹ quá lo cho con, không cho trẻ được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nên khi có điều kiện tiếp xúc trẻ dễ bị phản ứng.
5. Hướng dẫn mọi người trong gia đình vệ sinh sạch sẽ: Rất nhiều chứng bệnh thông thường như: cảm lạnh, cúm, tiêu chảy và bệnh viêm màng kết... là do các vi trùng do tay bẩn gây ra. Bạn phải hướng dẫn trẻ và mọi người trong gia đình rửa tay sạch sẽ.
6. Đừng sử dụng kháng sinh nhiều quá: Càng cho trẻ sử dụng nhiều kháng sinh chúng càng dễ nhiễm các vi khuẩn đề kháng. Cha mẹ đừng bao giờ nhờ bác sĩ kê đơn thuốc cho con qua điện thoại và cũng không nên lạm dụng khi dùng thuốc kháng sinh.
7. Cho trẻ ăn dưa hấu: Dưa hấu có chứa lượng vitamin C nhiều như cam nhưng lượng beta-carotene trong dưa hấu lại hơn cam rất nhiều. Cả hai loại vitamin này đóng vai trò quan trọng trong sức đề kháng của trẻ.
8. Cho trẻ ăn xúp: Xúp có thể giúp cơ thể phòng ngừa được một số bệnh không nghiêm trọng và giúp có thể trẻ phục hồi cau khi bị ốm. Thỉnh thoảng bạn hãy cho con ăn xúp nấu theo kiểu truyền thống: gà ninh nhừ với cà rốt, hành, tỏi, cà chua, gia vị. Đây là những thức ăn giúp tăng lượng vitamin A trong cơ thể.
Thu Hương (NTNN)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 20, 2004 5:51:49 GMT -5
6 “không” trong bữa ăn của trẻ
1. Không nên “lên lớp” cho trẻ: Có một số cha mẹ trong bữa ăn hoặc trong khi cho trẻ ăn thì hay lên lớp con cái mình. Như vậy đối với sức khỏe của trẻ là vô cùng bất lợi và gây cho trẻ những tâm lý hết sức khó chịu, bực tức trong khi ăn. Vì khi ăn cơm nếu cãi cọ nhau đến phẫn nộ sẽ làm cho tim đập nhanh hơn, huyết áp tăng cao, khả năng tiêu hóa bị ảnh hưởng, khẩu vị giảm sút. Trẻ sẽ không còn cảm giác thèm ăn trước bữa ăn và nhiều hậu quả nghiêm trọng về tâm sinh lý khác kèm theo. Cho nên bất kỳ là bữa ăn gia đình hay bữa ăn nhà trẻ khi trẻ đang ăn, cần tạo cho chúng một không khí vui vẻ, thích thú khi ăn, để nâng cao công năng tiêu hóa cho trẻ, để có lợi cho sức khỏe thân thể và tâm hồn trẻ.
2. Không nên cho trẻ ăn những thức ăn quá mặn: Nếu thức ăn của trẻ quá mặn, tất nhiên trẻ sẽ ăn vào một lượng tương đối nhiều natri trong khi đó thận của các trẻ phát triển chưa hoàn thiện, năng lực bài tiết natri tương đối kém, ăn nhiều chất kiềm sẽ gây ảnh hưởng đến sự bài tiết và tổn thương cho thận dẫn đến suy thận hoặc viêm cầu thận. Khi nồng độ nguyên tố natri trong máu tăng cao có thể gây ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất bình thường của cơ thể gây ảnh hưởng đến hệ thống tuần hoàn máu. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh huyết áp khi về già, bên cạnh đó trẻ có thể bị một số bệnh như suy tim, cơ bắp suy yếu.
