|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 3:33:53 GMT -5
Các bạn biết không, mọi chuyện bắt đầu khi mình học môn Ecotoxicology (Độc học sinh thái). Có lẽ đó là môn mình thích nhất trong học kỳ này. Thầy giáo người Iran, thầy giảng tận tâm và nhiệt tình. Kết thúc mỗi buổi học, mình đều cảm thấy biết được thêm nhiều điều bổ ích.
Mỗi sinh viên bọn mình phải làm một presentation về một đề tài tự chọn, thầy khuyến khích chọn về vấn đề ở chính đất nước của mình. Và, cuối cùng, sau nhiều ngày suy nghĩ, topic cho presentation mình đã chọn là : "Agent Orange & a Legacy of the Vietnam War".
Tài liệu chủ yếu tìm trên Internet. Qua một người em (bạn), mình tình cờ biết được những bài viết giá trị của tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn về chất độc màu da cam mà quân đội Mĩ đã sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (mình đã post trên diễn đàn) :
mo97.proboards18.com/index.cgi?board=khoahocMT&action=display&thread=1070375845
Xin được trân trọng giới thiệu những dòng hồi ký cảm động và sâu sắc của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn về một cuộc đời nhiều thăng trầm : chuyện vượt biên, những ngày sống ở trại tị nạn trên đất Thái, rồi đến Úc, Mĩ...
Điều mình khâm phục ở chú ấy, ngoài tài năng còn là sự nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và cái tâm của một nhà khoa học chân chính. Bài hồi ký rất hay, các bạn đọc thử nhé ! Nếu muốn đọc thêm các bài viết khoa học của chú Tuấn, các bạn có thể vào trang dưới đây : www.giaodiem.com/mluc/tacgia_nvt.htmCòn cái này là do bạn ở trên mạng giới thiệu : Bác Tuấn Nguyễn này có homepage (cũ?) ở đây: www.saigon.com/~tuan/homepage.htm
Mọi người có thể xem lại những bài viết của bác ấy trong archive của VNSA cách đây 4 năm: www-users.cs.umn.edu/~mnguyen/
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:21:09 GMT -5
Tùy bút
Một lần đi cho bình minh lên sớm (1)
Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn
Biến cố lịch sử bi hùng cuối tháng Tư năm 1975 đã gây nên làn sóng người Việt bỏ nước ra đi, một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Ðối với những ai rời Việt Nam sau sự kiện 1975 và đang sống ở hải ngoại như người viết bài này, một năm mới không bắt đầu bằng tháng Giêng mà bằng tháng Năm. Cũng như nhiều người khác, tôi chẳng chờ, chẳng đợi, nhưng thời gian vẫn tuần tự đến rồi đi, vẫn vô tư mang lại cái dấu mốc lịch sử "chỉ thêm sầu". Chả biết tự bao giờ, những ngày cuối tháng Tư đã cùng với thời gian đi vào tiềm thức, và mãi mãi để lại dấu ấn trong lòng người Việt xa quê hương, cái dấu ấn đa dạng: mặc cảm pha lẫn niềm kiêu hãnh, tự ti cùng tự hào, thất vọng chán chường hòa cùng lạc quan hy vọng... Cứ đến những năm có tận cùng bằng số mười (1980, 1990, 2000) hay số năm (1985, 1995), tôi lại lẩm nhẩm "Thấm thoát mà đã...", như thầm ghi dấu một chu kỳ lịch sử khó quên cho một thân phận bất hạnh.
Bấy lâu nay, vì miệt mài với công việc, đến giờ tôi mới có dịp ngồi tính lại sổ đời. Và tôi chợt giật mình cảm thấy mình đã ở giữa độ tuổi tứ tuần, cái độ tuổi mà người Tây phương thường gọi là "khủng hoảng giữa đời" (midlife crisis). "Chiều hôm thức dậy - Ngồi ôm tóc tóc dài - Chập chờn lau trắng trong tay" (2). Càng giật mình hơn nữa là gần phân nửa quảng đời đó, tôi lại sinh sống trên xứ người.
Ngày xưa, nàng Thúy Kiều chỉ lưu lạc có mười lăm năm mà đã thành chủ đề cho một tác phẩm văn chương bất hủ. Còn ngày nay, hàng triệu người Việt tha hương trên khắp địa cầu cả một phần tư thế kỷ ắt hẳn phải có nhiều chuyện để nói, để tâm sự, để gửi gắm. Nếu chúng ta thường hay lùi về quá khứ để tìm hiểu cuộc sống, thì chúng ta cũng nên tiến về tương lai phía trước để sống. Có lẽ bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ này, anh Ðoàn Minh Hóa, chủ bút tờ "Ði tới", đã đề xuất một sáng kiến rất có ý nghĩa cho năm nay: thực hiện một số báo để nhắc nhở hay đánh dấu hai mươi lăm năm sau ngày cuộc chiến ở Việt Nam hoàn toàn chấm dứt, cái ngày còn hay được gọi bằng một danh từ cảm tính như "mất nước", hay kiêu căng như "giải phóng", tùy theo phía bên này hay phía bên kia chiến tuyến.
Còn gì ý nghĩa hơn nếu những điều chúng ta kể cho nhau nghe có thể trở thành chút hành trang khi bước vào một thiên niên kỷ mới! Người viết bài này cũng muốn nhân cơ hội này gửi đến quí độc giả một vài kỷ niệm và kinh nghiệm cá nhân trong quãng thời gian làm người tỵ nạn, người khách trọ trên đất xứ người. Tôi tin chắc rằng nhiều kinh nghiệm của tôi cũng là kinh nghiệm của một số bạn đọc và như thế, ta càng dễ thông cảm nhau hơn. Hy vọng rằng ngoài các độc giả hiện nay, vài mươi năm sau, sẽ có người đọc lại những dòng này để có một vài ý niệm về cuộc đời lưu vong tiêu biểu của một người Việt Nam. Một người Việt Nam rất trung bình.
Tuy nhiên, tôi phải thú nhận trước: vì không phải là văn sĩ nên tôi kể chuyện rất tồi và vụng về. Bạn đọc sẽ không tìm được những câu chuyện có sắp xếp thứ tự, những câu văn trau chuốt hay những kỹ thuật chữ nghĩa tân kỳ, mà chỉ thấy ở đây những lời văn nói thành thực, chắp nhặt dông dài, chỉ nhằm để "mua vui cũng được một vài trống canh".
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:25:03 GMT -5
Vượt biên
Thuở trước 1975, tôi là một học sinh và mục tiêu hàng đầu của tôi trong những năm đó là cố gắng học hành cho đỗ đạt, để làm đẹp lòng Ba Má tôi và bà con, hàng xóm.
Thực ra, tôi cũng chẳng biết mình học ra sẽ làm gì, và chưa biết chắc mình có sống sót hay không trong những ngày tháng mà tiếng bom đạn từ cánh đồng bên cạnh, từ vùng giới tuyến vọng về văng vẳng. Việc học hành của tôi cũng có lúc khó khăn do di tản, nay đây mai đó, nhất là trong thời gian chiến tranh lên cao.
Tôi còn nhớ, cứ mỗi lần nghe tin lính sắp hành quân trong quận là gia đình tôi và bà con hàng xóm lại cuống quít thu dọn đồ đạc, lùa gà, vịt, heo xuống thuyền để tản cư qua một quận khác lánh nạn. Những gia đình nào có con gái lại càng phải tìm cách trốn chạy trước vì sợ bị lính bắt hãm hiếp. Mặc dù nghe nói lại, nhưng tôi chưa thấy lính tráng làm nhục phụ nữ bao giờ. Tuy nhiên, tôi đã đôi ba lần chứng kiến cảnh lính vào làng, hùng hổ, ngang nhiên đuổi bắt gà vịt bỏ vào túi quần trước sự sợ hãi của chủ nhân.
Ngược lại, tôi cũng có lần gặp nhiều sĩ quan trẻ rất dễ mến trong bộ quân phục rằn ri trông có vẻ dữ dằn. Song, nói chung, tôi không có thiện cảm nhưng cũng chẳng thù oán gì với chế độ Việt Nam Cộng hòa (VNCH) lúc đó. Tôi cũng không biết gì nhiều về - và do đó không có cảm tình hay thù địch gì với - chế độ cộng sản ngoài Bắc. Tôi có xem cuốn phim tuyên truyền "Chúng tôi muốn sống", nhưng cũng đủ lý trí để phán đoán rằng nhiều cảnh trong phim là không có thật mà chỉ do chính quyền dựng lên để răn đe dân chúng về sự tàn ác của thể chế cộng sản miền Bắc.
