|
Post by Oshin on Apr 21, 2004 14:43:39 GMT -5
Để góp phần phát triển tầm vóc, về mặt cộng đồng, cần có một chiến lược mang tầm một quốc gia và các chương trình hành động cụ thể. Tuy nhiên, về phía các cá nhân, có thể áp dụng một số biện pháp có hệ thống xuyên suốt qua các giai đoạn phát triển của đứa trẻ như sau:
Giai đoạn trước khi mang thai:
- Cần chuẩn bị sức khỏe và năng lượng dự trữ cho bà mẹ.
- Khám và đánh giá tình trạng sức khỏe, dự trữ năng lượng cho sự tăng trưởng của bào thai và sự tiết sữa mẹ bằng các số đo nhân trắc (cân nặng, chiều cao, BMI, tỷ lệ mỡ…) các chỉ số sinh hóa và huyết học...
- Sử dụng chế độ ăn uống, luyện tập, nghỉ ngơi hợp lý nhằm tăng cường sinh lực và dự trữ năng lượng.
- Điều trị các chứng chán ăn, ăn ít, giảm ăn, thiếu máu, thiếu kẽm và nhất là gầy thể tạng… bằng bổ sung kẽm và các vi chất khác, tình trạng béo phì hoặc thừa cân do dư mỡ cũng cần được điều trị tích cực.
Giai đoạn bào thai:
- Tập trung làm tăng tầm vóc “nền” (thân trọng và chiều cao “nền”), phòng chống thiếu kẽm, sắt, canxi… và dự trữ năng lượng cho việc nuôi dưỡng bào thai và tiết sữa mẹ sau khi sinh.
- Cung cấp chế độ ăn đầy đủ năng lượng, giàu protein và các chất khoáng Ca, P, Fe, Zn, Iot..., Vitamin A,C,D, axit folic, vitamin nhóm B…
- Theo dõi tốc độ tăng trưởng của bào thai và dự trữ năng lượng trong thời kỳ mang thai.
- Có chế độ vận động thích hợp, tắm nắng thường xuyên, trạng thái tinh thần thoải mái.
- Can thiệp sớm ngay trong các tháng đầu tiên khi mang thai bằng bổ sung kẽm, Fe, Ca, Mg, vitamin nhóm B, protein, cho các bà mẹ có tình trạng bào thai chậm phát triển, suy dinh dưỡng và thiếu kẽm (thường được biểu hiện bởi các triệu chứng của nghén: chán ăn, giảm ăn, buồn nôn, nôn ói, rối loạn thần kinh như khó ngủ, ngủ ít, ngủ không sâu hay thức giấc, chiêm bao liên tục, ác mộng, mệt mỏi, dễ bị kích thích, xúc động…), nhất là chậm tăng cân khi mang thai.
Giai đoạn sau khi sinh:
- Sau khi sinh ra đứa bé cần được cho bú sữa mẹ (kẽm trong sữa mẹ có giá trị sinh học cao nên dẽ hấp thu), cho ăn dặm kịp thời và đầy đủ các chất dinh dưỡng, thức ăn phải đa dạng dần, đủ đạm động vật, rau quả và chất béo cân đối thích hợp. Điều trị kịp thời các cho các bà mẹ thiếu sữa bằng bổ sung Zn, Fe, Ca, Mg, Vitamin C, nhóm B, protein và chế độ ăn thích hợp, khuyên bà mẹ uống nước đầy đủ và cho con bú nhiều lần.
- Bổ sung Zn, Ca, Fe, vit.C nhóm B… cho các trẻ có tình trạng suy giảm tiêu thụ năng lượng và nguy cơ thiếu kẽm (chán ăn kèm giảm ăn, giảm bú, nôn ói), chậm tăng trưởng, suy dinh dưỡng, còi xương, thiếu máu, thiếu canxi…
- Phòng chống tốt các bệnh nhiễm trùng bằng chủng ngừa đầy đủ, giữ gìn vệ sinh, giữ ấm, bổ sung kẽm, vitamin A và cung cấp dinh dưởng đầy đủ cho các đối tượng có nguy cơ suy giảm sức đề kháng của hệ miễn dịch biểu hiện bằng tình trạng nhiễm trùng hệ hô hấp, tiêu hóa và da tái diễn.
