|
Post by Robot on Nov 22, 2004 14:18:18 GMT -5
Nhân cách một giáo sư
Mối quan hệ thầy - trò trong các trường đại học Âu - Mỹ thường chỉ đóng khung trong các giờ lên lớp. Tại lớp, các giáo sư rất thân thiện, sẵn sàng giúp đỡ học viên nhưng khi giờ học kết thúc, thầy trò thành người xa lạ. Và với một người Anh chính gốc sinh trưởng tại London, 21 năm sinh sống, học tập và giảng dạy ở Harvard, người ta dễ hình dung về John như một vị giáo sư khả kính nhưng lạnh lùng.
Song khoảng cách thường có ấy đã không tồn tại giữa John và 150 học viên của AMP 166 dạo ấy.
"Điều khác biệt giữa John và nhiều giáo sư kinh tế khác là gì?". Khi bạn muốn tham khảo ý kiến của một vị giáo sư nào đó về các chiến lược kinh doanh hay giản đơn là một sáng kiến làm tăng lợi nhuận, bạn phải ký hợp đồng và trả tiền cho sự tư vấn đó. Nhưng với John, ông sẵn sàng cho bạn lời khuyên mà không đòi hỏi bất kỳ một khoản lệ phí nào.
John cũng không đặt dấu chấm hết cho mối quan hệ với học viên chỉ tại giảng đường. Tiếp xúc với hàng trăm sinh viên, nhưng John ghi nhớ từng vị trí, thế mạnh của mỗi người. Tôi từng rất bất ngờ khi một anh bạn học người Thái Lan, phó Tổng Giám đốc công ty TOT đến hỏi tôi kinh nghiệm về kinh doanh các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng. Anh nói, GS. Quelch đã giới thiệu anh đến gặp tôi vì tôi là người có thể cho anh câu trả lời mà anh đang cần.
Không ham tiền bạc, John không ngại ngần chia sẻ quỹ thời gian vốn rất eo hẹp của mình cho các tổ chức công, phi lợi nhuận. Năm 2002, ông nhận lãnh trách nhiệm Chủ tịch Hội đồng các nhà chức trách điều hành Cảng Massachusetts (Massport), một cơ quan công cộng độc lập điều hành Sân bay Quốc tế Logan ở Boston.
Khi John đảm nhận cương vị này, Massport đang chao đảo trước "cơn mưa" chỉ trích từ công luận về mức độ bấp bênh an ninh sau khi hai chiếc máy bay không tặc đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới ngày 11/9 đã xuất phát từ Logan. Ngay lập tức, ông Tổng giám đốc cơ quan này đã phải từ chức. Massport rơi vào cơn khủng hoảng.
Cùng với Tổng Giám đốc Coy, John đã bắt đầu một công việc đầy thách thức: hồi sinh Massport từ bờ vực suy sụp. Và họ đã thành công. Chi thêm 20 triệu USD mỗi năm vào việc đảm bảo an ninh, tăng cường hệ thống kiểm tra hành lý tự động (Logan là sân bay lớn đầu tiên và duy nhất ở Mỹ có hệ thống này), phát triển chương trình nhận biết thái độ cư xử của hành khách, Massport đã cải thiện được hình ảnh của mình trong con mắt công chúng như một sân bay an toàn.
John thường nói đùa rằng Thống đốc Jane Swift đã chọn ông làm Chủ tịch Massport chỉ vì ông là một trong những người ít có quan hệ với chính trị nhất ở Massachusetts. "Rõ ràng, Quelch nhận công việc này không phải vì tiền. Thực chất, quyết định của ông xuất phát từ mục đích phục vụ cộng đồng". Một thành viên trong Ban lãnh đạo Massport đã nhận xét.
"Điều mà tôi thực sự quan tâm là làm sao bảo đảm rằng Massport là cơ quan phục vụ công hiệu quả nhất ở Mỹ". Ông tin rằng những tổ chức phục vụ công hoạt động hiệu quả có rất nhiều điều để chỉ bảo cho những hội đoàn Mỹ nhiều tai tiếng về vấn đề quản lý tốt.
Mô hình mà Coy và John đã áp dụng ở Massport là mọi cuộc họp của ban điều hành đều được công khai trước công chúng, tách bạch vai trò của chủ tịch hội đồng và tổng giám đốc điều hành; kiểm toán độc lập, giám sát thường xuyên. Những biện pháp đó đã giúp Massport dần trở thành một cơ quan phục vụ công hiệu quả, phục vụ một cách tốt nhất lợi ích của cộng đồng.
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 14:20:01 GMT -5
Quốc tế hoá Harvard
John ghi dấu ấn của mình ở Harvard như một trong những người tiên phong đưa Harvard trở thành một thương hiệu toàn cầu. Là trưởng khoa Phát triển quốc tế, chủ tịch Ban điều hành Sáng kiến toàn cầu (Global Initiative), John tư vấn cho Hiệu trưởng về mọi chính sách lien quan đến các hoạt động của Harvard bên ngoài nước Mỹ. Ông cũng chịu trách nhiệm quản lý 4 trung tâm nghiên cứu của Harvard tại Buenos Aires, Hongkong, Paris và Tokyo.
“Trong nỗ lực biến đổi văn hoá tri thức tại Trường Kinh doanh Harvard từ trọng tâm là nước Mỹ đến tầm vóc toàn cầu, chúng tôi gặp phải thách thức chính là làm sao và công cụ nào để đo mức độ tiến bộ và thành công. Chúng tôi thường xem xét có bao nhiêu người trong khoa của chúng tôi đi công tác nước ngoài như một phần trong quá trình nghiên cứu. Nhưng cách thức đó không thực sự chỉ cho chúng ta thấy liệu chủ nghĩa quốc tế đã thâm nhập vào văn hoá Harvard hay chưa”.
John đã dành hẳn nhiều tháng trời để đánh giá về quy mô các hoạt động quốc tế của Harvard và mức độ mà sáng kiến có thể phục vụ nhu cầu nghiên cứu của các cán bộ giảng dạy.
“Đó là một vị trí hoàn toàn mới và tôi thì chưa hề có một hình dung chính xác nào về công việc”.
“Điều đó giúp tôi tự do thực hiện các cuộc khám phá”, John hài hước.
Cuộc khám phá đó là hàng chục cuộc gặp gỡ, thảo luận với 40 thành viên trong khoa về các nỗ lực nghiên cứu của họ.
John kể lại những khó khăn trong những ngày đầu tiếp nhận cương vị mới.
Ngày nay, một phần ba các sinh viên theo học MBA (thạc sĩ quản trị kinh doanh) được Harvard tiếp nhận mỗi năm đến từ các nước bên ngoài nước Mỹ. Một phần ba trong số các giảng viên của trường cũng sinh trưởng ở nước ngoài.
Ngoài các chương trình MBA, hàng năm Trường Kinh doanh Harvard còn có các khoá học Quản trị Cao cấp (Advanced Management Program hay AMP) dành cho các nhà lãnh đạo DN hàng đầu đến từ hàng trăm quốc gia trên thế giới.
Trong số những học viên hưởng lợi từ các khoá học đó, ngày càng có nhiều hơn những người mang quốc tịch Việt Nam.
Con đường quốc tế hoá Harvard của John và các cộng sự đươc ông tóm gọn trong một mệnh đề: Sáng kiến toàn cầu không chỉ vươn tới các nhà lãnh đạo DN ở các nền kinh tế đang lên mà còn thiết lập quan hệ với các chuyên gia kinh tế hang đầu. John đã tập trung mạnh mẽ vào việc phát triển các trung tâm nghiên cứu của Harvard bên ngoài nước Mỹ như một hạt nhân liên kết mạng lưới các trường kinh doanh của mỗi khu vực.
Giáo sư và nhà kinh doanh: hai trong một
Có thể đảm nhận chức vụ điều hành những tổ chức phục vụ công mà không đòi hỏi một xu trả công, song trong công việc của một giáo sư giảng dạy, John Quelch cũng là một nhà kinh doanh đầy sắc bén.
Ba năm tiếp nhận vị trí Hiệu trưởng Trường Kinh doanh London, John đã đưa một trường không tên tuổi trở thành trường đại học kinh doanh có uy tín quốc tế, được Financial Times xếp thứ 7 trong số các trường kinh doanh trên thế giới. Doanh thu hàng năm của London Business School đã tăng 50% và con số các giảng viên tăng 30%.
“Tôi cho rằng không có lý gì một trường đại học với tham vọng đúng đắn, các tiêu chuẩn chất lượng cao, một tầm nhìn và chiến lược rõ ràng không đạt được thứ hạng cao”.