3. Không nên sử dụng nhiều đồ đông lạnh trong thức ăn của trẻ: Vì thời kỳ còn nhỏ, tì vị của trẻ chưa hoàn thiện, thức ăn lạnh vào dạ dày quá nhiều, sẽ làm cho niêm mô huyết quản dạ dày bị co hẹp lại, dịch vị phân tiết giảm đi, đây chính là nguyên nhân giảm khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn trong cơ thể. Hơn thế nữa năng lực tiêu hóa của dạ dày giảm, hạn chế khả năng tiêu diệt vi khuẩn của dịch dạ dày.
Bị thức ăn lạnh kích thích có thể làm cho dạ dày co giật, gây ra đau bụng tiêu chảy, khẩu vị kém nếu kéo dài có thể gây thành những bệnh mãn tính như viêm đại tràng mãn tính hoặc thường xuyên đau bụng đầy hơi...
4. Không cho trẻ ăn những thực phẩm có dùng chất màu tổng hợp: Y học hiện đại cho rằng, trẻ nhỏ có thể hấp thụ một số lượng ít thuốc nhuộm và chất màu thực phẩm, tuy không phản ứng tức thì như những triệu chứng lâm sàng có thể thấy được, còn đối với cơ thể có thể có hàng loạt những biến đổi bất thường nếu sử dụng kéo dài. Bản chất của chất màu thực phẩm là những hợp chất hữu cơ tổng hợp hoặc bán tổng hợp rồi qua những quá trình tinh chế và thử nghiệm hết sức nghiêm ngặt trước khi đưa ra sử dụng và trong quá trình sử dụng cũng có những giới hạn nồng độ an toàn cho phép sử dụng. Nếu trẻ thường xuyên ăn thực phẩm nhuộm màu sẽ làm mất khả năng tự giải độc của cơ thể, gây rối loạn những chuyển hóa bình thường, có thể xuất hiện đầy bụng, rối loạn tiêu hóa. Thường xuyên ăn thực phẩm có màu còn có thể làm cho các sắc tố hợp thành tích tụ trong cơ thể dẫn đến trúng độc mãn tính, nếu dính vào thành dạ dày có thể gây biến đổi bệnh lý.
Nếu vào các khí quan của hệ thống bài tiết có thể sinh ra sỏi trong niệu đạo. Dùng quá nhiều thực phẩm màu sẽ làm rối loạn tác dụng truyền thông tin của hệ thống thần kinh, khiến cho thần kinh xung động gấp bội, làm cho trẻ quá hiếu động hoặc bệnh đa động.
5. Không nên cho trẻ em uống thức uống của người lớn: Trẻ em đang ở thời kỳ sinh trưởng phát triển, các bộ phận trong cơ thể đều còn non yếu, năng lực hấp thụ sự kích thích của axit, kiềm, hưng phấn còn tương đối thấp. Cho nên, không nên để cho chúng uống thức uống của người lớn, ví dụ như: cà phê, côca... có chất cafein tác dụng hưng phấn tương đối mạnh đến hệ thống thần kinh trung ương của trẻ, trẻ em uống vào sẽ ảnh hưởng đến phát triển trí não; nước chè, trong đó tuy có vitamin, nguyên tố vi lượng... có ích cho cơ thể nhưng cũng có chất cafein có thể làm cho trẻ hưng phấn, tim đập nhanh, đi tiểu nhiều, ngủ không yên giấc, như chất trong chè kết hợp với protein trong thức ăn, ảnh hưởng đến tiêu hóa và việc hấp thụ nguyên tố sắt có thể dẫn đến trẻ bị thiếu máu. Nước có ga, trong đó có xút có thể trung hòa vị toan, không có lợi cho tiêu hóa của trẻ, dễ làm cho trẻ bị nhiễm trùng đường ruột, chất muối phophoric ảnh hưởng trực tiếp đến sự hấp thụ sắt của trẻ, cũng là một trong những nguyên nhân gây thiếu máu. Những tác hại trên gây ảnh hưởng lâu dài với cường độ thấp, còn các loại rượu, bia có thể kích thích niêm mạc dạ dày của trẻ, tổn hại tế bào gan, gây nguy hại đến hệ thống thần kinh của trẻ dẫn đến mất cân bằng sinh lý và những tác dụng phụ do rượu gây ra.
