|
Post by Oshin on Jan 15, 2004 18:07:06 GMT -5
Lá thư từ nước Anh 15-04-02
Nhật báo The Guardian của Anh gọi ĐH Nottingham là ''lựa chọn hàng đầu bên cạnh Cambridge và Oxford'', đồng thời khoa Hoa Kỳ & Canada học (School of American & Canadian Studies) của trường nhận điểm tối đa cho cả hai lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu trong kỳ kiểm tra toàn quốc gần đây nhất. Vì vậy trước khi sang Anh, tôi không hề hồ nghi chất lượng giảng dạy của trường. Thế nhưng, đi học, dù ở đâu, cũng đều gặp thử thách. Với tôi, việc đầu tiên là làm quen với đời sống KTX. Tại ĐH Nottingham, nếu như SV ĐH ở KTX được phục vụ ba bữa trong ngày, thì SV cao học phải tự nấu nướng. Thế là con đường đến trường hàng tuần lại có hai bận ghé vào các cửa hàng, trầm ngâm so sánh giá cả. Với tôi, quá trình đi từ lò microwave lên dùng xoong chảo đã chậm chạp, việc đọc công thức làm món ăn cũng tốn thời gian chẳng kém.
7 người chúng tôi, trong một dãy 7 phòng, đến từ 7 nước, chia sẻ căn bếp nơi mỗi người dọn dẹp một ngày trong tuần. Đó là nơi tôi đang làm món gà chiên thì ông bạn Mỹ bước vào: ''Mày không bật quạt bếp. Khói quá''. 5 phút sau tiếp nối bằng giọng anh Hàn Quốc: ''Không mở cửa sổ à. Khói quá''. Cũng là nơi khi mệt (hay lười), tôi lại lấy bát xới cơm ăn ké. Bếp cũng là nơi nhiều buổi tối chúng tôi ngồi trước tivi, và sự thân thiện ban đầu có thể nảy nở thành tình bạn.
ĐH Nottingham có 3 cơ sở, riêng cơ sở chính, University Park, rộng khoảng 150 hecta. ý niệm về ĐH như một thành phố nhỏ hiện rõ hơn qua những ngày ở đây. Bên cạnh các dịch vụ ăn uống, ngân hàng, bệnh viện, các hoạt động phong phú có thể tìm thấy trên diện tích rộng lớn ấy. SV có cơ hội được học miễn phí các kỹ năng: từ ngoại ngữ, tin học, đến kỹ năng giao tiếp, và cả giảm stress. Sau khi ăn trưa ở quán cafe đặt trong thư viện, chúng tôi có thể vào Djanogly Recital Hall chờ nghe buổi hòa tấu lúc 1h15 hàng tuần của dàn nhạc thính phòng trường. Sau đó tạt qua trung tâm hướng nghiệp xem chương trình tuần này: một lớp kỹ năng nghề nghiệp của PricewaterhouseCoopers hay là hội chợ việc làm. Cần mua sách, mời vào Blackwell's Bookshop. Sách mua ở đây có thể hoàn lại cửa hàng cuối năm học để lấy lại nửa tiền (sách sau đó được bày bán với giá 2/3 giá gốc). Đến tối là những chương trình giải trí. Thích gặp người nổi tiếng, SV có thể dự các buổi nói chuyện do Forum (một tổ chức của SV trường) tổ chức.
Bên cạnh đó, còn có chương trình chiếu phim. Trân Châu Cảng, Nhật ký Bridget Jones đến trường với giá vé SV (1,5 bảng). Buổi tối cũng có các vở diễn tại nhà hát 250 chỗ ngồi của trường. Nhưng vì các vở kịch có thể làm bạn đi đứt 5 đến 10 bảng tiền vé, thôi thì ta vào xem tranh ở bảo tàng gần đó vậy. Riêng tôi, thích vào thư viện âm nhạc của trường. Vừa đọc sách vừa gắn headphone nghe nhạc. Có một phòng nghe với 9 máy nghe đĩa và một kho nhạc cổ điển. Một lúc sau nếu không còn đủ tập trung để cảm Shostakovich hay Britten, tôi quay ra xem bảng thông báo các chương trình hòa nhạc sắp diễn ra. Xem vô số tờ cáo thị bên cạnh về các mặt hàng cần mua bán, luôn dán đầy khắp trường. Ai đó viết nguệch ngoạc: ''Cần tìm người dạy trống. Tôi chưa biết tí gì, nhưng có đầy đủ nhiệt tình. Dạy tôi nhé!''
Khổ nỗi, học cao học thì không có nhiều thời gian ''ăn chơi''; thay vào đó, phải làm quen với cách giảng dạy ở cấp học mới. Học với các giáo sư chuyên ngành American Studies đến từ nhiều nơi khác nhau (Oxford, Cambridge, London, đến UCLA của Mỹ hay Queen's University của Canada) là niềm vinh dự nhưng cũng là thử thách. Thay vì thầy giảng - trò ghi, chúng tôi phải đối thoại với giảng viên trong suốt buổi học. Với cách dạy này, mỗi buổi học thành ''hội nghị bàn tròn'', với giáo sư (thường có hai người) là chủ toạ dẫn dắt và đặt câu hỏi cho SV thảo luận. Các buổi gặp riêng (tutorial) để trình bày đề tài tiểu luận với thầy cô cũng diễn ra trong tinh thần bình đẳng. Bình đẳng không chỉ giới hạn trong đề tài học thuật mà cả trong quan hệ ứng xử - như hai người bạn.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các khoa đảm bảo cho SV nắm bắt những diễn biến liên quan việc học của mình. Chẳng hạn, giữa học kỳ mùa thu này, tôi lựa môn ''Chủ nghĩa hậu hiện đại'' (Postmodernism) là môn tự chọn học trong học kỳ mùa xuân sang năm, do khoa Văn hóa học đảm trách. Từ đó đến nay, tôi thường xuyên nhận email từ khoa này thông báo các hoạt động mới, kể cả mời ăn tối để gặp một giáo sư vừa đến.
Dễ nhận thấy SV có tiếng nói quan trọng ở trường, những người bầu ra khoảng 450 đại diện cho các hoạt động thuộc Hội sinh viên (Students' Union). Các ''quan chức'' này có mặt trong 14 tổ chức (cho SV nước ngoài, người đồng giới...), 71 câu lạc bộ thể thao (từ Aikido đến leo núi), hơn một trăm hội thành lập dựa trên quốc tịch hay sở thích... Đầu năm học, bên cạnh các lễ hội chào mừng tân SV là ngày hội thông tin quảng bá các hoạt động cho SV. Hôm đó, tôi bị bao vây bởi vô số nhân vật lực lưỡng (nam) và xinh đẹp (nữ ) nhiệt tình chiêu mộ thành viên cho các hội nhóm trên. Bên cạnh một tờ báo, đài phát thanh và một rạp hát SV, Students' Union còn điều hành cả... quán bar trong trường. Buổi tối ở đó nhộn nhịp như mùa bầu cử đầu năm học, khi SV mở chiến dịch tranh cử vào các vị trí lãnh đạo của Students' Union. Ngoài ra, tại mỗi khoa có một ủy ban gồm lãnh đạo và đại diện SV khoa, họp thường kỳ để giải quyết các vấn đề SV phản ánh. Biên bản cuộc họp được in trong bản tin của khoa và gửi cho SV qua email.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 15, 2004 18:08:18 GMT -5
Là một trong 4 đại học nhận được nhiều tiền tài trợ nhất cho hoạt động nghiên cứu tại Anh, ĐH Nottingham rất xem trọng việc giới thiệu và nâng cao hình ảnh của mình. Tôi chú ý điều này bởi dường như hoạt động ''tiếp thị cho hình ảnh nhà trường'', nhằm thu hút SV giỏi và nguồn tài trợ, chưa được nhấn mạnh tại Việt Nam. Bên cạnh nguồn tài trợ cho hoạt động nghiên cứu đến từ tư nhân và chính phủ (80 triệu bảng vào năm ngoái), trường còn tìm thêm nguồn tiền cho hoạt động xây dựng và gây quỹ học bổng. Trung tâm nghệ thuật trị giá 5 triệu bảng là kết quả của một cuộc vận động tài trợ. Năm 1997, trường đặt ra kế hoạch 5 năm quyên góp 30 triệu bảng, và đến nay đã nhận được hơn 2/3 số tiền này.
Tiền đến từ nhiều hình thức vận động: cựu SV (6000 người đã góp gần 20 triệu bảng cho kế hoạch 5 năm kể trên), di chúc cá nhân, để tên mình lại trên một gốc cây trong trường (trị giá 1.000 bảng), và cả việc phát hành thẻ tín dụng (thông qua ngân hàng Scotland, trường nhận một khoản tương ứng khoản chi tiêu của chủ sở hữu thẻ.) Một loạt học bổng và công trình kiến trúc ra đời mang tên người tài trợ. Có thể hiểu vì sao trường lại có một phòng Marketing với nhiệm vụ tham vấn cho các đơn vị trong trường về vấn đề này. Ngoài ra có thể kể thêm phòng Public Affairs với nhiệm vụ phát triển mối quan hệ với cộng đồng và giới truyền thông. Phòng Public Affairs in một tập hướng dẫn 166 trang liệt kê từng chủ đề (từ lịch sử Bắc Mỹ đến kịch nghệ Nga) và chuyên gia của trường trong lĩnh vực tương ứng để phóng viên có thể dễ dàng liên lạc. Bên cạnh đó là một bán nguyệt san miễn phí giới thiệu các thành tựu mới của trường, từ việc cơ sở mới Jubilee Campus giành giải nhất 2001 của Hội hoàng gia kiến trúc sư Anh, một nhóm nghiên cứu công nghệ sinh học nhận 1 triệu bảng từ chính phủ, cho đến việc báo Impact của trường được chọn là tờ báo SV hay nhất 2001.
Hình như cuộc sống là những gì xảy ra khi bạn còn loay hoay dự liệu những điều khác hẳn. Tôi nhớ có lần Nguyễn Huy Thiệp nói: ''Một khi ra ngoài được lâu, trông thấy mọi chuyện rồi chợt thấy mình đã ngộ nhận.'' Có những bài học đến ngẫu nhiên, như câu cảm ơn người lái xe buýt mà hành khách nào cũng nói khi xuống xe, hay dáng đi tất tả trong thời tiết âm độ của giáo sư trong khoa cố kịp đến nghe một buổi nói chuyện, hay hình ảnh anh chàng trong lớp tôi thoải mái nhai kẹo cao su trong lớp nhưng cũng là người nhiệt tình phát biểu nhất... Bằng việc tạo ra tự do tối đa cho SV, trường đại học trở thành tấm gương phản ánh xã hội mà nó thuộc về, và bằng những bài học về ý thức trách nhiệm và tôn trọng, trường tạo nên một hiện thực thật hơn cuộc sống ngoài kia. Thật hơn vì nó là môi trường nuôi dưỡng niềm kiêu hãnh và khoan thứ cho các thanh niên có thể đầy khao khát dấn thân nhưng cũng bối rối giữa một thế giới xô bồ.