Trong 3 năm từ năm 1998 đến 2001, John đã xây dựng một thứ văn hoá khác hẳn ở Trường kinh doanh London, thứ văn hoá mang tư duy kinh doanh và gắn liền với cạnh tranh. Ông xây dựng một hệ thống thẩm định chất lượng giáo dục, đặt ra các tiêu chuẩn khuyến khích đối với các giảng viên, dần xác lập hệ thống thăng tiến hoặc sa thải. Điều đó gây sức ép lên các giảng viên phải không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy của mình nếu muốn giữ vị trí của mình. Đồng thời, John cũng lập ra các quỹ cho sinh viên vay vốn học tập và thiết lập một mạng lưới quốc tế các câu lạc bộ sinh viên và 7 hội đồng tư vấn khu vực, đưa thương hiệu London Business School vượt ra ngoài biên giới Anh quốc.
Những cố gắng ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng bằng giải thưởng Nữ hoàng dành cho các DN và nhà đầu tư vào Con người năm 2001.
Tư duy giảng dạy kết hợp với kinh doanh ấy cũng đem lại những thành công liên tiếp cho GS. Quelch trong vai trò thành viên ban quản trị của các công ty hang đầu thế giới như Reebok, WPP…
Là một trong những người sáng lập Reebok, cùng các cộng sự trong vòng 12 năm, ông đã biến Reebok với doanh thu hàng năm 50 triệu USD thành một tập đoàn 300 rồi 900 và 1,2 tỷ USD.
Câu chuyện thần kỳ tương tự cũng xảy đến với WPP từ chỗ không có gì thành công ty kinh doanh dịch vụ marketing lớn thứ hai thế giới, sở hữu trong tay những chi nhánh quảng cáo hàng đầu như J Walter Thompson, Ogilvy.
Tư vấn cho hàng trăm DN từ 40 quốc gia, giờ đây, John mong muốn có dịp được cộng tác với các DN Việt Nam. Tháng 2 năm tới, ông sẽ sang thăm Việt Nam, một đất nước mà ông đang nóng lòng muốn khám phá.
· Thảo Lam
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 10:40:07 GMT -5
Giảng viên = nhà giáo+nhà khoa học+nhà cung ứng dịch vụ
TTCN - Giáo dục nước nhà đang trong cơn chuyển mình để tìm ra con đường phát triển cho chính mình và cho cả tương lai dân tộc. Trong cuộc chuyển mình đó, thầy cô giáo đóng vai trò tiên phong vì chất lượng giáo dục nói cho cùng gắn liền với chất lượng đội ngũ.
Hiện nay ở các trường đại học lớn ở các quốc gia phát triển, giảng viên đại học được định nghĩa trong ba chức năng chính: (1) nhà giáo, (2) nhà khoa học và (3) nhà cung ứng dịch vụ cho cộng đồng.
Giảng viên - nhà giáo
Đây là vai trò truyền thống nhưng quan trọng và tiên quyết đối với một giảng viên. Một giảng viên giỏi trước hết phải là một người thầy giỏi. Thế nào là một người thầy giỏi? Đó là một người uyên bác về kiến thức chuyên ngành mà mình giảng dạy? – Đúng nhưng chưa đủ, uyên bác về kiến thức chuyên môn mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ cho một thầy giáo giỏi.
Theo các nhà giáo dục thế giới, một giảng viên toàn diện là người có (được trang bị ) bốn nhóm kiến thức/kỹ năng sau:
- Kiến thức chuyên ngành: kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành và các môn học mà mình giảng dạy.
- Kiến thức về chương trình đào tạo: để đảm bảo tính liên thông, gắn kết giữa các môn học, giảng viên phải được trang bị (hoặc tự trang bị ) các kiến thức về cả chương trình giảng dạy. Nhóm kiến thức này quan trọng vì nó cho biết vị trí của chúng ta trong bức tranh tổng thể, nó cung cấp thông tin về vai trò, sự tương tác giữa một chuyên ngành với các chuyên ngành khác trong cùng một lĩnh vực, kể cả giữa các chuyên ngành trong các lĩnh vực khác nhau.
Xu hướng đào tạo đại học hiện nay là đào tạo chuyên sâu kết hợp với cung cấp tư duy liên ngành, đa ngành, đa lĩnh vực (và đa văn hóa) vì chính những kiến thức này sẽ giúp người lao động thích nghi tốt trong các bối cảnh làm việc nhóm, dự án – mà ở đó họ sẽ phải cộng tác với các cá nhân từ các chuyên ngành rất khác biệt để cùng nhau giải các bài toán đa lĩnh vực.
- Kiến thức và kỹ năng về dạy và học: bao gồm khối kiến thức về phương pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung và dạy/ học trong từng chuyên ngành cụ thể. Bên cạnh phương pháp chung thì mỗi chuyên ngành (thậm chí từng môn học hoặc cùng môn học nhưng khác đối tượng học) đều có những đặc thù riêng biệt đòi hỏi phải có những phương pháp tiếp cận khác nhau.
Hiện nay chúng ta đang coi thường khối kiến thức này. Quan sát cho thấy nội dung và phương pháp giảng dạy của bản thân nhóm môn học này cũng đã khá cổ điển, không được thường xuyên cập nhật và xa rời thực tiễn giảng dạy đại học nói chung và giảng dạy trong từng chuyên ngành nhỏ nói riêng. Để thay đổi diện mạo và chất lượng dạy và học hiện nay ở các trường đại học, cần đầu tư nhiều hơn để nâng cấp phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên.
- Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo dục, giá trị giáo dục... đây có thể coi là khối kiến thức cơ bản nhất làm nền tảng cho các hoạt động dạy và học. Chỉ khi mỗi giảng viên hiểu rõ được các sứ mệnh, giá trị cốt lõi và các mục tiêu chính của hệ thống giáo dục và môi trường giáo dục, việc giảng dạy mới đi đúng định hướng và có ý nghĩa xã hội.
Sự quên lãng, hay không nắm chắc những giá trị gốc của một nền giáo dục, dẫn đến những lệch lạc trong văn hóa giáo dục. Từ chuyện quay cóp trong thi cử, vi phạm bản quyền trong học tập và nghiên cứu, tính phi dân chủ trong khoa học đến thái độ học tập và thái độ ứng xử công dân trong cuộc sống đều không được truyền thông đầy đủ và khắc họa đúng mực. Thực tế giảng viên đại học không trực tiếp dạy đạo đức nhưng phải xác lập được cho sinh viên nhận thức đúng đắn về các giá trị gốc của giáo dục và đạo đức, mà cụ thể là đạo đức trong từng nghề nghiệp cụ thể.
Mặt khác, kiến thức về hệ thống giáo dục, sứ mệnh và các mục tiêu giáo dục còn là kim chỉ nam cho giảng viên trong soạn bài giảng, giáo trình, lựa chọn phương pháp giảng dạy cho những đối tượng người học khác nhau.
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 10:42:00 GMT -5
Giảng viên - nhà khoa học
Giảng viên thực hiện vai trò nhà khoa học là giải thích và dự báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà loài người và khoa học chưa có lời giải. Nghiên cứu khoa học, tìm cách ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn đời sống và công bố các kết quả nghiên cứu cho cộng đồng (cộng đồng khoa học, xã hội nói chung, trong nước và quốc tế ) là ba chức năng chính của một nhà khoa học. Từ đây có hai xu hướng nghiên cứu chính: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Khác với nghiên cứu cơ bản mang tính giải thích và dự báo các vấn đề chưa khai phá của tự nhiên và xã hội, nghiên cứu ứng dụng là loại nghiên cứu hướng đến việc ứng dụng các kết quả của nghiên cứu cơ bản vào giải quyết các vấn đề cụ thể của xã hội. Thông thường nghiên cứu cơ bản được coi là vai trò chính của các giảng viên đại học. Còn nghiên cứu ứng dụng mang tính công nghệ thường là kết quả của mối liên kết giữa các nhà khoa học và nhà ứng dụng (các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội ). Do vậy nghiên cứu ứng dụng thường có màu sắc của các dự án tư vấn được đặt hàng bởi cộng đồng doanh nghiệp (và do doanh nghiệp tài trợ ).
Trong bối cảnh hiện nay, khi chưa có nhiều điều kiện đầu tư cho nghiên cứu cơ bản, chúng ta cần có chiến lược tận dụng kết quả nghiên cứu cơ bản của các quốc gia tiên tiến. Do vậy, có thể trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên khuyến khích các giảng viên đại học thực hiện các nghiên cứu mang tính tổng kết lý thuyết ngành (literature review) và tìm ra những hướng ứng dụng của các lý thuyết này.
Thực tế tổng kết lý thuyết là công việc đầu tiên và hết sức quan trọng của mỗi nhà nghiên cứu, nó mang lại những kiến thức hết sức quan trọng về thành tựu khoa học trong từng chuyên ngành và các định hướng nghiên cứu của từng ngành.
