|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:34:58 GMT -5
Xu thế điện hạt nhân: Thế giới vẫn phân cực! Điện hạt nhân đã có lịch sử 50 năm, đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia và góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, quan điểm của con người hiện vẫn chia thành hai cực: ủng hộ và chống đối. Bức tranh điện hạt nhân toàn cầu Một nhà máy ĐHN tại Mỹ. Theo thống kê của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), vào cuối năm 2002, toàn thế giới có 441 nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) đang hoạt động. Những nhà máy này cung cấp 16% tổng sản lượng điện toàn cầu năm 2002, hay 2.574 tỷ KWh. Trong năm 2002, cũng đã có thêm sáu nhà máy ĐHN được đưa vào hoạt động thương mại, trong đó có bốn ở Trung Quốc, một ở CH Séc và một ở Hàn Quốc. Bảy nhà máy ĐHN khác đã được khởi công xây dựng trong năm 2002, trong đó có sáu ở Ấn Độ, một ở CHDCND Triều Tiên, đưa tổng số nhà máy đang được xây dựng trên toàn thế giới là 32. Trong năm 2002, cũng đã có bốn nhà máy ĐHN ngừng hoạt động, với hai ở Bulgaria và hai ở Anh. Việc mở rộng hiện tại cũng như triển vọng tăng trưởng ĐHN trung và dài hạn tập trung ở châu Á. Trong tổng số 32 lò phản ứng hiện đang được xây dựng trên toàn thế giới, 19 nằm tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và CHDCND Triều Tiên. Ở châu Á, năng lực và công suất ĐHN là lớn nhất ở Nhật (54 nhà máy) và Hàn Quốc (18 nhà máy). Cả hai nước này đều thiếu tài nguyên năng lượng và sự lo ngại về an ninh năng lượng cũng như việc đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng đã làm cho việc xây dựng các nhà máy ĐHN mới càng trở nên cạnh tranh hơn về kinh tế. Nhà máy ĐHN ở Yongbyon (Hàn Quốc) Tại Tây Âu, có 146 lò phản ứng. Civaux-2 của Pháp là lò mới nhất gia nhập vào mạng lưới ĐHN từ năm 1999. Cùng với sự nâng cấp và mở rộng, tổng công suất chắc chắn sẽ vẫn ở gần mức hiện nay mặc dù Bỉ, Đức và Thuỵ Điển đã quyết định loại bỏ ĐHN. Khả năng lớn nhất đối với công suất mới nằm tại Phần Lan. Vào tháng 5/2002, Quốc hội Phần Lan phê chuẩn ''quyết định trên nguyên tắc'' của chính phủ về xây dựng nhà máy ĐHN thứ năm. Tháng 9/2002, Công ty TVO mời thầu. Đông Âu và các quốc gia thuộc Liên Xô (cũ ), mới độc lập, có 68 nhà máy ĐHN đang hoạt động và thêm mười nhà máy đang được xây dựng. Tại Nga, có 30 nhà máy ĐHN và ba nhà máy khác đang được xây dựng Không có nhà máy ĐHN mới nào được triển khai tại Mỹ kể từ năm 1978 mặc dù nhiều nhà máy, đã ngừng hoạt động, được tái khởi động kể từ năm 1998. Trọng tâm của năm 2002, 2003 là gia hạn giấy phép và cải tạo. Chính sách năng lượng mới của Mỹ, được tuyên bố vào tháng 5/2001, ủng hộ mở rộng năng lượng hạt nhân. Tháng 2/2002, Bộ trưởng Năng lượng Mỹ tuyên bố Chương trình ĐHN 2010, với mục tiêu sẽ có một nhà máy ĐHN mới đi vào hoạt động ở nước này trước cuối năm 2010. Chiến lược này còn bao gồm cả sự chấp thuận của Tổng thống Mỹ George W. Bush, tiếp tục phát triển địa điểm đổ chất thải hạt nhân ở dãy núi Yucca, bang Nevada. Quốc hội Mỹ cũng đã phê chuẩn việc này. Ở Canada, việc mở rộng sản xuất ĐHN ngắn hạn có thể diễn ra dưới hình thức tái khởi động một vài hoặc tất cả tám nhà máy (trong tổng số 22 nhà máy) hiện đã bị đóng cửa. Tại châu Phi, có hai nhà máy ĐHN đang hoạt động và cùng nằm ở Nam Phi. Tại Mỹ La tinh, có sáu nhà máy, chia đều cho ba nước Argentina, Brazil và Mexico.
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:37:17 GMT -5
Chống đối và ủng hộ Lithuania hiện là nước có tỷ trọng ĐHN cao nhất thế giới (80,1%), tiếp đến là Pháp (78%), Slovakia (65,4%) và Bỉ (57,3%). ĐHN cung cấp nguồn năng lượng rẻ tiền, thay thế điện năng được sản xuất từ nhiên liệu hoá thạch. Nó có thể cung cấp điện năng với giá thấp hơn 50-80% so với các nguồn năng lượng truyền thống, giải quyết tình trạng thiếu điện cũng như thoả mãn nhu cầu gia tăng trong tương lai. Ngoài ra, lò phản ứng hạt nhân thực sự không phát thải khí nhà kính, góp phần kiềm chế nạn ấm hoá toàn cầu và thay đổi khí hậu. Biểu tình chống đối ĐHN, cũng ở... Hàn Quốc! Tuy các nhóm chống ĐHN cho rằng không có mức phóng xạ an toàn song theo TS vật lý Travis Norsen của Mỹ, các nguồn phóng xạ lớn đều là tự nhiên và có mặt ở khắp mọi nơi: Con người liên tục phơi nhiễm với phóng xạ từ các tia vũ trụ ở tầng trên của khí quyển và các nguyên tố phóng xạ tự nhiên trong lòng đất. So với những nguồn này, phóng xạ từ nhà máy ĐHN không đáng kể. Mức bức xạ trung bình hàng năm mà người Mỹ phơi nhiễm là 360 millirem, trong đó 300 millirem có nguồn gốc từ các nguồn tự nhiên chẳng hạn như radon. Trái lại, con người chỉ nhận được 0,01 millirem phóng xạ mỗi năm do sống cách nhà máy ĐHN 15m. Ngay cả một chiếc máy bay cũng làm cho con người tiếp xúc 3 millirem mỗi năm trong khi mức phơi nhiễm từ X-quang trong y học là 20 millirem mỗi năm. Các nhóm chống đối cũng cho rằng các nhà máy ĐHN tạo ra chất thải phóng xạ gây chết người, vì vậy họ kịch liệt phản đối việc vận chuyển chúng, đặc biệt là nhóm Hoà Bình Xanh. Trong khi đó, những người ủng hộ, đặc biệt là các nhà khoa học, cho rằng chất thải phóng xạ không phải là một điểm yếu mà là một đặc thù của năng lượng hạt nhân. So với lượng thải khổng lồ của nhiên liệu hoá thạch vào khí quyển, lượng chất thải hạt nhân là nhỏ, không đáng kể và có thể cất giữ mà không gây nguy hại cho con người và môi trường. Phần lớn nhiên liệu đã qua sử dụng được giữ lại nhà máy. Chất thải ở mức cao được xếp trong thùng thép dày chống ăn mòn và đặt sâu trong lòng đất - nơi có kiến tạo ổn định, và được theo dõi cẩn thận. Các nhà khoa học khẳng định rằng các khu chôn cất đó an toàn trong hàng thiên niên kỷ, cho tới khi có... công nghệ xử lý được mọi người chấp nhận. Trong suốt bốn thập kỷ qua, ngành công nghiệp hạt nhân thế giới đã thực hiện trên 20.000 chuyến hàng với hơn 50.000 tấn vật liệu hạt nhân (chất thải, nhiên liệu qua sử dụng và nhiên liệu mới) song chưa hề gây rò thoát phóng xạ, thậm chí cả khi có tai nạn. Những quy định quốc gia và quốc tế khắt khe đòi hỏi việc vận chuyển phải sử dụng những thùng chứa đặc biệt có lớp vỏ thép dày, chịu được va chạm mạnh và chống được đập phá. Do có năng lượng khổng lồ trong khối lượng nhiên liệu uranium nhỏ nên nhiên liệu hạt nhân cần vận chuyển rất ít. Trái lại, những chuyến hàng nhiên liệu hoá thạch là một gánh nặng của vận tải quốc tế với mối đe doạ môi trường, nhất là hiểm hoạ tràn dầu. Mặc dầu vậy, những lo ngại trên của các nhà chống đối năng lượng hạt nhân vẫn tiếp tục hình thành nên các chính sách của một số chính phủ. Chẳng hạn, vào tháng 2/2002, Quốc hội Đức đã thông qua đề nghị sửa đổi Luật Năng lượng Hạt nhân, bao gồm cả loại bỏ các nhà máy ĐHN. Luật này cấm xây dựng cũng như vận hành các nhà máy ĐHN mới, hạn chế thời gian hoạt động của các nhà máy ĐHN xuống còn 32 năm. Tháng 1/2003, Quốc hội Bỉ cũng thông qua dự luật hạn chế thời gian hoạt động của nhà máy ĐHN xuống còn 40 năm. Trong cuộc trưng cầu dân ý về những sáng kiến chống hạt nhân năm 2003, người Thuỵ Sĩ đã ủng hộ phương án giữ các nhà máy ĐHN. 80% người Thuỵ Điển muốn duy trì hoặc mở rộng ĐHN. Gần 3/4 dân chúng Nhật Bản ý thức được giá trị năng lượng hạt nhân.
