|
Post by Robot on Feb 27, 2004 6:01:03 GMT -5
THÁNG 2 Ở NHẬT BẢNỞ NB, tháng 2 là tháng lạnh nhất trong nãm. Ở Hokkaido (北海道 ) và vùng biển NB ( 日本海側 ), do tuyết rõi rất nhiều nên ng` ta thýờng tổ chức lễ hội tuyết (雪まつり ) trong ðó nổi tiếng nhất là lễ hội tuyết ở vùng Sapporo ( 札幌 ). Tại ðây, ngýời ta thýờng ðắp những ngôi nhà và những hình ngýời bãng tuyết cao ðến vài mét. Không chỉ có ng` Nhật mới tham gia lễ hội này mà còn có rất nhiều khách du lịch nýớc ngoài ðến từ khắp mọi nõi trên thế giới cũng tham gia. Thời gian này cũng là lúc ng` NB nô nức kéo nhau ði trýợt tuyết. Nếu nhý ở VN, tháng 6 là mùa thi thì ở NB, tháng 2 này là lúc các truờng phổ thông, ðại học, cao ðẳng bắt ðàu mùa tuyển sinh (受験 シーズン ) Các kỳ thi này có tính cạnh tranh rất quyết liệt vì vậy ng` ta thýờng gọi ðó là ” 受験地獄 ”( じゅけんじごく ) Ngày 3-2 ðýợc gọi là ngày trýớc ngày lập xuân 節分 (せつぶん)Ðây là ngày giao mùa giũa mùa ðông và mùa xuân. Theo quan niệm của ng` NB, ðây là ngày xua ðuổi tà ma và ðón một mùa xuân mới ðến, do vậy ðể ðuổi tà ma, họ có làm một nghi lễ nhỏ gọi là 豆まき (まめまき). Khi trời tối,tất cả các gia ðình tụ tập nhau lại, vừa ãn ðậu (豆 ) vừa nói " 鬼は そと 福は 内 " . Họ tin rằng nếu mỗi ng` ãn số hạt ðậu bằng ðúng số tuổi của mình, họ sẽ có ðýợc sức khoẻ dồi dào trong suốt một nãm. Ngày 4-2 ðýợc gọi là ngày lập xuân " 立春 " りっしゅん ) Hoa mai 梅 (うめ )và hoa thuỷ tiên 水仙の花 (すいせんのはな )cũng bắt ðầu nở。Từ trung tuần tháng 2 trở ði thì có gió nồm ðầu xuân 春一番 (はるいちばん ), báo hiệu một mùa xuân mới lại ðến (Mít ýớt) Snow Festival - Liên hoan tuyết Sapporo Yuki Matsuri - Hokkaido Liên hoan tuyết lần thứ 55 ðang diễn ra tại thành phố Sapporo trên ðảo Hokkaido, Nhật Bản từ ngày 5 ðến 11/2/2004. Có 311 tác phẩm ðiêu khắc bằng tuyết và bãng ðýợc trýng bày ở ba ðiểm Ohdoori, Makomanai và Susukino. 205 týợng bãng ðặt dọc theo Công viên Ohdoori, trong ðó có một týợng tái hiện khách sạn Hanovre ở Ðức. Trong thời gian diễn ra liên hoan, các ðiểm trýng bày sẽ ðýợc chiếu sáng ðến 22 giờ. Bối cảnh của lễ khai mạc là công trình Taj Mahal bằng bãng ở ðiểm Makomanai. Du khách bị ấn týợng mạnh trýớc những công trình nổi tiếng to bằng kích thýớc thật. Các ðội tạc týợng ðã bắt ðầu công việc từ ngày 7/1. (theo Thanh Niên)
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 6:09:07 GMT -5
TỔNG QUÁT VĂN HOÁ NHẬT BẢN Văn hoá Nhật Bản ngày nay là kết tinh thành quả lao động hàng ngàn năm của những cư dân trên quần đảo Nhật Bản, là sự kết hợp sáng tạo những giá trị văn hoá bản địa và các giá trị văn hoá nước ngoài, cũng do vậy, là nơi hội tụ của văn hoá phương Đông và phương Tây. Trước khi có tiếp xúc văn hoá đầu tiên với Trung Quốc trên quần đảo này đã tồn tại những cộng đồng người với những đặc trưng sinh hoạt văn hoá riêng. Những giá trị tinh thần thể hiện nhân sinh quan và thế giới quan độc đáo của những cư dân cổ xưa trên quần đảo này còn lưu lại khá rõ nét trong các vật phẩm chế tác, các truyền thuyết, nhất là trong những tín ngưỡng đa thần mà sau này được gọi chung là Thần đạo. Sự ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là chữ Hán, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo bắt đầu vào thế kỷ thứ IV sau công nguyên đã làm thay đổi to lớn diện mạo văn hoá Nhật Bản từ lối sống trong triều đình Thiên hoàng đến sinh hoạt ngoài dân chúng. Cùng với thời gian các giá trị văn hoá này đã dần dần biến đổi, kết hợp với các giá trị văn hoá bản địa, nhất là với Thần đạo để tồn tại, phát triển và tạo nên những nét đặc trưng riêng của văn hoá Nhật Bản. Khoảng giữa thế kỷ XVI đã xuất hiện những người phương Tây đầu tiên đến Nhật Bản đem theo sự ảnh hưởng của những tri thức khoa học phương Tây và đạo Cơ đốc. Tuy nhiên phải đến cuộc cải cách Minh Trị (1868) thì tiếp xúc của Nhật Bản với văn hoá phương Tây mới trở nên đậm nét. Với đường lối mở cửa đất nước để học hỏi phương Tây, chỉ trong vài thập kỷ sau đó Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh với cơ sở kinh tế, thể chế chính trị và mô hình xã hội, văn hoá hiện đại- điều mà phương Tây đã phải mất hàng thế kỷ mới có được. Sau kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II, mặc dù là một nước bại trận với nền kinh tế kiệt quệ song nhờ tinh thần quyết tâm cao độ Nhật Bản đã tạo nên một kỳ tích trong phục hồi kinh tế. Đến giữa những năm 1960 Nhật Bản đã có đủ sức mạnh để cạnh tranh trên trường quốc tế. Theo đó, nền văn hoá hiện đại cũng nhanh chóng phát triển ngày một đa dạng trên cơ sở phát huy những giá trị truyền thống và tiếp thu những thành quả tiến bộ của văn hoá nước ngoài. Tuy là một nền văn hoá phát triển mang tính hỗn dung, song việc tiếp thu các thành quả văn hoá nước ngoài của Nhật Bản không phải là việc vay mượn, sao chép cứng nhắc, mà luôn luôn là quá trình tiếp thu có cải biến. Tư tưởng, tín ngưỡng, lối sống nước ngoài một khi được du nhập vào Nhật Bản đều buộc phải biến đổi để phù hợp với hệ giá trị văn hoá bản địa và tồn tại như là cái có tính độc đáo Nhật Bản. Chính nhờ vậy mà ngày nay Nhật Bản không chỉ là một cường quốc hàng đầu thế giới về kinh tế mà còn là đất nước có nền văn hoá phát triển đa dạng và giàu bản sắc
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 6:10:02 GMT -5
Tý týởng và Tôn giáo
Thần ðạo (Shintò ) là một tôn giáo ða thần, có nguồn gốc từ những tín ngýỡng thời cổ xýa ở Nhật Bản. Ngýời ta thờ cúng các sự vật, hiện týợng ðýợc coi là có nãng lực linh thiêng trong tự nhiên và xã hội, nhý ðỉnh núi, con sông, biển, mặt trời, mýa, dông bão, các vị anh hùng và tổ tiên ðể mong ðýợc sự phù hộ, chở che trong cuộc sống hiện tại. Những truyền thuyết về nguồn gốc thần linh của Hoàng tộc ðã trở thành một phần quan trong của giáo lý Thần ðạo. Từ Thần ðạo (Shintò ) chỉ những nghi lễ tế thần và ðền thờ ðýợc thấy xuất hiện rất sớm, nhýng phải ðến tận cuối thế kỷ thứ XII thuật ngữ này mới mang ý nghĩa chỉ một loại giáo lý tôn giáo nhất ðịnh. Thần ðạo có một quá trình kết hợp lâu dài với Phật giáo dýới dạng tín ngýỡng Thần Phật tập hợp. Ðầu thế kỷ XIX một phong trào Thần ðạo phục cổ ðã nổi lên và dần chiếm ýu thế, Phật giáo bị tách ra khỏi Thần ðạo vì bị coi là một tôn giáo ngoại lai. Sau cải cách Minh Trị và ðặc biệt trong Chiến tranh Thế giới thứ II, Thần ðạo ðýợc các nhà chức trách ðýa lên thành quốc giáo. Kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II quân Ðồng Minh ðã chiếm ðóng Nhật Bản, giải thể Thần ðạo Nhà nýớc- một tổ chức Thần ðạo ðýợc coi là có liên quan ðến việc cổ võ tý týởng dân tộc cực ðoan và chủ nghĩa quân phiệt.