Còn gì nữa nhỉ? Có thể là việc học cả nỗi nhớ. Nếu đã quen cảm giác yêu thương dành cho mình rất gần, yên chí không bao giờ mất, thì cảm giác xa nhà tưởng có thể lấp đầy bằng sự háo hức chen lẫn rụt rè giữa một không gian mới. Lúc đó, nỗi nhớ, gửi qua email về nhà, nhiều khi mơ hồ và không dài hơn câu chào cuối thư là mấy. Nhưng khi nghe da diết điệu blues buồn từ người hát rong giữa quảng trường thành phố, khi đón chuyến xe buýt cuối ngày về nhà và rồi lững thững một mình trên con đường vắng, hay khi ngồi trên bãi cỏ cạnh mặt hồ mùa thu trong trường, nhìn đứa trẻ tập đá bóng cùng bố, đằng xa đôi SV vừa đi vừa hôn nhau, bỗng thấy hiện ra tình yêu và kỳ vọng của bố mẹ, gương mặt một cô gái không rời trí nhớ và lời hứa tán gẫu cùng bạn thân trong quán nhỏ như ngày cũ. Vào giây phút ấy, nỗi nhớ trở thành tiếng gọi quay về! Trần Lê Quỳnh SV cao học ĐH Nottingham
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:36:21 GMT -5
Đôi nét về giáo dục đại học ở Mỹ
Các trường đại học Mỹ nói chung không có thi đầu vào. Theo tôi, đây là một quan điểm rất tiến bộ: học tập là quyền chính đáng của mọi người, mặc dù xuất phát điểm có thể khác nhau. Nhờ vậy, tất cả những ai có chí đều có thể có cơ hội, ngược lại quốc gia cũng không bỏ phí nhân tài. Nhiều người cho rằng giáo dục phổ thông ở Mỹ không tốt bằng ở châu Âu, nhưng bù lại, số người đã hoặc đang theo đại học ở Hoa Kỳ nhiều hơn gấp bội. Vì thế, lực lượng lao động của Mỹ có chất lượng đào tạo không hề thua kém châu Âu.
Khác với Việt Nam từ nhiều năm nay trăn trở với vấn đề thi đại học, các trường đại học Mỹ nói chung không có thi đầu vào. Theo tôi, đây là một quan điểm rất tiến bộ: học tập là quyền chính đáng của mọi người, mặc dù xuất phát điểm có thể khác nhau. Nhờ vậy, tất cả những ai có chí đều có thể có cơ hội, ngược lại quốc gia cũng không bỏ phí nhân tài.
Nhưng muốn học, phải trả tiền. Khi anh bỏ tiền để mua kiến thức, anh sẽ có ý thức về việc học tập hơn. Còn nếu anh trả tiền mà không học, tức không nhận kiến thức, thì đó cũng là quyền của anh.
Nói vậy, nhưng việc đăng ký học cũng không phải hoàn toàn chỉ có chuyện tiền nong. Một số trường nổi tiếng khá kén chọn sinh viên. Một số bang cũng ưu tiên nhận sinh viên từ bang mình. Còn đối với sinh viên nước ngoài, điểm thi tiếng Anh (TOEFL) đặc biệt quan trọng.
Nhìn chung, bậc đại học (Undergraduate/ Bachelors program) ở Mỹ kéo dài 4 năm: Năm thứ nhất gọi là "Freshman Year", năm thứ hai: "Sophomore Year", năm thứ ba: "Junior Year", năm thứ tư - "Senior Year". Hai năm đầu học các môn cơ bản, năm thứ ba bắt đầu học chuyên ngành. Bậc cao học (Graduate Study) có hai cấp: Thạc sĩ (master degree) nhìn chung kéo dài 2 năm, và Tiến sĩ (PhD) từ 5 đến 7 năm.
Trường Đại học Y khoa là một ngoại lệ. Muốn vào trường, sinh viên phải có bằng tốt nghiệp đại học thuộc một số ngành như sinh hoá, sinh vật...Chương trình kéo dài 4 năm nữa, sau đó phải thực tập từ 2 đến 4 năm. Như vậy, để hành nghề chữa bệnh, cần phải học và thực tập từ 10-12 năm!
Chúng ta cần phân biệt Đại học tổng hợp (University) với Đại học đơn ngành (College). "College" chỉ có một ngành học, có thể độc lập hoặc thuộc một "Univerrity"; còn "University" có nhiều ngành, thường bao gồm nhiều "College". Vì thế, những trường ở Việt Nam như Đại học luật hay Đại học thương mại dịch sang tiếng Anh, theo tôi, phải là "College" chứ không phải là "University".
Các trường đại học Mỹ có thể chia ra làm 7 loại chính:
1. Các trường của bang (State College hoặc University ): do chính phủ các bang quản lý và cung cấp tài chính. Mỗi bang ở Mỹ có ít nhất một trường Đại học tổng hợp và một số trường đại học đơn ngành loại này.
2. Các trường tư (Private College hoặc University): Thường thu học phí cao hơn so với các trường của bang và thường nhỏ hơn về quy mô.
3. Các trường địa phương (Community College): thuộc sự quản lý của các quận hoặc thành phố. Các trường này thường tổ chức các lớp buổi tối cho những người phải làm việc ban ngày. Tuy nhiên, một số quốc gia không công nhận bằng do các trường này cấp.
5. Các trường nghề (Professional School): đào tạo một số chuyên môn như Hội hoạ, Âm nhạc, Kỹ thuật, Thương mại.... Các trường này có thể thuộc một trường Đại học tổng hợp hoặc độc lập.
6. Các Viện công nghệ (Institute of Technology): dạy khoa học và công nghệ trong vòng ít nhất bốn năm. Một số cũng nhận nghiên cứu sinh.
7. Các trường của Nhà thờ (Schools run by Church): Nhiều trường đại học Mỹ (College và University) do các tổ chức tôn giáo thành lập và quản lý. Phần lớn các trường này tiếp nhận cả sinh viên thuộc các tôn giáo khác, nhưng ưu tiên những người theo tôn giáo của họ. Sinh viên các trường này thường bắt buộc phải học Kinh thánh và đi lễ nhà thờ.
Việc học tập ở Mỹ rất tốn kém. Mức chi tiêu tối thiểu của một sinh viên ở các trường công vào khoảng 10 ngàn đô la/năm, còn ở các trường tư khoảng 35 ngàn đô la. Vì thế, trừ một số người được nhận học bổng hoặc xuất thân từ gia đình giàu có, sinh viên Mỹ hầu hết vừa học vừa làm, một số làm việc ngay tại trường.
Việc vừa học vừa làm, theo tôi, là một yếu tố quan trọng khiến sinh viên Mỹ tự lập hơn nhiều so với sinh viên các nước khác. Nhiều người bỏ dở chương trình học, nhiều năm sau mới tiếp tục học trở lại và thi tốt nghiệp. Trong mọi trường hợp, khi ra trường, nhiều người trong số họ không chỉ đã có công ăn việc làm, mà còn có kinh nghiệm giao tiếp, có quan hệ, có thái độ thực tiễn về vấn đề tài chính, và nhất là có bản lĩnh trong việc hoạch định tương lai.
Ngô Tự Lập (Từ Normal, Hoa Kỳ )
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:46:01 GMT -5
Suy nghĩ về giáo dục Việt Nam của một học sinh Bây giờ, hầu như ai cũng có những thắc mắc, băn khoăn về giáo dục. Tại sao phần lớn học sinh chúng tôi tốn nhiều thời gian, công sức học tập hơn bạn bè các nước, mà kết quả thường là kém hơn?
Điều mà hầu như học sinh nào trong chúng tôi cũng có chung nhận xét là: chương trình học của ta ít tạo được hứng thú cho người học! SGK không cập nhật thực tế hiện đại. Môn Toán, hệ thống kiến thức chưa thật khoa học, nhiều bài tập hoặc là quá đơn giản đến mức không có ý nghĩa gì về mặt lý luận, hoặc lại quá nặng nề về tính toán, xa rời ứng dụng thực tiễn (đặc biệt là phần lượng giác và một số phần về hàm số ). Vật lý, Hóa học, Sinh học chỉ đơn thuần là lý thuyết suông nặng nề, khô khan, không có thực nghiệm minh họa. Môn Văn tuy có nhiều tác phẩm hay nhưng cách phân tích còn khuôn mẫu, sáo mòn, đôi lúc không phù hợp với cảm nghĩ của học sinh. Môn Giáo dục công dân nặng về giáo lý...
SGK tiếng Anh cấp III hệ 3 năm từ rất lâu rồi chưa được biên soạn lại (ví dụ như còn ghi những giá cả hồi 1985, một chiếc xe đạp 12.000đ, một hộp chè 80đ ). Ngôn ngữ tiếng Anh và nội dung bài học được biên soạn cũng rất đơn điệu, khác với tiếng Anh mà người ta đang dùng. Tin học tuy đã được đưa vào nhà trường nhưng chưa có chương trình thống nhất, chưa có tính ứng dụng.
Một môn vốn hay như Lịch sử cũng đã trở nên nặng nề vì thiên về học thuộc lòng, không có những bài chuyên đề để học sinh tự tìm tòi tài liệu, tranh ảnh. Phần lớn các bạn quên nhiều nội dung lịch sử chỉ một tháng sau khi kiểm tra. Thể dục thì khỏi phải nói, hầu hết học sinh chúng tôi cảm thấy chán ngắt, ngán ngẩm với cái môn lẽ ra phải rất quan trọng này. Nói thật là, nhiều khi chúng tôi yêu môn học nào đó chỉ vì thích phong cách dạy học của một vài thầy cô cụ thể chứ không phải hài lòng với chương trình sách giáo khoa.