Nghiên cứu khoa học phải đi kèm với công bố kết quả nghiên cứu. Điều này có hai ý nghĩa. Thứ nhất, công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành uy tín chính là thước đo chất lượng có ý nghĩa nhất đối với một công trình nghiên cứu. Thứ hai, chỉ khi được công bố rộng rãi và đi vào ứng dụng, nghiên cứu khoa học mới hoàn thành sứ mệnh xã hội của mình.
Giảng viên - nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội
Đây là một vai trò mà rất nhiều giảng viên đã và đang thực hiện – nó cũng là một vai trò mà xã hội đánh giá cao và kỳ vọng ở các giảng viên. Ở vai trò này, giảng viên cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà trường, cho sinh viên, cho các tổ chức xã hội – đoàn thể, cho cộng đồng và cho xã hội nói chung. Cụ thể đối với nhà trường và sinh viên, một giảng viên cần thực hiện các dịch vụ như tham gia công tác quản lý, các công việc hành chính, tham gia các tổ chức xã hội, cố vấn cho sinh viên, liên hệ thực tập, tìm chỗ làm cho sinh viên... Với ngành của mình, giảng viên làm phản biện cho các tạp chí khoa học, tham dự và tổ chức các hội thảo khoa học.
Đối với cộng đồng, giảng viên trong vai trò của một chuyên gia cũng thực hiện các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo. Trong chức năng này, giảng viên đóng vai trò là cầu nối giữa khoa học và xã hội, để đưa nhanh các kiến thức khoa học vào đời sống cộng đồng. Viết báo thời sự (khác với báo khoa học) là một chức năng khá quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc truyền bá kiến thức khoa học và nâng cao dân trí.
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 10:42:19 GMT -5
Cân đối các nguồn lực như thế nào cho các chức năng?
Thực tế không có câu trả lời chính xác. Lựa chọn phụ thuộc hai nhóm yếu tố: nhóm yếu tố tự thân và yếu tố môi trường.
Ở nhóm yếu tố cá nhân, mỗi người có khuynh hướng yêu thích một số công việc khác nhau trong cùng một nghề nghiệp. Chẳng hạn có giảng viên yêu thích giảng dạy và dịch vụ hơn nghiên cứu khoa học, có người lại chỉ thích chuyên tâm nghiên cứu mà ít chú ý đến giảng dạy.
Tuy nhiên yếu tố cá nhân bị tác động mạnh bởi yếu tố môi trường mà cụ thể là mục tiêu, cấu trúc công việc và cơ chế đánh giá của trường đại học. Chẳng hạn ở Mỹ, các trường danh tiếng chuyên về nghiên cứu thì tỉ trọng là 30/60/10 (30% tài nguyên cho giảng dạy/ 60% cho nghiên cứu/ 10% cho dịch vụ ), các trường cân đối thì 40/40/20, còn các trường nhỏ - đại học cộng đồng thì 60/20/20. Song song với việc cụ thể hóa cấu trúc chức năng là việc cụ thể hóa công việc, ngân sách, chính sách đánh giá phù hợp với cấu trúc chức năng này.
Chẳng hạn, trường áp dụng tỉ lệ 30/60/10 thì hợp đồng ký với giảng viên thường là 1:1 hoặc 1:2 (1:1 là mỗi học kỳ giảng một lớp, 1:2 là học kỳ I giảng một lớp, học kỳ II giảng hai lớp); trường cân bằng là 2:2 hoặc 2:3; trường cộng đồng là 4:4 hoặc 4:5; và các qui định cụ thể về ngân sách nghiên cứu, số bài báo (trên loại tạp chí nào), các loại dịch vụ phải thực hiện.
Rõ ràng các chỉ số trên khá đơn giản và hiệu quả. Khi được cụ thể hóa vào chương trình hành động của từng trường, nó có tác động lớn đến cấu trúc chức năng của từng giảng viên. Mặt khác, nếu các nhà quản lý giáo dục đánh giá được mặt mạnh và yếu của từng giảng viên (yếu tố cá nhân) sẽ có kế hoạch cụ thể để bồi dưỡng hay bố trí công việc phù hợp.
Như vậy cấu trúc chức năng thay đổi theo các nhu cầu xã hội và yêu cầu cụ thể của từng trường. Nhưng dù trong cấu trúc nào, cả ba chức năng giảng dạy - nghiên cứu khoa học - dịch vụ đều thể hiện rõ nét vì giữa chúng có mối liên hệ tương hỗ hết sức chặt chẽ, cái này bổ sung và làm phong phú cái kia. Thực hiện đầy đủ và toàn diện cả ba nhóm chức năng nêu trên quả là một thách thức lớn không chỉ cho từng giảng viên mà cho cả hệ thống giáo dục.
Hiện nay và trong tương lai gần một yếu tố quan trọng nữa cũng cần phải được đưa vào mô hình là yếu tố quốc tế hóa. Nghĩa là vai trò của các giảng viên đại học hay các trường đại học sẽ không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà tầm hoạt động phải hướng đến một không gian toàn cầu, phi biên giới.
VŨ THẾ DŨNG
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 10:46:56 GMT -5
Câu chuyện văn hóa:
Lịch sự
TTCN - Lịch sự là chìa khóa mở cửa thành đạt. Bất cứ trường học nào cũng có khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” vì nhận thức được tầm quan trọng của “lễ”. Vậy “lễ” là gì? “Lễ” nếu đi sâu có nhiều nghĩa, nhưng ở đây ta chỉ đi vào nghĩa bình dị, gần gũi với mọi người, đó là lễ phép, là lịch sự trong giao tiếp.
Nhiều học sinh trong các trường trung học phổ thông có thói quen dùng câu cầu khiến - ra lệnh – ngay với thầy cô của mình: khi thầy cô giảng bài các em chưa hiểu kịp liền “ra lệnh”: “Giảng lại, đọc lại...”.
Thật ra các em rất vô tư, không biết đó là sự vô lễ. Có lần tôi hỏi các em: “Em bảo “giảng lại, đọc lại!”, em ra lệnh cho ai vậy?”. Các em im lặng, không biết đó là hỗn với người lớn. Ở nhà, các em cũng từng ra lệnh cho ba, mẹ như thế nhưng có ai phản ứng đâu. Có thể các em cho là cô giáo già khó tính!
Tôi phải ngưng bài giảng năm phút để dạy các em sử dụng ngôn ngữ giao tiếp. Với người lớn tuổi phải dạ thưa thầy, cô, cha, mẹ, anh, chị... Với bạn bè nhỏ tuổi hơn cũng phải có chủ ngữ “bạn, em làm giùm...”. Sau khi ai đó làm giùm điều gì phải biết “cảm ơn”. Khi làm điều gì khiến người khác buồn lòng, phải biết “xin lỗi”. Tiếng “cảm ơn” và “xin lỗi” hình như đang rất hiếm trên môi những người trẻ ở VN. Một học sinh nào đó đứng lên lễ phép nhờ thầy cô giảng lại phần bài chưa hiểu, khi thầy giải đáp xong, em “cảm ơn thầy (cô)” chắc lớp học sẽ nhìn em như một hiện tượng lạ!
Một lần chúng tôi dẫn học sinh tham quan địa đạo Củ Chi, đa số các em là cán bộ Đoàn, để học tập tinh thần yêu nước kiên cường của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ. Để đến Củ Chi vào buổi sáng, thầy trò chúng tôi phải khởi hành lúc 23g khuya, học sinh vất vả suốt đêm mệt mỏi nhưng rất háo hức. Các em kháo nhau về món khoai mì bốc khói chấm muối mè, món đặc sản mà khu di tích địa đạo Củ Chi chiêu đãi khách tham quan.
Khi mua vé vào tham quan, chúng tôi bất ngờ vì câu ra lệnh của anh hướng dẫn viên: “Đi”.
Đến phần chiếu phim, anh ta bảo: “Vào xem phim”. Chúng tôi vào hầm xem phim như ngồi ở rạp hát, chẳng có ai thuyết minh. Phim hết, một cô gái trẻ bước vào tắt tivi, không nụ cười, lạnh lùng “hết phim”. Cô không chào hỏi, bắt đầu giải thích bản đồ địa đạo như cái máy, bản thân tôi còn không thấy được tầm vóc vĩ đại của người du kích Củ Chi khi đào địa đạo, huống chi học sinh tôi. Tôi cảm thấy tiếc và nhớ lần tham quan địa đạo Vĩnh Mốc, Vĩnh Linh (Quảng Trị ). Người thuyết minh làm tôi chảy nước mắt trước sự gian khổ của người dân nơi đây. Phải có cái tâm mới làm rung động lòng người, làm sống lại quá khứ gian khổ.