Theo Hiến pháp Nhật Bản sau chiến tranh, Thần ðạo không còn ðýợc hýởng bất kỳ một ðặc quyền nào và tồn tại bình ðẳng nhý các tôn giáo khác. Ngày nay trong ý thức dân chúng Thần ðạo tồn tại song song và ðôi khi hoà trộn với Phật giáo. Nhiều ngýời Nhật kết hôn theo nghi thức Thần ðạo và ðýợc chôn cất theo nghi thức Phật giáo.
Phật giáo ðýợc truyền vào Nhật Bản khoảng nãm 552 sau công nguyên từ výõng quốc Bách Tế (nay thuộc Triều Tiên). Lúc bấy giờ quốc výõng Bách Tế ðã cử một sứ ðoàn mang ðến biếu Thiên hoàng Nhật Bản một pho týợng Phật quý và một số sách kinh ðiển nhà Phật. Tuy lúc ðầu có gặp một số khó khãn, song nhờ ðýợc sự bảo trợ của Nữ hoàng Suiko (593-628), ðặc biệt là của Thái tử Shotoku (574- 622), Phật giáo ðýợc truyền bá rộng khắp ðất nýớc. Ðầu thế kỷ thứ IX Phật giáo Nhật Bản chủ yếu phục vụ cho giới quý tộc cung ðình. Ðến thời Hei-an (794- 1185) ðã xuất hiện và phát triển hai tông phái lớn là Chân ngôn tông và Thiên thai tông. Býớc vào thời Kamakura (1185-1333) Phật giáo trên quần ðảo này phát triển rực rỡ với sự truyền bá của hàng loạt các tông phái mới khác từ Trung Quốc nhý Thiền tông (Zen), Tào Ðộng tông, Tịnh thổ tông... ðem lại hy vọng ðýợc giải thoát cho ðông ðảo các tầng lớp dân chúng. Dýới thời Tokugawa (1603-1867), do sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền nhằm ngãn chặn ảnh hýởng của Cõ ðốc giáo, Phật giáo và sinh hoạt của hệ thống chùa chiền trên khắp Nhật Bản cũng gặp nhiều trở ngại. Trong thời Minh Trị, chính sách quốc giáo hoá Thần ðạo ðã làm cho Phật giáo phải trải qua một giai ðoạn ðầy khó khãn, không ít chùa chiền, týợng Phật bị huỷ hoại. Sau Thế chiến thứ II, xuất hiện hàng loạt tổ chức tôn giáo mới với tý cách những phong trào Phật giáo mà một số tổ chức lớn trong ðó là Soka Gakkai, Risshò Kòseikai, Reiyùkai...Trong suốt lịch sử phát triển lâu dài ở Nhật Bản, Phật giáo không chỉ ðõn thuần là một tôn giáo mà còn góp phần ðáng kể vào việc làm giàu nền nghệ thuật và vốn tri thức của Nhật Bản.
Cõ ðốc giáo ðýõc truyền vào Nhật Bản từ nửa cuối thế kỷ XVI và ðýợc phát triển ðến ðầu thế kỷ XVII. Những tín ðồ ðầu tiên là những ngýời ðang cần một biểu týợng tinh thần mới trong một xã hội có nhiều biến ðộng rối ren, những ngýời hy vọng làm giàu trong buôn bán hay muốn có kỹ nghệ mới, nhất là kỹ nghệ sản xuất vũ khí của phýõng Tây. Tuy nhiên, chính quyền Tokugawa (1603-1867) cho rằng Cõ ðốc giáo là nguy cõ ðe doạ sự ổn ðịnh của trật tự vừa ðýợc thiết lập nên ðã cấm nó hoạt ðộng. Cõ ðốc giáo bị cấm cho ðến tận giữa thế kỷ XIX- khi Nhật Bản lại mở cửa ra thế giới bên ngoài. Trong số tín ðồ Cõ ðốc giáo ở Nhật Bản hiện nay tín ðồ Tin lành nhiều hõn tín ðồ Thiên chúa.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 6:12:28 GMT -5
Lễ hội (Matsuri) và những ngày lễ hàng nãm (Nenchù gyòji) Ở Nhật Bản trong một nãm có rất nhiều những ngày diễn ra các sự kiện sinh hoạt vãn hoá lễ nghi có tính ðịnh kỳ. Những ngày này ðýợc chia một cách týõng ðối làm hai loại: Lễ hội (Matsuri) và ngày lễ hàng nãm (Nenchù gyòji). Lễ hội (Matsuri) là cái vốn có của Nhật Bản, bắt nguồn từ những tín ngýỡng Thần ðạo, còn ngày lễ hàng nãm (Nenchù gyòji) là khái niệm rộng hõn chỉ các sự kiện vãn hoá diễn ra ðịnh kỳ theo mùa trong nãm, rất nhiều trong số ðó là những ngày lễ có nguồn gốc từ Phật giáo hay từ Trung Quốc. Ngày lễ hàng nãm (Nenchù gyòji) ðýợc diễn ra gắn với từng mùa tạo thành một thứ lịch về các ngày lễ hàng nãm. Có những lễ hội (Matsuri) cũng là những sự kiện trong lịch những ngày lễ hàng nãm, nhiều sự kiện ngày lễ trong nãm mang cả tính chất của lễ hội. Sau ðây là một vài trong số những lễ hội và ngày lễ hàng nãm ðiển hình. Nãm mới (Shògatsu) là lễ hội lớn nhất trong nãm của ngýời Nhật. Tuy mỗi vùng ở Nhật Bản có nghi thức ðón nãm mới với những nét ðộc ðáo riêng, nhýng nhìn chung vào dịp này mọi ngýời ðều quét dọn và trang trí lại nhà cửa. Ngýời ta thýờng dựng kadomatsu (tùng và tre) trýớc cổng nhà ðể chào ðón các vị thần (kami) và chãng những sợi thừng rõm có trang trí những bãng giấy cắt ngụ ý bảo vệ cổng nhà khỏi những gì không tinh khiết. Các thành viên gia ðình tụ tập lại ðể chúc tết nhau, ði lễ cầu may ðầu nãm ở ðền Thần ðạo hay ở chùa, ngýời ta cũng ðến thãm hoặc gửi býu thiếp chúc tết gia ðình bè bạn và những ngýời thân thích khác. Lễ nãm mới diễn ra trong 3 ngày từ mồng một ðến mồng ba tháng Một dýõng lịch. Trong thời gian này tất cả các công sở và hầu hết các công ty ðều nghỉ việc. Lễ hội búp bê( Hina matsuri) ðýợc tổ chức vào ngày mồng 3 tháng Ba. Các gia ðình có con gái bày một bộ búp bê Hina (gồm có búp bê hình Thiên hoàng, Hoàng hậu, những ngýời hầu và nhạc công trong bộ trang phục cung ðình cổ xýa), tổ chức ãn bánh hishimochi và uống rýợu shirosake (sake trắng) ðể mừng ngày hội. Ngày trẻ em (Kodomo no Hi) diễn ra vào mồng 5 tháng Nãm. Ngày xýa gọi là tết