Có lần, tôi đọc bài của bác Lương Ánh Lộc trên Báo Gia đình & Xã hội và không khỏi giật mình. Bác Lộc kể chuyện con gái bác vì không đi học thêm môn Văn mà bị cô giáo dùng điểm để trù dập, làm bài kiểm tra tốt nhưng chỉ được 3, còn các bạn cùng lớp làm bài kém hơn nhiều nhưng đi học thêm cô nên vẫn được 7, 8. Như vậy, việc học thêm không phải xuất phát từ học sinh mà chủ yếu chính là từ những người làm trong ngành giáo dục. Học sinh chúng tôi nếu có nhu cầu học thêm thì cũng chỉ muốn học thêm những môn chúng tôi ưa thích, muốn bồi bổ thêm những kiến thức mà chúng tôi quan tâm. Không thể phủ nhận rằng vẫn có những lớp học thêm đúng nghĩa, với nhiều thầy cô giáo tâm huyết muốn truyền đạt những kiến thức mới mẻ và cách tư duy sáng tạo cho những học sinh có tố chất và lòng say mê. Nhưng số lượng này quá ít ỏi so với hàng ngàn lớp luyện thi trên cả nước - những địa điểm sục sôi trước mỗi kỳ tuyển sinh.
Tôi đã từng liên hệ với nhiều bạn học sinh Mỹ, Anh, Canada, Úc, New Zealand, Singapore,... và thấy rằng họ khác hẳn ta. Chương trình học phổ thông của các bạn ấy rất đơn giản, rất cơ bản nhưng có tính ứng dụng cao về sau. Các bạn học phổ thông ở những nước đó không bao giờ phải lo học thêm, học trước chương trình mà có thể dành thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, vui chơi rất thoải mái. Tôi cũng đã từng tận mắt xem những cuốn sách giáo khoa của họ, mọi thứ trong đó đều đơn giản và hết sức dễ hiểu. Từ khoảng lớp 11 - 12, chương trình học đã phân chia rõ ràng, mỗi bạn chỉ bị bắt buộc học 4 - 5 môn phù hợp với ngành nghề mà bạn đó định theo trong tương lai. Đề thi ở các nước đó không khó nhưng tổng thể vẫn có tính cạnh tranh, tính chọn lọc rất cao. Họ thường thi trắc nghiệm, mỗi câu hỏi chỉ yêu cầu tối đa khoảng 2 - 3 con tính tương đối đơn giản, nhưng cái hay là ở chỗ học sinh phải có kiến thức và bản lĩnh vững vàng mới giải đúng được 10 - 15 câu liên tiếp. Thi như vậy không hề nặng nề mà người học giỏi luôn yên tâm là có kết quả tốt, người học trung bình cũng vẫn chỉ được kết quả bình thường, nghĩa là kết quả hoàn toàn phản ánh đúng thực lực của người học.
Điều đáng tiếc là học sinh phổ thông chúng tôi học khó hơn, mất nhiều thời gian công sức hơn nhưng lại kém hơn rất nhiều so với bạn bè, đặc biệt là về mặt hiểu biết xã hội và sự tháo vát, năng động.
Lương Thế Vinh (Học sinh khối phổ thông chuyên Toán - Tin, Đại học Sư phạm Hà Nội)
|
|
|
Post by Robot on Mar 20, 2004 5:01:48 GMT -5
AIT
TTCN - AIT là tên gọi quốc tế thông dụng của Học viện Công nghệ châu Á (Asian Institute of Technology) - nơi có khá nhiều SV VN đang theo học. Học viện đóng tại Thái Lan, nhưng không nằm trong hệ thống giáo dục của Thái Lan mà thuộc hệ thống nghiên cứu đại học tiểu vùng sông Mekong.
Hội trường AIT, một buổi sáng đẹp trời. Tiếng nhạc trầm hùng bỗng vang lên. Trong số các vị khách mời có cả đại diện Bộ GD-ĐT VN. Tiếp đến, các sinh viên (SV) tốt nghiệp lần lượt đi vào các hàng ghế giữa hội trường. Trong không khí trang trọng, lễ bế mạc khóa học lần 99 và trao bằng tốt nghiệp cho SV diễn ra gọn nhẹ trong khoảng một giờ.
Các tân tiến sĩ, thạc sĩ ai cũng biểu lộ niềm hân hoan, xúc động trên nét mặt khi từng người lần lượt bước lên nhận tấm bằng từ tay giáo sư Jean - Louis Armand, viện trưởng AIT. Có thể gặp các bạn trẻ đến từ các nước châu Á như VN, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Ân Độ, Nepal, Bangladesh... các nước châu Âu như Pháp, Đức, Thụy Sĩ, ở Bắc Mỹ như Canada..., các nước châu Phi như Ethiopia, Nigeria... Khóa này có tất cả 221 SV của 22 nước nhận bằng tiến sĩ, thạc sĩ.
Điều đáng chú ý là trong đó có 65 bạn trẻ VN, chiếm gần 30% tổng số SV tốt nghiệp. Khuôn viên của AIT khá rộng, nằm ở vùng Pathumthani, cách thủ đô Bangkok khoảng 50km. Ngoài khu vực chung như văn phòng học viện, thư viện, trạm xá, căngtin, ký túc xá, cửa hàng sách, siêu thị, chi nhánh bưu điện và ngân hàng..., có bốn khu vực dành riêng cho bốn trường trong học viện gồm có: Trường Công nghệ cao (trường lớn nhất học viện), Trường Kỹ thuật xây dựng, Trường Quản lý, Trường Môi trường - tài nguyên và phát triển.
Trong khuôn viên AIT còn có hai sân vận động, năm sân quần vợt, năm sân cầu lông, một hồ bơi, tất cả đều được sử dụng miễn phí.
Tính đến tháng 9-2003, tại AIT đang có 1.846 SV của 50 nước. Từ khi thành lập năm 1959 đến tháng 9- 2003 đã có 12.510 SV của 71 nước tốt nghiệp nhận bằng tiến sĩ, thạc sĩ, trong đó có 1.236 SV VN (chưa tính khóa này). Trong những khóa đầu, số lượng SV VN học ở AIT còn ít, càng về sau càng tăng thêm nhiều.
Khi vào AIT, SV phải làm các thủ tục nhập học như đăng ký tập trung theo từng ngành và trường. Sau đó SV được kiểm tra tiếng Anh gồm các phần văn phạm, đọc hiểu, trắc nghiệm và viết; nếu không đạt sẽ phải học bổ túc thêm tiếng Anh. Đạt các yêu cầu trên, được làm thẻ SV, mở tài khoản (nếu cần), đăng ký các môn học (4-5 môn sau khi thảo luận với người cố vấn của mình), đăng ký địa chỉ email (cũng chính là mã số ngành mình học), đăng ký thẻ vào phòng máy tính, đăng ký thẻ mượn sách thư viện...
Học chương trình cao học tại AIT, SV phải hoàn thành 55-60 tín chỉ. Điểm và xếp hạng được tính như sau: A (Excellent) 4,00 điểm, B+ (Very Good) 3,50 điểm, B (Good) 3,00 điểm, C+ (Fair) 2,75 điểm, C (Poor) 2,50 điểm, D (Very Poor) 1,00 điểm, F (Failed) 0,00 điểm. Điểm trung bình cuối khóa nếu thấp hơn 2,75 sẽ không được làm luận văn tốt nghiệp và có thể sẽ bị về nước. Các SV VN tại AIT đã tập hợp lại thành tổ chức đoàn SV VN với ban chấp hành khoảng 20 người. Đoàn thường tổ chức các buổi sinh hoạt bổ ích và lý thú cho các bạn trẻ VN, đồng thời giao lưu với SV các nước bạn.
Hằng tháng, Đoàn có ra một bản tin phản ánh tình hình của SV VN, đồng thời trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong học tập và sinh hoạt. Tôi có dịp đọc một số bản tin này theo từng chủ đề như Lời chào mùa hạ (5-2003), Nhịp điệu thời gian (6-2003), Gặp gỡ đầu thu (9-2003), Quà tặng tháng mười (lO-2003)..., nội dung khá đa dạng và phong phú.
Về đội ngũ giảng viên, Học viện AIT đã mời 128 nhà khoa học có uy tín ở 29 nước trên thế giới tham gia giảng dạy cho SV. Trong đó có một số giảng viên VN như GSTS Huỳnh Ngọc Phiên, GSTS Phan Minh Dũng, TS Trương Quang, TS Đỗ Bá Khang, TS Huỳnh Trung Lương, TS Nguyễn Thị Kim Oanh...
Trong thời gian thăm AIT, tôi tranh thủ đến thăm người đồng hương Quảng Ngãi đang làm việc ở đây, đó là GS.TS Huỳnh Ngọc Phiên, hiện là hiệu trưởng Trường Công nghệ cao của AIT, rất có uy tín trong học viện. Ông cho biết: “Số SV VN học tập tại đây khá đông, chỉ đứng sau số SV Thái Lan. Các SV nước ta học khá tốt...”.
Do ở đây có nhiều sinh viên VN học tập nên ngay trong khuôn viên của học viện, ngoài căngtin chung, một quán ăn treo bảng hiệu “Vietnamese food” (do người Thái Lan tổ chức) để thu hút SV VN. Tôi cũng đã thử vào ăn ở quán này, thức ăn tuy chưa thật hợp khẩu vị nhưng hôm ấy thật vui vì SV VN khá đông, có cả một số phụ huynh từ Hà Nội và TP.HCM sang dự lễ tốt nghiệp. Quả là một cuộc hội ngộ rôm rả thật lý thú mừng thành công của con em mình.
Tạm biệt AIT với mong ước từ nơi này cũng như từ các trường nổi tiếng khác trên thế giới, ngày càng có nhiều nhà khoa học trẻ Việt Nam ra trường trở về đem kiến thức thu nhận để xây dựng quê hương đất nước. Và hi vọng trong tương lai không xa, ở VN ta cũng sẽ có một học viện quốc tế đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ tầm cỡ như AIT.
TRƯƠNG VĂN TIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Jul 23, 2004 22:49:07 GMT -5
Thư Berlin
Sinh viên tóc bạc trong giảng đường đại học
TTCN - Tôi để ý đến ông trong buổi giảng thứ hai của tôi ở khoa lịch sử nghệ thuật Trường đại học Tự Do Berlin. Cũng như lần trước, ông là người đến sớm nhất, lặng lẽ tìm một chỗ ngồi trong giảng đường và chờ đợi.
Tuần trước, GS-TS Jeong Hee Lee-Kalisch, chủ nhiệm khoa, mời tôi và GS Thomas Ulbrich (người Đức) nói chuyện một buổi về gốm men lam Huế (bleus de Hue) cho sinh viên trong khoa và những người quan tâm cùng nghe. Đây không hẳn là đề tài quá xa lạ với những người nghiên cứu gốm sứ ở Đức.
Có ít nhất ba người Đức là GS Thomas Ulbrich, GS Jochen May và nhà sưu tập Norbert Moos đã sưu tầm, nghiên cứu và công bố những bài viết về gốm men lam Huế trong các năm 1998-1999. Trong Bảo tàng nghệ thuật Đông Á ở Berlin từng có một phòng trưng bày đồ gốm sứ VN, trong đó có gốm men lam Huế. Tuy nhiên, với sinh viên Đức thì bleus de Hue là một khái niệm như vọng đến từ hành tinh khác.