6. Trẻ nhỏ không nên ăn quá thừa dinh dưỡng: Trong thời kỳ phát triển trưởng thành, nếu hấp thu dinh dưỡng cao cấp vô độ, sẽ tạo thành quá thừa dinh dưỡng làm cho tế bào miễn dịch phát triển quá sớm, từ đó dẫn đến thời kỳ trung niên sức miễn dịch của tế bào nhanh chóng suy thoái. Những trẻ quá thừa dinh dưỡng thì sau khi trưởng thành, công năng của các bộ phận bất kỳ là thể chất hay trí lực đều hạ thấp rất nhiều.
Thep TVTD
|
|
|
Post by Robot on Mar 26, 2004 8:24:24 GMT -5
Bà mẹ mang thai nên dự trữ mật ong và giấm táo Mật ong rất tốt cho thai phụ và em bé. Ngoài những thực phẩm bổ dưỡng như trứng, cá, gan, bầu dục và rau tươi, nước ép nho, phụ nữ có thai nên dùng mật ong và giấm táo. Chỉ với 2 thìa mật ong rừng mỗi bữa ăn, bạn đã giúp bé có một hệ thần kinh khỏe mạnh. Các nhà khoa học đã chứng minh, mật ong có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn như khuẩn thương hàn, phó thương hàn, vi trùng gây viêm phế quản, viêm màng bụng. Nó chứa nhiều chất khoáng như sắt, đồng, mangan, manhê... và các loại vitamin tối cần thiết. Hàm lượng vitamin C trong mật ong cao hơn tất cả các loại rau quả. Đối với trẻ nhỏ, nhất là trong thời gian cai sữa, mật ong là thức ăn lý tưởng. Ngoài sự bổ dưỡng, nó còn giúp nhuận tràng và diệt các loại ký sinh trùng. Mật ong có tác dụng giữ nước thừa trong cơ thể nên trị được đái dầm. Trẻ uống mật ong đều đặn sẽ không có giun kim, giun đũa, lại ít bị đau bụng vì mật ong làm giảm nguy cơ lên men trong ruột, dạ dày. Mỗi bữa chỉ cần cho vào 1-2 thìa cà phê mật ong vào bột quấy. Nếu bé táo bón thì thêm một ít mật ong nữa, còn nếu tiêu chảy thì giảm đi. Nếu trẻ đái dầm, nên cho uống 1 thìa cà phê mật ong khi đi ngủ. Còn dung dịch giấm táo chứa nhiều muối khoáng của trái cây, lại tiêu diệt được vi khuẩn có hại trong hệ tiêu hoá. Theo Đông y, táo vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ gan mật, định tâm an thần, dùng chữa hư phiền, không ngủ được, hồi hộp hay quên, tân dịch ít, miệng khô, người yếu, ra nhiều mồ hôi... Trong bữa ăn nếu không đủ rau tươi và trái cây, thai phụ nên uống 2 thìa giấm táo hoà trong 1 cốc nước, dùng ngày 2 lần (sáng sớm ngủ dậy và 8 giờ tối). Người mẹ nào làm như vậy thường xuyên, đều đặn thì em bé sinh ra sẽ nhiều tóc, móng tay dài, nhanh ngóc đầu dậy và sớm biết đi, bộ máy tiêu hóa và răng phát triển tốt; mẹ thì đủ sữa nuôi con. Cách làm giấm táo: Lấy 1 cân táo (không chín quá) rửa sạch bằng nước muối hơi mặn nhằm diệt khuẩn, để ráo nước rồi bổ nhỏ ra, để cả hạt, ngâm với 3 lít nước sôi để nguội còn hơi ấm (mục đích là giúp táo chóng chua). Sau đó, cho vào 2 quả chuối tây (để táo chóng lên men), đựng trong lọ thủy tinh bịt kín bằng vải màn (giúp trao đổi khí). Sau 1 tháng thì lọc lấy nước giấm táo, dùng dần. Giấm có màng là tốt; còn thấy như có muỗi bay là hỏng, phải làm lại. Lương y Minh Chánh, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 9:39:33 GMT -5