- Tạo điều kiện cho trẻ ngủ nhiều, ngủ sâu và ngủ đủ giấc trưa. Điều trị sớm các rối loạn giấc ngủ nhất là rối loạn giấc ngủ do thiếu kẽm, thiếu năng lượng và các chất dinh dưỡng khác kết hợp với thiếu Zinc như Ca, Mg, B6…
- Tạo điều kiện về không gian cho trẻ vận động, chú ý vận động ngoài trời (tạo Vitamin D) đủ liều lượng và thích hợp cho các lứa tuổi, tránh ngồi lâu một chỗ xem TV, chơi vi tính kéo dài.
- Thường xuyên chăm sóc trẻ trong tình yêu thương, tránh bắt trẻ học tập quá mức, gây căng thẳng, làm mất ăn, mất ngủ, thiếu thời gian nghỉ ngơi, vận động vui chơi.
- Cách bổ sung kẽm: Khi bổ sung kẽm không nên cho đơn thuần mà cần cho kết hợp với các chất dinh dưỡng khác nhằm phát huy tốt nhất tác động của kẽm và đáp ứng tình trạng thiếu đa chất kết hợp. Các chất nên kết hợp bổ sung với kẽm là: Ca, Mg, Vitamin A, D, C, nhóm B, đạm liều thấp (vì các chất này đã có trong thức ăn). Về thời gian bổ sung: nên cho đến khi hết nguy cơ thiếu kẽm. Để làm tăng chiều cao nên bổ sung kẽm nhiều tháng và kiên trì kết hợp đồng bộ các biện pháp nêu trên.
- Các biện pháp khác: liệu pháp hormone dễ biến chứng nguy hiểm, liệu pháp kéo xương tốn kém và không sinh lý. Tạo ưu thế lai (chọn vợ hoặc chồng có tầm vóc tốt), điều này đã từng được áp dụng trên thực tế, thường là người có chiều cao thấp tầm vóc nhỏ có xu hương thích tìm đối tượng cao hơn cho mình.
K.H (Ghi từ tài liệu của TS.BS Nguyễn Thanh Danh - Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM)
|
|
|
Post by Oshin on Apr 21, 2004 14:46:44 GMT -5
Cho trẻ ăn bổ sung như thế nào? Để trẻ ăn ngon miệng, cần thường xuyên thay đổi món ăn.
Cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn đều bất lợi, làm trẻ chậm lớn và suy dinh dưỡng. Tốt nhất là bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung từ sau tháng thứ 4 - 6 trở đi, khi đó sữa mẹ không còn đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ cả về số lượng và chất lượng.
Ngoài sữa mẹ, bữa ăn bổ sung cho trẻ phải đa dạng, cân đối và đủ chất, gồm:
- Chất đạm (protid) là nguyên liệu để xây dựng và tái tạo các mô và là thành phần chính của các kháng thể, men (enzyme), chất nội tiết của cơ thể. Nguồn cung cấp chất đạm cho cơ thể chủ yếu qua thức ăn gồm: đạm có nguồn gốc động vật như trứng, sữa, thịt (thịt lợn, thịt bò, thịt gà), cá, tôm, cua, nhộng tằm; đạm có nguồn gốc thực vật như đậu xanh, đậu đen, đậu nành...
- Chất béo (lipid) cung cấp năng lượng cho cơ thể và giúp cơ thể hấp thu các loại vitamin A, D, E, K có trong thực phẩm. Ngoài mỡ động vật, nên cho trẻ ăn thêm dầu thực vật (như dầu lạc, dầu vừng, dầu đậu nành...) vì trong dầu có nhiều acid béo không no, cơ thể dễ hấp thu hơn mỡ.