Sau này, khi lên đại học, tôi mới có dịp bàn luận chuyện chính trị cùng anh em sinh viên. Tôi sớm nhận ra rằng sự có mặt của người Mỹ và sự leo thang chiến tranh do họ chủ xướng ở Việt Nam là điều không cần thiết. Lấy lý do vụ đụng độ ở vịnh Bắc Bộ (mà sau này được chứng tỏ là một nhầm lẫn kỹ thuật) để mang quân đến gây hấn ở một nước nhỏ bé và lạc hậu, thì chẳng khác gì một anh chàng học sinh to con, hung hãn, đang có đầy kích thích tố nam tính (testosterone) trong cơ thể, tay chân ngứa ngáy, ỷ sức mạnh, đi gây chuyện để xô xát với bè bạn yếu thế trong sân trường.
Việt Nam là một quốc gia đã tồn tại lâu đời, có một nền văn hóa đầy sức sống, đã từng trải qua hàng ngàn năm đề kháng dưới ách đô hộ của người Trung Quốc. Ấy thế mà Hoa Kỳ đặt nền tảng cho sự có mặt của họ ở Việt Nam là nhằm bảo vệ và xây dựng quốc gia, như thể Việt Nam là một bộ lạc thời đồ đá vừa mới được khám phá! Ở Sài Gòn một thời gian, tôi càng ít có thiện cảm với người Mỹ trước thái độ hống hách của họ đối với dân Việt, và nhất là khi được biết về vụ tàn sát ở Mỹ Lai và chiến dịch ném bom dã man xuống Hà Nội. Dù Hà Nội nằm trong sự kiểm soát của người cộng sản, nhưng Hà Nội là một phần của Việt Nam. Ném bom xuống miền đất lịch sử ngàn năm văn vật, người Mỹ đã khiêu khích và khinh thường lòng ái quốc của người Việt. Một điều không thể chấp nhận được! Thành thử, tôi không quan niệm sự kiện năm 1975 là một chiến bại hay chiến thắng, mà chỉ ghi nhận đó là cái mốc thời gian của hòa bình, thống nhất, và chấm dứt sự có mặt của người Mỹ trên đất nước Việt Nam.
Do vậy, những năm sau 1975 và đầu năm 1980 là thời kỳ tôi mang đầy lý tưởng tuổi trẻ của một thanh niên mới ra trường, sẵn sàng vì đất nước trong giai đoạn hậu chiến. Với nhiệt tình đó, tôi tham gia nghiên cứu và dạy học trong một viện nghiên cứu thống kê. Tôi có dịp đi khắp đất nước, từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan, từ đồng bằng sông Hồng, qua đồng bằng sông Cửu Long ra tận đảo Phú Quốc. Có đi hết chiều dài đất nước, tôi mới thấy hết cái đẹp, cái hùng vĩ, bao la của một Việt Nam trong thời bình.
Những chuyến đi này cũng cho tôi thấy sự tàn phá của chiến tranh quả là ghê gớm: đất nước vẫn còn bất hạnh, đồng hương còn quá lầm than, tuyệt vọng... Mỗi nơi tôi đi qua, tôi đều ghi chép lại dưới dạng phóng sự, tùy bút, thơ, v.v... cho các đài phát thanh và báo chí, kể cả báo "Nhân dân". Tấm lòng vì quê hương và lý tưởng tuổi trẻ đã cho tôi những ngày tháng làm việc hăng say. Tôi tự tìm tòi và học hỏi thêm một môn học mà tôi chưa từng được huấn luyện có hệ thống trước năm 1975.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:25:29 GMT -5
Nhưng trớ trêu thay, nhiệt tình của tôi lại được trả giá bằng sự nghi kỵ và kỳ thị. Sau một thời gian dài bị kiểm tra lý lịch, "phê bình và tự phê bình", bị cô lập hóa, tôi thấy tương lai mình đã đi vào ngõ bế tắc và quyết định xin nghỉ việc (trước khi bị đuổi). Thất nghiệp. Về lại với mái nhà an lành ở một làng quê vùng đồng bằng sông Cửu Long, có địa thế mà ông bà ta vẫn hay ước mơ là "nhất cận thị, nhị cận giang", tôi định xin đi dạy học tại trường làng, nhưng với cái lý lịch thiếu màu cách mạng của tôi, người ta cũng chẳng nhận. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! Nhiều khi tôi sinh ra buồn tủi, oán hận cho số phận mình sinh nhầm thế kỷ.
Những lúc như thế, Má tôi luôn ở bên cạnh tôi và khuyên nhủ: "Thôi con à, đừng dính dáng với mấy ổng nữa, chỉ khổ vào thân thôi. Coi cái tướng ốm tong teo của con là Má phát rầu". Rồi Má tôi còn khuyên tôi nên lập gia đình, bằng cách đưa ra một danh sách những cô gái trong làng, kèm theo nhiều lời bình phẩm như cô này giỏi và là con nhà gia giáo; cô kia là giáo viên và là chỗ thân tình của nhà tôi; cô nọ là con bác A. trong làng, người rất đàng hoàng tử tế... Phần đông những cô gái này, tôi chưa hề gặp mặt một lần! Nhưng tôi nghĩ Má tôi nói cũng đúng: có lẽ tôi nên dừng bước "giang hồ" và nên yên phận vui thú điền viên ở đây cho tới ngày giã từ cõi trần. Với bản tính lạc quan trước mọi tình huống, tôi lại hăng say lao vào công việc mới là làm ruộng. (Thực ra, tôi cũng chẳng có bao nhiêu ruộng mà làm vì hơn 90% ruộng đất do Ba Má tôi bao năm đổ mồ hôi nước mắt gây dựng đã biến thành ruộng của hợp tác xã).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:28:10 GMT -5
Nhưng "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên"; chưa kịp trở thành một nông dân thuần túy thì cùng một người anh và đám bạn cùng cảng ngộ, tôi đã bị lôi cuốn vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm: rời Việt Nam. Cái ý tưởng táo bạo - bỏ lại cha mẹ, em út, bà con, hàng xóm để đi vượt biên - chưa bao giờ đến với tôi, nên tôi đã trăn trở và phân vân rất nhiều.
Xã hội Việt Nam lúc đó là một xã hội thiếu sự tương giao thành thật giữa người với người. Bạn bè thân mật ngoài đời có thể trở thành người đấu tố hung hăng trong khi làm việc. Người ta theo dõi, soi mói, so đọ nhau từng chi tiết vụn vặt như cái ăn cái uống, vật trang sức, miếng vải, chiếc áo, cái xe đạp, v.v... Một lỗi lầm nhỏ cũng có thể trở thành chướng ngại vật khổng lồ cho đường tiến thân của người có thực tài. Sau nhiều ngày suy đi tính lại, tôi quyết định vượt biên. Nghe tin này, Má tôi rưng rưng nước mắt, nhưng không cản. Ba tôi ngồi tư lự, thỉnh thoảng lắc đầu. Mấy đứa em tôi chưa biết gì, ngạc nhiên mở mắt tròn xoe như tìm hiểu chuyện gì trọng đại sắp xảy ra...
Ðưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng Bóng chiều không thắm, không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong (3)
Mặc dù thi sĩ Thâm Tâm viết những dòng thơ này - thuộc hạng hay nhất trong phong trào Thơ Mới - về một cuộc chia tay giữa đôi bạn trong thời kháng chiến, nhưng mỗi khi nhẩm lại, tôi cứ thấy nao lòng nhớ đến cái buổi chiều "vàng vọt" tôi đã rời quê cha đất tổ để mạo hiểm bước vào một không gian gần như vô định...
Tôi nhớ mãi cái ngày tôi rời ngôi làng quê êm ả của tôi. Khi cái nắng chói chang và oi bức của buổi trưa đã trở nên dịu mát hơn, nhóm chúng tôi (gồm năm người) quyết định lên đường. Xuồng (thuyền con) chúng tôi được một anh bạn thân hàng xóm người Khmer chèo bì bõm nương theo dòng nước ròng của con sông êm đềm mang đầy hoa lục bình để ra cửa biển. Vài ngọn gió nhẹ thổi lướt qua rặng dừa nước hai bên bờ sông tạo nên những tiếng động xào xạc như vỗ về, khiến buổi chiều nhiệt đới càng thêm vẻ thanh bình.