Thai phụ nên hạn chế ăn bắp Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Trung tâm Phòng và kiểm soát bệnh tật (Mỹ ) công bố ngày 3.4 cho thấy: những thai phụ ăn nhiều bắp hoặc các chế phẩm từ bắp trong 3 tháng đầu của thai kỳ có nguy cơ sinh con bị khuyết tật cao gấp 2,5 lần so với những thai phụ khác. Căn nguyên là do độc tố fumonisin thường có trong các loại nấm ký sinh trên bắp đã làm vô hiệu hóa tác dụng ngừa khuyết tật ở thai nhi của axít folic. Các nhà khoa học cũng khuyến cáo thai phụ nên tăng cường bổ sung axít folic vốn có tác dụng ngừa chứng vẹo xương sống và não chậm phát triển ở thai nhi. Châu Yên (Theo Intelihealth) Cẩn thận khi mặc tã giấy cho bé trai Quần tã - mặt hàng tiện lợi, sạch sẽ làm bằng giấy bán rất sẵn trên thị trường hiện nay đang được các bà mẹ trẻ bận bịu ưa thích. Thế nhưng, các chuyên gia khoa nhi và tiết niệu ở Thượng Hải mới đây đã đưa ra lời cảnh báo: tã giấy có thể gây nên chứng vô sinh cho bé trai sau này, khi chọn đồ dùng cho trẻ nếu có điều kiện, tốt nhất hãy sử dụng loại quần tã bằng sợi (cotton). Theo các giáo sư thì loại tã giấy bán trên thị trường hiện nay không phải làm bằng giấy mà lớp bên trong là bông hóa học hay mút xốp. Tuy có tính thấm mạnh nhưng sử dụng lâu ngày sẽ gây hại cho lớp da non mềm mại của bé. Nghiêm trọng hơn là có thể gây vô sinh cho bé trai sau này. Do tã không thoáng khí, bám chặt lấy da nên khiến nhiệt độ tăng cao. Tinh hoàn của trẻ chỉ thích hợp với nhiệt độ 34oC trở xuống, nếu bị bọc trong môi trường nhiệt độ quá 37oC trong thời gian dài sẽ khiến tinh hoàn bị bỏng, sau này sẽ không sản xuất được tinh trùng. Trong 25 năm qua, hiện tượng vô sinh nam giới ở các nước phát triển đang có xu hướng gia tăng một phần là hậu quả của sự tắc trách này. Hồng Khanh (NTNN)
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 10:43:51 GMT -5
Bế bé yêu bằng cách nào? Hãy đỡ bé lên như đỡ một lọ đồ cổ: Một đứa bé dưới 3 tháng tuổi không thể tự giữ được cái đầu khá to của mình... lặc lè, đung đưa và điều này cũng gây khó chịu rất lớn cho bé.
Hãy thử làm theo cách sau: Trước tiên bạn dùng bàn tay phải (nếu đó là tay thuận của bạn) nắm lấy hai chân bé theo cách chắc chắn nhất mà các cô hộ sinh từng làm (để dễ hình dung bạn hãy xem cách mình cầm một đôi đũa gắp cái gì đó với ngón áp út và ngón út cho vào giữa hai chân bé, ngón cái và hai ngón còn lại kẹp hai phía ngoài). Nhẹ nhàng đỡ chân bé lên vừa đủ để lòn tay trái dưới mông, rồi luồn lên dần đến dưới cổ bé. Vẫn tay trái xòe ra tạo một mặt bằng chắc chắn đỡ lấy đầu, đồng thời hơi xoay cổ tay và cẳng tay ra ngoài một ít đỡ lưng bé. Bàn tay phải lúc này thả lỏng và xòe ra thực hiện nốt điều tương tự với mông bé (không buông chân). Sau đó là từ từ nhấc bé lên bằng cả hai tay.