- Chất đường, bột (glucid) cung cấp phần chủ yếu năng lượng cho cơ thể. Chất đường bột bao gồm gạo, ngô, khoai, sắn...
- Vitamin và chất khoáng. Rau xanh, quả chín là nguồn cung cấp chủ yếu vitamin và chất khoáng cho cơ thể. Các loại rau có lá xanh thẫm như: rau ngót, rau muống, rau dền, rau cải... có nhiều vitamin C và các vi chất dinh dưỡng như bêta-carôten (tiền vitamin A) giúp phòng chống bệnh khô mắt và sắt phòng chống thiếu máu... Các loại quả chín như đu đủ, cam quýt, chuối, hồng xiêm, xoài... cũng có nhiều bêta-carôten và các vi chất dinh dưỡng khác cần có trong khẩu phần ăn hằng ngày của trẻ.
Vì các cơ quan tiêu hóa của trẻ ở lứa tuổi này chưa hoàn thiện, nên thực phẩm dành cho trẻ phải được lựa chọn và chế biến sao cho phù hợp với độ tuổi để trẻ có thể tiêu hóa và hấp thu được nhiều chất dinh dưỡng nhất. Có thể xay thành bột, nghiền nát, hầm nhừ; cho trẻ ăn từ lỏng đến đặc dần:
- 5-6 tháng tuổi: bú mẹ + 1-2 bữa bột loãng rồi đặc dần;
- 7-12 tháng tuổi: bú mẹ + 3-4 bữa bột đặc;
- 13-18 tháng tuổi: bú mẹ + 4-5 bữa cháo;
- 19-24 tháng tuổi: bú mẹ + 4-5 bữa cháo đặc hoặc cơm nát;
- 3-5 tuổi: ngoài bữa ăn cùng gia đình (thời gian đầu nên cho trẻ ăn cơm nát), cần cho trẻ ăn thêm các bữa phụ như sữa, cháo thịt, cháo trứng, phở, súp...
Ðể trẻ ăn ngon miệng, ăn hết khẩu phần, cần thường xuyên thay đổi món ăn. Tuyệt đối không cho trẻ ăn bánh kẹo, hoa quả, uống nước ngọt trước bữa ăn làm trẻ ngang dạ không muốn ăn.
Ðể đánh giá sự tăng trưởng của trẻ, qua đó xem xét khẩu phần hằng ngày của trẻ đã hợp lý chưa, trẻ có được ăn no, ăn đủ chất không, các bậc cha mẹ cần thường xuyên theo dõi cân nặng của trẻ. Hằng tháng cân trẻ vào một ngày nhất định rồi vẽ thành biểu đồ tăng trưởng. Nếu đường biểu diễn đi lên chứng tỏ trẻ được nuôi dưỡng tốt, trẻ tăng cân và phát triển bình thường. Nếu đường biểu diễn nằm ngang hoặc đi xuống chứng tỏ bữa ăn của trẻ thiên về đường bột (chủ yếu ăn bột, cháo, cơm), ít chất đạm, chất béo, trẻ không đủ năng lượng để hoạt động và phát triển do đó trẻ chậm lên cân; hoặc do trẻ có vấn đề về sức khỏe. Khi đó, cần cho trẻ đi kiểm tra sức khỏe. Nếu do sai lầm trong nuôi dưỡng, bác sĩ sẽ hướng dẫn cách điều chỉnh khẩu phần của trẻ. Còn nếu trẻ có bệnh, bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị cụ thể. Sau đó, nếu đường biểu diễn cân nặng của trẻ đi lên chứng tỏ chế độ ăn của trẻ đã hợp lý, cần duy trì.
