|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:02:43 GMT -5
Viện Garvan có khoảng 300 nhà khoa học với trình độ tiến sĩ hay cao học từ nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Ðức, v.v... nghiên cứu trong các lĩnh vực ung thư vú (breast cancer), loãng xương (osteoporosis), sinh học thần kinh (neurobiology) và nội tiết (metabolism). Tôi làm trong bộ môn loãng xương cùng một giáo sư hàng đầu trong ngành là John A. Eisman, người sau này trở thành một người thầy và bạn thân của tôi.
Tôi dồn tâm trí vào việc học hành và nghiên cứu về nội tiết, xương và bệnh loãng xương, từ các vấn đề sinh học căn bản tới lâm sàng. Mười năm nghiên cứu trong lĩnh vực này, tôi và đồng nghiệp cũng gặt hái được nhiều kết quả đáng kể. Vài đóng góp của tôi trong ngành tập trung vào ba chủ đề: xác định các yếu tố dẫn đến sự mất xương, chứng loãng xương trong đàn ông và di truyền học trong xương.
Năm 1994, trong một bận tán gẫu bên bàn cà phê ở một quán nước vùng Darlinghurst, tôi và hai anh nghiên cứu sinh tên là Nigel Morrison (người Úc) và Qi Jiang (người Trung Quốc) nảy ra ý tưởng nghiên cứu vai trò của di truyền tố vitamin D receptor (còn gọi tắt là VDR gene) trong xương.
Sau nhiều tháng làm việc cật lực và căng thẳng, nhóm tôi đã khám phá ra sự liên hệ giữa di truyền tố này và mật độ xương trong một nhóm phụ nữ sinh đôi. Khám phá này được công bố trên "Nature", tờ tạp chí khoa học hàng đầu trên thế giới, và lần lượt được đề cập trên hầu hết các hệ thông tin đại chúng như "The Times", "Newsweek", "New York Times", "Los Angeles Times", "Sydney Morning Herald", "The Australian", "The Telegraph" (London), v.v...
Tôi và ông Eisman đã rất bận trong việc trả lời phỏng vấn của các phóng viên, nhà báo quan tâm. Tuy nhiên, trong chuyên ngành, khám phá của chúng tôi đã gây ra rất nhiều cuộc tranh luận trên thế giới và tôi đã phải tiêu khá nhiều thời gian, "đầu tắt mặt tối" để bảo vệ quan điểm của mình.
Tính tới nay, kể từ ngày được công bố trên "Nature", đã có gần năm trăm bài báo khoa học trong lĩnh vực này. Qua việc làm này, tôi và ông Eisman được trao tặng một số giải thưởng ở Úc, Âu châu và Mỹ như "Giải thưởng dành cho các nhà nghiên cứu trẻ" (Young Investigator Award), "Xuất sắc trong nghiên cứu bệnh loãng xương" (Outstanding Research in Osteoporosis), "Giải thưởng Neumann" (Neumann Award, dành cho ngành nghiên cứu xương), v.v...
Qua cách thức xét duyệt và trao giải thưởng, tôi mới nhận ra vài điều thú vị: thứ nhất, nhiều giải thưởng được trao không hẳn chỉ dựa trên thành tích khoa bảng xuất sắc mà phần lớn lại nhờ vào sự móc ngoặc và vận động (lobby) của người được trao giải; thứ hai, nhiều giải thưởng mặc dù có những cụm từ rất kêu như "outstanding", "excellence", " distinction", v.v... nhưng thực tế lại không phản ánh đúng khả năng của người được giải.
Cũng tại viện Garvan này, tôi đã viết thêm một luận án về y khoa (medical epidemiology) tại Ðại học New South Wales, sau năm năm trời học tập và nghiên cứu. Luận án đó được "Hội đồng Khoa bảng" (Academic Board) đánh giá khá cao, được bình bầu là "Luận án xuất sắc trong năm" (The Best Doctoral Thesis Award). Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thực tình tôi không quan tâm và không đặt nặng mấy về các giải thưởng đó, mà chỉ chú tâm vào định hướng trong nghiên cứu, mang lại kiến thức mới cho chuyên ngành (13).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:09:25 GMT -5
Duyên nợ xứ Cờ Hoa
Ðầu năm 1997, tôi sang Mỹ dự hội nghị thường niên về xương tại thành phố Cincinnati, thuộc tiểu bang Ohio. Trong hội nghị này, tôi được đề cử làm đồng chủ tọa (co-chair) một phiên họp về di truyền trong xương (genetics of bone mass).
Sau giờ giải lao, một đồng nghiệp người Mỹ đến tự giới thiệu và làm quen. Anh nói đại ý những câu xã giao lịch sự mà tôi đã nghe quá nhiều lần trong quá khứ, rằng anh ta đã biết tên tôi từ mấy năm nay và hôm nay hân hạnh được dịp gặp mặt.
Anh ta mời tôi, sau khi xong hội nghị, về thành phố Dayton để thỉnh giảng. Tôi vui vẻ và lịch sự nhận lời, nhưng trong thâm tâm vẫn nghĩ là một lời mời viển vông. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, trong khi còn đang dự hội nghị, tôi nhận được một bao thư kèm theo một giấy mời của trường Ðại học Wright State và một vé máy bay. Tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng nghĩ thầm: "Họ cho vé thì mình cứ đi!"
Tôi bay đến Dayton theo lời mời để nói về những việc mình đã làm trong lĩnh vực loãng xương. Xong buổi nói chuyện, ông khoa trưởng y khoa có nhã ý mời tôi qua làm việc với họ vài năm. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên và thích thú.
Ngạc nhiên là mặc dù trước đây tôi đã từng sang Mỹ làm việc, họp hội nghị ít nhất là 15 lần và tôi cũng có rất nhiều đồng nghiệp ở Mỹ, nhưng tôi chưa từng nghĩ đến chuyện phải bỏ Úc để qua Mỹ làm việc. Thích thú là vì tôi thấy hay là mình làm một chuyến viễn du chơi qua Mỹ cho biết.