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:37:48 GMT -5
Lịch sử điện hạt nhânLịch sử phát triển ĐHN trên thế giới đã trải qua các giai đoạn sau: Giai đoạn những năm 1950-1960 là giai đoạn khởi đầu, khi công nghệ chưa được thương mại hoá. Điện lần đầu tiên được sản xuất bằng năng lượng hạt nhân vào ngày 20/12/1951 tại lò thử nghiệm EBR-1 của Mỹ và thắp sáng được bốn bóng đèn. Tổ máy ĐHN đầu tiên là lò graphit nước nhẹ 5MW(e) tại Obninsk của Nga, bắt đầu hoạt động năm 1954 và ngừng hoạt động ngày 30/4/2002. Calder Hall tại Anh là nhà máy ĐHN quy mô công nghiệp đầu tiên trên thế giới bắt đầu vận hành năm 1956 và đóng cửa tháng 3/2003. Phát triển ĐHN chủ yếu nhằm mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ và xây dựng tiềm lực hạt nhân bảo đảm an ninh quốc gia. Một nhà máy ĐHN ở Nhật. Giai đoạn 1970-1980, nhiều quốc gia đẩy nhanh tốc độ phát triển ĐHN khi công nghệ đã được thương mại hoá cao và do khủng hoảng dầu mỏ. Tỷ trọng ĐHN toàn cầu tăng gần hai lần, từ 9% lên 17%. Lò Unterweser 1.350 MWe ở Đức bắt đầu sản xuất điện từ năm 1978 và đến nay tổng sản lượng điện là 221,7 tỷ KWh, nhiều hơn so với bất kỳ lò nào khác. Bước vào thập niên 1980 và 1990, sau sự cố Chernobyl, sự phản đối của công chúng, các yếu tố chính trị và sự cạnh tranh yếu về kinh tế do việc tăng cao các yêu cầu về an toàn đã làm cho tốc độ xây dựng điện hạt nhân giảm mạnh, một số nước có chủ trương loại bỏ ĐHN như Đức và Thuỵ Điển. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI tới nay, khi an ninh năng lượng có ý nghĩa quyết định và công nghệ ĐHN ngày càng được nâng cao thì xu hướng phát triển ĐHN đã có những thay đổi tích cực. Tầm nhìn 2020 của Mỹ về phát triển ĐHN đề nghị tăng 10.000MW cho 104 nhà máy ĐHN hiện có. Anh quay trở lại phát triển ĐHN do thiếu hụt năng lượng, trong khi Indonesia đã lập dự án khả thi và dự kiến sẽ đưa tổ máy ĐHN đầu tiên vào vận hành năm 2015. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:40:28 GMT -5
Các kiểu lò phản ứng hạt nhân
Giống như mọi nhà máy nhiệt điện, nhà máy ĐHN dùng nhiệt sinh ra trong lò phản ứng hạt nhân để đun sôi nước, tạo hơi rồi đưa hơi đó tới tua-bin phát điện. Trong lò phản ứng hạt nhân, nhiệt được sinh ra từ phản ứng phân hạch hạt nhân. Hạt nhân uranium và plutonium trong nhiên liệu bị neutron bắn phá, phân tách thành hai mảnh, đồng thời giải phóng năng lượng dưới dạng nhiệt cùng neutron mới. Những neutron mới này lại gây ra những phân hạch tiếp theo và như vậy tạo ra phản ứng dây chuyền.
Để duy trì được phản ứng dây chuyền, lượng nhiên liệu trong vùng hoạt động của lò phải đủ lớn. Neutron được sinh ra là những neutron nhanh, có năng lượng cao. Những neutron này cần được làm chậm để duy trì phản ứng phân hạch. Việc làm chậm được thực hiện nhờ chất làm chậm có trong vùng hoạt. Phản ứng dây chuyền được kiểm soát nhờ những thanh điều khiển có tính năng hấp thụ neutron được đưa vào trong vùng hoạt của lò phản ứng để giảm tốc độ hoặc để dừng phản ứng dây chuyền.
Ba loại lò phản ứng phổ biến nhất hiện nay là lò nước sôi (BWR), lò nước áp lực (PWR) và lò candu hay nước nặng áp lực (PHWR). Lò nước sôi và lò áp lực được gọi chung là lò nước nhẹ (LWR). Nước nhẹ H2O vừa là chất tải nhiệt, vừa là chất làm chậm. Lò nước nặng áp lực dùng nước nặng D2O để làm chậm neutron.
Lò nước áp lực tạo hơi gián tiếp. Chất tải nhiệt vòng sơ cấp, được giữ ở trạng thái lỏng dưới áp suất cao, mang nhiệt từ lò hạt nhân tới thiết bị sinh hơi, tại đây diễn ra trao đổi nhiệt với vòng thứ cấp và hơi được tạo ra rồi dẫn tới tua-bin.
Lò nước sôi sinh hơi trực tiếp bằng cách làm sôi chất tải nhiệt trong lò. Hơi được tách ra khỏi chất lỏng trong một thiết bị phân tách đặt phía trên vùng hoạt và được đưa tới tua-bin.
Trong lò nước nặng áp lực, nhiên liệu được bố trí trong các ống chịu áp lực và nhiệt được tải đi ở từng ống riêng rẽ. Những ống áp lực này được đặt trong một thùng lớn chứa nước nặng làm chậm. Trong khi các lò nước nhẹ sử dụng uranium được làm giàu thì các lò nuớc nặng áp lực dùng nhiên liệu uranium tự nhiên hoặc được làm giàu chút ít.
Trong lò tải nhiệt bằng khí (GCR) và lò tải nhiệt bằng khí cải tiến (AGR), CO2 được dùng làm chất tải nhiệt và graphit là chất làm chậm, cho phép sử dụng nhiên liệu là uranium tự nhiên hoặc uranium làm giàu chút ít.
Lò graphit nước nhẹ (LWGR) có những ống chịu áp lực chứa nhiên liệu cùng nước nhẹ tải nhiệt. Những ống này bao quanh bởi graphit làm chậm. Lò này được biết nhiều với tên gọi RBMK, kiểu lò gắn liền với tai nạn Chernobyl năm 1986.
Nhiên liệu của lò tái sinh neutron nhanh (FBR) là hỗn hợp của oxit uranium và plutonium. Loại lò này không cần chất làm chậm. Phủ quanh vùng hoạt là một lớp các tấm uranium-238 để tái sinh nhiên liệu. Neutron khi thoát khỏi vùng hoạt sẽ bị lớp phủ hấp thụ và tạo ra plutonium. Chất này được tách ra trong quá trình tái chế. Lò FBR thường dùng kim loại lỏng (chẳng hạn như natri) làm chất tải nhiệt.
Lò nhiệt độ cao tải nhiệt bằng khí (HTGR), vẫn chưa được vận hành thương mại, là một phương án thay thế cho thiết kế thông thường. Nó dùng graphit là chất làm chậm và khí helium là chất tải nhiệt. Đặc điểm nổi bật của HTGR là có độ an toàn cao. Nhiên liệu của chúng được bọc trong lớp vỏ gốm chịu được nhiệt độ trên 1.600 độ C trong khi nhiệt độ làm việc hiệu quả của lò là 95 độ C. Helium được dẫn trực tiếp tới tua-bin. Ngoài ra, còn có một số lò cải tiến khác với tính năng làm việc, độ an toàn và tuổi thọ được nâng lên đang trong quá trình xin cấp phép ở một số nước và có thể được xây dựng vào năm 2010.