BS Nguyễn Hưng Thịnh (SK&GĐ )
|
|
|
Post by Robot on Jun 23, 2004 13:20:02 GMT -5
Sữa non - nguồn thức ăn quý giá nhất của bé
Hãy cho con bú ngay khi người hộ sinh trao bé cho bạn. Sữa non đặc sánh, màu vàng nhạt, rất giàu chất đạm, kháng thể, vitamin A và bạch cầu. Lượng đạm trong sữa non nhiều gấp 10 lần trong sữa trưởng thành.
Sữa non được tiết ra từ những giờ đầu cho đến hết tuần đầu sau đẻ. Do nó có nhiều kháng thể (IgA, IgG, IgM, IgD) và bạch cầu (4.000 bạch cầu trong 1 ml) nên trẻ được bú sữa non sẽ tránh được dị ứng và một số bệnh nhiễm khuẩn. Các bạch cầu tiết ra IgA, lactoferin, lisozym và interferon, có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại các vi khuẩn đường ruột. Do vậy, nếu được bú sớm sau đẻ, bú đều đặn trong 6-9 tháng đầu, trẻ sẽ không bị mắc các bệnh như sởi, ho gà; ít bị viêm đường hô hấp và tiêu chảy.
Do giàu vitamin A nên sữa non giúp trẻ ít bị các bệnh nhiễm khuẩn nặng và phòng ngừa được bệnh khô mắt. Do có các yếu tố phát triển nên sữa non cũng giúp cho bộ máy tiêu hóa của trẻ sớm trưởng thành. Nó còn có tác dụng bài xuất phân su, làm trẻ đỡ vàng da.
Nhiều bà mẹ đẻ 1-2 ngày mới cho con bú. Trong khi chờ sữa về, thay vì cho con bú ngay trong nửa giờ đầu sau đẻ, họ lại cho con ăn nước cháo, đường hoặc sữa bò. Điều này rất bất lợi vì trẻ sẽ mất cảm giác thích sữa mẹ, lại phải sớm đương đầu với những protein lạ trong sữa bò, trong khi bộ máy tiêu hóa của trẻ còn rất non nớt. Vì vậy, trẻ có thể bị dị ứng, rối loạn tiêu hóa...
Sữa mẹ tiết ra theo phản xạ khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên tiết ra prolactin và oxitoxin. Prolactin kích thích tế bào tuyến sữa tạo sữa, còn oxitoxin làm co các cơ biểu mô xung quanh tuyến vú để dẫn sữa từ các nang chảy vào ống dẫn, ra đầu vú. Như vậy, động tác mút sữa ban đầu của trẻ khi bú sớm không chỉ giúp tận hưởng nguồn sữa non quý giá mà còn là bước chuẩn bị quan trọng cho sự tiết sữa của mẹ sau này.
BS Nguyễn Hưng Thịnh, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on Jun 24, 2004 13:49:02 GMT -5
Để bé yêu luôn sạch sẽ Sạch sẽ, thơm tho, bé vừa đáng yêu, vừa mạnh khỏe. Các bà mẹ còn chú ý đến những điều tưởng chừng nhỏ nhặt, nhưng nếu bỏ qua, có thể làm bé cưng bị ốm. 1. Khi bé bú Bạn đừng quên các nguyên tắc sau: . Rửa đầu ngực thật sạch bằng xà phòng và nước đun sôi để nguội trước khi bé bú. . Luộc bình sữa, núm vú bằng nước sôi. Khi bé bú xong, súc rửa thật kỹ, không để cặn sữa bám vào đáy bình. Bé dễ bị đau bụng. . Bát, thìa... của bé phải luôn sạch sẽ. 2. Khi bé tắm . Nước có thể văng vào miệng, mắt hoặc cuống rốn khi tắm. Trong ba tháng đầu, tốt nhất bạn nên tắm cho con bằng nước đun sôi để nguội. . Chọn những loại sữa tắm dành cho em bé để không gây kích ứng da. . Áo quần của bé phơi ngoài sân rất dễ bám bụi. Bạn