Chìm vào cái không khí thi vị lãng mạn ấy chẳng được bao lâu, tôi đã phải đối đầu với một thực tế bẽ bàng hơn. Sau một đêm dài, xuồng tôi ra tới cửa biển, hòa nhập vào nhiều chiếc thuyền nhỏ đang nhộn nhịp đánh lưới bắt tôm vào buổi sáng. Nhóm chúng tôi lập tức thu hút sự chú ý của những người này. "Ð.M., vượt biên mày ơi!" Giọng oang oang, một anh chàng đánh tôm báo động với đồng nghiệp của anh ta. Ðã chuẩn bị sẵn, một người trên xuồng trong nhóm tôi bèn ném cho anh ta một món quà hai chỉ vàng để mua sự yên lặng. Anh ta nhìn món quà, cười nhe cái răng vàng óng ánh và nói: "Ði bình an nghen!"
Nhưng cuộc hải hành của tôi không hẳn "bình an" (nếu hiểu hai chữ này theo nghĩa "yên ổn" ) như anh chúc, mà cũng không đến nỗi cực kỳ nhọc nhằn hay bi thảm. Chuyến đi như một cuốn phim ngắn với nhiều tình tiết dồn dập, gay cấn...
"Tàu" (4) tôi đi gồm hai mươi lăm người thuộc đủ mọi thành phần, trong số đó có cả anh và em tôi. Một số là sĩ quan ngày xưa, một số là dân buôn bán, một số như tôi (tức dân thất nghiệp) và một anh bạn mà tôi quen gọi là "anh Ba Hà Nội" vì anh là dân làm báo, viết lách ở Hà Nội, mới vào Nam được khoảng hai năm.
Khi lên thuyền, cả nhóm chúng tôi chẳng biết mình sẽ đi đâu. Một người đề nghị đi Thái Lan và thế là cả nhóm đồng tình ra khơi. Nhưng đi theo hướng nào? Cũng chẳng ai biết, vì chẳng ai có chuẩn bị các công cụ đi biển như la bàn. Tuy nhiên, cái mẫu số chung của chúng tôi lúc đó là cứ ra khơi, cứ đi, miễn là ra khỏi cái hải phận của nước Việt Nam.
Một cuộc chạy trốn theo đúng nghĩa của nó! Trước cảnh bao la, vô tận của biển, tôi thấy chiếc thuyền thật mong manh và quá nhỏ nhoi. Ðây là lần đầu tiên tôi được nhìn tận mắt và hiểu được thế nào là "màu xanh nước biển". Xanh biếc. Những con cá heo lặn ngụp chạy đua theo thuyền chúng tôi như một cuộc biểu diễn xiếc tự nhiên. Không một gợn sóng. Biển Việt Nam quả là hiền lành!
Biển Việt Nam hiền lành bao nhiêu thì biển Thái Lan lại thô bạo bấy nhiêu! Sau khi đã thoát khỏi hải phận Việt Nam, chúng tôi mừng rỡ ra mặt vì nghĩ mình đã được tự do. Nhưng chẳng bao lâu, sự tự do đó lại bị cướp đi một cách thô bạo, lần này không phải do người Việt mà là do người Thái, những kẻ mà có lẽ chính xác hơn nên được gọi là "cướp biển đội lốt ngư phủ." Họ cầm súng và giáo mác, la hét uy hiếp tinh thần chúng tôi; họ tha hồ hành hạ, lục soát, cướp bóc tiền của của bà con trên tàu như ở chỗ không người. Riêng tôi không có tài sản hay tiền bạc gì tùy thân, nên không phải chịu những cực hình nhục nhã; nhưng cái kính cận có gọng màu vàng của tôi, quà tặng của một người thầy nhân dịp tôi tốt nghiệp trung học, cũng không thoát khỏi những cặp mắt thèm thuồng và thô bạo của bọn người mà thế giới thường được biết đến như những tín đồ sùng kính của đạo Phật. Sau khi không còn lấy được gì nữa, họ bỏ đi và để mặc chúng tôi phải đối phó với những cơn sóng biển mỗi lúc một lớn hơn và cuồng bạo hơn.
Sau hai ngày cầm cự và khi sóng đã yên, gió đã lặng thì thuyền hết nhiên liệu. Chúng tôi lênh đênh trên biển khơi, phó mặc số phận cho trời. Trong lúc tưởng chừng tuyệt vọng và chỉ còn chờ chết thì thuyền chúng tôi trôi dạt vào bờ biển thuộc một vùng hẻo lánh ở gần biên giới Thái Lan và Mã Lai, có tên là Budi.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:31:02 GMT -5
Những ngày tỵ nạn đầu tiên
Lội lên bờ. Mừng hết lớn. Sau ba ngày ba đêm trên biển, đói, khát, nhọc nhằn, chúng tôi đã mệt nhừ. Chính quyền địa phương sắp xếp cho chúng tôi tạm trú ngoài trời, trong một vườn dừa tại một bờ biển cách chỗ chúng tôi đổ bộ chẳng bao xa.
Vì là nhóm người Việt đầu tiên lạc đến làng chài này, dân địa phương tò mò kéo đến vây kín mít quanh chúng tôi để... nhìn mặt. Khác với lũ người hung bạo mà tôi gặp trên biển cả, họ là những người dân chài hiền lành, chất phác, luôn nở nụ cười trên môi.
Mặc dù có sự khác biệt về ngôn ngữ và trở ngại trong trao đổi bằng tiếng Anh, nói chung dân chúng ở làng này đã đối xử với chúng tôi bằng tình người trong lúc hoạn nạn: khi mới lên bờ, họ mang quần áo, gạo và thức ăn cho chúng tôi sống qua ngày. Tuy nhiên, vào những ngày đầu, cũng đã xảy ra vài chuyện cười ra nước mắt.
Ðêm đến, hàng đoàn đàn ông, con trai trong làng vận xà-rông kéo nhau tới ngồi xổm, hai tay chống lên cầm, phì phèo thuốc lá và trố mắt nhìn chúng tôi như nhìn những sinh vật xa lạ! Có người còn bạo dạn giở trò sàm sở (hay thân mật?), họ lại gần sờ tay chân đàn bà con gái, gây ra náo loạn trong nhóm.
Tưởng như những kinh hoàng trên biển lại tiếp diễn ở đây. Nhận thấy tình thế không mấy an toàn, nhóm đàn ông nam giới chúng tôi quyết định bảo vệ phái yếu bằng cách ngủ ở vòng ngoài. Hàng ngày, sự phân chia trách nhiệm trong cuộc sống của chúng tôi cũng chẳng khác gì ở thời Trung cổ: nhóm đàn ông, con trai đi tìm việc làm, gỡ cá, giặt rửa lưới cho dân làng (để được trả công bằng cá, gạo hay nước mắm); nhóm đàn bà, con gái ở nhà lo nấu cơm và trông nom trẻ em.
Trong thời gian ở bờ biển Budi này, chúng tôi có "hân hạnh" đón tiếp hai chiếc tàu đồng hương khác cập bến. Nhóm đầu chỉ có mười người, toàn trai tráng, nguyên là đoàn thủy thủ của một công ty thủy sản trong miền Nam lấy tàu đi vượt biên. Nhóm thứ hai đông hơn, có khoảng năm chục người, cũng bị cướp ngoài khơi đến ba lần và trôi dạt vào đây. Hoàn cảnh xa quê hương và mục tiêu sống sót tại một vùng đất xa lạ đã khiến chúng tôi trở nên gần gũi và thân nhau rất nhanh chóng, chẳng khác gì những người cùng đi chung tàu.
Những lúc rảnh rang, tôi thường hay lui tới học hỏi tiếng Anh với một người bạn lớn tuổi mà chúng tôi quen gọi là "chú Ba Trung Tá", vì chú nguyên là trung tá không quân trong quân đội VNCH trước 1975. Chú cũng là người gốc Bình Ðịnh và nghèo "rớt mồng tơi" như tôi, nên hai chúng tôi dễ dàng thông cảm với nhau. Suốt ngày, chú chỉ mặc mỗi cái quần xà lỏn và ở trần hùi hụi, rong chơi, tán gẫu, kể chuyện tiếu lâm. Chú Ba Trung Tá từng học ở Mỹ cả ba năm, nên chú rất thông thạo Anh ngữ. Nghe và nhìn cách chú nói chuyện với các viên chức người Thái mà tôi, với một trình độ tiếng Anh không đếm nổi từ một đến mười, phục sát đất, và nghĩ không biết bao giờ mình mới nói được như chú.