Khoảng 30 người đến dự buổi nói chuyện của chúng tôi, cả sinh viên, các nhà nghiên cứu gốm sứ phương Đông và một số người phụ trách ở Bảo tàng nghệ thuật Đông Á. Vài người quan tâm đã hỏi chúng tôi một số câu hỏi, đại loại: “Vì sao vua chúa VN phải ký kiểu (order to make) đồ sứ trong khi vào thời đó VN cũng là một nước xuất khẩu đồ sứ?”; “Chữ Nôm là gì? Vì sao đó cũng là chữ tượng hình, vay mượn từ Hán tự mà người Trung Hoa lại không hiểu, đến nỗi viết chữ Nôm trên bleus de Hue lại sai?”, hay “Bleus de Hue cũng do người Trung Hoa làm ra, sao lại xếp nó vào dòng gốm sứ VN?”. Khi chúng tôi trả lời những thắc mắc đó thì ông lặng lẽ ghi chép những giải đáp vào cuốn sổ tay dày cộp.
Buổi giảng bài thứ hai của tôi nói về đề tài pháp lam Huế. GS Lee-Kalisch cho biết bài giảng lần này nằm trong chương trình chính khóa của khoa nên chỉ có sinh viên trong khoa đến dự, không có người ngoài. Vì thế tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông lại xuất hiện trong giảng đường, trước cả tôi, vẫn lặng lẽ mở cuốn sổ ra, chờ đợi.
Khoảng 60 người đến dự, trong đó có khoảng chục người ở độ tuổi 45-50. Vài người trong số họ đã từng đến VN. Tôi có cảm giác là họ không hứng thú gì lắm với chuyện men màu, dáng kiểu của pháp lam Huế nhưng lại rất khoái tìm hiểu những chuyện như: “Vì sao tên nước VN có từ đầu thế kỷ 19 nhưng trong sách vở phương Tây xuất bản cả trăm năm sau vẫn ghi là Annam?”; “Vì sao người VN học nghệ thuật làm pháp lam từ Trung Hoa nhưng không gọi là falang mà lại gọi là pháp lam?”...
Cũng như lần trước, ông lại lặng lẽ ghi chép các câu trả lời của tôi một cách cẩn thận. Đến lúc cuối giờ, ông mới hỏi tôi: “Vì sao đồ pháp lam Huế đẹp như thế nhưng lại rất ít phổ biến ra bên ngoài?”. Đúng lúc đó thì chuông reo. Tôi hẹn gặp ông ở căngtin trong trường để trả lời câu hỏi của ông và cũng để tìm hiểu xem ông là ai.
Khi tôi đến căngtin, ông mời tôi một ly cà phê và tự giới thiệu: “Tôi là Gerhard Claus, sinh viên năm thứ nhất khoa lịch sử nghệ thuật của Đại học Tự Do Berlin, rất quan tâm đến nghệ thuật và cổ vật của các nước Đông Á”. Quả là một sự ngạc nhiên thú vị: một ông già tóc bạc trong giảng đường đại học, không phải là giáo sư mà là sinh viên năm 1.
Dường như thấu hiểu sự ngạc nhiên của tôi, ông giải thích thêm: “Mấy bà lớn tuổi ngồi nghe anh giảng bài trong giảng đường cũng đều là sinh viên cả. Một vài người học dự thính, không phải thi cử, nhưng cũng có vài người ghi danh học chính thức như tôi, phải làm bài kiểm tra, phải thi học kỳ và tất nhiên bài thi phải đủ điểm mới được lên lớp. Chúng tôi còn một kỳ thi nữa vào cuối tháng này”.
Qua câu chuyện tôi được biết ông đã 66 tuổi, nguyên là giám đốc một công ty kinh doanh đồ nội thất ở Berlin. Cách đây một năm, ông nghỉ hưu, giao quyền điều hành công ty cho người con và ghi danh học đại học. “Tôi đam mê nghệ thuật và đồ cổ nhưng trước đây bận rộn kinh doanh nên không có thời giờ để học hỏi. Nay nghỉ hưu, tôi mới có thể thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, học hỏi về đồ cổ của mình”. “Vậy ông sẽ cố gắng đoạt bằng đại học vào tuổi 70 chứ”, “Dĩ nhiên! Tại sao không nhỉ!”.
Tôi được biết ở Đức những “sinh viên tóc bạc” như ông rất nhiều. Ai cũng có quyền ghi danh học đại học. Học dự thính thì trả tiền theo học trình tự chọn lựa, khỏi phải thi cử vì học chỉ để tích nạp kiến thức. Học chính khóa thì phải theo đủ thủ tục như những sinh viên bình thường. Không có chế độ ưu tiên, miễn giảm nào. Điều đó có nghĩa rằng cánh cửa đại học ở Đức mở ra cho tất cả mọi người. Lúc trẻ chưa được làm sinh viên đến khi về già vẫn có cơ hội làm sinh viên và sở hữu tấm bằng đại học.
Chia tay ông Gerhard Claus, tôi chúc ông vượt qua môn thi cuối cùng trong học kỳ này để trở thành sinh viên năm 2 vào tháng mười tới.
TRẦN ĐỨC ANH SƠN
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 6:11:35 GMT -5
Du học ở Trung Quốc
Bài 1: Du học gần nhà và “ngon, tiện, rẻ”!
TT - Trước khi sang Trung Quốc (TQ), B.C. không hề biết một từ tiếng Hoa nào, được cha tận tay dẫn sang tận Quế Lâm để giao cho nhà trường.
Ngày học đầu tiên của B.C. tại Học viện điện tử Quế Lâm (Quảng Tây, TQ) là học môn... nấu món ăn TQ tại nhà riêng của cô giáo cùng với hai sinh viên Mỹ.
Và bài học đầu tiên này tỏ ra hết sức hữu hiệu, cả về kỹ năng nấu ăn lẫn trình độ tiếng...
Hợp lý và hiệu quả
Ngoài môn học nấu ăn để phục vụ việc học tiếng Hoa nhanh, chuẩn xác và hiệu quả nhất, các SV mới như B.C. còn được học thư pháp và thư họa TQ, học thái cực quyền, học cách ăn mặc theo y phục truyền thống Trung Hoa qua các thời kỳ, các vùng miền... Họ được bố trí ở xen với SV TQ để tăng cường cọ xát, giao lưu; mỗi SV TQ được phân công kèm cặp giúp đỡ một SV nước ngoài mới vào.
Ngay từ lần gặp đầu tiên, Mao Tuấn Kỳ - cậu SV năm 4 khoa tiếng Anh - đã nói với T.L., cô bé Hà Nội mảnh dẻ: “Ra ngoài nhiều vào, nói chuyện nhiều vào, đi ăn nhiều vào, ghi tên vào đội bóng rổ đi. Chiều nay tôi đợi bạn ở sân bóng số 4 nhé!” (học viện có đến năm sân bóng rổ và hai sân bóng đá). Phòng học múa, phòng học nhạc (miễn phí) và discotheque SV (giá vào cửa 2 tệ - khoảng 3.900 VND) cũng là nơi mà SV VN có thể tiếp xúc, kết bạn để nâng cao vốn từ tiếng Hoa của mình.
Ở ĐH Sư phạm Quảng Tây, nơi mà khuôn viên trường rộng mênh mông (khoảng 800ha), còn có những ngọn đồi tình yêu, con đường tình yêu đẹp như mơ. Tuy nhiên, qui định của trường này thật ra khá nghiêm ngặt: sau 22g, SV nam tuyệt đối không được vào phòng SV nữ và ngược lại. Đèn phòng ngủ cũng buộc phải tắt sau 23g để đảm bảo sức khỏe cho các SV có giờ lên lớp sáng hôm sau.
Chuyện học, chơi, tập luyện thể thao... trong các trường ĐH ở Quảng Tây được SV VN đánh giá là khá so với các trường ĐH khác ở TQ và khu vực Đông Nam Á; riêng chuyện ăn được coi vào loại tốt nhất, vì đạt tất cả các tiêu chuẩn của SV: ngon, sạch, nhanh, tiện, phong phú và cơ bản nhất là rẻ.
Mỗi trường ĐH trung bình có 4-8 nhà ăn SV, mỗi nhà ăn đều do tư nhân đấu thầu và phải cam kết thực hiện tất cả tiêu chuẩn do nhà trường đặt ra. Nhà ăn nhỏ khoảng 1.000 chỗ ngồi, nhà ăn lớn tới 2.500 chỗ, mở cửa từ 6g - 20g, các món ăn rất phong phú, theo các kiểu Á, Âu, TQ, ăn kiêng... cho SV tha hồ lựa chọn phù hợp sở thích và túi tiền, khoảng 1,5 - 10 tệ/bữa (3.000 - 20.000 VND). Thường thì SV nữ chỉ tốn khoảng 2,4 tệ cho một bữa ăn, còn các SV nam ăn nhiều hơn, khoảng 5 - 6 tệ.
Gần nhà, giá không đắt
TQ hiện là nước thu hút lưu học sinh VN vào loại đông nhất. Theo con số thống kê của Bộ GD-ĐT, năm học 2003 có khoảng 4.000 lưu học sinh VN tại TQ, trong đó riêng tỉnh Quảng Tây đã chiếm đến 2.000, tập trung tại chín trường ĐH của hai thành phố Nam Ninh và Quế Lâm, trong đó “vô địch” phải kể đến ĐH Sư phạm Quảng Tây với 530 lưu học sinh VN - chiếm 95% lưu học sinh nước ngoài của trường này.
B.C. hay T.L. không phải là trường hợp cá biệt, hàng trăm học sinh học không kém lắm nhưng vẫn trượt đại học vì trót đăng ký nguyện vọng 1 vào những trường có điểm chuẩn quá cao, gia đình lại thuộc loại trên mức trung bình đã được cha mẹ thu xếp cho một khóa du học TQ vì những lý do: tương đối gần nhà (từ Hữu Nghị quan, Lạng Sơn - địa đầu VN đến Nam Ninh - thủ phủ Quảng Tây 230km; từ Nam Ninh đến Quế Lâm - thành phố du lịch nổi tiếng và là trung tâm đại học của Quảng Tây - 410km), giá cả không quá cao, bằng cấp được quốc tế công nhận.