nên là (ủi) lại một lần trước khi cho bé mặc nhất là đối với tã vải. . Giặt áo quần, chăn màn của bé trong chậu riêng, không giặt chung với áo quần người lớn. Chọn loại xà phòng tẩy nhẹ để tránh làm da bé bị dị ứng. 3. Khi bé chơi Đây chính là lúc bé dễ “ở bẩn” nhất. . Ở tuổi mọc răng, bé hay ngậm và cắn tất cả những món vớ được. Bạn nên mua cho con loại đồ chơi nhựa dùng để ngậm. Nhớ luộc nước sôi hoặc rửa sạch trước khi cho bé chơi. . Tuyệt đối không cho bé nhặt bất cứ vật gì dưới đất. Nếu bé vứt đồ chơi xuống sàn, bạn phải rửa lại thật sạch. . Tránh để bé không mặc quần ngồi lê la dưới đất vì dễ bị nhiễm giun sán. . Dạy con không sờ vào vật bẩn trong nhà như bánh xe, giày dép, chổi... và không ngậm ngón tay. VÂN HẠNH (TT&GĐ )
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 11:52:39 GMT -5
Thai phụ hãy kiềm chế cõn nóng giận! Theo kết quả một cuộc nghiên cứu mới ðây thì một trong những nguyên nhân làm trẻ sõ sinh có tính khí nóng nảy nằm ở thái ðộ và thói quen của ngýời mẹ trong quá trình mang thai.
Theo ðó, trong số 572 gia ðình có con chýa ðến 5 tháng tuổi ðýợc nghiên cứu thì chỉ có 28% các bé có tính tình ôn hòa, 58% các bé có biểu hiện hõi nóng tính khi chúng ngày càng lớn và khoảng 14% có mức ðộ nóng tính cao hõn. Kết quả cũng cho thấy các bà mẹ trẻ ở ðộ tuổi 20, những thai phụ có thói quen hút thuốc, uống rýợu hoặc thýờng xuyên nóng tính thì các bé sinh ra có xu hýớng ðấm, ðá, cắn thậm chí bắt nạt những ngýời khác.
U.Phi (Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 10:47:25 GMT -5
Những thuốc dễ gây dị tật bẩm sinh
Sứt môi ở trẻ có thể do mẹ dùng thuốc khi mang thai. Những phụ nữ mang thai nếu dùng vitamin A liều cao thì đứa bé sinh ra có thể bị dị dạng mặt, sọ, tim và cơ quan sinh dục. Nếu dùng quá nhiều vitamin D, trẻ sinh ra có thể bị cao huyết áp, chậm phát triển tâm thần.
Từ lâu, đã có bằng chứng cho thấy thai phụ khi dùng một số thuốc có thể bị sẩy thai, thai chết lưu hoặc dị tật bẩm sinh. Theo nghiên cứu dịch tễ, gần 2% ca dị tật bẩm sinh là do các thuốc đã được bà mẹ sử dụng trong lúc mang thai. Các bác sĩ đã ghi nhận hơn 8.000 trẻ sơ sinh có tay cụt bẩm sinh mà nguyên nhân là mẹ dùng thuốc an thần Thalidomide.
Từ phát hiện trên, các nhà y học đã quan tâm hơn đến tính an toàn của thuốc khi sử dụng cho thai phụ, đặc biệt là về khả năng gây quái thai. Gần 2.000 loại thuốc đã được thử nghiệm trên súc vật, trong đó có 580 loại gây quái thai và 150 loại bị nghi vấn. Tuy nhiên, cần lưu ý là có những loại thuốc gây quái thai cho súc vật nhưng có thể không gây quái thai cho người và ngược lại.
Các thuốc cần cẩn trọng khi dùng cho thai phụ gồm:
Các vitamin: Vitamin B6 nếu dùng kéo dài sẽ gây co giật. Vitamin C liều cao có thể gây dị tật; còn vitamin E nếu bị lạm dụng sẽ khiến trẻ bị tiêu chảy.