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:46:24 GMT -5
EU mới và sự... lộn xộn về chính sách hạt nhân Cách đây hai ngày, thêm mười nước đã gia nhập EU với hy vọng sự hợp nhất về kinh tế, chính trị và xã hội với các quốc gia láng giềng sẽ mang lại thịnh vượng và ổn định. Tuy nhiên, điều khiến cho không ít người châu Âu an tâm là các nước này cũng sẽ gia nhập vào Câu lạc bộ Hạt nhân lớn nhất thế giới. Cam kết và Hiệp ước Euratom Các lò phản ứng hạt nhân tại EU mới. EU bị ràng buộc bởi một cam kết phát triển ''ngành hạt nhân hùng mạnh'' có khả năng cung cấp điện năng cần thiết để nâng cao mức sống của người dân. Cam kết này dựa trên Hiệp ước Euratom được ký cách đây 47 năm mà nhiều người nói rằng đã lỗi thời, mẫu thuẫn và nên loại bỏ. Tuy nhiên, Hiệp ước này, nhằm thiết lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu, chắc chắn sẽ không biến mất trong ngày một ngày hai. Trên thực tế, nó là hiệp ước sẽ được giữ lại theo Hiến pháp châu Âu. Euratom được soạn thảo trong những năm 1950 và giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực điện hạt nhân vào thời điểm đó. Những vấn đề này bao gồm bảo vệ công nhân và công chúng khỏi phóng xạ, cung cấp vật liệu để phát triển ngành điện hạt nhân, bảo vệ vật liệu hạt nhân để ngăn không cho nó được sử dụng cho các mục đích quân sự trái phép và các khía cạnh chung - như nghiên cứu và phổ biến thông tin. Uỷ ban châu Âu là cơ quan điều tiết siêu quốc gia trong ba lĩnh vực trên. Tuy nhiên, Euratom không đề cập tới an toàn khi vận hành các nhà máy điện hạt nhân cũng như việc lưu trữ chất thải phóng xạ, hoặc các cơ sở xử lý chất thải. Do vậy, các khía cạnh này thuộc trách nhiệm của... các nước thành viên. Các ḷò phản ứng cũ, cách giải quyết mới? www.vnn.vn/dataimages/original/images166290_KH_antinuclearplant_turkey.jpg[/img]Người Thổ Nhĩ Kỳ phản đối xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở nước ḿnh. Quyết định của châu Âu giữ nguyên hiện trạng năng lượng hạt nhân đă làm cho chính sách năng lượng hạt nhân của nó vốn đă lộn xộn nay càng trở nên lộn xộn hơn. Năm nước thành viên mới, không có các nhà máy điện hạt nhân (Ba Lan, Estonia, Latvia, Malta và Síp) sẽ bị ràng buộc về mặt luật pháp để tăng cường phát triển ngành này trong khi một số thành viên mới khác lại đối mặt với vấn đề trái ngược. Slovenia, Slovakia, Hungary, Lithuania và Cộng hoà Séc phụ thuộc vào điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước. Tuy nhiên, các nước EU đă gây áp lực lớn đ̣i hai trong số năm nước trên đóng cửa các ḷ phản ứng cũ "kiểu Xô-viết" để đảm bảo rằng chúng không gây ra một vụ tai nạn bi thảm như Chernobyl.
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:47:02 GMT -5
Nhà máy ðiện hạt nhân Craus (Pháp). Euratom ra ðời vào nãm 1957 khi nhiều ngýời còn nghi ngờ ðịa vị của ðiện hạt nhân với tý cách là công nghệ týõng lai. Trong nhiều nãm, Cộng ðồng Nãng lýợng nguyên tử châu Âu ðã tài trợ trên 55 tỷ euro cho lĩnh vực nghiên cứu ðiện hạt nhân cũng nhý cho vay hàng trãm triệu euro nhằm giúp các nýớc thành viên xây dựng và cải tiến nhà máy ðiện hạt nhân của họ. Kết quả là EU dẫn ðầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất ðiện hạt nhân. EU mở rộng hiện có 156 lò phản ứng, sản xuất 32% tổng sản lýợng ðiện của khối. Tỷ lệ này cao hõn Bắc Mỹ, Nhật Bản hoặc Nga. Tuy nhiên, phần lớn các lòò phản ứng ðang ðýợc vận hành ở châu Âu ðều ðã cũ do chúng ðã sản xuất ðiện trong khoảng 22 nãm qua. Ðặc biệt, kể từ khi tai nạn Chernobyl ở Ukraina xảy ra cách ðây 18 nãm, nhiều nýớc ðã không còòn hứng thú ðối với công nghệ này. Chỉ có Pháp và Phần Lan ðang dự tính xây dựng các lòò hạt nhân mới trong khi Ðức, Thuỵ Ðiển, Bỉ và Tây Ban Nha dự ðịnh loại bỏ ðiện hạt nhân. Italia ðã làm ðiều ðó. Benjamin Görlach thuộc Viện Chính sách Môi trýờng châu Âu và quốc tế ở Berlin nhận xét: ''Tìinh trạng trên ðã làm cho Euratom trở thành một loại... hoá thạch chính trị, mất ði hầu hết lý do tồn tại của nó''! Thay thế Euratom?Nhà phân tích nãng lýợng châu Âu Antony Froggatt ở London ðã so sánh vai trò của Euratom với vai trò của Liên Xô (cũ ). Nýớc Áo, quốc gia chống hạt nhân mạnh nhất ở châu Âu, ðang vận ðộng thay thế Euratom bằng một hiệp ýớc ''trung lập về công nghệ'' mà, theo ðó, các nýớc châu Âu không ýu ðãi ðặc biệt một phýõng pháp cung cấp nãng lýợng nào. Kế hoạch của Áo ðã nhận ðýợc sự ủng hộ của Ai-len, Luxembourg, Ðan Mạch, Ðức, Thuỵ Ðiển, Estonia, Nghị viện châu Âu và khoảng 100 nhóm môi trýờng. Tuy nhiên, quyết ðịnh từ bỏ Euratom sẽ không dễ dàng. Nhà máy ðiện hạt nhân Ignalina ở Lithuania: Sẽ không bị ðóng cửa vì "lý do an toàn"? Ngành ðiện hạt nhân châu Âu ủng hộ Hiệp ýớc Euratom. Trong khi ðó, các quốc gia hạt nhân nhý Anh thừa nhận sẽ có lợi nếu cải tổ song lại có sự bất ðồng lớn về việc cải tổ nhý thế nào. Ngoài việc thúc ðẩy nãng lýợng hạt nhân, Euratom ðặt ra các tiêu chuẩn an toàn nhằm bảo vệ sức khoẻ của công nhân và công chúng. Ðây chính là mâu thuẫn quyền lợi ðã ðeo bám nỗ lực ðóng cửa các lò phản ứng cổ "kiểu Xô-viết" của EU. Ðể giảm nguy cõ tai nạn, EU khuyến khích Lithuania ðóng cửa lò phản ứng Ignalina 1 và 2; Slovakia ðóng cửa hai lò phản ứng Bohunice 1 và 2. Tuy nhiên, mặc dù EU ðã ðầu tý 355 triệu USD và hứa hẹn thêm 375 triệu nữa song bốn lò trên vẫn ðang hoạt ðộng. Ignalina 1 sẽ ðóng cửa vào nãm 2005. Tuy nhiên, vào tuần trýớc, Lithuania khãng khãng rằng sẽ không thể ðóng cửa lò phản ứng này vìì những lý do an toàn. Ignalina 2 sẽ bị ðóng cửa vào nãm 2009 trong khi Bohunice 1 và 2 sẽ bị ðóng của vào nãm 2006 và 2008. Tuy nhiên, thời hạn trên có thể bị trìì hoãn.
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:51:15 GMT -5
Các lò phản ứng cũ ở Đông Âu Chi tiết» Liên Xô (cũ ) đã phát triển và chế tạo hai loại lò phản ứng chính. Loại đầu tiên là RBMK được tiết chế bằng than chì và làm mát bằng nước. Nhiên liệu của lò nằm trong các ống được đặt trong các khối than chì. Nước đi lên ống và phun lên như một hỗn hợp gồm hơi nước và nước. Sau đó, hơi nước được sử dụng để quay tua-bin và sản xuất điện. Không giống các lò phản ứng của Mỹ, RBMK có thể được nạp nhiên liệu trong khi đang vận hành. RBMK được phát triển từ các loại lò sản xuất plutonium sơ khai và do đó không bao giờ được chế tạo bên ngoài Liên Xô (cũ Các lò phản ứng ở Chernobyl cũng như các lò khác ở Nga, Lithuania và Ukraina đều thuộc loại này. Loại lò phản ứng thứ hai là VVER được thiết kế giống lò phản ứng nước điều áp của các nước Tây Âu (PWR). Nó được tiết chế và làm mát bằng nước với ba thiết kế hơi khác biệt đang được sử dụng. Lò phản ứng loại này được phát triển từ các lò phản ứng sử dụng cho tàu phá băng và tàu ngầm. Chúng hiện đang được sử dụng ở các nước từng thuộc Liên Xô (cũ ), Phần Lan, Hungary, Bulgaria, Séc, và Slovakia. Đối với lò phản ứng RBMK, nếu nước bị mất khỏi lõi do rò rỉ chất làm lạnh hoặc do lò quá nóng, năng lượng lò sẽ tăng lên. Sự gia tăng năng lượng sẽ làm mất khỏi lõi nhiều nước hơn. Do đó, chu trình hồi tiếp xảy ra, làm cho lò không ổn định. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn tới tại nạn Chernobyl. Vấn đề thứ hai là mỗi thanh kiểm soát có một đầu bằng than chì. Điều này khiến việc lắp nó sẽ làm cho năng lượng gia tăng trước khi năng lượng giảm (điều này đã xảy ra tại Chernobyl). Phương pháp đầu tiên cần khoảng 20 giây để lắp các thanh kiểm soát - đủ để làm phản ứng dây chuyền gia tăng. Các ống dẫn nhiên liệu bị vỡ cũng là một vấn đề nghiêm trọng đối với lò RBMK. Như đã giải thích ở trên, khi chất làm lạnh bị rò, năng lượng sẽ gia tăng. Nếu nhiều ống bị rò, áp lực bên dưới nắp lò có thể tăng đủ mạnh để nâng nó lên cũng như mọi thanh kiểm soát. Điều này đã xảy ra tại Chernobyl. Hiện các kỹ sư đang làm mọi cách để giảm tai nạn do các ống dẫn nhiên liệu bị nứt gây ra song không thể loại bỏ nó. Thiết kế của lò phản ứng VVER-440, model 230. Các lò VVER kiểu 230 thiếu một số đặc điểm an toàn cơ bản thường thấy ở lò phản ứng Tây Âu, đầu tiên là hệ thống làm mát lõi khẩn cấp (ECCS). Hệ thống này cần để làm mát lõi của lò nếu các phương pháp làm mát bình thường bị trục trặc do rò rỉ chất làm lạnh. VVER-230 cũng thiếu cấu trúc ngăn chặn một lượng lớn chất phóng xạ được giải phóng khi có tai nạn nghiêm trọng cũng như bảo vệ lò từ các lực bên ngoài. Mặc dù đã được cải tiến so với 230 song hệ thống làm mát lõi của VVER 440/213 vẫn ít tin cậy hơn 10-50 lần so với các hệ thống của phương Tây. Ngoài ra, nó cũng không có hệ thống ngăn chặn chất phóng xạ được giải phóng ra ngoài. VVER 1000/320 có bình ngăn chặn chất phóng xạ được giải phóng ra bên ngoài. Tất cả bình ngăn chặn có lỗ để cho phép nhiều loại vật liệu được đưa vào lò (nước, nhiên liệu, v.v...). Đường kính của bình quá nhỏ, tạo ra một vùng đệm nước không đủ giữa các neutron được phát ra và thành bình. Kết quả là, độ giòn của bình phản ứng tăng lên. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:53:32 GMT -5
Điện hạt nhân: Tại sao phải vội?