Ðoan ngọ và trở thành ngày nghỉ toàn quốc ở Nhật Bản từ nãm 1948. Mặc dù gọi là ngày trẻ em nhýng thực ra ðó là ngày lễ dành cho các bé trai. Các gia ðình có con trai thýờng treo trên nóc nhà mình những dải cờ hình cá chép týợng trýng cho sức mạnh và trong nhà bày búp bê hình võ sĩ và áo giáp. Lễ Bon (Urabon, Obon) ðýợc tổ chức vào tháng Bảy (có vùng lại tổ chức vào tháng Tám) từ ngày 13 ðến 15. Ðây là dịp ðể ngýời Nhật týởng nhớ linh hồn tổ tiên ðã khuất. Theo nghi lễ truyền thống, ngýời ta chuẩn bị ðón tổ tiên về nhà bằng cách lau chùi nấm mộ, dọn ðýờng ði từ mộ về nhà và cúng những con ngựa và trâu bằng rõm bện nhý phýõng tiện ði lại rồi ðốt lửa hay thắp ðèn lồng từ mộ ðến nhà ðể chỉ lối cho linh hồn tổ tiên và ngýời thân ðã chết biết lối ði về, làm cỗ cúng gia tiên tại nhà và cử hành ðiệu nhảy Bon ðặc biệt có tên là odori quanh khu vực cý dân. Bon là một dịp lễ quan trọng trong nãm, các thành viên trong gia tộc dù có sống xa nhau bao nhiêu thì ngày này cũng cố trở về tụ họp bên nhau ðể làm lễ cúng tổ tiên ông bà.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 6:39:50 GMT -5
Trà ðạo là một nghi thức pha trà tiếp khách có tính hệ thống rất chặt chẽ. Trà ðạo bao gồm từ việc chuẩn bị ðón khách và mời uống trà cũng nhý việc nghiên cứu và khai thác vẻ ðẹp của kiến trúc, tạo výờn, ðồ gốm cùng với những tri thức về lịch sử và tôn giáo. Tại ðây có sự tổng hợp của tính sáng tạo nghệ thuật, tính cảm thụ tự nhiên, tý týởng tôn giáo và sự xã giao. Phong tục uống trà xuất hiện ở Nhật Bản khoảng ðầu thế kỷ thứ VIII cùng với sự ảnh hýởng của Phật giáo. Khoảng từ thế kỷ XII, khi các thiền sý Nhật Bản từ Trung Quốc trở về mang theo lối uống trà mới kiểu Tống với một loại trà xanh ðýợc tán mịn gọi là mạt trà (matcha) thì tục uống trà trở thành phổ biến. Suốt thời Trung thế, việc uống trà ðã lan rộng từ các thiền viện tới nõi dân chúng với những phong cách mang tính thẩm mỹ khác nhau. Các hội uống trà và thi hýõng vị trà ðã thu hút chú ý của cả Thiên hoàng và các týớng quân, các nhà buôn giàu có. Mặc dù việc uống trà không phải dành riêng cho các thiền viện, nhýng trà lễ (Sarei) với tý cách là các quy tắc và nghi thức tỉ mỉ cho việc pha và uống trà là do các thiền sý tạo ra. Sarei mang nhiều ðặc tính của Thiền, trong ðó sự thanh tịnh, tính giản dị và mộc mạc ðã trở thành những ðặc trýng thẩm mỹ và uống trà, do ðó, dần dần trở thành một nghi lễ có tính nghệ thuật. Trà ðạo với những ðặc tính thẩm mỹ mà chúng ta ðýợc biết ðến ngày nay ðã ðạt ðýợc sự phát triển ðầy ðủ từ thế kỷ thứ XVI. Cắm hoa nghệ thuật (Ikebana). Cắm hoa nghệ thuật (Ikebana) ở Nhật Bản còn ðýợc gọi là Hoa ðạo (Kadò ), có nguồn gốc từ nghi lễ dâng hoa trong các chùa chiền từ thế kỷ thứ VI, rồi dần dần phát triển thành một nghệ thuật vào khoảng thế kỷ thứ XV với nhiều nghi thức và trýờng phái khác nhau. Hoa ðạo khác với cắm hoa thông thýờng ở chỗ nó ðem lại sự nhận thức về mối liên quan giữa không gian xung quanh với hoa và cành lá, cách bố cục cành lá, việc lựa chọn hoa cũng nhý cây ðýợc sử dụng làm vật liệu. Một phong cách cắm hoa cổ ðiển và phức tạp có từ xýa, gọi là rikka (hoa ðứng). Phong cách này tìm tòi sự thể hiện vẻ tráng lệ của thiên nhiên, quy ýớc rằng hoa phải ðýợc cắm theo hình núi Sumeru, một ngọn núi huyền thoại của thế giới nhà Phật týợng trýng cho toàn vũ trụ. Các vật liệu ðýợc sử dụng cho lối cắm hoa này ðều có tính týợng trýng. Phong cách này ðạt tới ðộ hoàng kim vào thế kỷ XVII, nay không còn phổ biến nữa. Từ thế kỷ thứ XV xuất hiện lối cắm hoa tự nhiên. Các ngôi nhà dù nhỏ ðều có kotonoma- một không gian nhỏ thụt vào của cãn phòng ðể ðặt các ðồ mỹ nghệ hay ðể cắm hoa. Các luật lệ cắm hoa theo ðó trở nên giản ðõn ðể mọi ngýời ðều có thể thýởng thức ðýợc. Cuối thể kỷ XVI có lối cắm hoa tự nhiên gọi là nageire (quãng vào) nhý là một phần của nghi lễ trà ðạo. Hoa ðýợc sử dụng trong trà ðạo ðýợc gọi là chabana (trà hoa), chỉ cần một bông hoa trong một bình hoa tạo nên cảm giác giản dị, thuần khiết, thanh tao. Cắm hoa hiện ðại mang ảnh hýởng nhiều của vãn hoá phýõng Tây. Phong cách cắm hoa moribana (một rừng hoa) ðã mở ðýờng tự do cho nghệ thuật cắm hoa, tìm cách thu nhỏ một phong cảnh hay một mảnh výờn. Ðó là phong cách cắm hoa có thể thýởng thức ðýợc ở bất cứ ðâu và thích hợp với mọi khung cảnh. Ngày nay ở Nhật Bản có khoảng 3000 trýờng phái ikebana, trong số ðó 3 trýờng phái có tiếng nhất là Ikenobò, Ohara và Sògetsu.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:02:10 GMT -5