Thuốc tiêu hóa: Thuốc Cimetidine gây vàng da ở trẻ sơ sinh.
Corticoid: Gây ức chế vỏ thượng thận, hở môi và khe vòm miệng nếu được dùng kéo dài trong thai kỳ.
Thuốc hô hấp: Salbutamol và Ephedrin làm tim thai nhanh. Aminophyllin làm nhịp tim nhanh, tăng đường huyết.
Thuốc chống ung thư: Methotrexate, Mercaptopurin gây thai chết lưu, dị tật bẩm sinh, não úng thủy, thai vô sọ, sứt môi, dị dạng chi. Cyclophosphamide gây dị dạng chi, tai, sinh non.
Thuốc kháng viêm không steroid: Làm co thắt ống động mạch, viêm ruột hoại tử.
Kháng sinh: Penicillin liều cao có thể làm thai chết lưul; Tetracyclin khiến răng trẻ bị vàng, da vàng, dị hình ở chi. Bactrim tăng nguy cơ vàng da ở trẻ sinh non. Metronidazole ảnh hưởng đến nhiễm sắc thể của thai và gây dị tật bẩm sinh. Tóm lại, hầu hết các loại kháng sinh đều có thể gây tổn thương chot thai.
Thuốc kháng giáp: Methimazole, Carbimazole gây dị dạng ở mặt, hẹp lỗ mũi và thực quản, chậm phát triển trí tuệ.
Thuốc chống động kinh: Carbamazepin, Valproate Natri gây dị dạng ở mặt, nứt đốt sống, lệch lỗ tiểu, dị dạng tim, kẽ hở vùng bụng, chậm nói, cận thị. Trimethadione, Hydantoine gây dị dạng ở hệ thần kinh trung ương, mũi kém phát triển.
Thuốc hạ đường huyết: Hàm lượng glucose huyết thấp ở trẻ sơ sinh.
Thuốc ổn định tâm thần: Lithium gây nguy cơ bệnh tim cho trẻ, rối loạn chức năng tiêu hóa, đái tháo nhạt.
Thuốc an thần: Gây rối loạn chức năng gan, dễ xuất huyết, chậm phát triển tâm thần, dị tật tim bẩm sinh, sinh ngạt, vàng da, bú kém, dị dạng nội tạng, các chi ngắn.
Thuốc huyết học: Gây dị dạng ở bộ xương, đầu nhỏ, thoái hóa thần kinh thị giác, tâm thần phát triển chậm, thai lưu và xuất huyết ở trẻ sơ sinh.
Thuốc giảm đau: Methadone gây suy hô hấp khi sinh. Aspirin gây chảy máu ở trẻ sơ sinh. Na Salicylat có thể làm thai chết lưu. Indomethacin làm suy giảm chức năng thận.
Thuốc tim mạch: Methyldopa làm trẻ sơ sinh có vòng đầu nhỏ. Propanolol gây chậm nhịp tim thai, hạ đường huyết. Reserpin làm trẻ lừ đừ, bú yếu, hạ thân nhiệt.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Robot on Nov 17, 2004 11:48:04 GMT -5
Mẹ vuốt ve giúp bé mau lớn
Đối với những em bé sinh thiếu tháng hay thiếu cân, sự vuốt ve, âu yếm cũng như ấp ủ của mẹ có thể cải thiện tình hình sức khỏe và giúp bé mau lớn. Tại các quốc gia phát triển người ta còn gọi cách chăm sóc trẻ này là phương pháp "kangaroo". Phương pháp này, chủ yếu dựa vào mối liên hệ gần gũi giữa mẹ và bé, không chỉ an toàn đối với trẻ mà còn giúp trẻ tránh được các bệnh lây nhiễm mức độ nhẹ đồng thời khuyến khích việc nuôi con bằng sữa mẹ. Một cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy những bé được chăm sóc bằng phương pháp "kangaroo" khi được 1 tuổi có hệ thần kinh phát triển tốt hơn các trẻ khác. Uyên Phi (Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Jan 12, 2005 11:06:59 GMT -5
Trẻ em cần tránh xa điện thoại di động Kết quả nghiên cứu của Cơ quan Phòng chống Phóng xạ quốc gia Anh (NRPB) cho thấy trẻ em dễ bị điện thoại di động (ĐTDĐ) gây hại lên sức khoẻ nhất.