Thật ra tính toán của các bậc phụ huynh không phải không có lý: tại các trường ĐH ở Quảng Tây, TQ, học phí cho SV nước ngoài khoảng 1.300 - 2.000 USD/năm tùy từng trường, tiền phòng ký túc xá 300 - 500 USD/năm, ăn uống khoảng 500 - 1.000 tệ (một tệ TQ tương đương 1.950 VND) mỗi tháng. Nếu các cô chiêu cậu ấm chí thú học hành và biết tự lo cho tương lai của mình, ăn tiêu dè sẻn thì với khoảng 50 triệu đồng VNĐ/năm, sau bốn năm, với 200 triệu đồng tiền ăn học, cộng thêm khoảng 20 triệu chi phí đi - về thăm nhà, họ sẽ có một ngoại ngữ sử dụng tốt, một tấm bằng giá trị và hơn thế, một nghề tử tế để vào đời.
Tất cả các trường ĐH của TQ đều đang có kế hoạch chiêu sinh ở VN. Học viện điện tử Quế Lâm dự định liên kết với một trường ĐH của VN đưa hơn 100 SV năm 3 sang đây học tiếp hai năm cuối để lấy bằng của TQ, còn trường sư phạm thậm chí đã mua thêm đất xây hẳn một khu ký túc xá 800 phòng để chiêu sinh quốc tế, mà chủ yếu là SV VN.
Có lẽ để nhắm đến thị trường du học vừa tiềm năng vừa truyền thống này mà tại vị trí trang trọng nhất trong khuôn viên ĐH Sư phạm Quảng Tây, ngay trước thư viện khổng lồ của mình, nhà trường đã cho tạc một bức phù điêu bằng đồng đặc tả những dụng cụ bất ly thân của một lưu học sinh VN những năm 1950 - 1960, thời mà ĐH Sư phạm Quảng Tây còn mang tên Dục Tài học hiệu, được Chính phủ CHND Trung Hoa ủy thác giúp VN đào tạo con em cán bộ cao cấp và con em liệt sĩ: chú bé thiếu sinh quân đeo túi dết chéo, biđông, đầu đội nón lá.
Nhiều học sinh tốt nghiệp Dục Tài học hiệu hơn 40 năm trước đã trở thành cán bộ lãnh đạo cao cấp ở VN. Quế Lâm đang hi vọng một lần nữa thành phố này lại trở thành một cái nôi đào tạo nhân tài cho VN, nhưng lần này có thêm nguồn thu lớn vì giáo dục đã trở thành ngành kinh tế mạnh của Quảng Tây.
THU HÀ
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 6:13:02 GMT -5
Du học Nhật Bản: vừa học vừa làm
Du học Nhật ban đầu khiến nhiều người e ngại vì chi phí hơi cao nhưng thực ra sinh viên chỉ phải tốn nhiều chi phí cho năm đầu. Những năm học sau khi đã thành thạo tiếng sinh viên hoàn toàn có thể đi làm để tự trang trải chi phí học tập.
Du học Nhật ngày càng thu hút nhiều sinh viên Việt Nam vì rất nhiều lý do: Nhật nổi tiếng thế giới vì chất lượng giáo dục cao đặc biệt trong các ngành tin học, kỹ thuật, kinh tế; quan hệ giữa Nhật và Việt Nam ngày càng phát triển nên cơ hội quay về làm việc tại Viêt Nam với mức lương cao là rất lớn chưa kể tới 80% cơ hội ở lại làm việc tại Nhật…
Nhưng một trong những lý do quan trọng nhất đối với những người Việt nam cần cù chăm chỉ là học tại Nhật sinh viên có nhiều cơ hội làm thêm, rất nhiều cơ hội làm thêm vì Nhật luôn nổi tiếng là một đất nước giàu có và thiếu nhân công.
Làm việc hợp pháp:
Sinh viên Việt Nam muốn học đại học tại Nhật phải học tiếng Nhật tại các trường ngôn ngữ trong khoảng từ 1- 2 năm tuỳ theo trình độ và mức tiến bộ của mỗi người. Thông thường ba tháng sau khi sang tức là khi trình độ tiếng Nhật đã kha khá bạn có thể đi làm thêm. Nếu bạn chăm học tiếng Nhật ngay tại Việt Nam bạn thậm chí có thể đi làm ngay sau khi sang.
Lưu ý, ở Nhật sinh viên nước ngoài muốn đi làm thêm phải có giấy phép của chính phủ và giấy bảo lãnh của nhà trường. Nhà trường có giúp sinh viên xin được giấy phép hay không là tùy thuộc vào uy tín và danh tiếng của họ.
Công việc và thu nhập
Sang Nhật bạn có thể lựa chọn nhiều loại công viêc. Phân theo trình độ tiếng thì bạn có thể làm những công việc sau :
Khả năng tiếng chưa cao: bạn có thể làm những việc lao động giản đơn không đòi hỏi nhiều trình độ tiếng như rửa bát, quét dọn, làm trong nhà máy sản xuất. Đối với công việc này bạn có thể kiếm được 750 yên (6USD)/giờ.
Trình độ trung cấp: bạn có thể đi dạy tiếng cho người Việt mới sang, bồi bàn, phụ bếp và kiếm được khoảng 800 – 1000 yên (7 -9 USD)/giờ.
Sau một năm học khi trình độ tiếng đã khá bạn có thể đi làm phiên dịch với mức lương 1000 yên (11 USD)/giờ.
Ngoài ra, việc làm cho sinh viên còn có rất nhiều loại hình công việc phong phú đa dạng. Có những bạn trẻ giỏi nấu ăn ngay cả khi có trình độ tiếng Nhật rất tốt vẫn muốn làm trong nhà hàng vì được trả lương cao. Nhiều bạn khác thạo vi tính có thể làm những việc liên quan tới tin học, văn phòng... công việc vừa nhàn vừa cho thu nhập rất khá.
Những điều cần biết khi làm việc với ông chủ Nhật
Một trong những sinh viên đã cùng đi du học Nhật cùng Atlantic tâm sự: Tôi thấy đi làm thêm ở Nhật thực sự có lợi, không chỉ vì tôi vừa có điều kiện được học tiếng vừa kiếm thêm tiền trang trải thêm cho cuộc sống của tôi tại Nhật mà còn vì khi làm việc với người Nhật tôi học được tính nghiêm túc, độc lập trong công việc của họ.
Người Nhật xưa nay vẫn nổi tiếng nghiêm túc trong công việc, vì vậy muốn làm việc lâu dài với họp bạn nên để ý những chi tiết nhỏ sau : - Nên đến trước giờ làm 5 phút để thay đồ và tiếp nhận công việc. -Trong thời gian làm việc phải nghiêm túc đến giờ làm việc mới được nghỉ. -Tuyệt đối không dùng di động trong thời gian làm việc. -Làm đâu gọn đấy không làm ảnh hưởng tới người khác.
Làm thêm rất tốt cho học tập
Nhiều vị phụ huynh lo lắng: nếu cơ hội làm việc nhiều và dễ dàng như vậy các bạn trẻ lại chỉ mê mải làm việc mà sao nhãng học tập. Họ hoàn toàn có thể yên tâm vì chính phủ Nhật chỉ cho phép sinh viên làm việc tối đa 28 giờ/tuần.
Mặt khác, thời gian đầu khi học tiếng học sinh chỉ phải học 4 tiết một ngày. Như vậy ngay cả khi đã đi làm họ vẫn có thời gian học tập.
Các trường đại học ở Nhật cũng rất khác ở Việt Nam, sinh viên có thể lựa chọn môn học theo thời gian thích hợp miễn là hoàn thành đủ số đơn vị học trình quy định. Vì vậy, sinh viên nước ngoài có thể vừa học vừa làm mà không sợ ảnh hưởng tới thời gian học tập.
Theo VYSA - Athlantic
|
|
|
Post by Robot on Oct 25, 2004 12:52:03 GMT -5
Du học Đức: Nhiều cơ hội học tập miễn phíCộng hòa Liên bang (CHLB) Đức có trên 300 trường ĐH chuyên ngành và tổng hợp. Đặc biệt, với chính sách hỗ trợ giáo dục ưu đãi (miễn 100% học phí ĐH) của Chính phủ Đức, thì đây chính là một địa điểm và cơ hội tốt để sinh viên (SV) Việt Nam đến trau dồi tri thức ĐIỀU KIỆN, THỦ TỤC Đối với các trường ĐH ở Đức, yêu cầu bắt buộc phải là SV vừa thi đỗ, SV đang học ĐH, CĐ hoặc đã tốt nghiệp ĐH, CĐ trực thuộc hệ thống giáo dục của Bộ GD-ĐT Việt Nam; có trình độ tiếng Đức tối thiểu 400 giờ và có 1 tài khoản từ 6.500 euro tại ngân hàng Đức. Đối với các khóa cao học (tự túc hoặc có học bổng), SV phải đạt trình độ tốt nghiệp ĐH; tiếng Đức tối thiểu 400 giờ (nếu học bằng tiếng Đức), bằng TOEFL 500 điểm (học bằng tiếng Anh); có 1 tài khoản 6.500 euro tại ngân hàng Đức (nếu học tự túc) hoặc chứng nhận công tác (có học bổng). Riêng chương trình giao lưu văn hóa dành cho học sinh bậc THPT, chỉ yêu cầu học sinh ở độ tuổi từ 14 đến 18 tuổi; trình độ tiếng Đức tối thiểu 200 giờ; có phẩm chất đạo đức tốt. Sau khi hội đủ các điều kiện trên, SV liên hệ một trường ĐH, CĐ... của Đức để được nhà trường đồng ý nhận và gởi giấy gọi nhập học về Việt Nam cho SV. Hồ sơ xin du học Đức bao gồm: học bạ THPT; bằng tốt nghiệp THPT; giấy gọi nhập học vào ĐH, CĐ ở Đức; giấy chứng nhận SV; bảng điểm (nếu có); bằng tốt nghiệp ĐH, CĐ (nếu đã tốt nghiệp); sơ yếu lý lịch; hộ chiếu; giấy chứng nhận tiếng Đức 400 giờ; ảnh 4x6 (10 tấm). XIN VISA Người đứng đơn xin cấp thị thực (visa) phải trực tiếp đến nộp hồ sơ tại phòng thị thực của Đại sứ quán CHLB Đức, 29 Trần Phú - Hà Nội hoặc Lãnh sự quán Đức tại TPHCM, số 126 Nguyễn Đình Chiểu, quận 3 - TPHCM. Những giấy tờ cần nộp (bản chính hoặc bản sao công chứng) gồm có: đơn xin cấp thị thực; 4 ảnh mới chụp nền trắng; hộ chiếu Việt Nam hợp lệ; bảng tóm tắt quá trình học tập công tác. Lệ phí nộp hồ sơ là 25 euro (trả bằng USD). SV phải nộp hồ sơ vào đại sứ quán trước khi dự kiến xuất cảnh chậm nhất là 2 