Có lần, một người Thái khen chú nói tiếng Anh giỏi, nhưng chú quay lại cười nói với tôi (ngay trước mặt người khen đó): "Tao nói tiếng Anh giọng nước mắm thì nhằm nhò gì, thằng mọi này nó dốt mới khen tao vậy chớ..." Tôi thích cái thái độ tự tin đến nỗi trịch thượng của chú đối với người Thái. Nhưng tôi cũng lo lắng là biết bao giờ tôi mới có khả năng nói tiếng Anh như chú ấy!
Nhờ chú Ba Trung Tá, cả ba nhóm tàu tỵ nạn đều hoàn tất thủ tục của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commission for Refugees, UNHCR) một cách êm xuôi. Sau hai tháng ở Budi, cả ba nhóm chúng tôi được chuyển lên một trại tỵ nạn qui mô ở tỉnh Songkhla, thuộc miền nam Thái Lan (Songkhla là tên của một hoàng tử Thái).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:32:38 GMT -5
Trại tỵ nạn Songkhla nằm ngay bên cạnh bờ biển khá đẹp, được bao bọc bởi một dãy núi phía sau và dĩ nhiên là xung quanh được rào bằng kẽm gai. Nếu tôi nhớ không lầm, chiều ngang của trại chỉ khoảng năm mươi thước, chiều dài thì đi bộ chỉ mười lăm phút là hết. Ấy thế mà trại này lại là chỗ cư ngụ hàng ngày cho trung bình khoảng năm ngàn dân tỵ nạn; nghe nói lúc cao điểm, dân số trong trại lên đến mươi ngàn người!
Nhà, hay nói đúng hơn là chòi, mọc lên san sát. Ngày đầu tiên nhập trại Songkhla, tôi tưởng mình lạc vào một thành phố ở Việt Nam. Hai bên đường chật hẹp, những hàng quán bán cơm, phở, hủ tiếu, cà phê... mọc lên đầy rẫy. Phần đông khách hàng là những chàng trai mặt mũi rất "ngầu", tóc dài chấm vai (nom y như những tay đóng vai du côn trong các phim xã hội đen), phì phèo những điếu thuốc lá "Samit" hay "555" bên ly cà phê đen. Phía trong quán thì ồn ào đài loa với những bản nhạc vàng ảo não, nhạc rock xập xình, nhạc nhà binh hùng tráng, nhạc chống cộng, v.v... được phát thanh với một âm lượng tối đa, làm đinh tai nhức óc những ai không may mắn phải đứng trước những cặp loa này. Trên đường lộ, dập dìu tài tử giai nhân son phấn lòe loẹt, vàng đeo lóng lánh, trong những bộ quần áo thời trang Âu Mỹ đắc tiền, họ đi " dạo phố" như trẩy hội.
Tôi ngạc nhiên và tự hỏi không biết tiền đâu ra mà họ lại có cuộc sống khá sung túc như vậy ở một trại tạm dung. Vốn xuất thân từ một vùng quê, tôi cảm thấy mình vừa quê mùa vừa bơ vơ lạc lõng như một thành phần "vô gia cư" (outcast) trong cái xã hội tỵ nạn này. Từ lúc lên bờ cho đến khi đi chuyển trại, tài sản duy nhất mà tôi có là hai cái quần soóc và hai chiếc áo ngắn tay do một ông chủ ở Budi tặng cho. Nhiều khi đi qua các hàng quán, thỉnh thoảng nghe một đoạn nhạc do chính Nguyệt Ánh sáng tác và ca:
Ôi me yêu ơi, con lang thang giữa phố đông người; Tuy phố đông người, Nhưng con lạc loài một bóng đơn côi... hay Nắng nơi đây vẫn là nắng ấm Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương (5) mà tôi lại thấy buồn vời vợi...
Nhưng, qua tìm hiểu, tôi mới thấy những phồn vinh, náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn trét một cách vội vã lên mặt những cô gái để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh của một quá khứ quá khủng khiếp. Lên đến Songkhla và có dịp nghe những câu chuyện thương tâm của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn may mắn chán.
Tôi nghe nhiều câu chuyện rất kinh hoàng về cướp biển, mà chữ nghĩa có khi không tả hết được nỗi tang thương người Việt mình đã gánh chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. Có trường hợp bọn cướp biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Nhiều người bị bệnh tâm thần khi lên đến trại này. Tôi không nghĩ là mình có thể quên được những câu chuyện thương tâm của nạn nhân bọn cướp biển Thái Lan. Nếu tôi phải dùng một từ ngữ mạnh, đó là: không bao giờ quên và cũng không bao giờ tha thứ!
Có thể nói tội ác của người Thái đối với người tỵ nạn Việt Nam sánh tương đương với bọn Ðức Quốc xã đối với dân Do Thái, với bọn Pol Pot với dân Campuchea. Thế giới đã nghe nhiều về "tàn sát hàng loạt" (holocaust), "cánh đồng chết chóc" (killing field), nhưng thế giới chưa nghe hay chưa biết nhiều về "sát hải" (killing sea) (6). Vùng biển Thái Lan từng là nơi đã chôn vùi biết bao thân xác của đồng hương ta. Không phải ngẫu nhiên mà Du Tử Lê muốn mang xác mình ra biển khi qua đời:
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển Nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi Bên kia biển là quê hương tôi đó Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì ... Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển Ðừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi Những năm trước bao người ngon miệng cá Thì sá gì thêm một xác cong queo (7).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:35:15 GMT -5
Những người Việt xấu xa
Bị người ngoại bang sát hại đã là một nỗi nhục nhã, nhưng bị chính người tỵ nạn hành hạ lại còn nhục nhã và đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những hành động xấu xa và dã man của người Việt đối với người Việt.
Ngày đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tỵ nạn từ các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe buýt. Từ ngoài cổng, chúng tôi chầm chậm đi vào vào trại theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem, ồn ào như một cái chợ.
Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa, tay bắt mặt mừng. Người tìm được kẻ thù thì biến thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một thanh niên nọ bị tố cáo là "cộng sản", anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng và bị đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường.
Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): "Ð.M., muốn gì? Mày cũng là cộng sản hả?" Anh tôi lôi ra ngoài, chứ không thì chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó.
Anh thanh niên đó bị đánh đến nỗi không còn đi được, người ta phải chở vào nhà thương điều trị và nghe nói sau này anh bị tật. Ðó là lần đầu tiên tôi mục kích cảnh người đánh người tàn bạo, không thương tiếc như thế. Ngày xưa, chính tôi cũng từng bị cảnh sát tra tấn khi xuống đường biểu tình, nhưng họ chỉ nện vài dùi cui cảnh cáo, chứ không đến nỗi quá tàn nhẫn như vậy.
Sau cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi bị dẫn độ vào một hội trường, chung quanh có nhân viên của Ban Trật tự người Việt canh giữ. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem. Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội quy sinh hoạt trong trại, nhưng thực tế lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh thần.
Trên bục diễn giả là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng Bắc kỳ nghiêm trọng và vẻ mặt đằng đằng sát khí, ông ta yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc gì với chế độ cộng sản.
Bắt chước thủ thuật đe dọa của người cộng sản, ông ta nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời khai của mình đều đã được nhân viên Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ghi chép ở Budi; vậy thì cuộc khai báo này là khai với ai?
Tuy nhiên, tôi nghĩ vì mình từng làm công tác nghiên cứu và giảng dạy trong một trường đại học ở Sài Gòn một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng. Nhưng bữa đó, tôi đã gặp may: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng bên cạnh cửa sổ đưa tay ra hiệu cho tôi đừng khai.
Anh Ba Hà Nội ngồi cạnh tôi và có lẽ anh có kinh nghiệm hơn tôi về những trò này, cũng khuyên tôi là cứ lờ đi cái "lý lịch cộng sản" đó. Tôi và anh Ba Hà Nội thoát nạn. Bất hạnh thay, những người khác - trong đó có T. và S., hai anh bạn của tôi thuộc đoàn tàu "Thủy sản" từ Budi lên - đã thành thật khai báo là họ có làm việc sau 1975 trên cương vị tài công và thủy thủ.
Liền sau đó, hai anh ấy được "mời" lên Ban Trật Tự "làm việc". Cả hai đều bị đánh nhừ tử. Mặt họ bị sưng húp, mắt thì bầm tím, nhưng ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tối hôm đó, tôi nằm ngủ bên cạnh hai anh ở phía ngoài căn chòi bên cái giếng nước, nghe anh T. thề rằng sẽ có ngày trả thù bọn người mà anh ta gọi là "lũ chó đẻ".