Trong suốt các thao tác bạn phải không ngừng trấn an bé bằng cách trò chuyện, cười nói với nó. Vì nếu bạn đường đột chạm vào, bé sẽ phản ứng như có kẻ đang "bắt cóc" nó...
Nơi yên bình nhất của con là lòng mẹ: Khi bế bé, bạn phải thành công ở hai ý định: tạo sự thoải mái cho mình (vì nếu cảm thấy gò bó bạn có thể bớt hứng thú bế bé lâu hơn) và sự thỏa ý của bé. Mọi đứa trẻ đều rất "kết" được áp sát vào lòng mẹ mình, nên bạn có thể chọn hai cách bế. Cách thứ nhất là áp vai, nhẹ nhàng nâng bé lên áp vào vai bằng cách dùng bàn tay phải đỡ dưới mông bé, tay trái đỡ đầu sao cho đầu bé không bị khật khưỡng ra sau. Nên nâng đầu bé vượt khỏi vai một chút, vì trong tư thế này bé sẽ có nhu cầu nhìn mọi thứ qua vai mẹ.
Cách thứ hai là bế bé trên tay để bé có thể nhìn thấy mặt mẹ và "trò chuyện", sự thi vị sẽ tăng gấp đôi. Khi nhấc bé lên, bạn khéo léo xoay người bé sao cho đầu nằm trên khuỷu tay trái của bạn, tay kia đỡ dưới mông bé. Lúc này bé ở tư thế nằm ngửa, tạo thêm thuận lợi khi bạn muốn tặng thêm cho bé một sự thích thú nữa là đung đưa nhè nhẹ bé.
Thực ra vẫn còn một cách bế dành cho những bà mẹ bận rộn khi bạn chỉ bế bé một tay còn tay kia làm việc khác. Tuy nhiên, theo các chuyên gia về... chấn thương trẻ em, thì lời khuyên cho nhiều bà mẹ là không nên dùng cách này vì sự thiếu chắc chắn. Khi phải làm hai việc cùng lúc, có thể bạn sẽ bị phân tâm và "làm rơi" một thứ. Thực tai họa nếu thứ bị rơi lại là thiên thần nhỏ bạn đang bế trên tay.
BS Đỗ Minh Tuấn (PN)
|
|
|
Post by Oshin on Apr 10, 2004 13:47:42 GMT -5
Món ăn cho trẻ bị còi xương Còi xương là tình trạng bệnh lý thường gặp ở trẻ nhỏ. Nguyên nhân là do thiếu vitamin D làm cho chuyển hóa canxi và phôtpho bị rối loạn, dẫn đến quá trình sinh trưởng của xương bị cản ngại, thậm chí gây biến dạng xương.
Dưới đây là một số món ăn mà trẻ dễ chấp nhận, vừa đạt hiệu quả điều trị bệnh, vừa cung cấp chất dinh dưỡng, lại rẻ tiền và dễ kiếm.
- Trứng gà tươi vài quả rửa sạch, đập lấy vỏ rồi sao vàng tán bột, đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 1-2 lần, mỗi lần 5 g hòa với nước cháo.
- Chân cua 100 g rửa sạch, sao vàng tán bột, mỗi ngày dùng 5 g hòa với nước cháo.
- Trứng gà 1 quả, luộc kỹ bằng lửa nhỏ trong 45 phút rồi bóc lấy lòng đỏ, dùng thìa nghiền nhỏ rổi hòa với cháo ăn trong ngày.
- Sò biển 100 g, rửa sạch, nấu nhuyễn cho một chút muối rồi ăn vài lần.
- Hến 10 con, làm sạch, đánh đều với một quả trừng gà rồi hấp cách thủy, ăn trong ngày.