TTCN - Một ngày không xa, những người VN giàu trí tưởng tượng ấn tay vào công tắc điện sẽ nghe âm vang giai điệu của phản ứng dây chuyền từ nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) trên bờ biển Ninh Thuận, nơi mà giờ đây đang còn là một vùng hoang mạc khô cằn, quanh năm cháy nắng.
Trước đây ít lâu, cái thời khắc lịch sử đó được dự kiến vào năm 2017. Công chúng còn chưa hết phân vân tại sao ta xây nhà máy ĐHN vào lúc mà mấy nước văn minh như Đức, Thụy Điển... lại phải lo đưa chúng xuống nghĩa địa, thì mới đây, từ cuộc trình diễn do Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Nhật Bản tổ chức tại Việt Nam, cái thời khắc đó lại còn được bắn vọt lên năm 2012. Thế nghĩa là còn chưa đầy chín năm nữa!
Vị trưởng đoàn Nhật tại cuộc trình diễn nói trên cảnh báo: “Việt Nam cần phát triển ĐHN để nâng cao mức sống của dân chúng. Đang từ một nước xuất khẩu năng lượng, sắp đến các bạn sẽ phải nhập khẩu nếu không sớm xây dựng ĐHN”.
Đây đúng là kinh nghiệm của nước Nhật, vốn từ lâu đã cạn kiệt các nguồn nhiên liệu nên phải nhập khẩu than dầu từ khắp nơi. Trong hoàn cảnh đó còn gì tuyệt diệu bằng ĐHN, một giải pháp sống còn duy nhất chẳng những bảo đảm an ninh năng lượng cho nền kinh tế khổng lồ của Nhật mà còn tránh cho Trái đất nóng lên do hiệu ứng nhà kính.
Từ kinh nghiệm của một nước công nghiệp hàng đầu
Cộng hòa liên bang Đức - một trong những nước chủ yếu sử dụng điện hạt nhân - đã công bố kế hoạch chấm dứt sản xuất loại năng lượng này trong hai thập kỷ tới.
Nhưng vị trưởng đoàn lại không nói hết các kinh nghiệm khác của Nhật. Những cuộc thăm dò dư luận về ĐHN ở Nhật cho thấy số người lắc đầu vẫn luôn nhiều hơn. Nhật Bản là một xã hội đầy nhạy cảm sau thảm họa Hiroshima và Nagasaki. Nhưng đừng nghĩ rằng những trải nghiệm đầy mặc cảm đó đã chi phối thái độ của họ đối với ĐHN. Người Nhật văn minh, sáng suốt vẫn lắc đầu bởi họ được chứng kiến trong những năm gần đây bao nhiêu sự cố, và không tin rằng ĐHN là an toàn đến mức như người ta thường quảng cáo.
Trước hết là tai nạn hỏa hoạn do chất tải nhiệt natri ở lò phản ứng Monju xảy ra năm 1995 làm toàn bộ phương hướng lò nơtrôn nhanh hết sức tốn kém của Nhật bị lao đao. Lò nơtrôn nhanh có khả năng vừa cung cấp điện năng vừa sản sinh ra nhiều plutonium hơn là lượng uranium đã cháy, bởi thế nó là giải pháp tuyệt diệu trong chiến lược an ninh năng lượng lâu dài của Nhật. Biết thế, nhưng vừa qua Tòa án tối cao Nhật vẫn phán quyết không cho lò Monju hoạt động trở lại (The Japan Times, 28-1-2003).
Sau vụ Monju là tai nạn xảy ra ở nhà máy xử lý nhiên liệu Tokaimura năm 1999 do những sai sót hết sức ngớ ngẩn đã làm chết hai kỹ thuật viên, 600 người bị chiếu xạ, 320.000 người dân địa phương được yêu cầu không ra khỏi nhà và sáu kỹ thuật viên bị phạt tù với tội danh vi phạm luật an toàn hạt nhân.
Trước những sự kiện đó một số người Nhật vẫn có thể chặc lưỡi: đi máy bay, tàu hỏa còn chết khối người, huống hồ là ĐHN. Nhưng đến khi vụ bê bối bị phát giác hồi tháng tám năm ngoái ở Tokyo Electric Power Co. (TEPCO), tập đoàn sản xuất điện lớn nhất của Nhật, thì niềm tin của dân vào ĐHN mới suy sụp thảm hại.
Từ cuối thập kỷ 1980 TEPCO đã phát hiện vết nứt ở những mối hàn xung yếu nhất trong hệ thống cung cấp nước áp lực cho vùng hoạt của một số lò phản ứng. Nhưng họ đã cố tình giấu nhẹm, chẳng những không chịu xử lý mà cũng không báo cáo trung thực lên các cấp thẩm quyền. Trong các báo cáo thường kỳ lên cấp trên họ đã làm hồ sơ giả, bịa đặt số liệu kiểm tra phù hợp với qui chế an toàn. Khi có đoàn thanh tra định kỳ đến, họ lén điều chỉnh các van áp lực để đạt được những thông số hợp lý.
Khi vụ việc bị phát giác, công luận la ó, chủ tịch TEPCO và một số cộng sự phải từ chức. Đến tháng 4-2003 tất cả 17 lò phản ứng của TEPCO với tổng công suất điện hơn 16.000 MW (gấp 8 lần Nhà máy thủy điện Hòa Bình) buộc phải đóng cửa, mặc cho Tokyo bị đe dọa thiếu điện trầm trọng trong mùa hè vừa qua.
Chạy theo lợi nhuận, bất chấp nguyên tắc (bất cứ một trục trặc nhỏ nào trong hệ thống tải nhiệt của nhà máy ĐHN đều phải được xử lý và khắc phục kịp thời), TEPCO đã làm mất lòng tin của công chúng. Hậu quả là tất cả các lò phản ứng của TEPCO đều phải ngừng hoạt động để kiểm tra, chờ cấp giấy phép mới, kể cả những lò đang hoạt động bình thường cũng bị vạ lây. TEPCO phải cho chạy lại các nhà máy nhiệt điện cũ và mua điện từ các hãng khác để bù vào chỗ thiếu hụt. Thiệt hại lên đến nhiều tỉ đôla (The Japan Times, May 21, 2003).
Thế mà người ta cứ quảng cáo rằng ĐHN an toàn và rẻ lắm.
Những chuyện trên đây xảy ra tại một cường quốc công nghiệp với hệ thống pháp luật nghiêm ngặt càng làm cho công chúng khó tin vào các quảng cáo đó. Nhất là trong bối cảnh phải đối phó với nạn khủng bố toàn cầu mà ĐHN là những mục tiêu lý tưởng. Quảng cáo ĐHN là cách đi vay niềm tin của công chúng.
Nhưng vay thì phải trả. TEPCO chẳng những không trả được mà còn làm cho công chúng nghi ngờ rằng họ liên tục bị lừa dối trong nhiều năm trời. Theo kết quả thăm dò dư luận của Asahi Shimbun ngày 9-10-2002, sau vụ bê bối ở TEPCO, số dân Nhật sợ ĐHN đã tăng vọt lên đến 86%. Tệ hại hơn là họ không tin ngay cả lời giải thích của chính phủ trung ương cho rằng các vết nứt trong lò phản ứng của TEPCO không có gì đáng ngại.