Tôi ngao ngán cho số phận tỵ nạn. Hết bị người Thái hành hạ, giờ đến bị nhóm người đồng hương tự nhận là "yêu chuộng tự do" đánh đập. Sau lần T. và S. bị đánh, có một cựu sĩ quan đi chung thuyền với tôi, lân la tìm chỗ tôi trú ngụ và nói bâng quơ: "Tao mà nói ra thì có thằng còn bị đánh nữa!" Ý anh ta muốn nói tôi và anh Ba Hà Nội. Tôi kinh tởm cho anh chàng sĩ quan này vì anh ta là người "đi ké" và từng bị chê là hèn khi đi trên thuyền, thế mà giờ này trở mặt mau như thế!
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:38:33 GMT -5
Có thể nói trại tỵ nạn Songkhla là một nước VNCH thu nhỏ.
Nếu ngày xưa VNCH có tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay có "Ban Trật tự"; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được "đổi tên" thành "Ban Thông tin Văn hóa"; các quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành "cựu quân nhân", có người còn tự cho mình lên chức (xưa là trung úy nay thành đại úy!)
Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tỵ nạn, cũng có tham ô và hối lộ. Có khi cường độ tham nhũng còn trắng trợn và tàn bạo hơn. Theo qui chế của Cao ủy Tỵ nạn lúc đó, chúng tôi, những người mới nhập trại, đáng lẽ được cấp một cái áo thun, một cái quần và vài lít gạo để sống.
Nhưng nhóm Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Ðược biết người em họ nhập trại trước tôi đang làm trong Ban Phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được phát gì cả. Ông em tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và nói đại ý: "Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có tiền thì mới mua được".
Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói ở đây. Nhưng ông em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em tôi đủ sống ít ngày. Ban Bưu tín cũng là một trung tâm khét tiếng ăn chặn, ăn cắp - hay nói đúng hơn là ăn cướp - tiền bạc của người tỵ nạn. Nhiều thư từ và tiền bạc từ nước ngoài chẳng bao giờ tới tay thân nhân trong trại. Tôi cũng là một nạn nhân của Ban Bưu tín này. Và nếu đồ có được chuyển tới tay người thân thì cũng bị cắt xén, ăn chặn.
Trong khi có "ban" chỉ nhằm cơ hội để ăn hối lộ, ăn chặn đồng hương thì cũng có "ban" chuyên hành hạ đồng hương. Ban Trật tự ở trại có lẽ là một nhóm người có thể nói là hung thần ác quỉ, là bọn lưu manh, tay sai cho lũ người Thái, chuyên khủng bố đồng hương. Họ đánh người một cách chuyên nghiệp, không nương tay và vô cùng tàn nhẫn. Có tên còn lập công với công an người Thái bằng những phương pháp tra tấn "hiện đại", hay thậm chí dẫn gái cho bọn chủ Thái của chúng hành lạc. Không biết bao nhiêu người tỵ nạn vô tội đã là nạn nhân của nhóm người ác độc này. Tôi nhủ thầm một ngày nào đó, tôi sẽ viết một cuốn sách và sẽ lấy tên là "Người Việt Nam xấu xa" cho cân xứng với cuốn "Người Việt cao quý ".
Ở trong một môi trường khủng khiếp như thế, ai cũng mong mình được đi định cư ở một nước thứ ba càng sớm càng tốt. Cứ mỗi lần nghe Khánh Ly hát "ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về" (bài "Biển nhớ", một ca khúc rất nổi tiếng của ông Trịnh Công Sơn, thường được dùng để tiễn người may mắn nằm trong danh sách lên đường) là mỗi lần tôi buồn cho thân phận mình, chẳng biết bao giờ mới được đi và đi đâu.
Theo định kỳ, nhân viên từ các tòa đại sứ ở Bangkok (mà người trong trại quen gọi là "phái đoàn" ) xuống tận trại để chọn người định cư ở nước họ. Trong số các nước quan tâm tới người tỵ nạn, Mỹ, Úc, Gia Nã Ðại và Pháp thường hay phái nhân viên xuống trại phỏng vấn và làm thủ tục định cư.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:38:48 GMT -5
Sau khoảng ba tháng ở trại, qua loa phóng thanh, tôi nghe tin có phái đoàn tòa đại sứ Úc xuống làm việc ở trại. Lúc bấy giờ, Úc là một nước khó nhất đối với người tỵ nạn; ngoài các tiêu chuẩn về nghề nghiệp, học vấn, v.v... họ yêu cầu người xin định cư phải viết một lá đơn bằng tiếng Anh, nói rõ tại sao muốn đi Úc. Khi đó, tôi không có lựa chọn hay ý niệm gì cụ thể là mình sẽ đi nước nào định cư.
Nhưng vì Úc là phái đoàn đầu tiên xuống đây (sau ngày tôi nhập trại) và tôi đã quá chán ngán với cảnh đời tỵ nạn trong trại, nên tôi quyết định xin gặp phái đoàn để hy vọng được đi Úc (hay bất cứ nước nào khác, miễn là rời khỏi cái trại khốn khổ này). Nhưng trình độ tiếng Anh của tôi lúc đó quá tồi, không đếm nổi từ một đến mười thì làm gì viết nổi một lá đơn xin tỵ nạn! Bấy giờ, chú Ba Trung Tá đã được chuyển sang trại khác cùng người yêu của chú, chờ ngày đi Mỹ.
Tôi đành nhờ hết người này đến người khác viết đơn giùm, nhưng chẳng ai thèm giúp tôi. Người thì nói bận, người thì đòi tiền, có người còn mắng tôi như tát nước vào mặt: "Sao không chịu học tiếng Anh hồi ở bển, học lớp mấy rồi mà kém quá vậy?" Lúc đó, tôi thấy sự độc lập thật là quý báu và tôi tự nhủ thầm sẽ không nhờ vả người Việt trong tương lai. Tôi lầm lũi lên thư viện trại, ngồi cả ngày lật quyển tự điển cũ kỹ, chuyển từ tiếng Việt sang tiếng Anh lá đơn của tôi. Tôi dịch từng chữ một, không chia động từ hay theo một quy tắc văn phạm nào cả. Cuối cùng, tôi cũng có một lá đơn.
Vài hôm sau, loa phóng thanh kêu tên tôi lên gặp phái đoàn Úc để phỏng vấn. Trong thời gian ngắn ở trại, tôi đã từng nghe qua nhiều câu chuyện về những người đi trước bị các phái đoàn từ chối cho đi định cư chỉ vì trả lời phỏng vấn không thông. Vì thế, tôi hồi hộp bước vào phòng phỏng vấn trong ánh mắt theo dõi của nhiều đồng hương khác.
Anh chàng nhân viên sứ quán Úc cao to, râu ria xồm xoàm, nhìn lá đơn của tôi và hỏi qua anh thông dịch viên: "Ai viết lá đơn này? " Tôi trả lời, cũng qua anh thông dịch viên: "Tôi viết". Anh ta mỉm cười: "Anh có học tiếng Anh bao giờ chưa? " " Dạ, chưa", tôi rụt rè trả lời. "Anh muốn đi Úc làm gì? " " Dạ, đi học hay làm ruộng". "Tiếng Anh như vầy sao học được ? Anh cũng không đủ tiền làm ruộng đâu! "
Tôi ngỡ ngàng trước câu bình phẩm của anh ta (làm ruộng mà cũng cần tiền ư!), cảm thấy thất vọng (đúng là tiếng Anh của mình quá dở ) và nghĩ rằng cái mộng đi Úc tiêu tan rồi. Nhưng anh ta lại hỏi tiếp: "Ngoài những lý do anh nêu trong đơn, anh còn có lý do nào khác để xin đi Úc không?"
Tôi nhớ hồi còn đi học, từng thấy con chuột túi và ước mơ có ngày được nhìn nó tận mắt. Tôi bèn thực tình nói: "Tại tôi muốn... nhìn thấy con Kangaroo!" Anh nhân viên sứ quán Úc trợn mắt nhìn tôi một lúc, rồi đột nhiên bật cười ha hả, chìa một tay ra bắt tay tôi, tay kia anh đóng "rầm" cái mộc xuống tờ giấy và nói: "OK, tôi nhận anh. Qua bên kia làm thủ tục mau đi!"