(Sýu tầm) Lịch sử Nhật Bản Nhật Bản thuộc vùng ôn ðới, có 4 mùa rõ rệt. Gồm 4 ðảo chính, theo thứ tự từ bắc xuống nam là: Bắc Hải Ðạo (Hokkaido). Bản Châu (Honshu), Tứ Quốc (Shikoku) và Cửu Châu (Kyushu) và hàng ngàn ðảo nhỏ. Nhật Bản còn có mỹ danh là xứ Anh Ðào, vì ngýời Nhật rất thích nên trồng cây hoa Anh Ðào khắp nýớc, hay xứ Mặt Trời Mọc (The Land of Rising Sun) vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực ðông. Vào thế kỷ thứ 4, Nhật Bản ðã lấy tên nýớc là Ðại Hòa (Yamato), vì vậy ngýời Nhật còn ðýợc gọi hay nhận là Hòa Nhân. Thời xýa, Trung Hoa gọi Nhật Bản là "Nụy Quốc" (nýớc của những ngýời lùn) hay "Phù Tang" (sứ có nhiều cây Phù Tang, tức một loại cây dâu). Nãm 670, ðầu niên hiệu Hàm Hýởng nhà Ðýờng, Nhật Bản gởi một sứ bộ ðến chúc mừng triều ðình Trung Quốc nhân dịp vừa bình ðịnh Cao Ly (Triều Tiên) và từ ðó ðýợc ðổi tên là Nhật Bản. Theo thần thoại Nhật Bản trong Cổ Sự Ký (Kojiki) viết vào ðầu thế kỷ thứ 8, thuở ban sõ, vũ trụ chýa có hình thù. Có tới tám trãm vạn thần linh, sống ở trên Cánh Ðồng Trời, từ ðó nhìn xuống chì thấy bóng tối, sýõng mù và nýớc. Hai vị thần trong tuổi thanh xuân là chàng Izanagi và nàng Izanami nhận nhiệm vụ làm cho mặt ðất ði theo ðời sống mà sinh sôi nẩy nở. Họ býớc qua Thiên Phù Kiều là chiếc cầu nối trời và ðất, quậy sóng cho kết ðọng lại mà thành ðảo Onogoro và xuống ðó, ðây là sáng tạo ðầu tiên của họ. Họ bắt tay dựng trụ trời và xây nhà trên quê hýõng mới. Rồi hai vị thần trẻ quên mình là thần linh, sống nhý con ngýời, kết hôn với nhau sinh "con" ðầy ðàn... là những ðảo khác tạo thành quần ðảo Nhật Bản ngày nay. Rồi Izanagi sinh ra thần Mặt Trời (Amaterasu = Thiên Chiếu Ðại Thần) là nữ thần nhan sắc và ánh sáng (týợng trýng cho phụ nữ Nhật) từ mắt trái, thần Mặt Trãng (Tsukiyomi) từ mắt phải và thần Bão (Susanoo) từ mũi của mình. Sau ðó, nữ thần Mặt Trời phái cháu trai của mình là Ninigi giáng thế, chinh phục vùng Izumo. Ninigi gặp và lấy con gái sinh ðẹp của thần Oyamatsumi sinh ra hai con trai là Hoderi và Hoori . Hoori sau lấy công chúa Thủy Cung Toyotama sinh ðýợc một con trai. Ngýời con trai này lấy em gái của Toyotama sinh ra bốn hoàng tử, họ chinh phục xứ Yamato (Ðại Hòa). Sau khi các anh chết, hoàng tử út lên ngôi xýng là Thiên Hoàng Jinmu (Thần Vũ ), ðó là Thiên Hoàng ðầu tiên gọi là Hoàng Kỷ (kỷ nguyên Thiên Hoàng), cai trị xứ Yamato tức Nhật Bản nãm 660 BC... truyền tới nay là 125 ðời. Dân tộc Nhật Bản nguyên là kết hợp của những ngýời bản ðịa và di dân xa xýa nhý ngýời Eskimo từ phýõng bắc, Trung Hoa hay Triều Tiên từ phýõng tây và một số ðảo quốc ở phýõng nam. Sau ðó ðất nýớc phát triển tháp nhập thêm sắc dân Inu ở Bắc Hải Ðạo và dân Okinawa. Nguyên có khoảng 100 bộ lạc hay 100 xứ, với vua hay nữ hoàng và tôn giáo riêng. Nhýng từ thời ðại Ðại Hòa (Yamato) hay còn gọi là Cổ Phần (Kofun) vì có nhiều phần mộ lớn, thế kỷ thứ 4, sau khi thống nhất ðất nýớc thì chỉ có 1 dòng họ làm vua và 1 tôn giáo dân tộc là Thần Ðạo (Shinto). Thật vậy, Thiên Hoàng Nhật thuộc một dòng họ duy nhất truyền từ xýa tới nay gồm 125 ðời, trong số ðó, thời xa xýa có 6-7 ðời Thiên Hoàng là phụ nữ. Theo truyền thuyết Thần Ðạo, vua ðýợc coi là con trời nên tự xýng là "Thiên Tử" (Tenshi) hay còn gọi là "Thiên Hoàng" (Tenno, Sumeragi, Sumerogi) chứ không gọi là "Hoàng Ðế", còn ngýời Nhật là con cháu Thái Dýõng Thần Nữ/Nữ Thần gọi là "Amaterasu Omikami" (Thiên Chiếu Ðại Thần hay Thiên Chiếu Ðại Ngự Thần) nên họ thờ Mặt Trời. Thời xứ quân với các Týớng Quân (Shogun) làm lãnh chúa, Thiên Hoàng yếu thế, có khi bị xứ quân uy hiếp hoặc ám hại, nhýng không ai cýớp ngôi vua. Ðến thời Minh Trị (Meiji) Thiên Hoàng ðánh bại xứ quân Ðức Xuyên (Tokugawa), chấm dứt loạn xứ quân và thâu tóm quyền lực vào tay Thiên Hoàng. Về tôn giáo, thời Thánh Ðức Thái Tử (Shotoku Taishi, một Thiên Hoàng lỗi lạc), từ nãm 593 ðã cổ võ Phật Giáo và sau ðó họ cũng có "Tam Giáo Ðồng Nguyên" là Thần Ðạo, Nho Giáo và Phật Giáo. Nay thì có nhiều tôn giáo lớn và hàng trãm giáo phái nhỏ. Họ trọng tý týởng, mỹ thuật và sức mạnh Thiên Hoàng hiện nay là ðời thứ 125, tên Minh Nhân (Akihito), sinh ngày 23/12/1933, lên ngôi nãm 1989, hiệu là "Bình Thành" (Heisei), với ý nghĩa là thành ðạt hòa bình. Nhật Bản cũng nhý Thái Lan, Ðài Loan hiện nay hay Việt Nam... khi xýa, vẫn dùng niên lịch thính theo niên hiệu vua ðang tại vị, nhý nãm 1997 tức "Heisei" 9, nãm 1945 tức "Showa 20" , ngýời không quen sẽ khó tính ra dýõng lịch vì vậy ðôi khi giấy tờ phải ghi thêm dýõng lịch bên cạnh. Thiên Hoàng Akihito là nhà sinh hóa về cá, viết sách... Kết hôn nãm 1959 với cô Mỹ Trí Tử (Michiko) sinh nãm 1934, con một thýõng gia. Hoàng Hậu Mỹ Trí Tử thích vãn học, âm nhạc, thủ công, quần vợt... Họ có 3 ngýời con là Hoàng Thái Tử Ðức Nhân (Naruhito) sinh ngày 23/2/1960 kết hôn với cô Chính Tử (Masako) nãm 1993 (cho ðến nãm 1998, 2 ngýời vẫn chýa có con, vì vậy "mối lo" của Hoàng Gia hiện nay là mong con trai dòng trýởng nối dõi), Hoàng Tử Thu Tiểu Chi Cung (Akishinonomiya) sinh nãm 1965 kết hôn với Kỷ Tử (Kiko) nãm 1990, sinh ðýợc 2 con gái, và Công Chúa Kỷ Cung (Norinomiya) sinh nãm 1969, nãm 1998 vẫn chýa kết hôn.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:08:07 GMT -5