- Xương sụn lợn 500 g, rửa sạch hầm nhừ với 50 g đậu tương rồi cho trẻ ăn với lượng thích hợp.
- Cá trắm đen 1 con, làm sạch, chú ý bỏ mật, rồi cắt khúc, xào qua với gừng, hành và một chút dầu thực vật, rồi đổ nước hầm nhừ, chia ăn nhiều lần trong ngày.
- Hà thủ ô 100 g, ngưu tất 100 g, ngâm trong rượu trắng 7 ngày rồi lấy ra phơi khô, sao thơm, tán bột, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi lần lấy 5 quả đại táo, khía dọc bỏ hột rồi cho bột thuốc vào trong, đem hấp cách thủy cho chín rồi ăn trong ngày.
- Ô tặc cốt 15 g, quy bản 15 g, tây thảo 5 g. Tất cả sắc kỹ lấy nước, bỏ bã, rồi hòa với một chút đường đỏ, chia uống vài lần.
- Quy bản 15 g, cốt toái bổ 15 g, đẳng sâm 10 g, Tất cả sắc kỹ trong 1 giờ, rồi lọc lấy nước, hòa với một chút đường đỏ, chia uống vài lần.
- Rùa một con, làm thịt, hầm nhừ với gừng, hành, muối rồi cho trẻ ăn với lượng thích hợp.
Theo KH&ĐS
|
|
|
Post by Oshin on Apr 13, 2004 8:36:19 GMT -5
Thương con, mẹ ơi hãy tắm nắng!
Khi mang thai, nhiều bà mẹ tương lai trở nên rất giữ gìn trước các hoạt động hàng ngày, thậm chí còn tránh ra nắng, ra gió. Nhưng thực tế chứng minh rằng: Thiếu ánh nắng, đứa trẻ khi ra đời có thể phải đối mặt với nhiều căn bệnh nghiêm trọng.
Ánh nắng cung cấp phần lớn vitamin D cho cơ thể. Nhóm nghiên cứu thuộc ĐH Monash (Australia) vừa công bố: Nếu người mẹ lúc mang thai ít phơi mình ra ánh nắng mặt trời, thai nhi sẽ có nguy cơ bị các bệnh về huyết áp và thận. Chúng ta đều biết rằng cơ thể sẽ nhận được một lượng vitamin D đáng kể nếu tiếp xúc với ánh sáng mặt trời ở mức độ vừa phải. Vitamin D đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của cơ thể - nếu thiếu vitamin D, trẻ em sẽ rất dễ bị còi xương và một số bộ phận khác sẽ không phát triển đầy đủ. Ở người, phần lớn vitamin D đều được đưa vào cơ thể qua đường ánh sáng mặt trời.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu bằng cách quan sát một nhóm chuột mang thai thiếu vitamin D - huyết áp của lũ chuột con lúc sinh ra cao hơn hẳn so với những con chuột được cho ăn đầy đủ vitamin D. Bên cạnh đó, do không nhận được đủ lượng vitamin D cần thiết khi còn ở trong bào thai, thận và hệ tim mạch của chuột sơ sinh sẽ không phát triển bình thường. Ngoài ra, thiếu vitamin D còn tác động không tốt đến sự phát triển của não. Chuột con không đủ vitamin D thường có não lớn hơn và hình dạng lệch lạc so với chuột bình thường được ăn uống đầy đủ.
Điều nguy hiểm là, các hậu quả nói trên đều không thể khắc phục được, cho dù sau này cơ thể có được bổ sung đầy đủ vitamin. Theo Helena Parkington, giáo sư sinh lý học thuộc ĐH Monash, kết quả tìm được trên chuột hoàn toàn có thể áp dụng cho người.