Nghĩ thế, tôi bèn trả lời là tôi sẽ suy nghĩ lại đề nghị của ông ta. Sau hai ngày thăm trường Wright State và trao đổi với vài giáo sư ở đây, đến ngày tôi phải bay về làm việc trong trường Ðại học California tại San Diego.
Ông khoa trưởng đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi của tôi: ông đã mướn một chiếc xe limousine bóng loáng để chở tôi về lại Cincinnati và từ đó bay về California. Lần đầu tiên trong đời được ngồi trên chiếc xe limousine thượng hạng, tôi thấy mình lúng túng, chẳng biết dùng nút bấm nào cho TV, nút nào mở máy hát, tủ lạnh, v.v...
Nhưng anh tài xế, trong bộ đồ như ông tướng nhà binh, ân cần chỉ cho tôi cách điều khiển hệ thống điện tử này. Ngồi một mình trong xe rất tiện nghi, tôi thưởng thức quang cảnh bao la của miền Trung phía Tây nước Mỹ, và thỉnh thoảng nghĩ ngông rằng mình là nhà kinh doanh đang đi du lịch hơn là người làm khoa học!
Ông khoa trưởng còn dành cho tôi một sự ngạc nhiên hơn: chiều hôm đó, ông và ba giáo sư khác lái xe lên tận khách sạn tôi ở Cincinnati mời tôi ăn tối tại một nhà hàng sang trọng (mà sau này tôi được biết là đắt tiền vào bậc nhất ở thành phố này). Sáng hôm sau, trên máy bay về lại California, tôi cứ cảm kích mãi tấm lòng của ông khoa trưởng và đồng nghiệp của ông, và chẳng hiểu tại sao họ lại tử tế với mình như thế.
Về lại Úc, tôi lại bị lôi cuốn vào công việc hàng ngày và quên đi "mối tình" với Wright State. Tuy nhiên, khoảng cuối năm 1997, ông khoa trưởng gửi cho tôi một lá thư báo rằng ông ta đã vận động thành công để "tạo ra" (create) một chức vụ giáo sư mới và mời tôi đệ đơn. Không muốn làm phật lòng người tốt bụng với mình, tôi gửi một lá thư và một bản lý lịch rất sơ sài.
Khoảng hai tuần sau, ông khoa trưởng điện thoại cho tôi biết là "Hội đồng Bổ nhiệm Khoa bảng" (Academic Appointment Committee) đã đồng ý bổ nhiệm tôi vào phân khoa y của trường Wright State. Tôi không ngờ sự việc lại xảy ra một cách nhanh chóng như thế. Lúc này thì tôi mới biết chuyện đi Mỹ làm việc không còn là trò đùa lịch sự nữa mà đang thành sự thật.
Thực ra, họ đã đi "đường tắt" trong việc làm này (theo đúng nguyên tắc và qui định hành chính, họ phải quảng cáo trên các tạp chí quốc tế trước khi bổ nhiệm, và thông thường phải tốn cả năm mới bổ nhiệm được một giáo sư ).
Nhưng người Mỹ, với một bản năng cực kỳ thực tế, đã từng làm những chuyện tày trời khác như ngang nhiên dội bom xuống xứ sở người khác, âm thầm tổ chức đảo chính các chính phủ dân chủ, đi đêm với kẻ thù, v.v... thì sá gì chuyện họ đi tắt trong việc tổ chức mua khoa bảng nước ngoài! Tôi lại khăn gói lên đường, đi xa Việt Nam hơn nữa để làm một chuyến viễn du, "tỵ nạn" lần thứ hai.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:12:27 GMT -5
Nước Mỹ: ghét để thương
Nói chung, nước Mỹ đã đối đãi với tôi rất ân cần và có thể nói là cũng rất ưu ái. Tất cả các cơ sở vật chất và điều kiện nghiên cứu, giảng dạy đều được nhà trường đáp ứng đầy đủ, không thể nào chê được. Tôi còn được hưởng nhiều đặc ân mà ngay cả những đồng nghiệp người bản xứ đôi khi phải so bì.
Nhưng người Mỹ rất thực tế: họ không ngần ngại cho tôi biết rằng nhà trường coi việc bổ nhiệm tôi là một cuộc đầu tư khoa bảng. Họ đầu tư vào tôi và kỳ vọng tôi phải làm việc có hiệu quả, phải mang lại tài trợ cho nhà trường, và qua đó mang lại danh tiếng cho nhà trường.
Cho đến nay, có thể nói rằng họ đã không "lỗ vốn" vì trong vòng hai năm đầu, tôi đã thiết lập thành công một nhóm nghiên cứu về xương trong khoa y, và nhóm tôi cũng đã mang lại cho nhà trường một số tài trợ khá lớn. Tôi cũng thiết lập được mối liên lạc giữa các cơ quan như Bộ Y tế tiểu bang, các hiệp hội địa phương và trường đại học.
Trong thời gian ở Mỹ, tôi có rất nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn. Nhiều hơn ở Úc. Ðối với tôi, Mỹ là một nước mà tôi rất "ghét để thương". Tôi ngưỡng mộ sự thành công của nước Mỹ và tinh thần làm việc của người Mỹ.
Có lẽ nói ra cũng bằng thừa, nước Mỹ vẫn là xứ sở của cơ hội, là miền "đất hứa" để những ai có thực tài thi thố tài năng. Tôi thấy ở Mỹ ai cũng có cơ hội để thành công, miễn là phải chịu khó. Dĩ nhiên. Nước Mỹ biết dùng (hay biết bóc lột) người có tài và sẵn sàng nâng đỡ người chịu khó làm việc, học hành. Hãy so sánh một trường hợp tiêu biểu về sự nghiệp của một sinh viên mới tốt nghiệp tiến sĩ ở Pháp hay ở Úc và đồng nghiệp của anh ta ở Mỹ.