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:56:10 GMT -5
Trông người mà nghĩ đến ta. Cứ theo thông tin từ buổi trình diễn của Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Nhật Bản nói trên thì câu chuyện ĐHN ở VN xem như đã an bài, mặc dù bao nhiêu phân tích xác đáng cho rằng ta không nên quá vội vàng. Thậm chí nhiều chuyên gia nước ngoài còn hết sức ngạc nhiên khi nghe tin VN sắp xây dựng nhà máy ĐHN. Tuy chưa thấy có công bố chính thức nào của Nhà nước, song bàn thêm liệu có ích gì? Lời khuyên của người xưa “đo đủ ba lần rồi hãy cắt” xem ra chỉ là một hi vọng mong manh.
Đến thực trạng của VN
Những dòng viết tiếp dưới đây chẳng qua chỉ là phản ứng tự nhiên trước lập luận kỳ quặc của vị khách nước ngoài được tung lên báo chí sau vụ trình diễn của Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Nhật Bản. Lời cảnh báo của vị khách gồm hai vế: 1) theo đà tăng trưởng hiện nay, sắp đến VN phải nhập khẩu năng lượng; 2) để thoát khỏi nguy cơ này VN cần xây dựng ngay nhà máy ĐHN.
Trước hết cứ tạm chấp nhận vế thứ nhất là đúng và nhập khẩu năng lượng đang là nguy cơ đe dọa chúng ta. Ta sẽ thấy ngay hai chuyện kỳ quặc. Thứ nhất, khi hối thúc VN làm ĐHN để tránh nhập khẩu năng lượng thì chính vị khách đó đã bày cho chúng ta cách nhập khẩu năng lượng tệ hại nhất. VN khác với Nhật. Có bao nhiêu bộ phận trong nhà máy ĐHN với hơn bốn tỉ đôla đó là made in Vietnam? Đến bao giờ VN mới tự túc được nhiên liệu, mà có tự túc được thì nhiên liệu cũng chỉ là một thành phần rất nhỏ trong toàn bộ chi phí cho nhà máy ĐHN. Thậm chí đến chuyên gia kỹ thuật, chắc chắn ta cũng phải nhập nốt.
Thứ hai, nguy cơ phải nhập khẩu năng lượng vào năm nọ tháng kia không thể xem là yếu tố quyết định thời điểm phải xuất hiện ĐHN. Đối với một nước như VN, các số liệu cung cầu năng lượng chỉ nên xem như thông tin có tính chất tham khảo trong việc quyết định thời điểm xây dựng nhà máy ĐHN. Yếu tố quyết định là cơ sở hạ tầng về an toàn bao gồm hệ thống luật pháp hạt nhân, đội ngũ chuyên gia và văn hóa quản lý công nghiệp.
Đội ngũ chuyên gia ĐHN đủ khả năng xét duyệt các phương án thiết kế, xây lắp và làm chủ trong vận hành, xử lý các tình huống sự cố (chứ chưa nói đến khâu chế tạo công nghệ ) hầu như chúng ta chưa có. Và triển vọng trong thời gian tới cũng không mấy sáng sủa. Làm sao có được chuyên gia về ĐHN đang là bài toán đầy thách thức lại đòi hỏi nhiều thời gian. Hệ thống pháp lý hạt nhân của chúng ta rất yêu kém, thậm chí bị coi thường. Minh chứng là lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sắp kỷ niệm 20 năm mà vẫn chưa có giấy phép vận hành. Chất phóng xạ do lò sản xuất được sử dụng trong các bệnh viện cũng chưa có giấy phép. Chẳng ai cấm, nhưng cũng chưa có ai ký.
Nguy cơ thật sự ở đâu?
Không ai có lỗi về khoảng cách khá lớn giữa trình độ phát triển hiện nay của chúng ta với các nước đang có ĐHN. Đó là chuyện lịch sử mà những tiến bộ vượt bậc trong mấy năm qua vẫn chưa thu ngắn lại được.
Nhưng chúng ta sẽ rất có lỗi nếu chỉ lo quảng cáo cho ĐHN mà không tự nhận biết mình là ai, không nỗ lực bắt tay ngay vào việc đào tạo đội ngũ chuyên gia và xây dựng hệ thống pháp lý.
Chúng ta lại cần có thời gian để thử thách cái hệ thống mà chúng ta sắp dựng nên. Chính trình độ yếu kém về tri thức công nghệ, quản lý công nghiệp và hệ thống pháp lý sẽ là mảnh đất lý tưởng để tham nhũng, hối lộ và nạn làm dối, làm ẩu hoành hành. Mà một khi nhốt chung ba quái vật ấy lại với ĐHN thì đó mới thật sự là mối đe dọa cho đất nước. Chính vì thế mà người dân Philippines thà vứt đi mấy tỉ đôla đóng thuế của họ xuống biển chứ không chịu cho nhà máy ĐHN đã xây xong đến 90% của họ hoạt động. Chia tay với ĐHN, Philippines quyết tâm theo đuổi chính sách lấy năng lượng tái tạo làm nền tảng, đặc biệt sẽ phấn đấu trở thành nước sản xuất địa nhiệt lớn nhất thế giới.
Trở lại bàn tiếp lập luận của vị khách trong vế thứ nhất. Lại cứ tạm chấp nhận là VN sắp phải nhập khẩu năng lượng như vị khách tiên đoán. Thì đã làm sao? Bao nhiêu nước, trong đó có Nhật, đều phải nhập khẩu năng lượng mà vẫn giàu có văn minh. Tài nguyên dồi dào như Trung Quốc mà chỉ riêng ba quí đầu năm 2003 phải nhập khẩu đến hơn 50 tỉ đôla về năng lượng (South China Morning Post, 10-12-2003). Nhưng ai dám đoan chắc với dân chúng rằng sau mười năm nữa VN sẽ phải nhập khẩu năng lượng? Mà lại để cho người nước ngoài nói thay ta rồi tung lên báo chí?
Nhiều người tin rằng tiềm năng về than, dầu mỏ, khí đốt của ta cộng với các giải pháp tiết kiệm năng lượng vẫn còn đủ để chưa cần đến ĐHN ít nhất là trước năm 2030. Lúc đó công nghệ ĐHN trên thế giới đã bước lên một quĩ đạo hoàn toàn mới với các lò phản ứng có đặc điểm an toàn nội tại, rất ít phụ thuộc vào sai sót của nhân viên vận hành. Nhập cuộc vào lúc ấy đâu có muộn. Mà người dân lại khỏi phải mua nỗi lo âu bằng cái giá quá đắt. “Dục tốc bất đạt”, lời khuyên của người xưa thật là chí lý.
PHẠM DUY HIỂN
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 14:59:14 GMT -5
Việt Nam có thể tự túc được nhiên liệu cho Nhà máy điện nguyên tử
Khu vực Pà Lừa (Quảng Nam) có trữ lượng urani ước tính 230.000 tấn để cho Nhà máy điện nguyên tử Việt Nam dự kiến hoạt động vào năm 2020. Tuy không dồi dào, nhưng Việt Nam sẽ không bị phụ thuộc nhiên liệu tuyệt đối.
Nhóm nghiên cứu của Đại học Mỏ Địa chất khẳng định, hiện nay, Pà Lừa (Quảng Nam) là khu vực khai thác urani - nhiên liệu cho Nhà máy điện nguyên tử (NMĐNT) thuận lợi nhất và có thể cung cấp tấn quặng nguyên khai đầu tiên vào năm 2020, thời điểm dự kiến NMĐNT Việt Nam hoạt động. Tuy nhiên, vấn đề là công tác thăm dò khu vực Pà Lừa phải được hoàn thành vào năm 2005.
Chỉ với trữ lượng ước tính 230.000 tấn urani, không dồi dào như Mỹ (2.198.000 tấn), Trung Quốc (1.777.000 tấn), Mông Cổ (1.390.000 tấn), Nam Phi (1.113.000 tấn), Nga (1.000.000 tấn), nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là sẽ không phụ thuộc nhiên liệu tuyệt đối. Theo dự báo, vào thời điểm NMĐNT Việt Nam bắt đầu hoạt động cũng là thời điểm ngành công nghiệp điện nguyên tử thế giới sẽ phải đối đầu với những thách thức về khan hiếm và tăng giá nhiên liệu urani. Vì vậy, việc thực hiện càng nhiều càng tốt các khâu trong chu trình nhiên liệu là xu hướng chung hiện nay đối với tất cả các quốc gia có tiềm năng urani.
Công tác nghiên cứu điều tra urani đã được Việt Nam tiến hành từ những năm sau 1975 với việc phát hiện nhiều mỏ quặng urani tại Trung Bộ và Việt Bắc. Để có thể lấy ra khỏi lòng đất những nguồn nhiên liệu quý ấy, Tiến sĩ Cao Hùng Thái, Viện Công nghệ Xạ hiếm cho rằng cần phải có chương trình nhà nước dài hạn và liên tục về chu trình nhiên liệu. Sự thiếu vắng chương trình này là nguyên nhân mà Việt Nam chưa xác định được mục tiêu, phương hướng xây dựng phát triển, chưa có điều kiện tập trung đầu tư tài chính cho công tác thăm dò nguồn nguyên liệu và xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm cho hoạt động nghiên cứu triển khai về chu trình nhiên liệu.