Khánh Hà (Theo Thời báo Ấn Độ )
|
|
|
Post by Oshin on Apr 13, 2004 8:46:40 GMT -5
Khi trẻ chán ăn
Triệu chứng chán ăn ở trẻ là rất phổ biến làm nhiều bậc phụ huynh lo lắng không yên.
- Nếu như trẻ mắc bệnh lao, dạ dày mãn tính, cảm cúm, thiếu nguyên tố vi lượng và một số căn bệnh ác tính khác thì chúng sẽ chán ăn, hãy đưa trẻ đi khám bác sĩ để chữa triệt để những căn bệnh mắc phải sau đó mới tìm cách chữa triệu chứng chán ăn.
- Trẻ càng chán ăn nếu thấy trên bàn có quá nhiều thức ăn, đó là quy luật phổ biến. Vì vậy, bạn hãy giảm lượng thức ăn đến độ bé không ăn vội thì sẽ bị đói, xem bé có ăn hay không?
- Hãy tập trung chú ý vào mâm cơm không được phân tán tư tưởng, nói những chuyện không liên quan đến bữa ăn, không hỏi tình hình học tập và chơi bời của con.
- Bữa ăn hằng ngày phải có giờ giấc, định lượng rõ ràng: Phải xác định rõ ngày ba bữa ăn cho trẻ chán ăn, tuyệt đối không được thêm bớt bữa nào.
- Cần thường xuyên thay đổi các món ăn, đừng quá đơn điệu và nhàm chán. Hãy gây cho bé cảm giác mới mẻ với bữa ăn mới tạo được hứng thú của chúng, hãy trang trí các món ăn thành những chú gà, chó, mèo... ngộ nghĩnh thì chắc chắn trẻ ăn thấy ngon miệng.
- Trẻ con thích ăn nhạt, ghét mỡ, các đồ ăn kích thích mạnh: Đó là quy luật phổ biến của trẻ, đừng nấu đồ ăn quá đậm, không cho nhiều hành, tỏi, gừng, ớt. Nên cho ít mỡ, dầu và muối.
TÙNG CHINH (NTNN)
|
|
|
Post by Robot on Apr 15, 2004 12:00:00 GMT -5
Thai phụ nên cẩn thận với nhân sâm
TT - Theo các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Hong Kong, chất ginsenoside (thành phần chính của nhân sâm) có thể gây dị tật cho thai nhi.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm chất này trên chuột và nhận thấy nếu tiêm vào một lượng ginsenoside khoảng 30microgram/ml thì phôi thai chuột sẽ phát triển không bình thường. Lượng ginsenoside càng cao thì những dị tật càng rõ nét.
Tuy cần phải có nhiều nghiên cứu sâu hơn nữa mới có thể khẳng định tác hại của ginsenoside đối với thai nhi, nhưng các nhà khoa học khuyến cáo thai phụ không nên dùng nhân sâm trong ba tháng đầu của thai kỳ.
H.Đ. (Theo e-sante.fr)
|
|
|
Post by Oshin on Apr 21, 2004 14:42:13 GMT -5
Chất kẽm và sự phát triển tầm vóc cơ thể Cần chuẩn bị sức khỏe và năng lượng dự trữ cho bà mẹ.
Kẽm là yếu tố vi lượng cần thiết cho mọi hình thái của sự sống. Tuy thế, đến năm 1961, khi Prasad phát hiện ra chứng lùn và thiểu năng sinh dục do thiếu kẽm ở trẻ em Iran thì người ta mới bắt đầu thấy rõ giá trị và tầm quan trọng của kẽm đối với tầm vóc và sức khỏe của con người. Đến nay, rất nhiều chức năng quan trọng của kẽm đã lần lượt được khám phá.
Trong cơ thể có khoảng 2500 mg kẽm; 90% kẽm trong cơ thể nằm trong nội bào, trong đó có 30% được phân bố trong xương và 60% trong cơ. Bình thường hàm lượng kẽm trong cơ thể là 20 mg/g thể trọng, nhưng nó có thể cao gấp 1,5 lần (30 mg/g thể trọng) trong thời kỳ cơ thể đang tăng trưởng và trưởng thành. Trong thời kỳ mang thai, có sự huy động của kẽm từ cơ thể người mẹ sang thai nhi, nên hàm lượng kẽm trong máu của người mẹ có thể giảm đến 50%.