Ở Pháp hay Úc, chàng nghiên cứu sinh này sẽ phải "lận đận lao đao" trong nhiều năm làm hậu tiến sĩ (Post-doctoral research) trước khi trở thành một nhà nghiên cứu độc lập hay có thể chỉ huy một nhóm nghiên cứu; ngay cả khi đã là một nhà nghiên cứu độc lập, anh ta sẽ vô cùng gian nan khi xin tài trợ, vì phải cạnh tranh với những người cấp cao hơn như thầy của anh ta.
Trong khi đó ở Mỹ, đồng nghiệp anh ta, chỉ sau một hay ba năm (hay thậm chí không qua năm nào) làm hậu tiến sĩ, đã trở thành giáo sư, được nâng đỡ và tài trợ để trở thành một nhà khoa học độc lập! Thành ra, không ai ngạc nhiên khi thấy nhiều nhà khoa học trẻ tài năng ở các nước Âu, Á và Úc châu đều tranh nhau đi Mỹ làm việc.
Những người này đã góp một phần lớn đưa nước Mỹ vào vị thế siêu đẳng trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật ngày nay. Trong vài thập niên gần đây, các nhà khoa học Mỹ đã mang về cho nước họ khoảng 60% các giải thưởng Nobel về khoa học và kinh tế học (so với 15% những năm trước 1945). Thành tích này có sự đóng góp đáng kể của các nhà khoa học nước ngoài làm việc ở Mỹ. Ngay cả ngày nay, mặc dù đã ở vào vị thế vô đối thủ trong khoa học, Mỹ vẫn có chính sách ưu tiên cho nhập cư người có tài từ các nước trên thế giới.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:14:09 GMT -5
Mỹ là một nước đa quốc gia. Do đó, Mỹ có đầy đủ những cái xấu và cái đẹp của thế giới. Bên cạnh những bộ óc siêu việt cũng có những con người ù lì nhất thế giới; ngoài những sinh viên sáng dạ nhất cũng có nhiều sinh viên làm con toán phân số không rành; bên cạnh những người Mỹ tử tế cũng có những con người kỳ thị khủng khiếp...
Nếu phải minh họa đạo lý nước Mỹ bằng một biểu đồ, tôi đoán rằng biểu đồ đó sẽ có hình cái chuông: số lượng người xấu xa ở phía bên trái sẽ tương đương với số lượng người tuyệt vời ở phía bên phải, và phần đông những con người bình thường dễ mến sẽ nằm chính giữa của biểu đồ.
Hơn mười năm ở Úc, một nước có tiếng kỳ thị chủng tộc, tôi chưa bao giờ gặp một thái độ phân biệt chủng tộc; nhưng một thời gian ngắn ở Mỹ lại cho tôi "nếm mùi" phân biệt đối xử qua một kỷ niệm nhỏ.
Một hôm, tôi đi thăm một anh bạn người Mỹ ở thành phố Detroit (Michigan), nơi mà 90% dân số là người da đen (hay nói cho đúng hơn, là "người Mỹ gốc Phi châu" ). Tôi và anh bạn lái xe đến một quán ăn McDonald; sau khi đặt mua vài món ăn trưa và trả tiền ở quầy tính tiền, tôi lái đến quầy khác để nhận thức ăn, nhưng chờ cả 5 phút mà chẳng thấy ai phục vụ, trong khi đó phía sau xe tôi có cả 5 chiếc xe khác đang chờ.
Anh bạn tôi giục tôi phải rời ngay kẻo sẽ gặp trở ngại! Tôi không hiểu gì, nhưng thấy nét mặt anh ta nghiêm trọng hối thúc, nên cũng đành phải rời quán. Anh bạn thản nhiên giải thích rằng có lẽ nhân viên bán hàng thấy anh là người da trắng nên họ không muốn phục vụ! Trong khi tôi tiếc vì đã mất toi cả mười đô-la mà bụng thì đói meo, anh bạn tôi lại không hề tỏ ra một lời nói tức giận hay một cử chỉ hằn học.
Dường như đó là một điều anh ta thường hay gặp phải. Tôi hy vọng và tin rằng đó chỉ là một trường hợp biệt lập và tôi tuyệt nhiên không có ý ám chỉ nó đại diện cho sự tương giao giữa hai sắc dân Trắng-Ðen ở nước Mỹ. Trong thực tế, tôi có nhiều đồng nghiệp người da trắng và chưa ai trong họ có thái độ hay lời nói để tôi có thể cho là "kỳ thị chủng tộc". Hay là họ biểu lộ nó ở một mức độ tinh tế hơn chăng?
Nhưng tôi thấy một số chính khách người Mỹ thật khó ưa. Trong một bài diễn văn đọc ở tiểu bang California, Ronald Reagan, nguyên tổng thống Mỹ, đã tả Mỹ như "...một quốc gia do Thượng đế ban cho, nằm giữa hai đại dương; một căn nhà sáng chói trên đồi, một ngọn hải đăng soi sáng cho cả thế giới" (14).
Những người như Reagan có vẻ tự cho Mỹ cái quyền làm "sen đầm quốc tế", thích đi gây hấn với thiên hạ như một tên côn đồ chuyên nghiệp. Tôi đã thấy các thượng nghị sĩ, lãnh đạo chính trị và giới truyền thông Mỹ bàn luận với nhau trên TV về phương pháp trừng phạt nước này, cách thức trừng trị nước kia, bế môn tỏa cảng nước nọ, v.v... làm như thế giới này nằm dưới quyền điều khiển của Mỹ! Có lẽ vì cái tâm tính này mà bộ máy quân sự của họ đã trực tiếp gây ra biết bao tan tóc trên nước Việt Nam trong thời chiến tranh.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:17:52 GMT -5
Một điều tôi thấy ngạc nhiên là một số không nhỏ người Việt tỵ nạn ở Mỹ cũng có thái độ rất "gung-ho" và cách suy nghĩ ngạo mạn, tự phụ như của người Mỹ bản xứ.