1- Thời ðại Thằng Vãn (Jomon) khoảng 8.000 nãm: 8.000 nãm - thế kỷ thứ 3 trýớc kỷ nguyên.Gọi là Thằng Vãn vì các ðồ gốm có trang trí các tua hình dây thừng hay có in hoa vãn hình dây thừng. Sinh hoạt bằng sãn bắn và ðánh cá. 2- Thời ðại Di Sinh (Yayoi) khoảng 600 nãm: Thế kỷ thứ 3 trýớc - thế kỷ thứ 3 sau kỷ nguyên. Chịu ảnh hýởng vãn hóa Triều Tiên, Trung Hoa. Ðã bắt ðầu trồng lúa và biết dùng kim thuộc. 3- Thời ðại Ðại Hòa (Yamato) khoảng 400 nãm: Thế kỷ thứ 4 - hậu bán thế kỷ thứ 7. Výõng tộc và hào tộc xây cổ phần (ngôi mộ lớn). Cuối thời này xuất hiện thêm thời ðại Phi Ðiểu (Asuka). 4- Thời ðại Na Lýõng (Nara) từ nãm 710, kéo dài 74 nãm: Chọn Nara làm kinh ðô. 5- Thời ðại Bình An (Heian) từ nãm 794 kéo dài khoảng 400 nãm: Chọn Kinh Ðô (Kyoto) làm kinh ðô. 6- Thời ðại Liêm Thýõng (Kamakura) từ nãm 1192 kéo dài khoảng 140 nãm: Bắt ðầu thời ðại Mạc Phủ (Makufu) tức Sứ Quân Shogun) và Võ Sĩ (Samurai). 7- Thời ðại Thất Ðinh (Muromachi) từ nãm 1338 khoảng 240 nãm: Giữa thời này loạn lạc khắp nõi, nên giai ðoạn này gọi là thời ðại Chiến Quốc (Sengoku). 8- Thời ðại An Thổ Ðào Sõn (Azuchi Momoyama) từ hậu bán thế kỷ 16 kéo dài khoảng 30 nãm: Chức Ðiền Tín Trýờng (Orita Nobunaga) và Phong Cõ Tú Cát (Toyotomi Hideyoshi) thống nhất Nhật Bản. 9- Thời ðại Giang Hộ (Edo) từ nãm 1603 kéo dài khoảng 260 nãm: Ðức Xuyên Gia Khang (Tokugawa Ieyasu) lập Mạc Phủ (Makufu, nhý phủ chúa thời Trịnh - Nguyễn bên Việt Nam, lấn áp cả Thiên Hoàng) ở Giang Hộ tức Ðông Kinh (Tokyo) ngày nay. 10- Thời ðại Minh Trị (Meiji, 1868 - 1912) ðýợc coi là thời Cận Ðại và Ðại Chính (Taisho 1912 - 1926), Chiêu Hòa (Showa 1926 - 1989), Bình Thành (Heisei 1989- ) ðýợc coi là thời Hiện Ðại, từ 1868 tới nay. Nhân ðây nói về vãn hóa và vãn minh của Nhật. Nhật Bản có vãn hóa riêng ðồng thời chủ yếu là du nhập:
Vãn hóa Trung Hoa, ðạo Phật và thiền của Tây Tạng (cũng qua ngả Trung Hoa) và sau này thêm tinh thần tự do, dân chủ của Âu Mỹ. Hoàng gia và quý tộc lại ảnh hýởng của Anh, cụ thể qua lối trang phục; theo chế ðộ Ðại Nghị, mỗi khi trình diện nội các mới, Thủ Týớng và các Bộ Trýởng ðều mặc áo ðuôi tôm, không tuyên thệ mà nhận ủy nhiệm thý của Thiên Hoàng. Họ lái xe bên trái giống Anh, nhýng ðiều này có lẽ vì ngýời Nhật xýa ðeo kiếm bên trái nên từ xýa vốn ðã ði bên trái ðể khỏi ðụng kiếm của nhau? Họ theo Pháp về luật pháp (luật Napoleon).
- Vãn minh thì lúc ðầu du nhập của Hòa Lan, sau tới Ðức Quốc và nay là Hoa kỳ... Họ theo Pháp về hệ thống ðo lýờng (dùng thập phân) cũng nhý thời trang và học hỏi về kiểu mẫu sản phẩm...
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:12:11 GMT -5
Nhật Bản trýớc thế chiến thứ hai
Thời Minh Trị, do áp lực của Hoa Kỳ, Nhật Bản chịu mở cửa, Hoa Kỳ cùng các ðại cýờng Anh, Pháp, Nga ðã ép Nhật Bản ký những hiệp ýớc bất bình ðẳng. Nhý tính theo vàng thì 1 Mỹ Kim = 2 Yen, nhýng Hoa Kỳ bắt ép ðổi lấy 4 Yen. Thýõng gia Hoa Kỳ ðổi 1 Mỹ Kim ra 4 Yen rồi ðem 4 Yen qua Hồng Kông hay Thýợng Hải ðổi lại thành 2 Mỹ Kim. Các cýờng quốc thì lo ngại một ngày kia Nhật Bản sẽ vùng lên nên hạn chế việc truyền kiến thức kỹ thuật cho Nhật Bản. Nhật Bản phải nhẫn nhục ði học ðế quốc hạng nhì nhý Hòa Lan... về ðúc súng và ðóng thuyền ðể chờ ngày phục hận. Về tàu chiến, Hoa Kỳ và Anh ép Nhật phải chấp nhận nguyên tắc 5-5-3, tức Hoa Kỳ và Anh làm 5 thì Nhật Bản chỉ ðýợc làm 3...
Nhýng rồi từ từ Nhật Bản cũng học ðuợc của Âu Mỹ 3 ðiều chính: kỹ thuật, tinh thần dân chủ cũng nhý tinh thần ðế quốc. Khi Nhật Bản bắt ðầu hùng mạnh, cụ thể là chiến thắng oanh liệt hạm ðội Nga tại eo biển Ðối Mã nãm 1905. Các ðế quốc cũ lo sợ, tìm mọi cách hạn chế việc sản xuất vũ khí nhất là tầu chiến của Nhậth liỌt hửm ðỬidân ðông, lại qúa ít tài nguyên, nên Nhật Bản lại cần tài nguyên và thị trýờng hõn cả các ðế quốc ði trýớc.ũ khặ nhừt lả tữu chiỌn cậa Nhðt bị các ðế quốc cũ chi phối ðồng thời tìm cách bao vây cô lập Nhật Bản. Mang sẵn mặc cảm, Nhật Bản ðã liều chọn con ðýờng chiến tranh.
Nhật Bản trong thế chiến thứ hai
Trong khi Hitler khai chiến ở Âu Châu thì Nhật Bản hỗ trợ bằng cách khai chiến ở á Châu nãm 1939, cụ thể là bất ngờ mở trận không tập Trân Châu Cảng (Honolulu, Hawaii) . Nhật Bản ðã thắng lớn trong trận này nhýng vô tình ðýa Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Nhật Bản ðem lòng dũng cảm ra ðối ðầu với Hoa Kỳ là nýớc hõn trội về kỹ thuật, tài nguyên và nhân lực. Khoảng 3,1 triệu binh sĩ và thýờng dân Nhật ðã hy sinh vẫn không c ản ðýợc býớc tiến của binh sĩ Hoa Kỳ. Hoa Kỳ ngay khi khai phát ra bom nguyên tử, ðể tiết kiệm xýõng máu và mau chấm dứt cuộc chiến, ðã quyết ðịnh thả 2 qủa bom nguyên tử xuống Quảng Ðảo (Hiroshima) ngày 6/8/1945 và Trýờng Kỳ (Nagasaki) ngày 9/8/1945. Ngày 14/8/1945, Nhật Hoàng Hirohito lần ðầu tiên lên tiếng trên ðài phát thanh kêu gọi ðầu hàng vô ðiều kiện.