Các nghiên cứu ngày càng cho thấy thiếu kẽm có thể gây ra nhiều rối loạn bệnh lý đa dạng và có hệ thống lên quá trình tăng trưởng:
Thiếu kẽm gây ra giảm mức tiêu thụ năng lượng, dẫn đến làm chậm phát triển thể chất với các biểu hiện chán ăn và giảm ăn, nôn ói và chậm tiêu hóa do suy giảm hoạt tính của các enzym phụ thuộc kẽm song song với sự suy giảm khả năng đồng hóa các chất dinh dưỡng, đặc biệt là giảm tổng hợp protein trong quá trình nhân đôi tế bào. Thiếu kẽm không chỉ xảy ra đơn thuần mà thường kết hợp với thiếu năng lượng và thiếu đa chất do có sự suy giảm tiêu thụ năng lượng nên dẫn đến hậu quả là thiếu nguyên liệu để xây dựng cơ thể làm chậm tăng trưởng thể chất nói chung và chiều cao nói riêng. Ở các động vật chịu một chế độ dinh dưỡng thiếu kẽm trong thời kỳ bào thai sẽ gây ra khiếm khuyết về sự tăng trưởng bào thai và tỷ lệ quái thai cao. Các khảo sát ở người cũng cho thấy bà mẹ thiếu kẽm trong thời kỳ mang thai sẽ gây ra các biểu hiện của nghén như chán ăn, giảm ăn, buồn nôn, nôn ói, mất ngủ nên đã gây ra sự thiếu hụt và tiêu hao năng lượng cung cấp cho bào thai phát triển, cũng như làm giảm dự trữ năng lượng cho sự sinh ra sữa mẹ ở thời kỳ sau sinh, trẻ sinh ra sẽ nhẹ cân và dễ sinh non, thể hiện sự chậm tăng trưởng của trẻ trong thời kỳ bào thai kết hợp với tình trạng nhanh chóng bị thiếu sữa mẹ sau sinh.
Ở thời kỳ sau sinh, biểu hiện sớm nhất của thiếu kẽm trên lâm sàng là sự tăng cân chậm và sau đó là sự tăng chiều cao chậm, về mặt nhân trắc sẽ có biểu hiện của sự sụt giảm kín đáo của các chỉ số Z-score về cân nặng và chiều cao nên rất dễ bỏ sót. Các sai sót trên thể hiện sự suy giảm tốc độ tăng trưởng của cơ thể. Ở giai đoạn nặng hơn trẻ sẽ thể hiện rõ tình trạng suy dinh dưỡng, lùn, chậm dậy thì, thiểu năng sinh dục và chậm phát triển tâm thần vận động.
Bổ sung kẽm kết hợp với đồng, măng gan và canxi góp phần cải thiện xương ở phụ nữ tiền mãn kinh. Việc bổ sung kẽm sẽ kích thích sự phát triển tầm vóc thể hiện bằng sự tăng trưởng chiều cao, khối cơ và thể trọng. Điều đặc biệt đáng được đề cập là các nghiên cứu bổ sung kẽm cho trẻ em chậm tăng trưởng về tầm vóc (những trẻ này có chiều cao thấp nhưng có chế độ ăn đầy đủ và cân nặng bình thường) cho thấy có tác động dương tính lên sự tăng chiều cao nhưng không gây tác động lên sự gia tăng thể trọng.
Một nghiên cứu khác cho kết quả: nếu bổ sung kẽm kết hợp với đồng, măng gan và canxi trong 2 năm liền sẽ góp phần làm cải thiện khối xương ở phụ nữ tiền mãn kinh.
|
|