tháng. Một số địa chỉ tìm thông tin du học Đức Trung tâm thông tin và tư vấn của DAAD ở Việt Nam: www.daad.de. Hội Thanh niên và Sinh viên VN tại Đức: http://www.avys.de; www.sv-konstanz.de. CHI PHÍ HỌC TẬP, ĂN Ở Trên nguyên tắc, việc học tại các trường của chính phủ thì không tốn tiền. Nhưng chi phí để ăn ở tốn khoảng 500 -700 euro mỗi tháng. Tại các thành phố lớn chi phí này còn cao hơn nữa. SV cần có giấy chứng nhận có tài khoản tại 1 ngân hàng Đức với số tiền tối thiểu là 6.500 euro (do SV đứng tên tài khoản). Tài khoản này là tài khoản giới hạn (Sperrkonto) để mỗi tháng SV chỉ được rút tối đa 500 euro cho chi phí của mình ở Đức (giá thuê phòng dành cho 1 SV du học ở Đức khoảng 180 đến 200 euro/tháng). Nếu SV có người bảo lãnh thì người bảo lãnh phải cam kết với Sở Ngoại kiều chịu tất cả các phí tổn cho SV trong suốt thời gian du học. SV PHẢI CÓ ĐỦ KIẾN THỨC TIẾNG ĐỨC Mặc dù đã có đủ kiến thức tiếng Đức (tối thiểu 400 giờ), nhưng một số trường hợp Chính phủ Đức vẫn yêu cầu SV phải có giấy chứng nhận đã đăng ký khóa học tiếng Đức bổ sung tại một học viện ngôn ngữ ở Đức kèm theo chứng nhận đã trả tiền học phí cho khóa học tiếng Đức này. Khóa học sẽ diễn ra từ 3 tháng đến 1 năm học ở Đức (gọi là học dự bị). Sau khóa học này, SV sẽ được cấp bằng ngôn ngữ DSH hoặc M1 thì mới được nhận vào học chính thức tại các trường ĐH ở Đức. SV có thể nhờ các công ty tư vấn du học chuyên về du học Đức để thực hiện thủ tục nếu cần thiết. Địa chỉ một số công ty: Công ty Thương mại và Tư vấn du học Bạch Đô, 121-123 Trần Đăng Ninh, P. Dịch Vọng, Q. Cầu Giấy - Hà Nội, ĐT: (04) 7569499, 0912.121.226. Công ty Tư vấn du học và dịch thuật Quốc tế, số 8 Lê Duẩn, quận 1 - TPHCM, ĐT: (08) 8246462, 0903.640.414. Tìm học bổng ở đâu? Kho dữ liệu học bổng bao gồm toàn bộ chương trình cung ứng của DAAD (Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức) cho những người có nhu cầu tìm một sự tài trợ khả thi để học ĐH hay khảo cứu ở Đức. Bạn sẽ nhận được những thông tin về các chương trình này tại cơ quan ngoại vụ của DAAD. Việc cấp phát học bổng tùy thuộc vào khả năng chuyên môn và khả năng cá nhân của người nộp đơn. Hội đồng tuyển chọn của DAAD xét trước tiên các bằng chứng về năng lực ĐH, các bản phê của giáo sư và sự mô tả ý định học hoặc nghiên cứu của người nộp đơn. Học bổng bao gồm ăn, ở và học tại ĐH, các cơ sở nghiên cứu. Tuổi tối thiểu để nộp đơn là 18 tuổi. Tuổi tối đa trong đa số các chương trình học bổng là 32 tuổi. Địa chỉ cơ quan ngoại vụ của DAAD: . Tại Hà Nội: Trung tâm thông tin và tư vấn của DAAD tại Trung tâm Việt - Đức trong Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, số 1 đường Đại Cồ Việt; Tel: 84-4-8682179; Fax: 84-4-8682118. . Tại TPHCM: Trung tâm Thông tin - Tư vấn tại ĐH Quốc gia TPHCM, 10-12 đường Đinh Tiên Hoàng; Khu B 006; Tel: 84-8-8221911. Q.A Yến Thy
|
|
|
Post by Robot on Oct 30, 2004 6:10:45 GMT -5
Một vòng quanh trường quốc tế
TTCN - Trường quốc tế dạy bằng Anh ngữ (The British International School – BIS, phường Thảo Điền, Q.2, TP.HCM) không có thầy cô giáo đứng lớp chính thức nào là người Việt, không một bài giảng hay bảng thông báo nào bằng tiếng Việt.
Nhưng đó chưa phải là điểm khác biệt. Điểm khác biệt lớn nhất mà chúng tôi ghi nhận được ở đây là không khí thoải mái, sinh động trong các lớp học và gương mặt vui vẻ, tự tin của học sinh
Cùng nhau làm việc, học tập
Bàn kê theo vòng tròn hay xếp theo từng nhóm nhỏ không chỉ gặp ở các lớp mẫu giáo, cấp I mà cả ở các lớp lớn. Đây là phương pháp làm việc theo nhóm đã được triển khai thông suốt qua các lớp. Trong một tiết học phát triển kỹ năng ở lớp 2, thầy giáo đưa tờ giấy lên hướng dẫn, lập tức phía dưới các em cắt, gấp, một cậu bé chạy đi đổi kéo, lại một cậu bé khác chạy quanh lớp đuổi theo tờ giấy bị gió thổi bay.
Ở một lớp học khác, thầy giáo ra bài tập quan sát, lắng nghe, phán đoán lập tức tất cả học sinh bỏ bàn ghế chạy đến ngồi bệt trên sàn lớp, nhắm mắt, nghiêng ngóng và đưa thẳng tay lên đầu ríu rít nêu giả thuyết của mình. Một giáo viên giải thích: “Trật tự, kỷ luật ở đây không căn cứ vào tác phong nghiêm chỉnh của học sinh hay sự yên lặng trong lớp học. Kỷ luật là ở chỗ tất cả cùng nhau làm việc…”.
Trong phòng học lớp 8, thầy giáo đưa ra một bài tập vật lý. Một em đưa tay lên trả lời. “Wrong” (sai). Cả nhóm chụm đầu bàn bạc lại. Một cánh tay khác, lại “wrong”. Lại tiếp tục. Mãi đến lần thứ tư thầy mới gật đầu “fine” (đúng), cả nhóm vỗ tay vào nhau mừng rỡ. Dung, đã theo học ở đây từ lớp 6, rất chững chạc đưa ra những nhận xét của em về sự khác biệt: “Ở trường cũ, mỗi khi cô giáo đưa ra câu hỏi hay trả bài, chúng em rất sợ. Phải thuộc lòng, phải biết rõ câu trả lời đúng mới dám giơ tay. Trả lời sai có thể bị trừ điểm, có thể bị phạt, bị rầy la… Ở trường mới này phải nghe nói bằng tiếng Anh nên hay mắc lỗi hơn nhưng em không sợ gì cả. Các thầy cô khuyến khích chúng em trả lời, cả những câu trả lời sai để rồi tự tìm cách sửa, tự tìm ra câu trả lời đúng”.
Trong phòng film studio của trường tiểu học dân lập Quốc tế (Thái Văn Lung, Q.1), các bé học sinh lớp 3 đứng ngồi nhún nhảy theo điệu nhạc, mắt dán lên màn hình, miệng lặp lại các từ theo âm mẫu phát ra từ đĩa. Đến phần trả lời câu hỏi, các bé nhao nhao giơ tay, tranh nhau chạy đến máy tính để rê con chuột đến vị trí trả lời đúng. Tiết học 45 phút với các em là quá ngắn và khi máy bị đứng lại vài phút, các bé xuýt xoa tiếc rẻ…
Ở lớp 10 trường BIS, Trang, Linh cho biết các em có thể tự do mở sách để tìm một công thức thích hợp nhất cho bài toán, về nhà có thể thu thập tất cả những tư liệu tìm kiếm được từ mọi nguồn để phục vụ cho một bài luận chủ đề như “Hiệu ứng nhà kính”…
Trong các cuốn sách Science (Khoa học), hầu như tất cả các bài học đều gắn liền với cuộc sống. Sách lớp 8 đã có những bài học cặn kẽ về giới tính, sách lớp 9 có những bài về nguyên nhân bão lụt…
Ông Alun R. Thomas, hiệu trưởng trường BIS, cho biết: “Chúng tôi quan niệm các lý thuyết, công thức đều đã có trong sách vở, tài liệu, Internet. Khi cần, học sinh cũng như chúng ta có thể tra cứu chứ không cần thuộc lòng. Các em chỉ cần nắm vững những kiến thức cơ bản, và học cách vận dụng những lý thuyết, công thức ấy trong việc giải quyết một bài tập được đưa ra hay một vấn đề gặp phải trong cuộc sống”.
Trường chúng tôi vẫn dạy văn hóa cho học sinh theo chương trình của Bộ GD-ĐT. Tuy nhiên, phương pháp dạy có khác. Chú trọng vào chất lượng nên chúng tôi không ép các em học vẹt, học tủ, cũng không khuyến khích điểm số chỉ toàn 9, 10; khối lượng bài tập về nhà cũng không quá nhiều đến nỗi học sinh quá sức, phụ huynh phải kêu rên.
|
|
|
Post by Robot on Oct 30, 2004 6:10:58 GMT -5
Điều cần thiết nhất là các em hiểu bài, nắm vững kiến thức.
Một số phụ huynh sốt ruột vì thấy con mình ít điểm 10, ít bài tập về nhà nhưng cũng đã đồng ý khi nghe chúng tôi giải thích. Các kỳ thi tốt nghiệp tiểu học, Trường tiểu học dân lập Quốc tế vẫn đạt tỉ lệ tốt nghiệp 100%, vẫn có học sinh giỏi cấp thành phố. Chỉ có tỉ lệ tốt nghiệp loại giỏi của chúng tôi là khác: từ 60 – 65% chứ không phải trên 90%. Và chúng tôi cho rằng đó là con số thể hiện đúng thực chất.
Bà Nguyễn Lê Thanh Trúc, hiệu trưởng Trường tiểu học dân lập Quốc tế (The International Primary School) Các học sinh VN chúng tôi gặp đều công nhận rằng phương pháp học và làm việc là bài học lớn nhất mà các em đã học được tại đây, “nên tụi em mới có thời gian để tham gia club (câu lạc bộ)”. Các CLB bơi lội, bóng chuyền, cờ vua, khiêu vũ… luôn hoạt động sôi nổi, các thông báo dán đầy trên bảng dọc hành lang. Dung, Trang, Linh, Sơn đều bảo từ ngày học ở đây, về nhà các em mới có thể yên tâm ngồi xem một chương trình trên TV, yên tâm lên mạng tìm một tài liệu, đọc thêm một tờ báo mà không sợ phải đánh vật với đống bài học, bài tập như trước.