Ðối với những người Việt này, Mỹ là cái nôi văn minh của nhân loại; mọi thứ đều xuất phát từ Mỹ và thế giới đang hưởng ân huệ của Mỹ; chỉ có Mỹ mới là nước mà tự do và phẩm giá cá nhân được tồn tại và bảo đảm.
Từ đó, họ tự suy ra rằng họ là những đỉnh cao trí tuệ (như có lần những người cộng sản ở Việt Nam thường tự nhận), là những người Việt ưu việt trong tất cả người Việt trên thế giới.
Có lẽ vì không chịu mở tầm mắt nhìn ra thế giới bên ngoài nước Mỹ nên một số không ít người Mỹ gốc Việt thiếu kiến thức căn bản về thế giới chung quanh họ, nhưng họ lại cố tỏ ra là những người thông thái một cách rất khôi hài và tội nghiệp.
Có lần tôi ghé thăm trường Ðại học Boston và gặp một bác sĩ người Việt; anh ta huyên thuyên bình luận về tình hình kinh tế, chính trị xứ Úc và tỏ ra ngạc nhiên là "tiếng Úc" cũng giống "tiếng Mỹ"! (Phần đông người Việt ở Mỹ nghĩ là họ nói và viết tiếng Mỹ, chứ không phải tiếng Anh!?) Cũng may phước là anh ta không biết quê hương thứ hai của tôi là Úc châu!
Có lần, tôi đi dự một buổi tiệc ở gia đình một anh bạn tại Ohio, các anh bạn người Mỹ gốc Việt đều đồng ý rằng nước Ðức quá "lạc hậu" đến nỗi dân chúng ở đó không biết dùng thẻ tín dụng (credit cards)! Tôi tưởng mình nghe lầm. Nhưng không: họ nhắc nhắc lại cái điệp khúc cực kỳ vô lý đó, và hỉ hả kết luận rằng trên thế gian này chỉ có Mỹ là nước văn minh nhất.
Ðiều làm tôi kinh ngạc hơn là các anh này đều có trình độ học vấn đại học ở Mỹ! Khi ghé California, tôi bày tỏ ý định đi Anh làm việc, nhiều bạn bè người Việt nhìn tôi với ánh mắt e ngại như thầm chia buồn với tôi nỗi "bất hạnh" phải về vùng địa ngục!
Trong thời gian ở Mỹ, tôi cũng có cơ duyên được đọc nhiều báo chí Việt ngữ ở Mỹ. Có lẽ nói ra cũng bằng thừa, báo chí Việt ngữ ở Mỹ quá phong phú. Chỉ riêng ở vùng Little Saigon mà đã có hàng trăm tờ báo lớn nhỏ! Nhưng ngoài một số rất ít báo có phẩm chất cao, phần còn lại có thể cho là "bát nháo".
Ðại đa số các báo đều có mục tin tức liên quan tới Việt Nam. Nhưng khác với các báo ngoại quốc thường tường thuật, đưa tin về Việt Nam rất thẳng thắng, không mặc cảm, không trói buộc, các báo Việt ngữ ở Mỹ lại loan tin một cách rất chọn lựa và có chủ ý.
Dù không trực tiếp nói ra, nhưng chủ ý của họ là cố tạo ra một ấn tượng xấu về Việt Nam và những người cầm quyền ở trong nước. Họ không ngần ngại viết đại loại như "toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội, hệ thống giá trị đạo đức trong nước đang bị tan rã, hỗn loạn, mất hướng, vô đạo đức...". Họ lấy tin từ Việt Nam, rồi thêm thắt, soạn lại với những lời lẽ nặng nề cảm tính, xúc động, lờ đi sự thật để nuôi dưỡng những hận thù vô lý.
Tôi có cảm giác là báo chí Việt ngữ ở Mỹ vẫn còn bị lẫn lộn giữa chức năng của người làm việc thông tin và hướng dẫn dư luận hay dùng báo chí làm diễn đàn chính trị. Nhiều người làm báo tự cho mình cái độc quyền hướng dẫn dư luận, không cho đăng những bài báo có nội dung khác với ý của họ. Nếu tờ báo là của đoàn thể chính trị thì điều đó không có gì đáng nói, nhưng là báo làm thông tin cũng tự cho mình quyền tuyên truyền và hướng dẫn quần chúng!
Ngoài ra, có lẽ do nhiễm thái độ tự cao tự đại của người Mỹ, một số trong giới làm truyền thông Việt ngữ ở Mỹ cũng có thái độ phách lối, tự cho họ là những người hướng dẫn dư luận cho người Việt ở hải ngoại. Ðối với họ, các báo Việt ngữ ở các nước khác chỉ là "báo vườn" và họ không cần để ý hay biết tới.
Tôi nghĩ người Việt tỵ nạn ở Mỹ có tinh thần quốc gia rất cao (so với người tỵ nạn ở Úc hay Âu châu), và trong số này có nhiều người yêu nước Mỹ giàu mạnh hơn nước Việt Nam nghèo yếu! Khi cố tổng thống Richard Nixon, người chủ trương chính sách leo thang chiến tranh ở Việt Nam và ra lệnh ném bom xuống Hà Nội mười hai ngày đêm liền, qua đời, tôi thấy một số người Việt Nam ở California tham gia đưa linh cữu ông ra mộ và khóc rất thảm thiết, không khác gì đưa tiễn người thân trong gia đình về phía bên kia thế giới.