Trở lại với Củ Chi, sau khi thuyết minh xong tấm bản đồ đường hầm, cô gái đi thẳng ra ngoài, chẳng một câu chào tạm biệt. Vừa mệt vừa đói, địa đạo chẳng có gì hấp dẫn và lưu luyến, các em chỉ mong đến nơi có món khoai mì hấp dẫn để thỏa mãn bao tử. Đến nơi, anh hướng dẫn ra lệnh: “Ăn khoai mì đi!”. Tôi cười thầm thế là đi tong bài học lịch sự của mình. Học sinh ùa vào phòng với cả sự hồ hởi, phấn khởi, tôi nghĩ người chiêu đãi thấy cảnh này chắc sẽ tự hào về món ăn dân dã quê mình. Và học sinh chúng tôi không phải đói khát đến độ phải thức trắng đêm vượt đoạn đường hàng trăm cây số để ăn khoai mì.
Nhưng thái độ của anh hướng dẫn lại làm tôi kinh ngạc, khi chúng tôi mỗi người vừa cầm một mẩu khoai mì nguội ngắt, anh ra lệnh “đi”. Mấy đứa trẻ vô tư: “Em chưa ăn miếng nào mà!”. Anh phán một câu xanh rờn: “Bưng hết nguyên đĩa đi”. Học sinh nhìn tôi. Tôi cũng không chịu đựng được thái độ bất lịch sự của anh ta, đành gật đầu với học sinh. Được lệnh, các em lấy giấy báo đựng tất cả khoai mì có trong đĩa. Chưa hết, anh còn đế thêm một câu: “Còn một xô kìa, vác theo đi”. Đến lúc này, chúng tôi chỉ còn cười lớn, lên xe. Học sinh tôi nói: “Bài học lịch sự của cô tiêu rồi”. Rồi các em vừa ăn khoai mì vừa kháo nhau: “Đi suốt đêm để mua hai đĩa khoai mì gần 200.000 đồng” (200.000 đồng là tiền của thầy trò chúng tôi mua vé).
Hôm rồi, tôi làm lại chứng minh nhân dân vì chứng minh nhân dân cũ quá đát. Sau khi làm thủ tục xong, tôi đến phòng chụp ảnh, phòng lúc này vắng người, có một phó nhòm rất trẻ, tuổi đời thua cả con tôi. Tôi hỏi: “Tôi vào chụp được chưa em?”. Em nhìn tôi và sử dụng những câu ra lệnh: “Vào đi”, “Ngồi xuống”, “Tháo mắt kính!”, “Xong”. Tôi nhìn em kinh ngạc, còn em vẫn bình thản một cách vô cảm. Tôi không trách em, tôi chỉ nghĩ đó là lỗi của gia đình, nhà trường và xã hội.
Chúng ta có quan tâm giáo dục trẻ em về lịch sự tối thiểu của con người hay chưa, hay chúng ta chỉ quan tâm số lượng học sinh lên lớp, học sinh tốt nghiệp mà quên cái chất bên trong, quên lời dạy của Bác Hồ: trồng cây mười năm, trồng người trăm năm. Đôi khi vì thành tích, chúng ta tạo điều kiện cho các em dối trá. Chúng ta vô tình đào tạo một thế hệ thiếu trung thực, thiếu lịch sự của người văn minh khi giao tiếp.
NGUYỄN THỊ BẠCH YẾN (Trường trung học bán công Tiến Bộ, Phú Tân, An Giang)
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 10:53:37 GMT -5
Hội thảo khoa học "Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài đến giới trẻ TP.HCM hiện nay, thực trạng và giải pháp" (*)
Tạo sức đề kháng cho giới trẻ VN
TTCN - Với quá trình toàn cầu hóa, thế giới đang trở thành một ngôi làng nhỏ không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt văn hóa nữa. Việt Nam không là một ngoại lệ với sự xâm nhập của phim ảnh lai căng, bạo lực, đồi trụy đến tận thôn ấp.
Cho nên vấn đề chính yếu là làm sao giúp cho thanh niên tăng sức đề kháng hay sự miễn nhiễm.
Là một phụ nữ, tôi hay quan sát các phong trào thời trang trong giới trẻ. Và một điều đã rõ là những người chạy theo mốt, những người bắt chước đám đông là những người thiếu bản lĩnh, thiếu tự tin. “Ai làm sao tôi phải làm vậy”. Họ tự khẳng định mình bằng một bề ngoài “sành điệu”. Những bạn trẻ đang học hành tốt, thành đạt trong sự nghiệp, thích hoạt động xã hội (vì có một lý tưởng sống) dù cũng quan tâm đến cái đẹp, sự lịch sự nhưng thời trang không phải là nỗi ám ảnh của họ. Họ tự tin đối với những gì mình đang có vì đó là những chân giá trị.
Tôi cũng thích quan sát phụ nữ ở Việt Nam và trong vùng với chuyện trang phục. Những năm 1970, tiếp viên hàng không Thái Lan phát âm tiếng Anh rất kém, nhưng phụ nữ Thái trên đường phố Bangkok thì ăn mặc khá cầu kỳ. Những năm 1990 khi tôi trở lại thì tiếp viên phát âm rất chuẩn và phụ nữ trên đường phố ăn mặc giản dị hơn nhiều. Hồi tôi học đại học ở Philippines những năm 1970 thì cả cô giáo lẫn nữ sinh đều rất diện, luôn ăn mặc đúng mốt và chải chuốt. Những năm 1990 tôi trở qua họ cũng giản dị hơn. Phụ nữ Nhật trên các chuyến du lịch ăn mặc trang nhã, không lòe loẹt cầu kỳ, không hở hang. Đặc biệt, nữ công nhân viên chức Singapore đẹp trong các trang phục vừa giản dị vừa thẩm mỹ. Từ lâu tôi đã tự kết luận đây là những cá nhân tự tin đối với bản thân và tự hào vì là công dân của những nước không còn là “nhược tiểu’. Dường như những cá nhân này và xã hội của họ phải trải qua một quá trình để đạt tới một trình độ phát triển nào đó và một phong cách mà tôi xin tạm gọi là văn minh. Vì sự giản dị là đỉnh cao của cái đẹp.
Xã hội Việt Nam đang bước vào quá trình hiện đại hóa, thanh niên Việt Nam cũng đang đi tìm mình và cách tự khẳng định. Để làm việc này họ không có cách nào hơn là góp nhặt những mẫu hình (môđen mà xã hội đem lại cho họ qua phim ảnh quảng cáo và gương của người lớn. Tiếc rằng phim ảnh không thật sự phản ánh đời thường ở các nước tiên tiến. Ví dụ như cách ăn mặc, lối sống của các nhân vật trong phim Hàn Quốc không phản ánh cuộc sống thường ngày của đất nước họ. Cũng vậy, nếu người nước ngoài biết Việt Nam qua cách ăn mặc và diễn xuất của ca sĩ trẻ Việt Nam thì chắc chắn họ sẽ kinh hồn. Còn quảng cáo thì đang góp phần cổ vũ cho nếp sống “sành điệu”, xa hoa, những giá trị vật chất, thực dụng. Ngôn ngữ lai căng không chỉ tuổi trẻ bày ra mà chính báo chí đang khuếch trương nó mạnh mẽ.
Tuổi trẻ rất cần thần tượng mà khoa học gọi là “mẫu hình về vai trò “ (role model) để tham khảo trong quá trình hình thành nhân cách. Trong khi ở Trung Quốc, các thần tượng được mến chuộng nhiều nhất là các nhà du hành vũ trụ, các nhà khoa học rồi mới đến ca sĩ, nghệ sĩ... thì ở Việt Nam, tuổi trẻ chỉ mới biết yêu chuộng ca sĩ, nghệ sĩ. Đó cũng là do cách mà các phương tiện truyền thông phổ biến thông tin đến với họ.
Thanh niên xem phim Hàn, thiếu nhi xem truyện tranh Nhật vì xã hội không cung ứng cho chúng những sản phẩm hấp dẫn hơn.
Tạo sức đề kháng cho tuổi trẻ VN bằng cách nào?
Không có cách nào khác hơn là giáo dục sự tự tin, khơi dậy sự tự hào là cung cấp cho họ những thức ăn tinh thần bổ dưỡng. Đến nay ta chưa làm được điều này vì thật ra rất khó. Giáo dục gia đình còn tạo sự thụ động, phụ thuộc nơi con em thay vì giáo dục sự tự tin. Cũng vì cách giáo dục này mà đa số bạn trẻ rất thiếu tự tin và dễ bắt chước đám đông, còn một số khác thì nổi loạn bằng cách sống lập dị, chạy theo những phong trào tiêu cực. Ta muốn cho đa số thanh niên ăn học đến nơi đến chốn, có nghề nghiệp ổn định, thành đạt trong sự nghiệp, sống một cuộc sống có ý nghĩa để tự tin. Với tình trạng hiện nay của ngành giáo dục, e rằng đây là một mục đích còn phải có thời gian mới đạt được.