Phương pháp là quyết định
Một số phụ huynh cho biết về quyết định cho con học trường dân lập quốc tế, nhất là ở các trường vẫn dạy theo chương trình của Bộ GD-ĐT: chính sự yên tâm, thoải mái của con khi đến trường, lúc về nhà là động lực chính yếu để họ chấp nhận mức học phí cao.
Hình ảnh thường thấy nhất ở các trường quốc tế: các học sinh ngồi trong lớp thật thoải mái, đứng dưới sân thật lộn xộn, cậu bé, cô bé nào cũng như đang nhảy lên. Nhưng trong lớp học không khí thảo luận giữa các thành viên thật sôi nổi; hết giờ chơi một bé tự giác chạy vào văn phòng cầm cái chuông lắc, các bé khác theo hiệu lệnh nắm tay nhau tung tăng về lớp. Phong cách tự lập, tự giác của học sinh ở đây cũng là một điểm quan trọng trong quyết định chọn trường cho con của các bậc phụ huynh, bên cạnh phương pháp học tập.
Và trên tường các lớp học ở BIS đầy màu sắc của các bức tranh vẽ, cắt dán, các ý kiến của học sinh về các bạn xung quanh. Đọc trên đó thấy rằng những bài học trực quan vui nhộn đập vào mắt mỗi ngày sẽ dạy các em được thật nhiều.
Trên một cái cây sum xuê mà mỗi cái lá là một bàn tay có gắn tên học sinh là dòng chữ “Reception have been thinking of all wonderful things that hands can do” (Hoan nghênh những ý tưởng về sự màu nhiệm của đôi bàn tay). Kèm theo đó là hàng loạt động từ chỉ động tác thực hiện bằng tay khiến ai đọc cũng phải ồ lên “Bàn tay tuyệt vời thật”. Khắp các bảng từ phòng hiệu trưởng đến các lớp học, hành lang đều dán một câu danh ngôn được thay đổi mỗi tuần. Tuần này chúng tôi đọc thấy “I know what respect means and I respect other people” (Tôi hiểu ý nghĩa của sự tôn trọng và tôi tôn trọng những người khác).
Dù học phí cao ngất như BIS nhưng trong danh sách học sinh của trường có 80% là VN. Các trường có mức học phí mức trung bình và sử dụng bằng của Sở GD-ĐT như Trường dân lập Quốc tế, tiểu học Việt–Úc, Uăc Châu thì tìm mãi mới thấy một học sinh có cái tên “hơi là lạ”. Hầu hết các trường ấy đang phải đau đầu vì các chồng đơn xin nhập học ngày càng cao, cơ sở vật chất liên tục được mở rộng, xây mới mà cung vẫn không đáp ứng nổi cầu… Chợt nghĩ việc đổi mới phương pháp học tập, tạo môi trường thân thiện hơn giữa giáo viên, nhà trường và học sinh đâu phải là quá khó với các trường công lập…
PHẠM VŨ
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 12:01:58 GMT -5
"Nhận diện" giáo dục ĐH Mỹ
College, university rồi institute khác nhau ra sao, làm thế nào lấy bằng ĐH của Mỹ theo hình thức từ xa, ĐH Mỹ sẽ cấp những loại bằng nào?...VietNamNet giới thiệu với bạn đọc những thông tin cơ bản về giáo dục ĐH Mĩ
Thế nào là college, university và institute?
Có thể gọi mọi tổ chức giáo dục ĐH ở Mỹ là college, university và institute. College (CĐ hoặc ĐH) và institute (viện) không kém hơn so với university (ĐH). Hiện, Mỹ có hơn 3.000 trường ĐH, CĐ với số SV theo học tại gần 15 triệu.
Thường thì college có xu hướng nhỏ hơn so với university và không cấp bằng tiến sĩ. Trong khi đó, university cung cấp rất nhiều chương trình đào tạo sau ĐH, bao gồm cả bằng tiến sĩ. University chú trọng vào nghiên cứu cũng như đào tạo trong khi các college chú trọng vào đào tạo. Các university cung cấp chương trình đào tạo tiến sĩ thường được gọi là ĐH nghiên cứu.
Nhiều college là độc lập, cấp bằng cử nhân cho những SV đã hoàn thành chương trình học kéo dài 4 năm. Tuy nhiên, college cũng có thể là bộ phận của university. Một trường ĐH lớn gồm nhiều college; các chương trình đào tạo cử nhân và sau ĐH ở nhiều lĩnh vực; một hoặc nhiều trường chuyên nghiệp (chẳng hạn trường luật hoặc trường y) và một hoặc nhiều cơ sở nghiên cứu. Mỗi trường chịu trách nhiệm về các chương trình mà họ cấp bằng. Chẳng hạn, ĐH New York có hơn 60 trường tại bang New York.
Một viện thường chuyên về các chương trình đào tạo trong một nhóm chuyên ngành liên quan chặt chẽ; chẳng hạn viện công nghệ, viện thời trang, viện nghệ thuật và thiết kế...
Các trung tâm nghiên cứu cung cấp cơ hội nghiên cứu và đạo tạo, trong đó có cả sau ĐH. Các trung tâm có thể hoặc không trực thuộc các trường ĐH.
Trường CĐ cộng đồng (community college hay junior college) cung cấp chương trình đào tạo từ một tới ba năm, phần lớn là hai năm. Có hai loại chương trình đào tạo ở những trường này. Một chương trình gồm các khoa học giống như hai năm đầu ở trường CĐ, ĐH hệ bốn năm. Mục đích là chuẩn bị để SV tiếp tục nghiên cứu thêm tại trường ĐH và CĐ. Chương trình còn lại chuyên về đào tạo nghề.
Mỹ có khoảng 1.150 trường CĐ cộng đồng. Khoảng 3/4 trong số này là trường công. Khi tốt nghiệp, SV được cấp bằng associate degree.
Bốn loại bằng cơ bản
Các trường ĐH, CĐ tại Mỹ cấp bốn loại bằng cơ bản cho học viên:
Bằng associate degree được trao cho SV sau khi hoàn tất hai năm nghiên cứu, chủ yếu trong lĩnh vực nghệ thuật và khoa học.
Bằng cử nhân: được trao cho SV sau 4 năm nghiên cứu. Có nhiều loại bằng cử nhân song phổ biến nhất là bằng cử nhân nghệ thuật (B.A) và cử nhân khoa học (B.S). Nhiều trường còn cấp bằng chuyên biệt. Chẳng hạn như: cử nhân giáo dục hoặc kiến trúc. SV có thành tích xuất sắc được trao bằng có chữ Latinh cum laude (xuất sắc) hoặc magna cum laude (xuất sắc nhất).
Bằng thạc sĩ: để có được bằng này, cử nhân cần nghiên cứu sâu hơn trong 1-2 năm.
Bằng tiến sĩ: có hai loại khác nhau. Một loại chuyên nghiệp trong các nghề nhất định; chẳng hạn tiến sĩ y khoa, tiến sĩ giáo dục. Loại còn lại là bằng tiến sĩ nghiên cứu, chỉ ra rằng: một người tinh thông một lĩnh vực hiểu biết rộng và kỹ thuật nghiên cứu khoa học.
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 12:02:38 GMT -5
4/5 sinh viên theo học trường công lập
Dù là công lập hay tư thục thì các trường đều phụ thuộc vào ba nguồn thu chính: học phí, tài trợ tư nhân và trợ cấp của Chính phủ.
Đào tạo từ xa là một cách nghiên cứu ngày càng phổ biến tại Mỹ. Đối với các sinh viên quốc tế, đào tạo từ xa có nghĩa là họ có thể nghiên cứu để lấy bằng mà không cần phải rời quê hương. Tuy vậy, họ phải tới Mỹ một số lần để nghiên cứu trong một thời gian ngắn trong khuôn viên. Mô hình đào tạo này đòi hỏi sinh viên phải tự giác và có khả năng tự làm việc. Nếu sinh viên quốc tế muốn theo học theo mô hình này tại Mỹ, họ cần nghiên cứu kỹ chất lượng của chương trình đào tạo, tính hợp pháp của trường đó tại Mỹ và việc công nhận mô hình đào tạo này ở đất nước họ.
Hơn 60% học sinh tốt nghiệp trung học tiếp tục theo học ở bậc cao hơn và khoảng 4/5 tổng SV theo học tại các trường ĐH, CĐ công lập.
Các trường ĐH công lập còn được gọi là trường ĐH bang. Các bang đều có trường ĐH riêng. ĐH công lập thường có quy mô rất lớn với số SV theo học lên tới 20.000 hoặc nhiều hơn. Do ĐH công lập chủ yếu được hỗ trợ tài chính từ chính quyền bang nên SV (người sống và trả thuế tại bang đó) thường phải trả học phí thấp hơn so với SV bên ngoài bang.
SV quốc tế được coi là công dân ngoài bang nên không được giảm học phí khi theo học tại các trường ĐH công lập.
Các trường ĐH, CĐ tư thục phụ thuộc vào học phí, lợi tức đầu tư, tài trợ tư nhân và các hợp đồng nghiên cứu. Học phí tại các trường này thường cao hơn so với ĐH công lập và mức thu là như nhau đối với mọi SV, cả ngoài bang lẫn trong bang. Thường thì ĐH tư có số SV chưa tới 20.000.
25% các trường ĐH và CĐ nằm dưới sự quản lý của các nhóm tôn giáo. Phần lớn trường nằm trong diện này tiếp nhận SV thuộc mọi tín ngưỡng. Tất cả trường ĐH, CĐ của các nhóm tôn giáo và trường chỉ dành cho nam hoặc nữ đều được xếp là ĐH tư.
Ngoại trừ yếu tố tài chính, bản chất công hay tư của một trường ĐH không ảnh hưởng tới việc SV lựa chọn chương trình học. Các chương trình chất lượng cao tồn tại ở cả hai loại hình trường ĐH, CĐ. Chẳng hạn, ĐH California và Virginia thường được xếp hạng ngang bằng với Liên đoàn Ivy - một hiệp hội gồm 8 trường tư danh tiếng ở vùng Đông Bắc nước Mỹ.
Điều quan trọng hơn là sự quan tâm của trường đối với chương trình đào tạo. Sự quan tâm đó thể hiện ở việc đảm bảo đội ngũ giảng viên hạng nhất cũng như cung cấp cơ sở vật chất tiên tiến nhất: thư viện, phòng thí nghiệm, máy tính và các thiết bị khác.