Khi lính Mỹ sang tham chiến, dội bom ở Kosovo và Iraq, một số trong giới truyền thanh Việt ngữ ở California cũng lên đài cầu nguyện Thượng đế mang lại sự an lành cho những người lính viễn chinh này. Tôi nghĩ nước Mỹ quả rất may mắn khi có những người con trung thành đến mức ấy!
Cố nhiên, không phải người Việt nào ở Mỹ cũng bị "Mỹ hóa" như thế. Trong thực tế, tôi cũng gặp và kết bạn thân với nhiều người Việt Nam ở Mỹ, kể cả những anh chị ra đi từ miền Bắc, cực kỳ tốt lòng, đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian đầu ổn định cuộc sống ở Ohio (15).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:20:36 GMT -5
Một vài suy tư & Nhìn về tương lai
Chiến tranh và thù nghịch dai dẳng đã tạo nên một cuộc di cư vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Tôi cũng nằm trong cơn lốc lịch sử đó mà lang thang ra ngoài Việt Nam. Nhưng bây giờ, nhìn lại quãng đường đời và kinh nghiệm đã trải qua, tôi cảm thấy bên cạnh nỗi bất hạnh xa quê hương, tôi lại thừa hưởng được một may mắn rất lớn: có cơ hội học tập và tiếp cận với những tri thức tiên tiến hàng đầu.
Các nước Tây phương như Mỹ, Úc, Pháp, v.v... đã mở rộng cửa đón tôi, cho tôi cơ hội bình đẳng với công dân của họ hầu như trong mọi lĩnh vực, kể cả được trợ giúp để theo học ở những trường hàng đầu mà tổ tiên của họ đã từng bỏ ra hàng trăm năm để gây dựng. Họ khen ngợi khi tôi gặt hái chút thành quả. Họ chịu đựng và thông cảm khi tôi khác họ. Khi tốt nghiệp, tôi được khuyến khích, giúp đỡ để theo đuổi làm việc, nghiên cứu trong các lĩnh vực hàng đầu. Nói chung, tôi đã được thụ hưởng những cơ hội mà khi còn ở trong nước, tôi chẳng dám mơ tới.
Song, so sánh với đồng nghiệp nước ngoài, tôi mới thấy sự phá hoại của chiến tranh về trí lực và nhân lực rất ư là ghê gớm. Có thể nói so với các bạn trẻ ngày nay, tôi và nhiều người cùng thế hệ là những "trâu chậm uống nước đục". Một người ngoại quốc trung bình, sống trong cảnh thanh bình có thể đã thành danh và đang ở đỉnh cao của sự nghiệp vào độ tuổi 30 hay 40. Trong khi đó, ở tuổi hai mươi, vì hoàn cảnh lịch sử, tôi chẳng làm gì được nhiều. Khi xong tiến sĩ, tôi đã trở thành một trung niên hơn "tam tuần", trước một tương lai còn rất xa, vô định, mà quá khứ thì đầy đau khổ, mịt mù: "Tuổi ba mươi ta sống tháng ngày xa lạ - Tuổi ba mươi ta có quá khứ mịt mù" (16).
Ở những năm cuối tuổi 30, tôi mới có dịp cống hiến. Mà, cần phải nói ngay và nói rõ rằng những gì tôi đạt được trong vài năm qua chỉ là những đóng góp rất nhỏ trong khoa học; nó chưa xứng đáng được đề cao và chưa phải là những đóng góp mà tôi muốn tự hào.
Những năm còn ở trong nước, tôi đã đọc nhiều bản tin về sự thành công vượt bực, có khi phi thường, của người Việt hải ngoại. Tôi đã từng nghe nhiều mẩu chuyện về những đóng góp quan trọng trong y khoa, khoa học không gian, toán học, vật lý học, v.v... mà lấy làm tự hào cho người Việt mình lắm. Có lần, tôi đọc được một lời tán dương về một giáo sư gốc Việt ở Mỹ như sau: "Nếu viết về tiểu sử của ông thật đầy đủ chi tiết thì cả tuyển tập này cũng không đủ, vì ở ông là cả một bầu trời rực rỡ ánh hào quang, và có rất nhiều huyền thoại về ông tuyệt vời như những câu chuyện thần thoại hoang đường". Một lời khen hết sức ấn tượng!
Nhưng khi ra nước ngoài, có cơ hội tìm hiểu, đối chiếu trong kho tàng khoa học thế giới, tôi mới biết phần lớn những mẩu chuyện mình từng nghe biết ngày xưa quả đúng là những... huyền thoại hoang đường. Theo tôi, những cống hiến của các nhà khoa học gốc Việt cho khoa học thế giới còn rất khiêm tốn, và có thể nói là không đáng kể.
Cho tới nay, mặc dù cũng có vài nhà khoa học gốc Việt rất sáng giá và có uy tín trên thế giới trong các ngành nghiên cứu hẹp, nhưng theo tôi biết, vẫn chưa có người nào được bầu vào các hàn lâm viện ở Mỹ, Úc, hay chiếm các giải thưởng lớn như giải Nobel và Field Prize (trong toán học). Cũng theo tôi biết, chưa có khám phá nào của người Việt Nam được xem là có tầm cỡ quốc tế hay có giá trị thương mại lớn. Trong hoạt động khoa học, số lượng các bài báo đã được công bố trên các tạp chí khoa học thường được xem là một trong những chỉ số về năng suất nghiên cứu và một thước đo về sự cống hiến cho kiến thức nhân loại. Theo ước tính của tôi, trong suốt 25 năm qua, các nhà khoa học gốc Việt ở hải ngoại đã cống hiến khoảng 14.000 bài báo khoa học trên các tạp chí y khoa, hóa học và sinh học. Nếu đem con số này so với số lượng của cả nước Thailand (5.200), Mã Lai (2.100) hay Singapore (6.900) thì đây là con số không nhỏ, nhưng nếu so với các cộng đồng sắc tộc khác như người Trung Quốc, Nhật, Ðại Hàn, Ấn Ðộ, v.v... thì con số này còn rất khiêm nhường.