Thời ðó, Nhật Bản có khoảng 10 hàng không mẫu hạm (nay thì không còn chiếc nào) và khoảng 28.000 phi cõ, trong khi Hoa Kỳ có khoảng 15 hàng không mẫu hạm và khoảng 100.000 phi cõ. Vũ khí cá nhân của lính Nhật Bản là súng týờng 38 nặng gần 4 kg, nạp ðạn bắn từng phát một, trong khi lính Hoa Kỳ dùng súng Carbin M1 nặng 2,5 kg, bắn không cần lên ðạn, liên tục 1 bãng 30 phát. Nhật Bản phải ði mua dầu, trong khi dầu hỏa của Hoa Kỳ gần nhý vô tận... Vì qúa chênh lệch về phýõng tiện nhý vậy nên lính Nhật ðã phải hy sinh rất nhiều, lấy sự dũng cảm cũng nhý ðộng viên dân chúng ðể bù ðắp cho sự thiếu thốn. Qua Thế Chiến Thứ 2, Nhật Bản chết khoảng 3,1 triệu ngýời, trong số ðó có 2,3 triệu binh sĩ. Thýờng dân ða số bị chết do trận không tập Ðông Kinh ban ðêm ngày 10/3/1945, khi không quân Hoa Kỳ huy ðộng tối ða lực lýợng ở á Châu, gồm hàng ngàn máy bay, mà chủ yếu là oanh tạc cõ B29 mở trận oanh tạc ðêm ngay trên thành phố khiến cho khoảng 200.000 ngýời thiệt mạng. Hàng nãm, ngày 10/3 ðýợc coi là ngày "Hòa Bình Ðông Kinh". Và 2 trái bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki khiến cho khoảng 200.000 khác ngýời thiệt mạng. .
Nhật Bản sau thế chiến thứ hai
Hội nghị Yalta II của các lãnh tụ Ðồng Minh gồm Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, Chủ Tịch Nga Stalin, Thủ Týớng Anh Winson Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Týởng Giới Thạch quyết ðịnh số phận 2 nýớc bại chiến Ðức Quốc và Nhật Bản.
Hội nghị quyết ðịnh chia Ðức Quốc làm 2, 1 nửa phía tây do Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp Quốc, 1 nửa phía ðông do Liên Sô chi phối. Nhật Bản thì bị chia làm 3, miền bắc do Liên Sô, miền trung do Trung Hoa, miền nam do Hoa Kỳ chi phối và ðặc biệt xử tử Nhật Hoàng Hirohito cũng nhý một số lãnh tụ chính trị và quân sự nhý những tội phạm chiến tranh.
Thống Týớng Mac Arthur là Tý Lệnh Lực Lýợng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dýõng ðồng thời chỉ huy cuộc chiếm ðóng Nhật Bản ðýợc lệnh thi hành quyết ðịnh của hội nghị Yalta II. Khi nghe tin này, hàng trãm ngàn ngýời Nhật ðã tràn xuống ðýờng phố giãng biểu ngữ phản ðối, yêu cầu rút lại quyết ðịnh của phe Ðồng Minh. Từng ðoạn ðýờng Thống Týớng Mac Arthur ði qua, một số cựu chiến binh Nhật qùy xuống, hýớng về phía mặt trời biểu týợng của Nhật Hoàng và tổ quốc họ rồi mổ bụng tự sát ðể tỏ lòng trung thành của họ.
Trýớc dũng khí của ngýời Nhật, Thống Týớng Mac Arthur không dám thi hành quyết ðịnh của hội nghị Yalta II. Ông không muốn Hoa Kỳ mang tiếng ðã giết vị Thiên Hoàng thiêng liêng của họ, vì sẽ ðể lại vết nhõ muôn ðời trong lịch sử Nhật Bản. Thiên Hoàng Hirohito là tý lịnh tuyệt ðối, tất nhiên ông ðã từng ra lịnh và có trách nhiệm về cuộc chiến, nhýng cạnh ðó ông là biểu týợng của dân tộc Nhật Bản, một dòng họ duy nhất truyền liên tục 124 ðời, giết ông là tạo vết thýõng lớn trong lòng toàn thể dân tộc Nhật. Ông ðã khẩn cấp gọi ðiện báo cáo cho Tổng Thống Truman. Tổng Thống Truman liền liên lạc với các vị nguyên thủ kia, cuối cùng phe Ðồng Minh ðồng ý hủy bỏ quyết ðịnh ở hội nghị Yalta II.
Ngýời Nhật dù thất trận ðã tỏ ðýợc lòng dũng cảm và yêu nýớc của họ khiến thế giới phải nể phục. Rồi với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chỉ 15 - 20 nãm sau họ ðã nhanh chóng phục hồi và trở lại vai trò cýờng quốc và nay výợt qua cả nhiều cýờng quốc từng chiến thắng họ.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:21:09 GMT -5
THÁNG 3 Ở NHẬT BẢN
Trong tiếng Nhật cổ, tháng 3 còn gọi là "弥生" ( yayoi ), có nghĩa là sự trýởng thành.
Lễ hội ðầu tiên trong tháng 3 là " ひなまつり"( (hinamatsuri ), diễn ra vào ngày 3/3 . Tại các gia ðình có con gái, ðể cầu mong sụ may mắn ðến cho con mình, cha mẹ thýờng trang trí những con búp bê ひな人形 trong nhà, mời gia ðình họ hàng ðến cùng thýởng thức những món ãn truyền thống nhý ちらし寿司 ( chirashizushi ) はまぐりの吸い物 v.v.v.....( búp bê ひな人形 xuất hiện vào khoảng giữa thời kỳ Edo ( 1603-1867 ). Búp bê ðýợc làm với một kỹ thuật vô cùng cầu kỳ và tinh xảo, thýờng ðýợc xếp lên một chiếc giá có trải thảm ðỏ và ðặt tại một vị trí rất trang trọng trong nhà. Một giá có khoảng 15 con búp bê, giá trên cùng là dành cho búp bê NHa` vua, va Hoàng hậu, tiếp theo là hình búp bê của 3 thị nữ, 5 nhạc công, 2 lão quản gia và 3 vệ sĩ. Ngoài ra còn có một số ðò trang trí khác nhý cây hoa anh ðào, cây cam, xe ngựa...v.v..) lễ hội ひなまつり thực chất là một lễ hội với ý nghĩa giúp cho con ng` tránh ðýợc sự ðe doạ của ma quỷ. Mỗi một ngýời sẽ tự làm một bức týợng nhỏ hoặc một con búp bê có bề ngoài giống với bề ngoài của mình, sau ðó ðem thả trôi sông, hi vọng rằng tất cả những tà ma sẽ trôi hết ði.
Ngoài ra, ngày 3/3 còn gọi là ngày " 耳の日". Trong tiếng Ả rập, só 3 có cách viết giống nhý hình cái tai, còn trong tiếng Nhật, số 3 cũng có cách ðọc là " み ", vì thế ngýời Nhật chọn ngày mùng 3 tháng 3 ( 3月3日 3-3 み - み ) là ngày ðể tất cả mọi ngýời quan tâm hõn về ðôi tai - của mình. Týõng tự nhý vậy, ở NB, ngày 4 tháng 6 ( 6月4日 6-4 む - し ) là ngày " toàn dân chống sâu rãng " <img src=images\emotion\icon_smile_cool.gif border=0 align=middle>, ngày 7 tháng 8 ( 8月7日 8-7 は - な )là ngày " toàn dân chống bệnh về mũi " <img src=images\emotion\icon_smile_cool.gif border=0 align=middle>
Một nãm học ở NB bắt ðầu vào tháng 4 và kết thúc vào tháng 3, do ðó vào tháng này trên khắp các trýờng học ở NB ðều diễn ra lễ trao bằng tốt nghiệp cho học sinh. Sau ðó các trýòng học sẽ býớc vào kỳ nghỉ xuân.
Giống nhý các trýờng học, vào tháng này các xí nghiệp, công ty, ngân hàng....cũng tổng kết một nãm tình hình tài chính của mình. Do ðó, có rất nhiều ngýời chọn thời ðiểm này ðể thay ðổi hoặc bắt ðàu một công việc mới.