Để xây dựng niềm tự hào dân tộc, một quá khứ vẻ vang chưa đủ, phải có cái gì đó là thành tích của ngày hôm nay mới mang tính thuyết phục. Việt Nam được khen ngợi vì kinh tế đang lên nhưng cũng đang ngổn ngang với đạo đức xuống cấp và tiêu cực đủ loại. ở một số mặt, Việt Nam còn đứng cuối trong danh sách các nước. Điều này ít nhiều làm suy giảm niềm tin nơi giới trẻ.
Có lẽ cũng do tình hình chung mà tư tưởng lớn, ấn phẩm hay chưa xuất hiện và hoạt động văn hóa tinh thần chưa dồi dào khiến tuổi trẻ của chúng ta đang đói. Dù nỗ lực nhiều, Việt Nam cũng còn là một nước nhược tiểu, kém phát triển là giải quyết vấn đề lối sống của tuổi trẻ không nằm ngoài một cuộc chấn hưng đạo đức mạnh mẽ và nỗ lực phát triển toàn diện từ kinh tế kỹ thuật tới văn hóa xã hội. Trên hết phải trả lời cho bằng được câu hỏi tại sao tư tưởng lớn, sản phẩm văn học hay lại tắt tịt?
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 10:54:21 GMT -5
Mấy đề nghị cụ thể
Trên đây là những vấn đề lớn mà việc tìm câu trả lời không thuộc phạm vi bài này dù nhất định chúng phải được trả lời thì mới tìm được lối ra. Trong khi chờ đợi chúng tôi có mấy đề nghị nhỏ sau: - Giáo dục gia đình và học đường phải thay đổi để xây dựng lòng tin nơi tuổi trẻ, để họ tự khẳng định mà không sống theo đuôi.
- Tuổi trẻ rất say mê cái hiện đại, cái mới. Làm sao cho họ tiếp cận được những khía cạnh tích cực của xã hội hiện đại trong và ngoài nước như tác phong công nghiệp, tính năng động sáng tạo, tính trung thực và thẳng thắn, tính phóng khoáng, tổ chức lao động một cách khoa học, giải quyết vấn đề có hiệu quả... mà phim ảnh nước ngoài không thể cung cấp cho họ. Ví dụ như tham gia các chương trình hợp tác giáo dục, tham quan các doanh nghiệp lớn, tiếp xúc với những khách mời đặc biệt trong và ngoài nước...
- Tiếp xúc ít nhiều với tuổi trẻ thành phố, tôi thấy rõ là họ rất hâm mộ những gương tốt trong các nhà khoa học, các nhà giáo dục. các nhà hoạt động xã hội, các nhà doanh nghiệp giỏi... có tinh thần yêu nước và tự cống hiến vì lợi ích chung. Nhu cầu “mẫu hình về vai trò” (role model) mà ta gọi là thần tượng để hình thành nhân cách là một nét tâm lý tự nhiên. Có lẽ xã hội chưa tạo điều kiện đủ để đôi bên gặp gỡ nhau. Trong khi đó thì đêm đêm họ tiếp xúc với ca sĩ, nghệ sĩ trong và ngoài nước trên các phương tiện truyền thông và các tụ điểm ca nhạc.
- Phim ảnh, quảng cáo tập trung cổ vũ cho nếp sống tiêu xài, cho cái đẹp bên ngoài, cho những mẫu thời trang hết sức xa lạ với người nghèo. Tóm lại là những giá trị sống không đóng góp gì cho sự đi lên của dân tộc. Tôi còn nhớ trước giải phóng, một nhà xã hội học Bỉ đi ngang chợ bán đồ Mỹ ở đường Nguyễn Thông, so với ngày nay thì ngôi chợ này chẳng có nghĩa lý gì, vậy mà bà tỏ vẻ lo ngại và nói: “Chính việc phơi bày của cải vật chất ê hề như thế này tạo sự thèm muốn mà khi không có tiền để mua thì người ta trộm cướp. Tội phạm sản sinh ra từ đó”. Quảng cáo sẽ luôn là quảng cáo, nhưng trên thế giới có những tổ chức dân sự cảnh báo khi nội dung quảng cáo sai lệch. Các chức này được gọi là “media watch” (canh gác các phương tiện truyền thông).
- Thị trường là thị trường và mục đích của nó là lợi nhuận. Nhà nước không thể kiểm soát tất cả, không thể bao quát mọi vấn đề nảy sinh. Do đó trên thế giới xuất hiện một lực lượng thứ ba gọi là “xã hội dân sự” xuất phát từ những lợi ích của nhân dân mà hai lực lượng trên không kham nổi. Ví dụ các tổ chức bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em, các tổ chức chấn hưng đạo đức, bảo vệ văn hóa dân tộc trước làn sóng toàn cầu hóa... “Media watch” là một ví dụ. Ở nước ta bắt đầu xuất hiện các tổ chức hoạt động xã hội từ thiện có hiệu quả như Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo và một số hội khác. Bất cứ xã hội nào cũng không thiếu những nhà hoạt động bất vụ lợi, am hiểu một lĩnh vực nào đó và sẵn sàng đứng ra bảo vệ một lý tưởng, một nhóm xã hội thiệt thòi... Cùng với Nhà nước trong một khung pháp lý phù hợp, họ sẽ góp phần vào việc lành mạnh hóa xã hội một cách đáng kể.
NGUYỄN THỊ OANH
(*) Hội thảo do Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn TP.HCM và báo Tuổi Trẻ tổ chức, ngày 25-11-2004
|
|
|
Post by Robot on Dec 10, 2004 12:20:00 GMT -5
Chỗ đứng của người thầy
TT - Khi hành nghề ai cũng có những “công cụ”, dù đó là hữu hình như cày, cuốc, máy móc…, hay vô hình như kiến thức, sự khôn ngoan… Nghề giáo đương nhiên không ngoại lệ. Nhưng khi hành nghề nhà giáo còn cần phải có một “công cụ”, quan trọng nhất, chính là nhân cách của mình.
Hơi khiếm nhã một chút, bị xem là dân “ngụ cư” nhưng anh nông dân vẫn có thể cày xong thửa ruộng. Còn thầy giáo, một vết dơ trên áo, một cái nhìn thiếu thiện cảm của học trò, mọi chuyện đã khác…
Ngành giáo dục đang triển khai rất nhiều chương trình, dự án để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Số người chưa đạt chuẩn (về trình độ đào tạo) giảm dần, số có bằng cấp cao ngày một đông. Nhưng những cái nhìn, những hành vi, thái độ, không riêng gì của học trò, bằng cách nào có thể đổi khác, giống với “ngày xưa”?
Tiếc thay, trong khi đó lại có không hiếm “chất axit” đang làm xói mòn biểu tượng người thầy. Đừng nói những chuyện ghê gớm như trò đánh thầy, phụ huynh chửi thầy cô giáo, nhiều chuyện nhỏ thôi nhưng gợi lên không ít băn khoăn.
Ví như chuyện “lên lớp” của cán bộ, thậm chí phụ huynh đối với thầy giáo khi hữu sự. Phổ biến hơn cả là chuyện phụ huynh gặp giáo viên để xin/bàn chuyện học cho con em mình. Nhiều người không ngại ngần “hỏi giá” một cách sòng phẳng và chẳng nể nang gì khi bài bác, chê bai thầy này, cô nọ trước mặt học sinh.
Những chuyện tôi kể trên đây chưa phải là tất cả. Và mong mọi người hiểu cho không phải ở đâu, lúc nào, bất kỳ ai cũng như vậy. May mắn cho nền quốc học của chúng ta là hiện vẫn không thiếu những tấm gương tôn sư trọng đạo.
Nhưng những chuyện ở trên nói lên điều gì? Phải chăng thầy giáo chỉ là người truyền chữ hay cũng giống bất cứ người thợ nào khác? Và, nếu đã là thợ thì cứ việc “đặt hàng”? E rằng những thứ “axit” kia sẽ bào mòn và một ngày nào đó biểu tượng cao quí về sự học sẽ đổ sụp. Bạn hình dung ra sao khi cháu chắt chúng ta đến trường chỉ để thu nhận kiến thức?
Không ai ngây thơ khi đòi hỏi phải tôn vinh thầy giáo như một hiền nhân trong làng, xã ngày xưa. Song, dù đến đâu thì người thầy - biểu tượng của sự cao quí, vẫn cần được giữ gìn và vun đắp, vì như thế chỉ có lợi cho sự học. Biết tôn trọng những điều cần tôn trọng và cũng biết đòi hỏi ở người thầy những điều cần đòi hỏi.