Mặc dù trên trường quốc tế, các trí thức Việt Nam ta chẳng có cống hiến gì đặc biệt và thường rất khiêm tốn trước người ngoại quốc, nhưng khi về lại với cộng đồng, họ lại rất hăng hái kể công và khệnh khạng với bằng cấp, chữ nghĩa, hù dọa bắt nạt đồng hương kém may mắn hơn họ.
Một số người, do thiếu kinh nghiệm trong hoạt động khoa học hoặc do hám danh, đã tự họ quảng cáo một cách hết sức ngô nghê và tội nghiệp. Những quảng cáo như "Người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp..." hay "Người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm chức..." thực ra chẳng có ý nghĩa gì, nếu không muốn nói là rất khôi hài. Ngoài ra, còn có nhiều người, do không thông thạo các tổ chức khoa học hay cố tình lòe đồng hương, bằng các danh xưng như "viện sĩ" Viện Hàn lâm Khoa học New York, hay "có tên trong" các cuốn danh bạ kiểu "Who is Who in the World".
Thực ra, bất cứ ai, kể cả sinh viên, cũng có thể trở thành viện sĩ hay có tên trong các cuốn sách loại này nếu họ đồng ý trả một khoản lệ phí hàng năm. Nó chẳng phải là một danh dự, càng không phải là chứng nhận về sự thành đạt trong hoạt động khoa học. Có lẽ vì cái tâm tính "khôn nhà dại chợ" vẫn còn rất phổ biến trong nhiều trí thức gốc Việt, những danh hiệu do mua bán và tự quảng cáo này vẫn còn nhan nhản trong cộng đồng và ngay cả ở trong nước.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:23:05 GMT -5
Cách đây hơn 60 năm, cụ Ðào Duy Anh đã viết như sau khi nhận xét về tính cách của người Việt: "Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý. Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động... Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc" (17).
Tôi thấy, cho đến nay, những nhận xét này vẫn còn chính xác, nhất là trong giới trí thức Việt Nam ở hải ngoại.
Mới đây, theo một thống kê được nhà nước Việt Nam công bố, có khoảng hai triệu rưởi người Việt hiện đang sống rải rác trên toàn cầu. Trong số này, có khoảng 300 nghìn người có tay nghề cao hay có trình độ đại học trở lên. Ðây là một con số không nhỏ, nếu so với con số một triệu ở trong nước.
Có người đã lạc quan cho rằng lực lượng trí thức hải ngoại này có thể chắp cánh cho Việt Nam bay vào thế kỷ 21 cùng với các nước trong vùng. Nếu chỉ đọc qua những bản tin về sự thành công của giới trí thức gốc Việt ở hải ngoại thì niềm tin tưởng trên cũng có cơ sở. Nhưng theo kinh nghiệm cá nhân, tôi lại thấy đó chỉ là ảo vọng.
Tôi thấy cần phải cảnh giác những lời bình phẩm có tính cách tự cao tự đại như người Việt Nam ta hiếu học, học giỏi, thông minh, v.v... Trong thực tế, học lực của phần đông học sinh gốc Việt Nam chỉ ở mức độ trung bình, thậm chí dưới trung bình. Tôi đã thấy nhiều sinh viên Việt Nam gặp khó khăn và cũng khốn đốn "vật lộn" để thi đỗ vào các trường đại học ở Úc và Mỹ. Người Việt ta chưa chắc đã hiếu học, nhưng chắc chắn là hiếu bằng cấp, hơn các dân tộc khác.
Thực ra, ở các nước Tây phương, học hành ra trường để có một mảnh bằng là một việc không khó, nhưng trở thành xuất sắc là việc không dễ chút nào. Và cũng theo kinh nghiệm cá nhân, tôi có cảm giác rằng sinh viên gốc Việt cũng không có gì gọi là xuất sắc trong học hành hay nghiên cứu so với sinh viên người bản xứ. Có người đạt được những thành tích vượt bực trong khi còn đi học, nhưng khi tốt nghiệp lại không có đóng góp hay sáng kiến gì đặc biệt, đáng kể.
Tôi vẫn thường tự hỏi tại sao ta lại quá kém trong hoạt động khoa học như thế? Có thể nói từ xưa, nước ta không có một truyền thống khảo cứu khoa học. Ðọc lịch sử Việt Nam từ các triều đại Ðinh, Lý, Lê, Trần và Nguyễn, ai cũng thấy nước ta có nhiều anh hùng quân sự, nhà thơ, nhà sử học, nhưng rất ít nhà khoa học, kỹ sư hay nhà kinh tế.
Hệ thống giáo dục của nước ta ngày xưa được bắt chước theo mô hình giáo dục của Trung Quốc, đòi hỏi người học sinh phải tuân thủ sách vở một cách máy móc và không khuyến khích sự tự do tìm tòi, thử nghiệm, hay chất vấn. Nó ca ngợi, tuyên dương những người thuộc làu những điều răn dạy của Khổng Tử, và coi thường những ai làm nghề tay chân (kỹ sư, khoa học gia, công nhân, nông dân, v.v...) hay làm thương mại.
Khi người Pháp vào Việt Nam, hệ thống giáo dục Trung Quốc được thay thế bằng hệ thống giáo dục Pháp, một hệ thống có mục tiêu là đào tạo ra những thầy thông, thầy phán, hay quan chức để thực thi đường lối, chính sách của kẻ cai trị.
Hậu quả là nó làm cho học sinh tiêm nhiễm cái tâm lý hám danh và sính bằng cấp, học ra để làm quan, làm ông nghè hay nhằm giật được một mảnh bằng để làm rạng danh gia đình hay khoe cùng người hàng xóm, chứ không nhằm đóng góp kiến thức hay mang lại phúc lợi cho xã hội và nhân loại.