Ðêm 12/3, ở khu thành cổ 奈良 ( Nara ) diễn ra lê hội nýớc thiêng " お水取り " ( có từ thế kỷ 18 ) Ðây là một trong những lễ hội lớn báo hiệu mùa xuân sang ở vùng 関西 ( kansai ), Nhật Bản. Lễ hội bắt ðàu vào khoảng 12h ðêm ngày 12/3. Tại khu hành lang chính của ðền thờ, các thầy tu giýõng cao những bó ðuốc sáng rực, thỉnh thoảng lại ðung ðýa ðể những tia lửa bắn xuống hàng nghìn các tín ðồ ðang ðứng ở phía dýới. Ngýời ta tin rằng nếu ai " chộp" ðýợc một tia lửa từ các bó ðuốc ðó thì sẽ tránh ðýợc sự ðe doạ của ma quỷ và bệnh tật trong suốt một nãm. Ðến khoảng 2h ðêm, một thầy tu sẽ rýớc ðuốc về phía " Giếng Thiêng " ( Wakasai Well ), bên trong ðền thờ. Vị thầy tu này có nhiệm vụ lấy một bình nýớc từ " Giếng Thiêng " và ðem dâng lên Phật Tổ.
Ngày 21/3 là ngày " Xuân phân " ( 春分の日 ). Ðây là ngày mà ban ngày và ban ðêm dài nhý nhau. Cũng giống nhý ở VN, lúc này cũng là lúc ngýời NB rủ nhau ði tảo mộ.
(Mít ýớt)
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:22:31 GMT -5
THÁNG 4 Ở NHẬT BẢN
Thời tiết ðã bắt ðầu ấm dần lên, tuy nhiên một số vùng ở Hokkaido và vùng touhoku ( Ðông Bắc ) vẫn còn tuyết. Ở phía Nam của vùng Kantou, hoa anh ðào ðã bắt ðầu nở.
Ở NB, tháng 4 là tháng bắt ðầu một nãm học mới. Các trýờng học tổ chức lễ khai giảng ( 始業式 ) và ðón các học sinh mới. Các công ty cũng tổ chức ðón tiếp các nhân viên mới. Giám ðốc mỗi công ty ðều có một vài lời chào hỏi, ðộng viên ðối với các nhân viên mới này. Các nhân viên mới trýớc và sau khi chính thức ðýợc nhận vào làm ở công ty, ðều phải trải qua một thời gian tập sự ( ít nhất là 3 ngày, nhiều nhất là 3 tháng ). Trong thời gian này, họ sẽ ðýợc tìm hiểu về bộ máy ðiều hành của công ty, về chế ðộ bảo hiềm và các nghi thức cũng nhý cách cý xử trong nội bộ công ty.
Tháng 4 cũng là tháng bắt ðầu một mùa giải bóng chày (yakyu ). Bóng chày là môn thể thao phổ biến và ýa chuộng nhất ở NB. Bóng chày du nhập vào NB khoảng nãm 1873. Tuy nhiên, ðến nãm 1937, nó vẫn chỉ là một bộ môn trong các trýờng học. Phải ðến sau chiến tranh TG thứ 2, khi mà nền vãn hoá Mỹ ố ạt tràn vào NB thì bongs chày mới thực sự phổ biến.
Lúc này ng` NB cũng bắt ðàu nô nức kéo nhau ði xem hoa anh ðào nở ( ohanami ) . Do ở phía Nam Okinawa, thời tiết ấm áp nên hoa anh ðào ở ðây nở sớm nhất, tiếp theo là ở vùng Kyushyu, Shikoku, còn ở Hokkaido thì phải ðến ðầu tháng 5, hoa anh ðào mới nở. Khoảng một tuần sau ðó thì hoa tàn.
Ngày 29/4 là ngày " みどりの日 ".
(Mit-uot)
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:24:05 GMT -5
THÁNG 5 Ở NHẬT BẢN
Thời tiết tháng 5 rất ðẹp, tiết trời mát mẻ. Vì vậy tháng 5 là thời ðiểm hợp nhất ðể tổ chức các hoạt ðộng thể thao hoặc ði tham quan, du lịch.
Ngày 1/5 là ngày May Day ( Quốc tế lao ðộng ). ở khắp các công ty, xí nghiệp nhà máy ðều diễn ra các hoạt ðộng meeting, chúc mừng.
Tiếp theo là 3 ngày lễ liên tiếp : mùng 3 là ngày hiến pháp " 憲法記念日 " , mùng 4 là ngày Quốc dân " 国民の休日 ", mùng 5 là ngày trẻ em " 子供の日 "
Từ ngày " midorinohi " ( 29/4 ) cho ðến ngày lễ trẻ em ( 5/5), do có nhiều ngày lễ liên tiếp, nên ngýời Nhật ðýợc nghỉ luôn từ 29/4 ðến hết ngày 5/5. Ngýời ta gọi ðây là tuần lễ vàng " Golden week " . Mọi ngýời cùng gia ðình bạn bè tổ chứ ði du lịch, tham gia các hoạt ðộng thể thao...v.v.... Cần phải nói thêm rằng ngýời Nhật là ngýời rất thích ði du lịch nýớc ngoài. Ýớc tính hàng nãm có khoảng hõn 10 triệu lýợt ngýời NB ði ra nýớc ngoài du lịch. Họ ði trýớc hết là ðể giải toả những mệt mỏi, cãng thẳng trong công việc. Hõn nữa vì giá cả ở NB rất ðắt ðỏ nên ði du lịch nýớc ngoài rẻ hõn nhiều so với ði du lịch trong nýớc.
Ngày lễ trẻ em ( 5/5 ), còn gọi là ngày tết Ðoan Ngọ " 端午の節句 ". Trýớc kia, ðây là ngày lễ ðể cầu chúc cho sự trýởng thành của các bé trai, nhýng bây giờ ðã trở thành ngày cầu chúc cho cả bé trai lẫn bé gái. Tại các nhà có bé trai, cha mẹ dựng cờ cá chép " こいのぼり " trýớc cổng nhà. Ðiều này xuất phát từ một truyền thuyết của Trung Quốc về những con cá chép výợt sông ðể biến thành rồng. Còn bên trong nhà, họ trang trí búp bê hình các chiến binh " 五月人形 ", và mũ chiến binh " かぶと" với hi vọng rằng lớn lên các bé trai sẽ khoẻ mạnh và dũng cảm nhý những chiến binh. Ngoài ra các gia ðình còn cùng nhau ði tắm ở suối nýớc nóng. Món ãn thýòng ãn trong ngày này là " ちまき " và " しわもち ", ( loại bánh gần giống nhý bánh dày của VN "
Ngày Chủ nhật thứ 2 trong tháng là ngày Mother's Day " 母の日 ". Trong ngày này, con cái thýờng tặng mẹ hoa cẩm chýớng ðỏ ( carnation ) và những món quà nho nhỏ ðể bày tỏ lòng kính yêu mẹ.
Thãng nãm cũng là lúc cây chè bắt ðầu mùa lá mới. Loại trà ðýợc chế biến từ những chiếc lá ðầu tiên này có mùi vị rất thõm ngon.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:25:31 GMT -5
THÁNG 6 Ở NHẬT BẢN
Nhiệt ðộ lúc này cao dần lên, báo hiệu một mùa hè bắt ðầu. Ngày 1/6 là ngày thay ðổi trang phục ( 衣替え koromogae ). Nhừng ngýời phải mặc ðồng phục nhý học sinh, nhân viên công ty, công nhân sẽ ðổi từ ðồng phục mùa ðông sang ðồng phục mùa hè.
Tháng 6 là tháng mýa nhiều nhất trong nãm. Ngýời Nhật gọi mýa trong tháng 6 này là つゆ . Ngoài ra, vào thời ðiểm này hoa mai cũng bắt ðầu kết quả nên つゆ còn ðýợc gọi là 梅雨 baiu Vì trời mýa rất nhiều, có khi kéo dài suốt mấy ngày liền, trẻ em Nhật thýờng làm hình nộm bằng giấy trắng hoặc bằng vải trắng ( gọi là てるてるぼうず ) treo trýớc cửa nhà ðể mong trời bớt mýa. Hình nộm này chỉ có ðầu, có mình chứ không có chân, tay và tóc.Tuy vậy ðối với ngýời nông dân thì mýa này lại rất có lợi cho mùa màng của họ.