Trời ạ! Tôi hơi sững sờ và chưa kịp nói lời cám ơn, thì anh ta đã khoát tay cho tôi đi qua phía bàn bên kia làm thủ tục khác. Ða tạ anh Úc! Ða tạ! Tôi không thể nào quên anh Úc này mà tôi coi như một ân nhân (8).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:42:33 GMT -5
Riêng tôi, khi lên trại này, mới thực sự có cơ hội đi học tiếng Anh. Lúc đầu tôi ghi danh vào một lớp dạy tiếng Anh do nhân viên thuộc các tổ chức từ thiện giảng dạy.
Không biết vì chính sách hay vì không rành phương pháp sư phạm, họ dạy những câu nói thông thường một cách hết sức thực tế, không cần để ý tới văn phạm, cú pháp, lúc nào cũng "How are you", "I am fine, thank you", "My name is...", v.v...
Chỉ một tuần theo học, tôi đã chán ngấy và bỏ học. Tôi xin làm thủ thư trong thư viện của tổ chức tôn giáo "Assembly of God" ngay trong trại. Hàng ngày, tôi âm thầm vui với công việc xếp sách cho có thứ tự, lúc rảnh rỗi thì học tiếng Anh một mình ở một góc nhỏ của thư viện.
Mỗi sáng, tôi gom góp những tờ báo (tiếng Anh) gói rau cải, xếp lại cho phẳng; tôi tìm những chữ mình muốn học, vào thư viện tra từ điển xem cách phát âm ra sao, nguồn gốc của chữ, cách dùng như thế nào, v.v... Có khi, suốt ngày tôi chỉ để tâm học một chữ! Tôi ghi chép rất cẩn thận và chi tiết những quy luật về văn phạm tiếng Anh. Sau vài tháng tự học, tôi thấy cuốn sổ tay của mình đã trở thành một cuốn sách văn phạm tiếng Anh và tôi cũng thấy mình tự tin hẳn lên, mặc dù nói chưa được nhiều.
Ở trại Phanatnikhom được khoảng 6 tháng, tôi được tổ chức ICM (Inter-governmental Committee for Migration) dàn xếp lên đường đi định cư. Trong chuyến đi Úc có tất cả 54 người. Chúng tôi khởi hành bằng xe buýt từ Phanatnikhom lên Bangkok. Sau khoảng 5 giờ đường, chúng tôi đến thành phố Bangkok. Sau cả năm trời bị giam cầm trong các trại tỵ nạn ở rừng sâu núi thẳm, tôi đến thủ đô Thái Lan với tâm trạng của một người nhà quê ra tỉnh. Lần đầu tiên trong đời, thấy xa lộ chồng chéo lên nhau và xe ô tô con chạy như mắc cửi, tôi mới thấy "hòn ngọc Viễn Ðông" (Sài Gòn) của Việt Nam quá ư là lạc hậu và thậm chí bé nhỏ!
Ngồi trong phòng chờ đợi ở phi trường, lòng tôi lúc đó buồn vui lẫn lộn. Tôi không bao giờ có cảm tình (nếu không muốn nói là ghét) chính phủ Thái Lan, vì thái độ làm ngơ và bất nhẫn của họ trước thảm nạn trên biển Ðông, nhưng dù sao đi nữa, đất Thái cũng đã cưu mang tôi trong thời gian khó khăn nhất, và vì đã có một sự gắn bó như vậy, tôi cảm thấy buồn buồn khi phải chia tay Thái Lan.
Cuộc chia tay nào mà chẳng buồn! Vui vì tôi biết sắp tới mình sẽ được tự do, được sang một xứ sở văn minh, và nhất là không còn bị giam cầm trong các trại tỵ nạn nữa. Chúng tôi được nhân viên ICM "lùa" lên chiếc máy bay khổng lồ (mà sau này tôi biết là Boeing 747) thuộc hãng hàng không "Qantas" của Úc, và được sắp xếp ngồi ở những hàng ghế sau cùng trong máy bay. Ðây là lần đầu tiên trong đời tôi được đi một chiếc máy bay lớn như thế.
Ðang suy nghĩ miên man thì nhân viên hàng không mang đến cho chúng tôi khăn lau mặt thơm phức và ly nước cam vàng tươi vô cùng mát mắt. Sau nhiều tháng bị đối xử như tù nhân, đây là lần tôi được phục vụ và đối xử tốt. Tôi đã thật sự xúc động và ngạc nhiên không hiểu sao họ lại tử tế với mình như thế!
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:45:25 GMT -5
Làm lại cuộc đời
Sau tám giờ trên không trung, máy bay đang hạ dần cao độ, tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ: thành phố Sydney đã hiện ra trong tầm mắt. Tôi sắp tới Úc. Cái ý tưởng đó làm cho tôi bồi hồi, xúc động một cách khó tả. Trên máy bay, cô tiếp viên nói trên loa câu "Chào mừng các bạn đến Sydney, Úc Ðại Lợi" (Welcome to Sydney, Australia) và thông báo cho chúng tôi biết hôm đó là ngày 26 tháng Giêng năm 1982, ngày quốc khánh của Úc.
Sau khi làm thủ tục nhập cảnh, chúng tôi lên xe buýt đi về một trung tâm tạm cư (mà họ gọi là "hostel" ) ở vùng ngoại ô phía Tây Nam Sydney có tên là Cabramatta (9). Rời phi trường mát lạnh, bước vào cái nóng hừng hực 42 độ C ở phía ngoài, tôi hơi bị sốc. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra nước Úc đang ở vào mùa hè!
Trên đường từ phi trường đến vùng ngoại ô Cabramatta, tôi để ý không thấy nhà cửa cao vút trời như ở Bangkok, mà chỉ toàn là nhà gạch đỏ au, không sơn phết phía ngoài như nhà ở Việt Nam. Có lúc xe chạy ngang qua những khu cây cối um tùm mà tôi tưởng như đang đi trong rừng.
Lúc đó, tôi đã hơi thất vọng vì cảm thấy nước Úc không như tôi từng nghĩ trong tâm tưởng: một xứ với nhà lầu cao trọc trời, văn minh, hiện đại. Xe buýt đổ bến "Cabramatta Hostel", tôi đã thấy vài anh chị đang nằm trên bãi cỏ xanh rì đọc sách hay ngắm nhìn trời xanh... Tôi để ý thấy đủ sắc dân ở đó, sau này tôi được biết họ đi từ Campuchea, Lào, Hồng Kông, Nam Dương, Ba Lan, Nam Tư, Tiệp Khắc, Liên Xô, v.v...
Nhìn từ phía ngoài, qua màu gạch, khu tạm cư có vẻ cũ kỹ nhưng trong phòng lại đầy đủ tiện nghi như phòng khách sạn. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra rằng người Úc không chú trọng bề ngoài nhưng lại rất quan tâm đến nội thất. Theo quy định của hostel, chúng tôi không được nấu nướng trong phòng ở mà phải ăn ở phòng ăn của nhà bếp. Phòng ăn và nhà bếp rất lớn, có khả năng phục vụ cả vài trăm người.
Lần đầu tiên vào phòng ăn, tôi bị choáng ngộp trước lượng thức ăn và sự dư thừa của thịt cá và trái cây ở đây. Tất cả thức ăn đều được bày đặt một cách cực kỳ ngăn nắp và sạch sẽ. Tất cả thức ăn đều do người Úc nấu theo kiểu (dĩ nhiên là) Úc. Mỗi ngày có ba bữa ăn: điểm tâm, ăn trưa và ăn tối. Mặc dù thức ăn đầy rẫy, tôi vẫn không ăn được gì nhiều, một phần do nhớ nhà, phần vì thức ăn không hợp khẩu vị (không có nước mắm hay các món như kho...). Mà cũng chẳng riêng tôi, hầu như người Á châu nào cũng có cùng cảm tưởng. Cứ mỗi lần họ phục vụ món thịt cừu thì phòng ăn có đầy người Tây phương và vắng mặt người Á châu; nhưng nếu bữa ăn có món thịt gà thì lại thấy nhiều anh "đầu đen" hiện diện.
Vì mới tới trại, chưa đủ thời gian để chính phủ trợ cấp an sinh xã hội, nên lúc đó Hội Chữ Thập Ðỏ phát cho chúng tôi mỗi người 20 đô và một vé đi mua quần áo cũ ở tiệm của Hội.
Tôi mừng lắm, lần đầu tiên cầm trên tay 20 đô và cũng chẳng biết phải làm gì với số tiền này. Tôi bèn cuốc bộ đến mua hai bộ đồ cũ và một đôi giày cũ để thay đổi. Tất cả chỉ tốn chỉ 2 đô-la! Nói là đồ cũ nhưng thực ra thì chất lượng còn rất tốt đối với tôi. Sau vài ngày "quen nước quen cái", tôi tìm đường cuốc bộ ra phố và thấy có một tiệm thực phẩm có tên là "Hồ Vị An" và một tiệm phở "Quê hương". Tôi mừng húm vì có thể vào mua mì gói về "nhà" nấu ăn (dĩ nhiên là phải dấu ban quản trị hostel) mà không phải ăn thịt cừu nữa.