BÙI QUANG HUY (chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học tỉnh Đồng Nai)
|
|
|
Post by Robot on Jan 9, 2005 11:04:33 GMT -5
Lời giảng
TT - Ai cũng biết rằng nghề giáo là nghề nói, thông qua giọng nói của mình giáo viên truyền đạt bài giảng đến HS, SV. Như vậy giọng nói, cách thức diễn đạt của giáo viên có vai trò rất quan trọng đến chất lượng bài giảng và sự tiếp thu của HS, SV.
Nếu thầy giáo, cô giáo có trình độ chuyên môn giỏi, tâm huyết với nghề thì chỉ cần thêm một giọng nói (giảng bài) chuẩn, cuốn hút nữa chắc chắn HS, SV sẽ rất hứng thú nghe giảng và tiếp thu bài nhanh.
Hẳn trong tâm trí của mỗi chúng ta khi nhớ về thời đèn sách của mình đều không quên được những giờ lên lớp mà ở đó chúng ta bị mê hoặc bởi những bài giảng văn, lịch sử... đầy quyến rũ của thầy cô. Lời thầy, lời cô không chỉ chứa đựng tri thức mà còn truyền đến HS một cảm xúc nhân sinh, cho đến khi kết thúc tiết học rồi mà ta vẫn cảm thấy thòm thèm muốn nghe nữa.
Nhưng bây giờ hình như những giờ giảng bài có hồn đó cứ mỗi ngày một vơi đi, lời giảng của nhiều thầy cô có cái gì đó cứ đều đều, nhàn nhạt, thậm chí cả uể oải, mỏi mệt. Có thầy muốn giảng cho nhanh, cho qua quít để hết giờ thì cắp cặp ra khỏi lớp; thậm chí có thầy còn chẳng muốn giảng bài mà lấy giáo án hay sách giáo khoa ra đọc cho HS chép. Còn học trò thì mơ mơ màng màng, câu được câu chăng hoặc nói chuyện riêng, làm việc riêng và cũng mong sao cho mau hết giờ để ra chơi. Kết quả, lời thầy giảng không chất lượng, HS cũng chẳng mấy tiếp thu được bài.
Sao thế nhỉ? Phải chăng cơm áo gạo tiền và đêm ngày dạy thêm đã vắt kiệt sức lực của thầy cô? HS, SV bây giờ dù không phải là tất cả nhưng vẫn còn rất nhiều, rất nhiều người muốn được nghe, muốn được như nuốt lấy từng lời giảng có hồn của thầy cô. Minh chứng là có những giờ giảng của giáo sư nổi tiếng, SV không chỉ của trường thầy dạy mà còn của các trường khác cũng kéo đến chật kín, thậm chí đứng cả ngoài hành lang để nghe thầy giảng bài, hối hả ghi lấy lời thầy.
Mong sao, ước sao lời giảng của thầy cô lại ăm ắp hồn sông, hồn núi để đám học trò mê mải với hồn quê!
VŨ ĐẢM (Hà Nội)
|
|
|
Post by Robot on Jan 14, 2005 11:56:42 GMT -5
Giáo dục phải làm gì để gia tăng vốn xã hội?
Để giáo dục phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế, cần trang bị cho học sinh không chỉ vốn kiến thức xã hội, mà còn cả phương pháp “tư duy tri thức bậc cao”...
Khái niệm “vốn xã hội”, mà các nhà khoa học xã hội và kinh tế học nêu lên gần đây không phải là điều gì hoàn toàn mới mẻ, vì nó đã từng là những đặc tính của xã hội ta thời xa xưa: niềm tin, tình đoàn kết, sự chia sẻ những giá trị, phong tục, tập quán chung trong nền văn hóa truyền thống v.v... Nó đã có thời kỳ bị làm yếu đi và hầu như bị sao nhãng trong học đường và ngoài học đường. Ngày nay, trong quá trình hội nhập quốc tế, người ta càng ngày càng nhận thấy nhu cầu phát huy “vốn xã hội” ấy trên căn bản của nền kinh tế thế giới đang biến chuyển.
Tăng cường các môn học xã hội
Để chấn hưng nền văn hóa ứng xử này, giáo dục cần phải có những thay đổi căn bản: Tăng cường các môn khoa học xã hội, khoa học lịch sử và khoa học nhân văn. Để giáo dục phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế, không phải chỉ cần tăng cường các môn khoa học công nghệ, mà còn phải tăng cường các môn khoa học xã hội. Nhưng tăng cường các môn khoa học này không phải là tăng cường khối lượng các sự kiện văn hóa xã hội để học sinh ghi nhớ và học thuộc lòng, như vẫn làm từ xưa đến nay.
Mục đích chính của các môn này trong thế giới hiện đại là (a) giúp cho người học tiếp thu được những điều căn bản của khoa tri thức luận (epistemology) hay khoa học về bản chất, nguồn gốc và giới hạn của kiến thức; (b) tạo nên sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau giữa các con người trong xã hội và giữa các dân tộc có nền văn hóa khác biệt và (c) học hỏi, rút kinh nghiệm từ các định chế xã hội khác nhau và nhận thức được lợi ích của sự hợp tác.
Phát huy “tư duy tri thức bậc cao”
Như đã nói ở trên, việc giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn nhằm mục đích giúp cho người học nắm vững được những điều căn bản của khoa tri thức luận. Điều này có nghĩa rằng người thầy giáo cần trình bày mọi vấn đề dưới nhiều quan điểm khác nhau và sử dụng, giới thiệu các sách giáo khoa hay tài liệu phản ánh các sự khác biệt ấy.
Với lối giảng dạy này, người học giữ vai trò tích cực: Họ cần phải có khả năng xử lý, đánh giá các thông tin, lựa chọn các giải pháp, trình bày một cách trung thực các quan điểm của mình và biết dung hòa các quan điểm đối nghịch nhau. Phương pháp giảng dạy này nhằm phát huy khả năng mà ngày nay người ta là “tư duy tri thức bậc cao” (higher order cognitive thinking), rất cần thiết cho người lao động trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hiện nay.
Không được phân biệt đối xử
Để tạo nên sự công bằng và bình đẳng giữa con người và con người, từ đó xây dựng tinh thần đoàn kết nhằm mục đích chung, giáo dục cần phải giới hạn đến tối đa sự phân chia học sinh theo thành phần xã hội, khả năng hay thành tích học vấn. Đó cũng là một trong các khuyến cáo của các chuyên gia giáo dục gần đây qua các cuộc nghiên cứu giáo dục tại các nước Âu châu và Trung Á.
Điều này có nghĩa là cần phải tránh lối phân biệt giữa quá rạch ròi các loại trường: Chẳng hạn giữa các loại trường điểm, trường chuyên với các trường bình thường, giữa các trường thành thị với nông thôn, giữa các trường phổ thông với các trường hướng nghiệp.
Tiến sĩ giáo dục Dương Thiệu Tống
Để mọi học sinh đều thành công
Từ thời xa xưa, trường học và bản thân các thầy giáo dạy lớp không hề bao giờ chủ trương phân biệt học sinh giàu và nghèo, không có sự thiên vị giữa các học sinh giỏi và kém.
Đối với người làm giáo dục, tất cả các học sinh đều là thành viên của một cộng đồng, một đất nước, chứ không được đào luyện để đối xử với nhau như những “kẻ xa lạ về văn hóa” ngay từ khi chúng đang còn ngồi trên ghế nhà trường.
Điều quan trọng là chương trình học cũng như phương pháp giảng dạy phải tạo điều kiện cho mọi học sinh đều có thể thành công trong việc học theo khả năng và nhu cầu của mình.
Đó cũng là sự công bằng và bình đẳng trong giáo dục mà nước ta đã cam kết trong bản “Tuyên ngôn thế giới về giáo dục cho mọi người”.
|
|
|
Post by Robot on Jan 16, 2005 12:04:54 GMT -5
Trái tim người thầy
TT - Hãy tìm sự khác nhau trong từng SV và tiếp cận họ để nâng bước họ đến lớp, mang đến cho SV một cảm giác háo hức chờ đợi mỗi giờ lên lớp, một cảm giác mà một cậu bé tiểu học như tôi đã nuôi ước mơ trở thành thầy giáo.
Tôi mơ ước trở thành một thầy giáo từ lúc còn là HS tiểu học, có lẽ bởi vì tôi “thần tượng” cô giáo tôi quá.
Những cậu bé cô bé chúng tôi háo hức chờ đợi giờ lên lớp vì cô khiến chúng tôi nói, cho chúng tôi cười, dẫn dắt chúng tôi khám phá, và cô luôn đến bên chúng tôi hỏi han động viên mỗi khi có bạn nào biếng cười, biếng nói. Chúng tôi được thay phiên nhau lên bục giảng, được tập làm những thầy cô giáo nhỏ.