Với hệ thống giáo dục này, học sinh phải học thuộc lòng sách giáo khoa nhằm cố thi đỗ trong các kỳ thi rất gắt gao. Lối giáo dục này vẫn còn kéo dài tới những năm trong thập niên 60 và 70 mà tôi (và nhiều người cùng thế hệ ) từng là những "nạn nhân" của nó. Chúng tôi không được khuyến khích tìm hiểu những sự việc, hiện tượng chung quanh chúng tôi xảy ra như thế nào và tại sao?
Kết quả cuối cùng là nhiều thế hệ học sinh không có cơ hội nghiên cứu khoa học. Và quan trọng hơn nữa, phần lớn những kiến thức về Việt Nam, về dân tộc Việt Nam và tài nguyên Việt Nam lại nằm trong tay các nhà khoa học ngoại quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:26:46 GMT -5
Tôi đã nói nhiều về những điều mà có thể quí độc giả cho là bi quan, nhưng tôi cũng có vài lý do để giữ mình lạc quan trong tương lai.
Trong những năm gần đây, tôi nhận thấy sự góp mặt của các nhà khoa học gốc Việt trên các diễn đàn quốc tế càng ngày càng đông đảo.
Trong thập niên 70 và 80, trung bình hàng năm, các nhà khoa học gốc Việt công bố khoảng 258 bài báo khoa học; con số này tăng lên 683 trong những năm 1990 và 1995 và vọt lên 1.170 vào những năm cuối thập niên 90. Một sự tăng trưởng theo cấp số nhân!
Thực vậy, càng ngày tôi càng gặp gỡ nhiều anh chị em trẻ trong các hội nghị khoa học lớn trên thế giới, và họ cũng có nhiều ưu tư, ước muốn được có mặt nhiều hơn trên các diễn đàn y khoa và khoa học quốc tế, để góp phần mang tên tuổi Việt Nam vào tri thức của nhân loại.
Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều nghiên cứu sinh từ Việt Nam trong các trường đại học ở Mỹ, Âu châu và Úc đã gia tăng một cách nhanh chóng và ở nhiều nơi, họ đã tạo được sự kính nể của người bản xứ. Một số đã được bổ nhiệm làm giáo sư trong các trường đại học lớn tại Mỹ. Hy vọng rằng giải Nobel sẽ tới tay một nhà nghiên cứu trẻ Việt Nam trong thế kỷ 21.
Trong một bài nhạc thịnh hành thời thập niên 80 mà tôi thường nghe trong trại tỵ nạn ở Thái Lan, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có hỏi: "Em còn nhớ hay em đã quên...". Câu hỏi nhưng mà cũng là câu trả lời.
Như nhiều người cùng cảnh ngộ khác, tôi ra khỏi quê hương không phải để tìm cái quên hay sự chối bỏ quê hương; ở trong tôi luôn tồn tại một cảm giác nhớ nhung day dứt, dằn vặt. Mà thực ra con người nào chả thế, con người chẳng qua chỉ là một chủ thể luôn phải gắn mình với một nơi chốn nào đó, luôn phải chứng kiến sự hiện hữu của mình bằng một sự gắn bó với một địa điểm cụ thể. Sự gắn bó đó chỉ có thể tạo dựng cái gọi là nỗi nhớ. Cái nơi chốn cụ thể kia có thể gọi bằng hai tiếng "quê nhà".
Một lần lênh đênh nguồn cội, tôi mới nghiệm ra rằng tôi là ai, nơi chốn của tôi là chỗ nào. Vì lẽ đó, tôi là người mãi mãi phát hiện, phát hiện một sự thực hiển nhiên rằng: đi không phải là chối bỏ mà để bắt đầu cho việc trở về tốt hơn. Tôi vẫn tin rằng sẽ có một ngày không xa, tôi sẽ quay về quê nhà, để làm tròn bổn phận của một người được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Dĩ nhiên.
Tôi coi bài tùy bút có lẽ quá dài này (chính tôi cũng không ngờ nó dài như thế!) là những tâm tình, chia sẻ tôi muốn gửi đến quí độc giả. Thực ra, hai chữ "tùy bút" chưa chắc đã phân loại chính xác nội dung của bài viết, vì tôi chỉ ghi lại những kỷ niệm, thuật lại những hình ảnh mình đã thấy, những người mình đã gặp trong một quãng đời định cư ở nước ngoài. Có lúc phẫn nộ, có khi đau thương, có lần bất mãn. Nhưng tất cả đó chỉ là những biểu hiện thông thường của một "nhân vô thập toàn". Có thể có bạn đọc đã tìm lại một kỷ niệm của mình trong bài này ở một nơi nào đó thuộc Việt Nam, Thái Lan, Úc hay Mỹ.
Tôi cảm thấy - chẳng biết có phách quá hay không? - là ghi nhận những kỷ niệm, những điều mắt thấy tai nghe ấy, dù chỉ là những kinh nghiệm cá nhân, rất cần thiết trong giai đoạn lịch sử hiện tại, giai đoạn mà một thế hệ thứ hai người Việt đang trưởng thành ở hải ngoại. Tôi đọc đâu đó, người ta có viết đại khái rằng, con người học bằng ba phương pháp: ký ức, bắt chước và kinh nghiệm. Hai phương pháp đầu thì rất dễ thực hiện, nhưng phương pháp thứ ba lại rất cay đắng.
Nhìn lại quãng đường đời đã đi qua, tôi thấy những nỗi nhục nhã, xấu hổ, những kinh nghiệm đắng cay thường là những đòn bẩy để tự mình vươn lên. Có bị chê dốt thì mới học thêm cho bớt dốt. Thực ra, điều này cũng chẳng có gì đặc biệt vì nói cho cùng, nó chỉ là bản năng sinh tồn của con người.