Một nhân tố quan trọng nữa trong việc lựa chọn môn học là sự tồn tại của các khoa mạnh trong những chuyên ngành liên quan khác. Theo ước tính, các trường ĐH ở Mỹ cung cấp hơn 1.000 chuyên ngành đào tạo. Các trường ĐH chi trung bình 9-10% ngân sách hàng năm cho nghiên cứu, 2,5% cho thư viện.
Phần lớn các trường ĐH và CĐ do hội đồng quản trị kiểm soát. Ban quản trị của trường tư thường bầu các thành viên của họ. Nhà thờ cũng có thể bầu ban quản trị của trường ĐH liên quan tới họ.
Ủy viên của các trường công do thống đốc bang bổ nhiệm. Vài trò của hội đồng quản trị là thông qua các chính sách giáo dục. Họ cũng bổ nhiệm Giám đốc điều hành của trường. Thường thì Giám đốc điều hành chính là Hiệu trưởng của trường. Các quan chức khác trong hội đồng chịu trách nhiệm về chương trình đào tạo, tuyển SV, quản lý tài chính.
Mỗi trường ĐH, CĐ có một Giám đốc tư vấn cho SV cũng như chỉ đạo về kỷ luật. Mỗi trường CĐ hoặc trường riêng thuộc một trường ĐH đều có Giám đốc học thuật, đứng đầu hội đồng giáo viên trong việc chuẩn bị giáo trình. Hội đồng giáo viên được chia thành các khoa. Mỗi khoa có một chủ nhiệm và chủ nhiệm thường là GS. Dưới chủ nhiệm là các GS khác, PGS và trợ giáo.
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 12:03:00 GMT -5
Tiếp nhận cả người chưa tốt nghiệp trung học
Mỹ không có hệ thống trường quốc gia, cũng không có các trường do liên bang điều hành, ngoại trừ học viện quân sự. Tuy nhiên, Chính phủ hướng dẫn và tài trợ cho các chương trình giáo dục liên bang mà cả trường công và tư tham gia. Bộ Giáo dục giám sát các chương trình này.
Hệ thống giáo dục Mỹ được dựa trên triết lý rằng việc kiểm soát các chức năng công cộng nên phân quyền gần như hoàn toàn cho các bang và cộng đồng địa phương.
Mỗi bang đều thông qua luật giáo dục và thành lập hệ thống trường công. Hầu như mọi bang đã chuyển quyền kiểm soát giáo dục công lập cho các hội đồng giáo dục địa phương. Số hội đồng do chính quyền mỗi bang quyết định. Hội đồng địa phương chịu trách nhiệm điều hành trường công, từ thuê giáo viên, xây dựng trường sở cho tới hoạch địch về giáo trình.
Các bang cũng bầu hoặc bổ nhiệm ủy ban giáo dục và ủy viên giáo dục, người đứng đầu Bộ giáo dục mỗi bang. Ủy ban giáo dục đặt ra chính sách giáo dục cho cả bang và ủy viên giám sát những chính sách đó có được thực thi hay không (ở cả trường công và trường tư ). Một số bang có ủy ban giáo dục riêng dành cho ĐH.
Nhiều bang quy định thành lập ủy ban tư vấn công dân nhằm thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào việc điều hành các trường học. Trách nhiệm của họ là buộc các trường học đáp ứng tiêu chuẩn địa phương. Thành viên của ủy ban thường là công dân và chuyên gia giáo dục.
Các nhóm tư nhân khác có quyền kiểm soát gián tiếp đối với giáo dục. Chẳng hạn, Hiệp hội giáo dục quốc gia Mỹ (gồm hơn 2 triệu giáo viên và các nhà quản lý trường học) sử dụng ảnh hưởng để cải thiện chất lượng trường học và giảng dạy, tăng lương cho giáo viên. Nhiều cơ quan khác đánh giá trường trung học, CĐ và ĐH để xem họ có đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định hay không.
Các trường ĐH, CĐ cũng tiếp nhận cả phụ nữ và nam giới chưa tốt nghiệp trung học. Mục đích là đáp ứng nhu cầu tiếp tục nâng cao trình độ của những đối tượng này.
Lê Minh (tổng hợp)
|
|
|
Post by Robot on Dec 30, 2004 9:35:02 GMT -5
Du học Pháp: Học phí thấp, chất lượng cao
TT - Không phải đóng học phí ở các trường ĐH công lập, không phân biệt giữa SV trong và ngoài nước, thời gian đào tạo ngắn, ngành học nhiều... là thế mạnh mà nền giáo dục Pháp muốn giới thiệu đến các nước.
Ngoài ra, với các chương trình đào tạo ĐH ngắn hạn, du học sinh khi tốt nghiệp đều có thể bắt đầu làm việc ngay...
Tiết kiệm
Sinh viên có thể theo học liên tục với nhiều trình độ khác nhau nhờ chương trình đào tạo được tổ chức thành ba giai đoạn nối tiếp nhau, mỗi giai đoạn được cấp một văn bằng quốc gia. Đối với bậc ĐH, một học sinh vừa tốt nghiệp THPT chỉ mất có ba năm để có thể hoàn thành chương trình ĐH và lấy bằng cử nhân.
Khác với nhiều nước khác, giáo dục ĐH của Pháp không có sự phân biệt giữa SV Pháp với SV nước ngoài. Mọi SV học ở Pháp đều được hưởng phần tài trợ tài chính của Chính phủ Pháp. Tính trung bình, mỗi năm Nhà nước Pháp sẽ tài trợ cho một SV trên 7.000 EUR. Sự hỗ trợ đó gần như trang trải toàn bộ chi phí đào tạo dành cho SV ĐH. Nhờ vậy, SV học ở các trường công lập của Pháp được xem như không phải đóng học phí. Họ chỉ phải trả một khoản chi phí ghi danh từ 150-500 EUR mỗi năm.
Như vậy, nhờ thời gian đào tạo ĐH ngắn đã giúp du học sinh tiết kiệm một khoản thời gian đáng kể. Thêm vào đó, với chính sách hỗ trợ tài chính của Chính phủ Pháp, du học sinh như được tiết kiệm đến hai lần chi phí phải trả so với khi du học ở những nước khác.
Đại học 2 năm
Gần 220.000 SV nước ngoài đang theo học và tỉ lệ tăng 30% trong mỗi ba năm đã đưa Pháp lên vị trí quốc gia đứng thứ hai châu Âu về số lượng SV nước ngoài.
Hệ thống giáo dục ĐH Pháp có khoảng 90 viện ĐH, giảng dạy tất cả các môn từ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, khoa học công nghệ đến văn học, ngôn ngữ, nghệ thuật, khoa học nhân văn, luật, kinh tế, quản lý, y tế thể thao...
Trừ một số ngành như luật, y khoa và khoa học nhân văn, tất cả các ngành học còn lại SV có thể theo học ở bất kỳ viện ĐH, các trường, viện đào tạo nhà nước hay tư nhân. Một ưu thế khác của giáo dục ĐH Pháp chính là hệ thống bằng cấp ĐH ngắn hạn. Chỉ trong hai năm, SV đã có thể lấy được bằng ĐH. Sau đó, tùy vào nhu cầu và khả năng, SV sẽ tự quyết định đi làm ngay hay học tiếp lên cao.
Loại văn bằng thứ nhất là bằng ĐH công nghệ. Bằng ĐH này do các học viện ĐH công nghệ (IUT) cấp. Chương trình đào tạo ĐH công nghệ có hơn 25 chuyên ngành liên quan đến công nghiệp và dịch vụ như thương mại, quản lý, truyền thông, tin học, sinh học, hóa học, điện tử, bảo trì công nghiệp... Mục tiêu của chương trình đào tạo này hướng về các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
Một loại bằng ĐH khác là bằng ĐH khoa học kỹ thuật (DEUST). Với tấm bằng ĐH này, SV ra trường có thể làm việc ngay trong các lĩnh vực kỹ thuật. Hiện có hơn 110 chuyên ngành tập trung trong các lĩnh vực từ quản lý, thương mại, tin học, nghệ thuật và du lịch.
Ngoài ra, du học sinh cũng có thể lựa chọn các chương trình đào tạo kỹ thuật viên cao cấp thường được triển khai ở các trường trung học công lập hay tư thục. Thời gian đào tạo kéo dài 2-3 năm với các ngành đào tạo như khách sạn, công nghiệp, nông nghiệp, lĩnh vực xã hội, thời trang và nghệ thuật.
Đối với các trường chuyên về nghệ thuật, chương trình kỹ thuật viên cao cấp sẽ đào tạo những kỹ thuật chú trọng đến các công nghệ mới như kiến trúc nội thất, thiết kế thời trang, giao tiếp chữ viết hay nhiếp ảnh.
Riêng các chuyên ngành về nghệ thuật sẽ đào tạo chủ yếu những nghề và kỹ thuật truyền thống như trang trí và đồ họa nghệ thuật, hoạt hình, nghệ thuật dệt. Tổng cộng có đến hơn 100 chuyên ngành đào tạo kỹ thuật viên cao cấp như thế tại Pháp.
Một thuận lợi giúp học sinh có thể chọn theo học lấy bằng kỹ thuật viên cao cấp là tất cả các ngành đào tạo này đều có liên thông với những chương trình đào tạo chuyên nghiệp dài hạn như cử nhân chuyên nghiệp, cao học khoa học kỹ thuật, cao học của các viện ĐH chuyên nghiệp hay được nhận vào một trường chuyên ngành.
Trở ngại khiến nhiều bạn phải băn khoăn trước khi quyết định đi du học đó là vấn đề ngôn ngữ. Các trường ĐH của Pháp yêu cầu SV phải có trình độ tiếng Pháp khá, giỏi khi nộp hồ sơ đăng ký.
Chính vì vậy, khi có dự định du học, học sinh nên học tiếng Pháp tại VN và kiểm tra trình độ tiếng Pháp của mình dưới các hình thức thi DELF, DALF, TCF hay TEF. DELF và DALF là những văn bằng quốc gia về tiếng Pháp ngoại ngữ với các cấp độ 1, 2 và chuyên sâu.
Ở VN, văn phòng du học Pháp Espace Edufrance, trực thuộc IDECAF (31 Thái Văn Lung, quận 1, TP.HCM), là tổ chức đại diện chính thức cho hoạt động du học Pháp tại các tỉnh phía Nam. Văn phòng này nhận thực hiện nhiều loại hình dịch vụ liên quan đến du học Pháp một cách đáng tin cậy như thông tin về hệ thống du học Pháp, các trường ĐH, CĐ, trung tâm dạy tiếng Pháp, tư vấn chọn ngành nghề, phỏng vấn du học, hướng dẫn, giúp đỡ các thủ tục hành chính, visa và các thủ tục ngân hàng.
HÙNG THUẬT
|
|