Theo ông Thái, để xây dựng và phát triển chu trình nhiên liệu hạt nhân ở Việt Nam một cách vững chắc, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, cần tập trung tìm kiếm thăm dò và đánh giá khả năng khai thác tài nguyên urani, thực hiện chương trình nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ về chu trình nhiên liệu. Mục tiêu đến năm 2020 là chuẩn bị đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khai thác, sản xuất các sản phẩm urani và thực hiện nhiều công đoạn chế tạo thanh nhiên liệu vào những năm tiếp theo để cung cấp cho NMĐNT.
Ông Thái nhấn mạnh, các đề tài, dự án phải triển khai được kết quả nghiên cứu từ phòng thí nghiệm sang quy mô thử nghiệm. Trên cơ sở đó, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật để từ năm 2018 đến 2020 có thể chuẩn bị thủ tục cho việc xây dựng nhà máy chế tạo nhiên liệu nguyên tử. Viện Công nghệ Xạ hiếm cũng đưa ra dự trù kinh phí cho chương trình tìm kiếm, thăm dò tài nguyên urani và chương trình nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ về chu trình nhiên liệu là khoảng 556 tỷ đồng.
Hiện nay, trên thế giới có 31 quốc gia có cơ điện nguyên tử đang hoạt động nhưng có đến 72 nước đầu tư tìm kiếm, thăm dò urani, trong đó có 36 nước khai thác và sản xuất urani. Trong số 31 nước có NMĐNT, có 13 nước quan tâm đến toàn bộ các khâu của chu trình nhiên liệu.
NTT (Báo Tiền phong)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 15:02:54 GMT -5
An toàn và công nghệ điện hạt nhân ở Việt Nam An toàn và công nghệ đối với việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong buổi họp báo nhân Triển lãm công nghệ nhà máy điện hạt nhân diễn ra vào chiều nay (24/5) tại Hà Nội. An toàn là vấn đề gây ra những lo ngại sâu sắc, đặc biệt là sau tai nạn hạt nhân ở Chernobyl và một số sự cố hạt nhân khác trên thế giới. Tại cuộc họp báo, PGS TS Vương Hữu Tấn, viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam khẳng định: ''Không thể xảy ra vụ nổ nguyên tử như kiểu bom nguyên tử trong các nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) hiện nay, bởi để có vụ nổ nguyên tử cần phải có uran giàu U-325 trên 96% và với khối lượng đủ lớn được tập trung trong thời gian ngắn. Các điều kiện này không thể nào có được trong nhà máy ĐHN. Uran nhiên liệu của nhà máy ĐHN có độ giàu dưới 5%''. Tại bốn triển lãm trước đây được tổ chức tại Hà Nội, Ninh Thuận, Phú Yên và TP.HCM, trong tổng số 18.000 phiếu thăm dò dư luận, có 80% người ủng hộ xây dựng nhà máy ĐHN ở Việt Nam. Kết quả thăm dò trên Internet cho thấy 71% trong tổng số 15.600 người ủng hộ. Triển lãm công nghệ điện hạt nhân lần thứ năm sẽ diễn ra từ 26 đến 29/5 tại Cung Văn hoá Hữu nghị (Hà Nội), với sự tham gia của Ấn Độ, Pháp, Hàn Quốc, Nga, Nhật Bản và Việt Nam. Trong khuôn khổ triển lãm, các hội thảo khoa học liên quan với sự tham gia của nhiều chuyên gia và IAEA sẽ làm rõ các vấn đề mà công chúng Việt Nam đang quan tâm như xu thế phát triển điện hạt nhân thế giới, vấn đề an toàn, thải phóng xạ, kinh tế, đầu tư... Tai nạn Chernobyl là do những sai sót ngay trong thiết kế và vi phạm quy chế vận hành của con người. Hiện các lò thương mại trên thế giới đều có vỏ bọc bê tông cốt thép nên nếu sự cố xảy ra, các chất phóng xạ sẽ bị giữ lại trong đó. Các chuyên gia ĐHN đã khẳng định sẽ không xảy ra tai nạn hạt nhân nào kiểu như Chernobyl. Các lò phản ứng thương mại hiện đã đạt đến độ an toàn rất cao, xác suất xảy ra sự cố nghiêm trong là một phần triệu. Xét cho cùng thì lỗi của con người vẫn là quan trọng nhất, cụ thể là lỗi trong thiết kế, thi công, xây dựng, lắp đặt, vận hành, thanh tra và cấp phép. Nước Số lò Tỷ trọng điện hạt nhân 2002 Ấn Độ 14 3,68% Hàn Quốc 18 38,62% Nhật Bản 54 34,47% Nga 30 16% Pháp 59 78% Để các cơ sở hạt nhân hoạt động an toàn, cần phải có đội ngũ cán bộ trình độ cao, có kỷ luật và hệ thống luật lệ đảm bảo tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn. Theo ông Tấn, hoạt động của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt trong 20 năm qua đã khẳng định trình độ của đội ngũ cán bộ Việt Nam trong quản lý, vận hành và bảo dưỡng lò - mô hình thu nhỏ của nhà máy ĐHN. Ông nói: ''Từ nay đến khi có nhà máy ĐHN ở Việt Nam, chúng ta còn khoảng 15 năm cho việc đào tạo và học hỏi kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trên thế giới''. Trung Quốc đang có kế hoạch đẩy mạnh chương trình phát triển ĐHN với bảy nhà máy đang hoạt động, bốn nhà máy đang xây dựng và sáu nhà máy đã có kế hoạch xây dựng. Đến năm 2010, dự kiến sản lượng ĐHN của nước này sẽ tăng gấp mười lần so với năm 1997. Việc xây dựng các nhà máy ĐHN ở phía Nam Trung Quốc thực sự đã đặt Việt Nam nằm trong phạm vi ảnh hưởng của nhà máy ĐHN, đặc biệt là miền Bắc Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Do đó, xét về phương diện vùng địa lý thì việc xây dựng nhà máy ĐHN ở Việt Nam chỉ bổ sung thêm một phần nào đó vào lo ngại của công chúng về an toàn hạt nhân. Điều đó cho thấy vấn đề vận hành an toàn nhà máy ĐHN không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia mà đã mang tính khu vực và quốc tế. Lò phản ứng hạt nhân (Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt) Việc chuyển giao công nghệ ĐHN phải được Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và nhiều tổ chức quốc tế khác phê chuẩn, trong đó có vấn đề Luật An toàn Hạt nhân. Theo thống kê của IAEA, vào cuối năm 2002, toàn thế giới có 441 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động với sản lượng trong năm là 2.574 tỷ KWh. Các quốc gia xung quanh Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ đều có chương trình ĐHN rất phát triển. Trên thực tế, chúng hoạt động rất an toàn ở nhiều nước kể cả phát triển và đang phát triển với một vài sự cố. Dự kiến Việt Nam sẽ có nhà máy ĐHN vào khoảng năm 2017-2020. Lò nước sôi, lò áp lực và lò candu là những công nghệ phổ biến nhất thế giới hiện nay. Việc lựa chọn công nghệ là vấn đề phức tạp, đang được đánh giá và tuỳ thuộc vào chính sách phát triển ĐHN của nước ta. Việt Nam có thể đi theo hướng sử dụng một công nghệ hoặc nhiều công nghệ. Nhà máy ĐHN ở Việt Nam có thể được xây dựng với công suất từ 2.000MW đến 4.000MW. Theo kết quả nghiên cứu tiền khả thi Dự án nhà máy ĐHN do Bộ Công nghiệp và Bộ Khoa học - Công nghệ thực hiện, tới năm 2015, Việt Nam sẽ thiếu 8 tỷ kwh, 36-65 tỷ kwh đến 2020. Minh Sơn
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 15:58:17 GMT -5
Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên dự kiến đặt ở Ninh Thuận
Xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận có thể sẽ được chọn đặt nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở nước ta. Dự kiến nhà máy bắt đầu được xây dựng vào năm 2012, để đến năm 2017 có thể hòa điện lưới quốc gia, với 2 lò phản ứng có công suất tổng cộng 2.000 MW.
Ông Vương Hữu Tấn, Viện trưởng Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, đã thông báo như vậy bên lề Hội nghị các chủ dự án thông tin đại chúng về Năng lượng hạt nhân, diễn ra sáng nay tại Hà Nội. Địa điểm này được chọn từ 3 khu vực khảo sát trước đó, gồm 2 ở Ninh thuận và 1 ở Phú Yên.
Nghiên cứu của Viện năng lượng nguyên tử VN cho thấy, nhu cầu điện của nước ta đang tăng 17% mỗi năm (trong 3 năm gần đây). Cứ đà này, Việt Nam sẽ nhanh chóng bị thiếu điện, và đến năm 2017-2020 sẽ cần có nhà máy điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu. Hiện trong các nước Đông Nam Á, chỉ có Indonesia và Việt Nam đang thúc đẩy phát triển điện hạt nhân. Trước mắt, nhà máy điện hạt nhân đầu tiên sẽ có 2 tổ máy (mỗi lò công suất 1.000 MW), với vốn đầu tư khoảng 3 tỷ USD, về sau có thể bổ sung 2-4 lò. Thiết bị cho nhà máy sẽ được nhập khẩu. Các lò phản ứng tiếp theo sẽ từng bước được nội địa hóa, mà đầu tiên là thanh nhiên liệu. Dự kiến khi nhà máy đầu tiên đi vào hoạt động, điện hạt nhân sẽ chiếm tỷ trọng khoảng 6-10% sản lượng điện của cả nước. Song cũng theo ông Tấn, để phát huy tính kinh tế của loại hình năng lượng này, chúng ta phải xây dựng nhiều, chứ không chỉ một nhà máy.