Dân tộc Việt Nam chúng ta còn dốt, còn thua kém các dân tộc khác rất nhiều, và vì lý do sinh tồn, mỗi chúng ta phải có nhiệm vụ làm cho dân tộc ta đỡ dốt để còn có thể ngẩng cao nhìn các dân tộc chung quanh. Tôi nghĩ giới trí thức người Việt thuộc thế hệ trước đã tạo nên một nền "văn hóa giả trang" kiểu "áo thụng vái nhau" quá lâu.
Thành ra, thế hệ mới chúng ta cần phải tự mình tạo ra một cuộc cách mạng, đổi mới về tư duy học hành và làm việc, cụ thể là phải gột rửa những tri thức nửa mùa, phải từ bỏ cái truyền thống làm việc tài tử, phải chấm dứt lối học hành vặt vãnh, để phát triển một tinh thần khoa học duy lý, độc lập suy nghĩ, sáng tạo và thu nhận những tri thức đích thực khoa học.
Con đường học hành và khoa học rất mênh mông, nếu những kinh nghiệm cay đắng này của tôi có là một bài học - dù tốt để dùng hay xấu để tránh - cho các bạn trẻ thì âu cũng là một điều đáng khích lệ. Ðược như thế, tôi mới dám nhờ Tiên Ðiền tiên sinh nhắn hộ giùm tôi: "Của tin gọi một chút này làm ghi".
Dr. Nguyễn Văn Tuấn
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 5:28:11 GMT -5
Ghi chú:
(1) Tựa đề của bài tùy bút này được mượn từ ý của ca khúc " Cho đời chút ơn" (trong băng nhạc " Ru tình " ) của Trịnh Công Sơn, trong đó nhạc sĩ viết "Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm": Trong thân phận mong manh vẫn còn hy vọng bình minh.
(2) Trích ca khúc "Chiếc lá thu phai" (trong băng nhạc " Ru tình " ) của Trịnh Công Sơn.
(3) Trích bài thơ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm, từng được bầu là một trong mười bài thơ hay nhất của 20 thế kỷ thơ Việt Nam.
(4) Tôi để chữ "tàu" trong ngoặc là vì nó không phải là một chiếc tàu theo nghĩa thông thường, mà chỉ là chiếc thuyền tam bản, dài khoảng 10 thước, ngang 4 hay 5 thước, được chạy bằng hai cái máy dầu.
(5) Trích trong hai ca khúc đấu tranh của Nguyệt Ánh, rất thịnh hành trong trại tỵ nạn thời đó. Tôi rất tiếc là không còn nhớ chính xác tựa đề của hai bài hát.
(6) Tôi có viết một bài về thảm trạng cướp biển và tội ác của hải tặc Thái, đăng trên tạp chí "GoodWeekend" (1997) thuộc báo "Sydney Morning Herald" (Úc). Trong bài báo đó, tôi dùng chữ "Killing sea".
(7) Trích bài thơ "Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển" của Du Tử Lê. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Ðình Chương phổ thành ca khúc có cùng tựa đề vào năm 1980.
(8) Sau này tôi còn có dịp gặp anh ta nhiều lần ở trường Ðại học Sydney. Anh theo học chương trình cao học quản trị hành chính (MBA), và tôi là một trong những người dạy anh về môn lý thuyết thống kê.
(9) Cabramatta nằm trong thành phố Fairfield, nay là nơi tập trung đông đảo cư dân người Việt (khoảng 10 ngàn người) và là một "Little Saigon" của Sydney.
(10) Sau này tôi mới biết là sau lần anh em tôi vượt biên, Ba tôi đã phải trình diện hàng ngày trong sáu tháng liền với công an xã để nghe họ giảng giải về chính sách của cách mạng. Tất cả thư từ tôi gửi về nhà hoặc bị tịch thu, hoặc Ba tôi phải đọc trước các ông công an xã!
(11) Thực ra, chức vụ ban đầu của tôi lúc đó là phụ tá giảng viên (senior tutor).
(12) Ngày đầu nhận việc mới, tôi ghé qua nhà bếp bệnh viện thăm đồng nghiệp cũ. Ai cũng ngạc nhiên và mừng rỡ gặp lại tôi sau một thời gian dài biệt tin, nhưng không ai biết là tôi đang làm trong một tòa nhà chỉ cách họ khoảng năm phút đi bộ!
(13) Ngày nay, tôi và một số đồng nghiệp đang nghiên cứu vài phương pháp để tìm ra tất cả các di truyền tố có dính dáng tới căn bệnh loãng xương. Ðây là một việc làm đầy tham vọng và "một ăn một thua". Hy vọng là các cơ quan tài trợ sẽ ủng hộ tôi và đồng nghiệp!
(14) Tạm dịch từ câu: "God-given place between two oceans... a shining house on the hill... a beacon to all the world" (diễn văn của tổng thống Reagan đọc tại đại hội của nhóm Cựu chiến binh - Veterans of Foreign Wars - ở Chicago, ngày 18 tháng Tám năm 1980).
(15) Trong thời gian ở Ohio, tôi được hân hạnh quen biết một số bạn bè tỵ nạn như tôi và một số bạn đi từ miền Bắc Việt Nam. Các anh chị này đã hết lòng giúp tôi trong thời gian ở Ohio, mặc dù chúng tôi chỉ quen biết nhau chưa quá một tuần! Tôi vẫn ghi đậm tấm lòng thịnh tình của những người bạn thân thiết Ohio.
(16) Trích từ bài thơ "Khi bắt đầu của những năm ba mươi" của Du Tử Lê. Bài thơ được Trần Duy Ðức phổ nhạc thành bài hát cùng tựa đề trong cuốn CD "K. Khúc của Lê".
(17) Trích "Việt Nam văn hóa sử cương" của Ðào Duy Anh; Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992.; Trang 24-25.
|
|