Nhưng tôi vẫn chưa dám vào quán phở ăn vì thấy một tô phở giá tới 2 đô-la, tức tương đương giá hai bộ quần áo và đôi giày của tôi! Tôi đã có những ngày sung sướng nhất ở đây, những ngày thực sự tự do, không còn phải lo âu vì những lần chuyển trại, chẳng bị ai quấy rầy hay khủng bố tinh thần. Tôi viết thư về nhà báo cho Ba Má và các em biết là đã đến bến bờ tự do, nhưng do chế độ kiểm duyệt khắc nghiệt thời đó, nhà tôi chỉ nhận một ít thư của tôi (10).
Tôi ghi danh đi học tiếng Anh. Nhưng tôi lại thất vọng về cách dạy ê a của thầy cô ở đây và chỉ một tuần sau tôi lại nghỉ học. Tôi quyết định tự học tiếng Anh. Nhưng tôi cần một cuốn từ điển. Tôi mạo hiểm đón xe lửa ra thành phố (downtown) Sydney, ghé một nhà sách khổng lồ có tên là Dymock nằm trên đường Georges. Tôi bước vào nhà sách tìm mua cuốn "Tự điển Oxford" và cuốn sách văn phạm tiếng Anh "Practical English Usage" của soạn giả Michael Swan (mà tôi đã từng dùng tự học hồi ở trại tỵ nạn).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 4:54:40 GMT -5
Sau vài tuần ở trong hostel, tôi bắt đầu tìm việc làm. Mỗi ngày, tôi dò đọc mục "Employment" trong báo để tìm việc. Nhưng không may cho tôi, mỗi lần đi phỏng vấn là một lần thất bại vì tôi thành thật nói là chưa có kinh nghiệm làm hãng xưởng bao giờ.
Một hôm, trên đường về nhà sau một lần thất bại trong một cuộc phỏng vấn ở một hãng điện, tôi ngẫu nhiên để ý đến một khách sạn có kiến trúc hơi lạ tên là "Belmore Hotel". Tôi lại quay sang tờ báo và lần này, tôi để ý thấy Bệnh viện St Vincent's đang cần một phụ bếp (kitchen hand).
Tôi nghĩ tại sao mình không xin làm phụ bếp mà lại phải loay hoay tìm việc trong các hãng xưởng? Nghĩ thế, tôi vội xuống ga và đón xe điện khác đi ngược về hướng Ðông thành phố Sydney, nơi bệnh viện St Vincent's tọa lạc, để xin việc.
Sau khi điền xong đơn, tôi được bà giám đốc nhà bếp tên là Georgina Ramsey phỏng vấn. Bà hỏi tôi về lý lịch cá nhân, về kinh nghiệm làm trong nhà bếp. Vì đã thất bại quá nhiều lần trong các kỳ phỏng vấn trước đây do thành thật, kỳ này tôi làm gan nói dối là có kinh nghiệm làm trong nhà bếp.
"Làm ở đâu?" Tôi nhớ ngay đến cái tên "Belmore Hotel" và trả lời "Belmore Hotel"! "Làm ở đó bao lâu?" " Dạ, ba năm". Bà ta nhìn tôi mỉm cười một cách khó hiểu, nhưng quyết định nhận tôi ngay ngày đó, và hẹn tôi ngày mai sẽ bắt đầu đi làm. Tôi mừng quá và trên đường về nhà, tự đãi một tô phở!
Tôi được giao phó công việc rửa nồi niêu, chén bát, và đặc biệt là thái củ hành Tây. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời tôi thấy cái gì cũng lớn và cũng nhiều. Số lượng nồi và chén bát nhiều đến nỗi không thể đếm hết. Nhưng kỷ niệm đáng nhớ nhất là khi tôi thấy quá nhiều hành Tây (trong hai bao bố rất to), tôi hơi nao núng và hỏi: "Tôi phải lột hết hai bao này à?" Anh chàng giám thị người Tân Tây Lan tên là Gerry nhún vai nói: " Dĩ nhiên, đó là công việc của anh mà!"
Tôi cảm thấy mình mới ngây ngô làm sao! Dĩ nhiên, người ta mướn tôi vào làm việc đó, chứ còn việc nào khác! Chỉ lột được hai ba củ hành là tôi dàn dụa nước mắt vì cay. Gerry thấy tôi "khóc", bèn đến hỏi: "Anh có sao không?" Tôi trả lời "Không..." và dần dần làm xong công việc một cách tốt đẹp.
Nhưng chỉ hai ngày sau, sau vài lần thử nghiệm, tôi đã tìm được quy luật lột củ hành mà không rơi nước mắt. Mặc dù đó là một công việc khá nặng nhọc, nhưng tôi vẫn làm một cách vui vẻ và qua đó tôi học được tính tập trung trong khi làm việc, cho dù là việc lớn hay nhỏ. Sau khoảng ba tháng làm nghề này, tôi được thăng chức làm phụ bếp. Tôi được cấp đồng phục áo trắng và cái nón cao chót vót của thợ nấu, cùng với cái khăn đầu bếp quấn ngang cổ, trông oai lắm.
Nhiệm vụ của tôi lúc đó là xào thịt hay rau cải sơ sơ và giao cho thợ chính nấu. Tôi học được nhiều món ăn Tây cũng từ cái công việc này.
Tuy nhiên, lúc nào tôi cũng bị ám ảnh vì tôi đã nói dối về chuyện đã làm 3 năm trong nhà bếp ở "Belmore Hotel". Một hôm, tôi gõ cửa văn phòng bà giám đốc Ramsey và thú nhận là tôi đã nói dối bà ta về kinh nghiệm nhà bếp hôm phỏng vấn. Tôi cứ tưởng bà ta sẽ cho tôi nghỉ việc vì cái tội tày trời đó, nhưng bà ta mỉm cười và bảo tôi rằng bà ta đã biết ngay từ ngày đầu là tôi không có kinh nghiệm gì trong việc nấu nướng (vì tôi khai mới đến Úc có vài tháng!), nhưng thấy hoàn cảnh tôi khó khăn nên bà cho tôi cái công việc đó và nghĩ tôi có thể sẽ học hỏi từ từ cho quen việc.
Bà còn nói cho tôi biết rằng trong nhà bếp này có rất nhiều người có bằng cấp cao từ các nước Ðông Âu khác chứ chẳng riêng gì tôi. Bà khuyên tôi nên yên tâm làm việc và cuộc sống sẽ ổn định thôi. Trong thời gian này, tôi lân la tìm hiểu, và đúng như bà Ramsey nói, có rất nhiều người tỵ nạn và di dân từ các nước như Nga, Ba Lan, Hy Lạp, Nam Tư, Hồng Kông, Trung Quốc, v.v... cũng cùng một số phận như tôi. Những người này đã từng là chuyên viên lành nghề, nhà khoa bảng, luật sư, bác sĩ, v.v... ở nước họ, nhưng sang đây vẫn phải làm việc tay chân, vì bằng cấp của họ không được công nhận tại Úc. Và tôi càng nao núng hơn khi được biết là phần đông họ đã làm việc cả... 10 năm trở lên!
Làm trong nhà bếp khoảng 9 tháng thì tôi tìm được một công việc tương đối nhẹ nhàng hơn ở Bệnh viện Royal North Shore Hospital thuộc vùng Bắc Sydney. Công việc tôi lúc đó là đi giao nhận các mẩu thử nghiệm giữa các phòng thí nghiệm trong bệnh viện. Qua công việc này, tôi có dịp để ý cách làm nghiên cứu của các nhà khoa học ở đây. Một hôm, trong lúc rảnh rỗi, tôi để ý thấy một nhà khoa học người Ấn Ðộ loay hoay làm các con toán về xác suất thống kê cho thí nghiệm của ông; tôi lân la tới gần và tỏ ý muốn trợ giúp một tay. Tuy nhiên, ông ta trố mắt nhìn tôi một cách khinh khi, nhưng lịch sự và đuổi tôi đi chỗ khác. Tôi buồn tủi lắm, và quyết chí một ngày "trong cuộc trần ai, ai dễ biết/ rồi ra mới rõ mặt anh hùng".