Theo đó, trẻ dễ bị tổn thương ở hệ thần kinh do hệ đang trong giai đoạn phát triển. Lúc này, mức độ hấp thu năng lượng của các mô não ở trẻ mạnh hơn người lớn nên lượng năng lượng mà não trẻ hấp thu dưới dạng sóng sẽ lớn hơn. Các cuộc nghiên cứu trước đó cho thấy, dùng ĐTDĐ trong thời gian lâu có thể làm tăng nguy cơ u tai lên gấp 4 lần. ĐTDĐ còn tác hại đến hoạt động của não bộ, làm suy giảm khả năng nhận thức và gây tổn hại cho DNA. (BBC)
H.Y
|
|
|
Post by Robot on Jan 23, 2005 11:19:27 GMT -5
Sữa non - nguồn thức ăn quý giá nhất của bé
Hãy cho con bú ngay khi người hộ sinh trao bé cho bạn Sữa non đặc sánh, màu vàng nhạt, rất giàu chất đạm, kháng thể, vitamin A và bạch cầu. Lượng đạm trong sữa non nhiều gấp 10 lần trong sữa trưởng thành.
Sữa non được tiết ra từ những giờ đầu cho đến hết tuần đầu sau đẻ. Do nó có nhiều kháng thể (IgA, IgG, IgM, IgD) và bạch cầu (4.000 bạch cầu trong 1 ml) nên trẻ được bú sữa non sẽ tránh được dị ứng và một số bệnh nhiễm khuẩn. Các bạch cầu tiết ra IgA, lactoferin, lisozym và interferon, có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại các vi khuẩn đường ruột. Do vậy, nếu được bú sớm sau đẻ, bú đều đặn trong 6-9 tháng đầu, trẻ sẽ không bị mắc các bệnh như sởi, ho gà; ít bị viêm đường hô hấp và tiêu chảy.
Do giàu vitamin A nên sữa non giúp trẻ ít bị các bệnh nhiễm khuẩn nặng và phòng ngừa được bệnh khô mắt. Do có các yếu tố phát triển nên sữa non cũng giúp cho bộ máy tiêu hóa của trẻ sớm trưởng thành. Nó còn có tác dụng bài xuất phân su, làm trẻ đỡ vàng da.
Nhiều bà mẹ đẻ 1-2 ngày mới cho con bú. Trong khi chờ sữa về, thay vì cho con bú ngay trong nửa giờ đầu sau đẻ, họ lại cho con ăn nước cháo, đường hoặc sữa bò. Điều này rất bất lợi vì trẻ sẽ mất cảm giác thích sữa mẹ, lại phải sớm đương đầu với những protein lạ trong sữa bò, trong khi bộ máy tiêu hóa của trẻ còn rất non nớt. Vì vậy, trẻ có thể bị dị ứng, rối loạn tiêu hóa...
Sữa mẹ tiết ra theo phản xạ khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên tiết ra prolactin và oxitoxin. Prolactin kích thích tế bào tuyến sữa tạo sữa, còn oxitoxin làm co các cơ biểu mô xung quanh tuyến vú để dẫn sữa từ các nang chảy vào ống dẫn, ra đầu vú. Như vậy, động tác mút sữa ban đầu của trẻ khi bú sớm không chỉ giúp tận hưởng nguồn sữa non quý giá mà còn là bước chuẩn bị quan trọng cho sự tiết sữa của mẹ sau này.
BS NGUYỄN HƯNG THỊNH, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|