Nhà máy điện hạt nhân có ưu điểm là hoạt động hầu như liên tục, có khi 2 năm mới phải dừng để thay nhiên liệu, trong khi thủy điện có thể phải dừng hoặc giảm công suất hoạt động vào mùa khô. Đồng thời, công suất của nhà máy điện hạt nhân cũng rất lớn. Nếu một nhà máy có 6 lò phản ứng, thì tổng công suất sẽ là 6.000 MW, tương đương với tổng sản lượng điện cả nước hiện có.
Vấn đề công chúng lo ngại nhất với loại hình năng lượng này là tính an toàn, gồm an toàn kỹ thuật và rác thải hạt nhân. Tuy nhiên theo ông Tấn, chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm về mặt kỹ thuật. Các thiết kế tiên tiến trên thế giới đảm bảo rằng xác suất rủi ro là 10-6 (tức là 1 triệu lò phản ứng, mới có một lò có nguy cơ bị sự cố ).
Về chất thải, nhà máy điện hạt nhân có hai dạng. Dạng thải phóng xạ thấp (phát sinh từ các phin lọc của lò phản ứng, từ các dụng cụ thay ra...), có thời gian bán rã ngắn, dài nhất 30 năm. Để xử lý, người ta sẽ bê tông hóa chúng, đóng vào các container nhỏ rồi chôn xuống đất. Sau một thời gian, chúng sẽ trở lại trạng thái an toàn. Một lò 1.000 MW mỗi năm sẽ thải ra khoảng 800 tấn chất thải loại này, cô đặc lại còn khoảng 10 mét khối.
Loại chất thải đáng lo ngại nhất là nhiên liệu đã cháy. Một lò 1.000 MW thải ra khoảng 30 tấn mỗi năm. Chúng có cường độ phóng xạ cao, và thời gian bán rã rất lâu. Song, từ khi nhiên liệu được thải ra cho đến khi cần xử lý phải mất 40-50 năm. Như vậy, nếu Việt Nam vận hành nhà máy điện hạt nhân vào năm 2020, thì phải đến năm 2070, chúng ta mới cần tính đến việc này. Trong thời gian đó, chắc chắn công nghệ xử lý của thế giới đã đi rất xa, và có thể áp dụng cho Việt Nam.
Cũng theo ông Tấn, thực tế chất thải của các dạng phát điện khác đáng sợ hơn nhiều so với chất thải hạt nhân, vì chúng phát tán thẳng vào môi trường, còn chất thải hạt nhân có số lượng nhỏ, lại quản lý được. Chẳng hạn, một nhà máy nhiệt điện chạy than cũng có công suất 1.000 MW, một năm thải ra 320.000 tấn tro bụi, trong đó có 400 tấn kim loại nặng, hít vào người rất nguy hại. Xỉ than của nhà máy cũng có lượng phóng xạ cao hơn nhiều so với phóng xạ mà những người sống xung quanh nhà máy điện hạt nhân tiếp xúc. Song người dân không biết, và cũng không phản đối nhà máy đó, trong khi lại tỏ ra rất e dè với nhà máy điện hạt nhân.
Để khắc phục được trở ngại tâm lý này, Viện Năng lượng nguyên tử đề nghị nhà nước công khai các chính sách phát triển, tổ chức các triển lãm, mở cửa cho khách tham quan các cơ sở hạt nhân, như lò Đà Lạt (lò này có thể giảm hoạt động vào năm 2015, phục vụ đào tạo cán bộ là chính)...
Bích Hạnh
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:04:26 GMT -5
Thứ bảy, 30/11/2002, 09:39 GMT+7 Nhà máy điện hạt nhân VN có thể đặt tại Phú Yên, Ninh Thuận
Trên toàn quốc, chỉ có 3 địa điểm ở 2 tỉnh Phú Yên và Ninh Thuận là có khả năng xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Trong đó, 2 địa điểm của Ninh Thuận là xã Phước Dinh (huyện Ninh Phước) và xã Vĩnh Hải (huyện Ninh Hải). Dự kiến nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở nước ta được tiến hành thi công sau năm 2010.
Thông báo này được đưa ra tại hội thảo khoa học ứng dụng năng lượng hạt nhân phục vụ hòa bình, tổ chức ngày 28/11, tại thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Hội thảo do Viện Năng lượng Việt Nam phối hợp tổ chức với UBND tỉnh Ninh Thuận, có sự tham gia của các nhà khoa học Việt Nam, Nhật Bản.
Hai nội dung chính được thảo luận tại hội thảo là dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam và vấn đề an toàn hạt nhân đối với người dân. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 400 lò phản ứng hạt nhân sản sinh điện năng cao, giá thành rất thấp. Dự kiến vào năm 2020, Việt Nam sử dụng khoảng 200 tỷ KWh điện, tăng gấp 8 lần so với hiện nay. Do đó, việc đầu tư xây dựng nhà máy điện nguyên tử là rất cần thiết, nhằm đáp ứng nhu cầu về năng lượng của quốc gia.
Trước đó, một hội thảo nhằm lựa chọn công nghệ cho nhà máy điện hạt nhân Việt Nam cũng đã diễn ra tại Hà Nội. Ông Vương Hữu Tấn, Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử, cho biết để đảm bảo yêu cầu an toàn, Việt Nam nên chọn công nghệ lò nước - nước.
Theo ông Tấn, hiện có 3 nhóm lò chính đã được xây dựng trên thế giới, song chỉ có nhóm lò nước - nước là đã được kiểm chứng và xuất khẩu. Trong nhóm này, 3 loại lò được các chuyên gia hạt nhân đưa ra thảo luận tại hội thảo là lò nước áp lực, lò nước sôi và lò CANDU. Đây đều là những loại lò đang được các nước có nền công nghiệp hạt nhân phát triển như Mỹ, Pháp, Nga, Canada, Đức... cung cấp cho thị trường.
TS Lê Văn Hồng, Viện Năng lượng Nguyên tử, cho rằng chúng ta nên chọn lò nước áp lực, bởi ngoài các tiêu chí về công nghệ, an toàn, kinh tế..., đây còn là loại lò phổ biến rộng rãi hơn so với 2 loại còn lại. Hiện nay, lò nước áp lực chiếm gần 60% trong tổng số các lò đang hoạt động trên thế giới, và được sử dụng tại 23 quốc gia. Chỉ có 9 nước sử dụng lò nước sôi và 7 nước sử dụng lò CANDU.
Theo kế hoạch, việc lựa chọn công nghệ cho nhà máy điện hạt nhân Việt Nam sẽ phải hoàn thành vào tháng 7/2003 để trình Chính phủ phê duyệt cuối năm 2003.