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:01:21 GMT -5
Tôi nhận ra khá sớm là nếu tôi yên phận thì tương lai tôi sẽ chẳng tới đâu. Tôi quyết định ghi danh xin vào học tại trường Ðại học Sydney (một trường lâu đời và danh tiếng nhất ở Sydney) bán thời gian (part-time).
Tôi được mời lên phỏng vấn để lượng xét trình độ học vấn. Người phỏng vấn tôi, một ông Úc khoảng 50 tuổi, hỏi: "Anh đã tốt nghiệp đại học ở Việt Nam rồi?" " Dạ, đúng thế". Ông ta mỉa mai: "Thế anh có biết làm phân số không?" Tôi hơi ngạc nhiên về câu hỏi, nhưng cũng tự trấn tĩnh mình là có khi phân số của họ phức tạp hơn phân số mình học, nên hay nhất là nói "không" cho chắc ăn! Nghĩ thế, tôi trả lời: " Dạ, không".
Ông ta cười một cách mỉa mai mà tôi không bao giờ quên cũng như không tha thứ ông ta. Sau đó, tôi được một giáo sư chuyên ngành phỏng vấn và kết cục là ông không nhận tôi vì nghĩ tôi không đủ khả năng học đại học! Cần nói thêm là lúc đó, người Úc hầu như không biết gì về khả năng của học sinh Việt Nam và theo họ, một nước thường xuyên trải qua những cuộc chiến tranh khủng khiếp và triền miên như thế thì làm sao dân chúng có thể học hành đến nơi đến chốn được!
Thất bại ở trường Sydney, tôi quay sang xin vào học ở trường Ðại học Macquarie, một trường tương đối nhỏ hơn trường Sydney (khoảng 20 ngàn sinh viên), nhưng có tiếng tốt về môn toán thống kê mà tôi muốn theo đuổi. Ở đây, tôi được một ông giáo tên là Donald McNeil, nguyên là giáo sư ở trường Ðại học Princeton (Mỹ ) mới về, trực tiếp phỏng vấn. Sau khi hỏi sơ qua về vài lĩnh vực chuyên môn, ông ta nói tôi có thể sẽ không đủ khả năng theo học chương trình cao học (masters), và chỉ cho tôi học chương trình Graduate Diploma (thấp hơn cao học) về toán mà thôi. Ông ta nói nếu tôi học "được" một năm thì sẽ cho sang học chương trình cao học. Tôi mừng lắm và tự nhủ mình sẽ quyết chí học hành cho ra hồn, cho "bọn Tây" này biết mặt!
Ngày đầu tiên vào giảng đường đại học Úc, tôi hơi sốc về cái tính lè phè của học sinh và thầy giáo. Lớp học chỉ có khoảng 15 học sinh, phần đông là nam. Họ ăn uống tự nhiên và ăn mặc... không giống ai. Anh chàng giảng viên cũng ăn mặc rất "bụi đời", không có vẻ gì là một ông tiến sĩ mà tôi thường tưởng tượng cả.
Nhưng tôi đã gặp ngay khó khăn ngay từ ngày đầu vào giảng đường: tôi chẳng hiểu anh ta đang nói gì vì khả năng nghe của tôi còn quá hạn chế. Tuy nhiên, khi anh ta viết trên bảng thì tôi lại đoán biết anh ta đang dạy gì. Vì không hiểu bài trên lớp nên hàng đêm tôi phải ngồi lại ở thư viện để đọc sách và làm bài. Không đêm nào tôi về tới nhà trước 10 giờ khuya.
Song, chỉ khoảng ba tháng sau, tôi đã lấy lại tự tin của mình và bắt đầu nhận ra là chương trình học của họ cũng chẳng có gì là "ghê gớm" lắm, nếu không muốn nói là thấp so với chương trình toán mà tôi đã từng học ở Việt Nam.
Một hôm anh chàng giảng viên đang lúng túng giải một bài toán đa tích phân (multiple integration), tôi giơ tay xin giải hộ. Anh ta và cả lớp tròn xoe mắt ngạc nhiên nhìn tôi, một tên học sinh thường ngày có vẻ rụt rè, nhút nhác, lại dám làm chuyện này! Tôi ngang nhiên lên bảng, "biểu diễn lả lướt" một đường toán làm họ kinh ngạc hơn.
Sau vài lần như thế, tiếng đồn tới ông giáo sư McNeil. Nên chỉ sáu tháng sau, ông McNeil đã cho tôi theo học chương trình cao học mà không phải qua chương trình Graduate Diploma. Tôi còn được cho một việc làm phụ giảng cho học sinh chương trình cử nhân.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:01:51 GMT -5
Từ đó, tôi lấy lại niềm tin và mạnh dạn hơn trên đường làm lại sự nghiệp. Trong khi học ở trường Macquarie, tôi xin được một công việc làm thư ký cho một trung tâm nghiên cứu thuộc Bộ Y tế tiểu bang New South Wales.
Trong vai trò thư ký, tôi chỉ có nhiệm vụ thu thập số liệu và phụ giúp đem các số liệu này vào máy vi tính (microcomputer), lúc đó còn dùng hệ điều hành CP/M. Trong nhóm, chỉ có ba bác sĩ biết cách dùng máy vi tính để phân tích số liệu. Họ huấn luyện tôi cách dùng máy vi tính và tôi cảm thấy thích thú khi làm việc với máy tính.
Nhưng tôi tự học nhiều hơn những gì họ chỉ tôi. Liên tục nhiều tháng trời, tôi tự học cách viết chương trình bằng ngôn ngữ FORTRAN, cách điều khiển và liên kết các máy với nhau, v.v... Một hôm, tôi thấy ông bác sĩ giám đốc đang để tâm giải một bài toán thống kê loại rất căn bản. Tôi xem cách ông ta làm và tỏ ý muốn giúp: "Tôi có thể giúp ông giải quyết việc này". Ông ta nhìn tôi một cách khinh khi và nói: "Anh làm không được đâu, việc này phức tạp lắm". Tôi cảm thấy chạm tự ái và mạnh bạo thách thức: "Nếu tôi giải không xong trong vòng 5 phút, ông có thể cho tôi nghỉ việc". Ông giám đốc nhìn tôi một cách lạ lùng và nói "Ðược rồi, làm đi!" Ngay sau đó, tôi được chỉ định mở lớp dạy lại cho tất cả các nhân viên trong nhóm cách dùng, cách viết chương trình để giải các bài toán thống kê.
Từ đó, tôi được chính thức bổ nhiệm tham gia nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hệ thống y tế công cộng. Tôi cảm thấy sự miệt mài của mình đã có chút thành quả. (Thực ra, bây giờ hồi tưởng lại, tôi thấy những công việc làm lúc đó quá sơ đẳng và chẳng có gì đáng phải tuyên dương, tự hào).
Sau khi xong luận án cao học ở trường Macquarie, tôi lại chuyển sang trường Ðại học Sydney. Lần này tôi về lại đây để dạy học (11) đồng thời theo học chương trình tiến sĩ với ông giáo sư Alan Woodman. Tôi vẫn còn nhớ "mối thù làm phân số", nên sau khi xong thủ tục hành chính, tôi tìm lại ông viên chức ngày trước để hỏi lại câu hỏi vô duyên "Ông biết làm phân số không?".
Ông công chức giờ đây đã già, nhìn tôi ngơ ngác chẳng hiểu tôi nói gì. Tôi kể lại cái giây phút lịch sử bốn năm về trước cho ông nghe; ông ta ôm tôi xin lỗi rối rít và nói là không có ý xúc phạm, mà chỉ là một câu hỏi đùa. Chẳng biết sao lúc đó khi nghe ông ta nói thế, tôi lại rất hối hận và thấy mình quá sai; tôi thấy thái độ ăn thua đó của mình quá ấu trĩ và tự thấy mình xấu hổ. Tôi tự nhủ và quyết tâm gột rửa cái "Việt Nam tính" từ đó. Bây giờ nhắc lại câu chuyện này tôi vẫn còn thấy mình xấu hổ.
Ðầu năm 1991, sau khi xong luận án ở trường Sydney, tôi được may mắn bổ nhiệm làm nghiên cứu viên (Research Fellow) ở Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan (Garvan Institute of Medical Research), một trong 10 viện nghiên cứu y khoa hàng đầu trên thế giới. Viện này là một trung tâm đào tạo chuyên khoa cho trường Ðại học New South Wales và Bệnh viện St Vincent''s, nơi tôi làm phụ bếp khoảng 9 năm trước đó (12).
|
|