Hơn 30 năm sau tôi trở thành thầy giáo. Không ít lần tôi về thăm trường cũ, ghé mắt vào phòng học khi xưa để tìm lại hình ảnh ngày nào, song hình ảnh đó không còn nữa. Trên bục giảng bây giờ cũng là cô giáo, song cô chỉ đứng trên bục giảng, còn các cậu bé cô bé chỉ đóng khung ở chỗ ngồi của mình lặng im nghe giảng. Và hình ảnh đó cũng không hiếm ở các trường phổ thông và cả giảng đường đại học.
GS BS Nguyễn Quang Quyền đã từng làm giới sư phạm y học thế giới bàng hoàng thích thú với bài giảng giải phẫu học của mình chỉ bằng những viên phấn và chút hóm hỉnh. Thế giới đang lo lắng cho một ngày mai người máy sẽ thay thế con người, nhất là thay thế người thầy, vì người máy có thể chứa đựng cả một thư viện tri thức trong một con chip. Nhưng ở nhiều cuộc điều tra trên thế giới, chính SV cho rằng người máy không thể thay thế được “trái tim người thầy”.
Cuộc sống của người thầy chính là lớp học, là giảng đường, là những SV của mình. Hạnh phúc của người thầy chính là nụ cười rạng rỡ trên gương mặt HS. Vậy mà không ít người thầy hình như vẫn bàng quan khi thấy SV lơ là với bài giảng của mình, thậm chí biết rằng SV gọi mình là “tiến sĩ gây mê”, thậm chí họ biết rằng nếu họ không điểm danh thì SV không buồn đến lớp. Họ than phiền SV ngày nay không yêu tri thức, không thích học. Song tôi nghĩ khác, chính họ, những người thầy không hề “thích dạy”.
Các nhà sư phạm ngày nay nhấn mạnh một phương pháp quan trọng trong phương pháp giảng dạy, đó là “reflective teaching” (nhìn lại cách giảng dạy của mình), cách nhìn lại và ghi nhật ký những buổi lên lớp của mình, phát hiện những vấn đề trong buổi giảng và đi tìm lời giải, nhất là từ SV của mình. Trong tác phẩm “Phù hợp giữa cách dạy và học” (1987), Hyman và Rosoff từng viết người thầy cũng nên là người học từ quá trình giảng dạy của mình.
Giá mà mọi người thầy không phải mang vào lớp học chỉ giáo án mà cả “trái tim người thầy”, trân trọng từng câu hỏi của SV, bởi lẽ không có câu hỏi nào là ngớ ngẩn, cũng không có người học nào dốt, như Tobias đã từng nói: “Các em không dốt, mà các em chỉ khác nhau thôi”.
Thạc sĩ LƯU TRỌNG TUẤN (Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐHQG TP.HCM)
|
|
|
Post by Robot on Jan 21, 2005 10:29:15 GMT -5
SINH VIÊN DU HỌC: Mở rộng tầm nhìn qua giao tiếp
10:46' 21/01/2005 (GMT+7)
DŨNG NGUYỄN (Từ Malaysia)
Một trong những nhu cầu căn bản của con người, đặc biệt của giới trẻ là được gia đình và bè bạn chung quanh yêu thương, quan tâm, giúp đỡ; họ sẽ cảm thấy được an toàn khi sống trong tình yêu thương của những người thân. Thế nhưng, đối với du học sinh, đặc biệt những du học sinh năm đầu tiên, họ luôn cảm thấy cô đơn, lạc lõng; đó cũng là thời gian dễ mất định hướng. Lý do: vì từ nay trở đi, những người trẻ này phải ở trong một môi trường hoàn toàn khác - từ nếp sinh hoạt bị đảo lộn, từ miếng ăn, thức uống cho tới ngôn ngữ, phong tục tập quán hay cách dạy và học ở nước ngoài.
Trong một số nền văn hóa, tình bằng hữu là một mối quan hệ hết sức sâu xa và chỉ gói gọn trong một nhóm nhỏ người mà thôi; bởi ở tình bạn này được dựa trên tình yêu thương, sự tôn trọng và những nghĩa vụ rất chặt chẽ. Trong khi đó, ở một số nền văn hóa khác, tình bằng hữu chỉ có nghĩa là làm cùng một số điều mà những người trong nhóm làm và cùng có chung một sở thích, thế thôi. Chẳng hạn như nếu bạn đến Úc hoặc Mỹ, sau một hoặc vài cuộc chuyện trò, bạn sẽ thường được nghe những câu như: “Này, khi nào rảnh, mời anh hoặc cô đến chơi nhà tôi nhé!”, hay: “Tôi sẽ điện thoại cho bạn đấy”, hoặc: “Này, khi nào tụi mình tụ tập nhau lại nữa nhé!”. Đối với tập quán của người Úc hay Mỹ, những câu như vừa đề cập nhiều khi chỉ có tính cách xã giao.
Trong thực tế, nhiều khi các sinh viên VN ở nước ngoài thường cảm thấy dễ dàng và thoải mái hơn khi kết bạn với đồng bào của mình vì cùng văn hóa, cùng ngôn ngữ, dễ cảm thông... Tuy nhiên, các du học sinh cũng nên lưu ý điểm này: nếu chỉ giao tiếp với đồng hương thì ở khía cạnh nào đó mình đã tự mình bỏ lỡ cơ hội quý hiếm là hội nhập, tìm hiểu thêm các nền văn hóa khác nhau, đồng thời mở rộng tầm nhìn ra thế giới bên ngoài... Trong khi đối với một số người, việc kết bạn là một điều tương đối dễ dàng, còn với một số khác thì đây lại là chuyện hết sức khó khăn. Thế nhưng, dù khó hay dễ, một trong những nguyên tắc căn bản (không những trong việc kết bạn mà còn nhiều lĩnh vực khác nữa) là sự thành thật, cảm thông và đồng cảm với người khác. Trong quyển “Sự va chạm văn hóa, những điều cần biết trong vấn đề du học” của hai tác giả Guek Cheng Peng và Robort Barlas, một sinh viên Singapore từng du học ở Úc nói rằng: “Đừng tự cô lập mình và cũng đừng chỉ chơi với nhóm bạn bè mình mà thôi. Hãy tìm cách mở rộng tầm giao tiếp và tỏ ra quan tâm tới những nền văn hóa khác”.
Một trong những điểm quan trọng của vấn đề thích nghi văn hóa là hòa đồng với những người chung quanh, trong khi vẫn giữ được bản sắc văn hóa tốt đẹp của mình.
Cơ hội để quen biết, để tìm hiểu có rất nhiều, đặc biệt khi sinh viên sống trong ký túc xá là trở thành thành viên của một câu lạc bộ hoặc nhóm bạn nào đó. Tuy thế, mục đích tối hậu của việc du học là học chứ không phải vui chơi. Trong khi đó, vì xa gia đình vì thấy được tự do hoàn toàn làm theo ý mình, không còn cha mẹ, người thân kềm giữ và vì ham vui..., nhiều bạn trẻ đã xao lãng chuyện học hành, thậm chí cắt đứt hẳn con đường học vấn. Đến nỗi, có một số người sau nhiều năm ở nước ngoài, bằng cấp học hành đâu chẳng thấy, chỉ thấy lấy được cái bằng lái xe hoặc một số bằng vớ vẩn nào đó không thực dụng mà cũng chẳng thực tế cho bản thân và xã hội.
Để có thể tiếp thu kiến thức, du học sinh cần phải thông thạo ngôn ngữ quốc gia mình theo học. Ngoài các lớp học tại trường, điều cực kỳ quan trọng là làm sao phải “chìm đắm” trong môi trường ngôn ngữ đó càng nhiều càng tốt. Nhờ thế sinh viên vừa học ngôn ngữ, vừa biết được những nét đa dạng trong cuộc sống của người dân bản xứ. Khi sinh viên tìm hết cách thâm nhập vào dòng ngôn ngữ của người bản xứ qua các sinh hoạt, tiếp xúc thì họ không chỉ tiến bộ một cách rõ nét về khả năng sử dụng ngôn ngữ, mà tầm nhìn của họ còn được mở rộng rất nhiều.
D.N
|
|
|
Post by Robot on Jan 22, 2005 3:36:37 GMT -5
Chuyện học ở Mỹ
TT - Trong thời gian du học tại một thị trấn nhỏ thơ mộng miền tây bang Massachusetts, tác giả Phạm Quốc Lộc có điều kiện tiếp cận với cách giảng dạy cho học sinh ở Mỹ.
Tôi có dịp dạy kèm cho một số học sinh tiểu học và trung học VN vừa sang Mỹ định cư. Có lần tôi kèm một em lớp 5 mới sang Mỹ được một năm, tiếng Anh bập bẹ trong khi tiếng Việt bắt đầu mai một. Trong một môn học, em phải làm thuyết trình về một nhân vật lịch sử mà em ngưỡng mộ. Em chọn Hồ Chí Minh cho bài thuyết trình của mình.