(Theo Người Lao Động)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:07:13 GMT -5
Thứ hai, 24/5/2004 Lần đầu tiên công nghệ điện hạt nhân ra mắt tại VN Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt có thể sẽ được thay thế bằng một lò nghiên cứu khác, trước khi Việt Nam xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Từ 26 đến 29/5, triển lãm công nghệ điện hạt nhân sẽ được giới thiệu tại Hà Nội, với sự tham gia của 5 nước mạnh về lĩnh vực này là Pháp, Hàn Quốc, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Triển lãm sẽ cung cấp thông tin cho công chúng về tình hình điện hạt nhân trên thế giới, cùng sự chuẩn bị của VN cho nhà máy đầu tiên. Triển lãm là cơ hội để các nhà lập chính sách Việt Nam tìm hiểu thêm công nghệ của các nước, từ đó lựa chọn đối tác phù hợp cho việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở nước ta. Hiện tại, báo cáo tiền khả thi về dự án này đã được hoàn thành, đang chờ trình Chính phủ xem xét phê duyệt trong năm nay. Theo Phó giáo sư Vương Hữu Tấn, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử, 5 quốc gia dự triển lãm đều là những nước có chương trình điện hạt nhân mạnh và tạo ra những động lực to lớn cho phát triển kinh tế xã hội. Ở Pháp, điện hạt nhân chiếm đến 78%. Ấn Độ có 14 lò phản ứng đang vận hành, cung cấp 3,68% tổng lượng điện quốc gia năm 2002, đồng thời có khả năng tự xây dựng, vận hành, quản lý nhà máy điện hạt nhân, tái chế chất thải phóng xạ và chuyển đổi nhiên liệu. Hàn Quốc có 18 lò đang hoạt động, cung cấp gần 39% tổng sản lượng điện cả nước. Nga cũng có 30 lò phản ứng đang vận hành cung cấp 16% điện năng. Theo các chuyên gia, điện hạt nhân là giải pháp để đảm bảo an ninh năng lượng cho Việt Nam, bởi đến năm 2020, cộng từ tất cả các nguồn, nước ta vẫn sẽ thiếu từ 36 đến 65 tỷ kWh điện. Điều mà công chúng hiện còn e ngại là tính an toàn của dạng công nghệ này và khả năng xử lý chất thải phóng xạ. Tuy nhiên theo ông Tấn, không thể có vụ nổ hạt nhân (như bom nguyên tử ) trong các nhà máy điện hạt nhân, bởi muốn xảy ra vụ nổ thì phải có nhiên liệu với độ giàu trên 95%, trong khi ở các nhà máy, nhiên liệu chỉ có độ giàu 3-5%. "Ngoài ra, các lò thương mại trên thế giới hiện nay đều có vỏ bọc bê tông cốt thép, nếu xảy ra sự cố, các chất phóng xạ sẽ bị giữ trong vỏ bọc này. Các chuyên gia về điện hạt nhân đã khẳng định không thể xảy ra tai nạn nào kiểu như Chernobyl nữa", ông Tấn nói. Cũng theo ông, Việt Nam hoàn toàn có thể xử lý chất thải phóng xạ có hoạt độ thấp, như với lò Đà Lạt hiện nay. Còn dạng chất thải có hoạt độ cao, ta có thể cất giấu an toàn, chờ đến khi có công nghệ xử lý hiện đại. Một số lo ngại khác là đầu tư ban đầu cho nhà máy điện hạt nhân rất cao, và công nghệ của Việt Nam hiện còn thấp. Về vấn đề này, ông Seung -Bong Yoo, Tổng giám đốc văn phòng dự án nước ngoài, Công ty Thủy điện và Điện hạt nhân Hàn Quốc, cho rằng Việt Nam cần mạnh dạn vượt qua những trở ngại tâm lý: "Vào thời điểm những năm 70, khi Hàn Quốc bắt tay vào xây dựng nhà máy điện hạt nhân, điều kiện của chúng tôi còn kém xa các bạn ngày nay, công nghệ của chúng tôi lạc hậu hơn, kinh tế khó khăn hơn và chưa có gì về điện hạt nhân. Nhưng nay chúng tôi đã có thể độc lập trong xây dựng và phát triển loại công nghệ này, đồng thời xuất khẩu điện hạt nhân đi các nước". Ông Kazuki Hamachi, người đứng đầu diễn đàn công nghiệp nguyên tử Nhật Bản cũng cho rằng Việt Nam không nên e ngại, chờ đến khi đủ lực về mọi mặt mới phát triển điện hạt nhân, bởi vì "ở thời kỳ bắt đầu, Nhật Bản cũng phải nhập công nghệ từ Mỹ, sau đó mới cải tiến, biến nó thành của mình". Ông cho rằng Việt Nam phải có tầm nhìn xa hơn, chẳng hạn năm 2050, khi dân số Việt Nam đã tăng đáng kể, sức ép về điện năng sẽ rất lớn, khi đó điện hạt nhân sẽ là giải pháp hợp lý. Ông cũng dẫn chứng chính Nga - quốc gia duy nhất trên thế giới đến nay phải chịu hậu quả sự cố nhà máy điện hạt nhân - lại đang có đến 54 tổ máy vận hành. Ngoài ra, cũng theo ông Kazuki Hamachi, không cần quá lo ngại về chất thải phóng xạ hoạt độ cao, bởi trong 70 năm, lượng chất thải này từ một nhà máy điện hạt nhân chỉ lớn bằng 1 nắm tay, trong khi ở các nhà máy nhiệt điện, lượng CO2, khói bụi và xỉ than là lớn hơn rất nhiều lần. Trong khuôn khổ triển lãm sẽ có một hội thảo quốc tế với chủ đề "Hiện trạng và phát triển điện hạt nhân trên thế giới" với 3 hội thảo riêng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp để giới thiệu sâu hơn về chính sách phát triển và công nghệ điện hạt nhân của các nước này. Bích Hạnh, VNN
|
|
|
Post by Robot on Jun 18, 2004 13:55:55 GMT -5
Điện hạt nhân: Nên hay không và bao giờ? Khoảng 10 năm nữa VN sẽ có nhà máy điện hạt nhân. Thông tin trên dấy lên trong dư luận những ý kiến khác nhau. Vấn đề quan trọng đặt ra là: Điện hạt nhân an toàn đến đâu? Dư luận đang đặt ra câu hỏi vì sao tiến trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở VN được đẩy nhanh đến vậy? Trả lời câu hỏi này cũng đơn giản nhưng cũng nhạy cảm. Năm 1954, nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) đầu tiên trên thế giới ra đời và phát triển rất nhanh sau đó. Hiện nay, tốc độ phát triển của ĐHN đang chậm lại. Trên toàn thế giới hiện có hơn 400 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động, cung cấp gần 20% năng lượng điện trên toàn thế giới. Vì sao sự phát triển của ĐHN đang chựng lại? Trong khi đó ở VN lại đang triển khai dự án phát triển điện nguyên tử giai đoạn 2010-2015. An toàn của ĐHN còn bất cập.- Sự cố ĐHN xảy ra ở Chernobyl năm 1986 làm chấn động thế giới, lòng tin của con người vào ĐHN lung lay. Cho đến sự cố của tập đoàn sản xuất điện lớn nhất ở Nhật Bản Electric Power Co. (TEPCO), buộc TEPCO phải đóng cửa 17 lò phản ứng với tổng công suất điện hơn 16.000 MW (gấp 8 lần Nhà máy Thủy điện Hòa Bình) thì lòng tin của công chúng vào ĐHN gần như sụp đổ. Những sự cố trên làm cho công chúng chống đối ĐHN ngày càng tăng. Một số nước như Indonesia, Áo, Philippines xây xong hoặc gần xong nhà máy ĐHN vẫn phải đóng cửa, không đưa vào hoạt động vì sợ không an toàn. Điều đó cho thấy công nghệ ĐHN ở đầu thế kỷ 21 vẫn chưa an toàn. ĐHN vẫn còn nhiều vấn đề chưa giải quyết, như chất thải có hoạt độ phóng xạ rất cao, tồn tại hàng vạn năm từ các thanh nhiên liệu đã cháy (còn chứa plutonium). Vấn đề chôn cất chất thải hạt nhân vẫn chưa có giải pháp an toàn. Vấn đề khác, vốn đầu tư cho ĐHN khá cao, khoảng 2.000 USD/KW; vấn đề thanh lý nhà máy sau khi ngừng hoạt động cũng rất phức tạp... Tất cả những vấn đề trên làm cho ĐHN thiếu sức hấp dẫn. Dự báo sản lượng ĐHN thế giới sẽ giảm xuống còn 10% vào năm 2020. Bao giờ VN có ĐHN?.- Một câu hỏi đặt ra nhiều vấn đề nhạy cảm. Trước đây, theo kế hoạch, VN sẽ có ĐHN vào năm 2017; và sau những cuộc trình diễn do Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Nhật tổ chức tại VN, thời điểm đó được kéo lại gần hơn, có thể là năm 2012 - một thời điểm gây tranh luận. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, GS-TS Phạm Duy Hiển, một chuyên gia hàng đầu về nguyên tử của nước ta, khẳng định: “Là một trong những người từng được giao trọng trách xây dựng ngành hạt nhân từ hơn 25 năm trước đây, tôi không có ước mơ nào khao khát hơn là được chứng kiến ĐHN ở VN trong cuộc đời mình. Nhưng chừng nào những yếu tố khoa học công nghệ và xã hội chưa sáng sủa thì xây dựng ĐHN chỉ là bất đắc dĩ”. Ý kiến đó rất đáng được nghiên cứu, suy nghĩ. Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nơi có lò phản ứng hạt nhân được xây dựng đầu tiên ở Đông Nam Á. Theo các chuyên gia, VN chưa đủ điều kiện để có ĐHN vào thời điểm nêu trên. Thứ nhất, nguồn nhân lực thiếu, cần phải đào tạo ngay từ bây giờ. Đặt trường hợp nếu chúng ta có nhà máy ĐHN vào thời điểm trên, chắc chắn từ nhiên liệu, chuyên gia cũng phải nhập khẩu. Thứ hai, hệ thống pháp luật hạt nhân chưa có và văn hóa quản lý công nghiệp chưa hình thành. Cơ sở hạ tầng này rất quan trọng trong quản lý ĐHN. Thứ ba, thế hệ công nghệ ĐHN hiện nay (thế hệ thứ 3) chưa an toàn, để một thời gian nữa thế hệ thứ 4 ra đời, có đặc điểm an toàn nội tại, rất ít phụ thuộc vào sai sót của nhân viên vận hành, lúc đó là thời điểm thích hợp để ta có nhà máy ĐHN. Ai cũng biết, trong thế kỷ qua con người đã sử dụng quá nhiều nguồn nhiên liệu hóa thạch, tạo nên hiệu ứng nhà kính. Ý thức được điều đó, con người đi tìm những nguồn năng lượng khác từ mặt trời, gió, địa nhiệt... nhưng dự báo cũng không quá 30% vào năm 2020. Do vậy nguồn năng lượng nguyên tử trước sau gì cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng cho con người. Vấn đề là an toàn, và công chúng có quyền yêu cầu một công nghệ ĐHN gần như an toàn tuyệt đối. Nh.Khanh
|
|