Ngày 21/6 là ngày hạ chí ( ngày có thời gian ban ngày dài nhất trong nãm, ở Tokyo là khoảng 14h35' ).
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:26:45 GMT -5
THÁNG 7 Ở NHẬT BẢN
Cũng giống nhý ở VN, ở NB tháng 7 cũng là lúc ðể mọi ngýời ði nghỉ mát, tắm biển hoặc leo núi.
Ngày 7/7 là ngày Thất Tịch ( 七夕 tanabata ). Theo một truyến thuyết có nguồn gốc từ Trung Quốc, ngày 7/7 là ngày duy nhất trong nãm mà Ngýu Lang và Chức Nữ có thề gặp nhau trên dải Ngân Hà. Vào ngày này, trẻ em Nhật Bản cắt những mảnh giấy nhỏ, ðầy ðủ màu sãc, viết những ðiều ýớc của mình lên ðó rồi treo lên một cành tre to.
Trong khoảng thời gian từ 1 ðến 15/7 , ngýời Nhật có phong tục tặng quà ðể bày tỏ lòng cảm õn ðối với những ngýời ðã giúp ðỡ mình. Phong tục này ðýợc gọi là " お中元 " ( ochyugen ). Những món quà ðýợc ýa dùng trong dịp này thýờng là ðồ uống, thực phẩm, hoa quả, bánh kẹo...v.v...Thậm chí ngýời ta còn tặng nhau cả phiếu ðể ãn kem hoặc uống bia.
Từ trung tuần tháng 7 cho ðến ðầu tháng 8, ngýời Nhật thýờng gửi cho bạn bè, ngýời thân những býu thiếp ðể hỏi thãm tình hình sức khoẻ của nhau ( 暑中見舞い) Trong býu thiếp thýờng có câu " 暑中お見舞い申し上げます " ( có nghĩa là " Thời tiết thật là nóng nực phải không? Bạn vẫn khoẻ chứ? " )
Khoảng ngày 20/8 học sinh, sinh viên bắt ðầu býớc vào kỳ nghỉ hè. Nhýng ðối với các học sinh sắp thi vào cấp 3 hoặc thi ðại học thì ðây là lúc cam go nhất. Các lò luyện thi (塾 zyuku ),từ sáng ðến tối lúc nào cũng ðông nghịt những học sinh ði luyện thi.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:28:48 GMT -5
THÁNG 8 Ở NHẬT BẢN
Thời tiết trong tháng 8 nói chung rất dễ chịu và mát mẻ.
Ngày 6/8 ở Hiroshima, ngày 9/8 ở Nagasaki là ngày týởng nhớ ðến 2 vụ ném bom nguyên tử của ðế quốc Mỹ xuống NB vào cuối Thế Chiến thứ 2.
Ngày 15/8, là ngày kỷ niệm kết thúc chiến tranh, ở khắp mọi nõi ngýời ta tổ chức các cuộc mitting, hội nghị ðể cầu chúc hoà bình cho thế giới.
Tháng 8 là tháng có lễ hội Obon nổi tiếng của Nhật. Lễ hội Obon, theo nhý ðạo Phật là lễ hội ðể ðón linh hồn của tổ tiên về thãm gia ðình, diễn ra khoảng từ 13 ðến 15 hàng tháng. Ðể ðón linh hồn của tổ tiên, ngýời ta ðặt ở trýớc cửa nhà một con ngựa ðýợc làm từ các loại rau, và ðốt một ðống lửa nhỏ gọi là mukaebi. Ngoài ra, có nõi ngýời ta còn tổ chức nhảy múa Obonodori và bắn pháo hoa. Vào ngày 16, khi lễ hội Obon kết thúc, ngýời ta thay mukaebi bằng okuribi ðể ðýa tiễn linh hồn của các tổ tiên. Cũng có nõi ngýời ta tiễn ðýa bằng cách thả những chiếc ðèn lồng xuống sân.
Trong khoảng thời gian diễn ra lễ hội Obon, các công ty, xí nghiệp ðều ðýợc nghỉ. Các nhân viên tranh thủ về quê thãm gia ðình hoặc ði du lịch ðây ðó.
Trong tháng 8 cũng diễn ra ðại hội bóng chày của các trýờng cấp 3 trên toàn quốc.
|
|
|
Post by Robot on Feb 27, 2004 7:29:50 GMT -5
THÁNG 9 Ở NHẬT BẢN
Hầu hết tất cả các trýờng học ở Nhật ðều bắt ðầu học kỳ 2 từ ngày 2/9, sau gần 2 tháng nghỉ hè ( 20/7 )
Ngày 1/9 là ngày phòng tránh hoả hoạn ( bousainohi ). Vào ngày 1/9/1923, một trận ðộng ðất lớn ( 7.9 ~ 8.2 ðộ ) ðã xảy ra ở vùng Kanto, làm 99 331 ngýời bị thiệt mạng, 43 476 ngýời mất tích, 103 733 ngýời bị thýõng, 128 266 ngôi nhà bị phá huỷ hoàn toàn......Kể từ ðó chính phủ NB ðã lấy ngày 1/9 hàng nãm là ngày ðể tất cả các trýờng học, công sở, thành phố, ðịa phýõng tổ chức huấn luyện lánh nạn và phòng tránh hoả hoạn khi có ðộng ðất xảy ra.
Về thời tiết, tháng 9 là tháng có nhiều bão ðến. Bão khiến cho cây cối bị ðổ, mùa màng bị thất bát. Khoảng ðầu tháng 9, do luồng khí áp cao ở biển Thái Binh Dýõng còn mạnh, nên các ngày nắng nóng vẫn còn, nhýng từ khoảng trung tuần trở ði, nhiệt ðộ buổi sáng và ban ðêm ðã hạ xuống.
Từ ngày xýa ngýời Nhật coi trãng trong khoảng thời gian này là ðẹp nhất, tròn nhất trong một nãm ( chushunomeigetsu ). Buổi tối, họ thýờng ngồi ngắm trãng ( otsukimi ), ãn bánh dày ( dango ), susuki, rýợu nho, hạt dẻ..v.v. phong tục này ðýợc du nhập từ Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 10. ( giống nhý tết Trung Thu của VN ).
Bên cạnh ðó, không giống nhý quan niệm của ngýời VN, trên mặt trãng có chú Cuội, chị Hằng, ngýời NB nhìn lên mặt trãng và týởng týợng ra ðó là hình ảnh một chú thỏ ðang giã gạo. gần ðây, do các toà nhà cao tầng mọc lên nhý nấm, khó có thể ngắm trãng ðýợc, thêm vào ðó cuộc sống, công việc bận rộn, không có nhiều thời gian nên sồ ngýời còn giữ phong tục ngắm trãng càng ngày càng ít ði.
Ngày 15/9 là ngày lễ ngýời cao tuổi ( keirounohi ) Bắt ðầu từ nãm 1966 ngày nay chính thức ðýợc công nhận là ngày lễ quốc gia. Mọi ngýời cùng ðến thãm ông bà, cha mẹ và những ngýời cao tuổi mà mình biết ðể bày tỏ lòng cảm tạ.
Cũng giống nhý một số nýớc khác, ngýời Nhật cũng tổ chức lễ thýợng thọ cho ông bà, cha mẹ. Ngoài lễ thýợng thọ vào các nãm 60, 70, 80, 90 tuổi ra, ngýời Nhật còn tổ chức kỷ niệm vào các nãm 66, 77, 88, 99 vì họ tin rằng sự lặp lại của 2 chữ số có nghĩa là may mắn ðýợc nhân ðôi.
|
|