Điều làm tôi suy nghĩ là ngay ở cấp lớp 5 ở Mỹ các em đã được đào tạo tính trung thực trong khoa học. Trước khi thực hiện đề tài của mình, học sinh được hướng dẫn sử dụng truy tìm thông tin từ Internet và các cơ sở dữ liệu. Các em học cách tìm thông tin bằng từ khóa, học cách sàng lọc thông tin cần thiết, rồi vận dụng thông tin vào bài thuyết trình, và đặc biệt ở phần cuối bao giờ cũng là một danh sách tài liệu tham khảo mà các em đã trích dẫn. Rõ ràng minh bạch "đâu là ý em, đâu là ý người" chứ không được nhập nhằng.
Ở cấp lớp 10, tôi cũng kèm một vài em trong giờ toán và sinh học. Về nội dung kiến thức thì quả là "chuyện nhỏ" đối với học sinh VN. (Có khi tôi phải cười thầm khi thấy học sinh Mỹ dở hơn học sinh VN như thế nào, nhớ lại thời trung học tôi đã phải vật lộn với những bài toán di truyền cao siêu của môn sinh học, và kết quả là sáng học ở lớp, chiều chiều đạp xe đến nhà thầy để được "trang bị thêm kiến thức quí báu" về gen trội, gen lặn, hoặc cô mèo này sẽ sinh ra mấy mèo mun, ả gà kia sẽ cho mấy gà trống...).
Nhưng mỗi một bài tập, hoạt động trong lớp ở Mỹ đều phản ảnh rất rõ nét những giá trị trong giáo dục mà ở ta chưa thiết lập được. Một trong những giá trị đó là người học là trung tâm và học là một quá trình phát hiện thông tin chứ không phải chỉ đơn thuần truyền đạt thông tin từ người thầy đến học trò. Dĩ nhiên người thầy phải cung cấp những kiến thức cơ bản, những công cụ cần thiết để học sinh từ đó tự tìm tòi và phát hiện kiến thức cốt lõi của bài học.
Trong một buổi theo dõi việc dạy môn sinh học lớp 10, tôi mê mẩn khi thấy từng nhóm học sinh trình bày về thí nghiệm "tưởng tượng" của mình. Trong mỗi phần trình bày, các em đều nêu rõ giả thiết, các bước thực nghiệm, kết quả, đánh giá kết quả, và kết luận về giả thiết (đúng hay sai).
Tôi ngạc nhiên khi những học sinh còn đánh vật với việc qui đổi đơn vị từ centimet sang millimet lại hiểu rất thấu đáo về những khái niệm như nhóm thí nghiệm (experimental group) và nhóm đối chứng (control group), những khái niệm mà đa số sinh viên đại học ở VN vẫn ít có cơ hội tiếp cận. Một "nhóm nghiên cứu" của lớp nêu giả thiết về mối liên hệ giữa sự phát triển của giun đất với ánh sáng mặt trời. Các em nghiên cứu (chỉ tưởng tượng thôi!) trên hai ngôi nhà khác nhau và không quên nhấn mạnh rằng các điều kiện môi trường khác (ngoài ánh nắng mặt trời) của hai ngôi nhà là rất giống nhau để đảm bảo kết luận của mình có giá trị.
Một khi đã hiểu rõ các yếu tố cơ bản của thí nghiệm, các em bắt tay vào làm thí nghiệm thật. Các thí nghiệm của lớp bao giờ cũng bắt đầu bằng những phán đoán về một hiện tượng và thông qua thực hành học sinh tự đánh giá về phán đoán của mình. Bài học vừa thực tế vừa làm nổi bật sự đa dạng trong tư duy của học sinh.
Việc đánh giá việc học của học sinh cũng rất khác, ở chỗ kết quả của một bài kiểm tra không bao giờ được dùng để kết luận về "số phận" của học sinh. Thông thường, ở ta làm bài kiểm tra xong, bốn điểm là bốn điểm và được ghi vào sổ điểm theo kiểu "bút sa gà chết".
Ở Mỹ, bài kiểm tra, ngoài việc để đánh giá còn được dùng như công cụ để giúp học sinh bổ sung kiến thức. Giáo viên sẽ phê vào những câu sai nhằm giúp học sinh hiểu được chỗ sai để làm lại và cải thiện điểm của mình, nhưng sẽ không đạt kết quả tối đa nhằm tránh đánh đồng với học sinh làm chính xác ngay lần đầu.
Với cách dạy và học ở trình độ phổ thông như vậy, học sinh Mỹ không biết quá nhiều và quá sâu về bất kỳ môn học nào (ví dụ toán di truyền hay đạo hàm phức tạp), nhưng lại có khả năng lập luận và tư duy sáng tạo khá cao. Người Mỹ tin rằng đấy mới chính là công cụ cần thiết để giúp học sinh đi sâu vào chuyên môn ở bậc đại học.
Nói nôm na thì toán di truyền là chuyện của những nhà di truyền học, còn trình độ phổ thông thì cần hiểu thế nào là giả thiết, là đánh giá giả thiết thông qua thực nghiệm, thế nào là nhóm thí nghiệm, nhóm đối chứng...
Học ở đây là học cách suy nghĩ, phương pháp tư duy, sáng tạo, chứ không phải chỉ đơn thuần nhớ một công thức toán, ngày tháng năm của một sự kiện lịch sử, hay nhớ thuộc lòng kinh độ và vĩ độ của một quốc gia nào đó.
PHẠM QUỐC LỘC (Massachusetts)
|
|
|
Post by Robot on Feb 1, 2005 11:16:15 GMT -5
Nghề dạy học
Chúng ta dạy học vì chúng ta thực sự thích thú với nghề này. Cảm giác về một sự hoàn thành sau một ngày làm việc hiệu quả, niềm vui sướng khi được chia sẻ một quyển sách hay, cùng ngẫm ngợi một bài thơ giàu ý tứ, một câu châm ngôn, một lời bài hát hay đơn giản chỉ là cái cảm giác: cảm thấy mình quan trọng trong cuộc sống của trẻ. Những điều đó làm chúng ta say mê, thích thú.
Hiển nhiên chúng ta thích những ngày không lặp lại - dẫu đều đặn trống trường, chúng ta yêu sự mới mẻ trong các tình huống và sự mong đợi đầy háo hức mỗi khi bắt đầu. Niềm tin mà trẻ dành cho người giáo viên làm cho nghề giáo trở thành một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý.
Chúng ta yêu sự sáng tạo - những điều kỳ diệu có thể xuất hiện trong đầu trẻ. Qua dạy học, chúng ta có thể sáng tạo nên một tia sáng tri thức cho trẻ, và có thể mang lại cho trẻ sự thích thú trải nghiệm một cái gì đó hoàn toàn mới. Những thế giới mới có thể đi qua đầu óc tưởng tượng của trẻ, và những tầm nhìn mới mà chúng ta có thể tạo ra.
Không có gì có thể diễn tả và so sánh được sự sung sướng tột độ khi có một mối quan hệ thành công giữa người giáo viên và trẻ. Chúng ta, những nhà giáo bằng chính suy nghĩ, lời lẽ của mình và những ảnh hưởng trực tiếp có thể tạo nên cho trẻ một cá tính mạnh mẽ và sự hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp hoặc ít ra chúng ta có thể góp một phần nào đó. Điều này làm cho nghề giáo mang tính thử thách cao!
Rõ ràng chúng ta thích tự do - lĩnh vực rộng lớn trong các hoạt động trong lớp và khát vọng đó đang nằm trong tầm tay của chúng ta. Không có giới hạn trong các bức tường của trường học. Cũng không có cách nào để đo được chúng ta có thể làm tốt đến mức nào. Dạy học là một cái gì đó lớn hơn là một nghề. Đó là sự tin cậy!
Dạy học là một nghề khó và cũng luôn tạo nên sự mệt mỏi. Đôi khi nó còn là một sự chán nản bởi vẫn còn những ganh ghét và tị hiềm trong quan hệ với đồng nghiệp, bởi vẫn còn vài học sinh của chúng ta lười học hay hỗn láo. Nhưng khi ta nhìn thấy ánh mắt lấp lánh niềm vui của một cậu bé đang nắm tay bố mẹ trong đám đông, chỉ vào ta và nói với một niềm tự hào: Đây là cô giáo của con! Và lễ phép cúi xuống: Con chào cô ạ! Cái cảm giác thấy mình quan trọng trong cuộc đời của trẻ lại dâng trào. Đó là lý do vì sao chúng ta dạy học. Bạn có nghĩ thế không?
Phạm Thị Bền (Khoa Giáo dục đặc biệt - ĐH Sư phạm Hà Nội)
|
|