|
Post by Robot on Jun 18, 2004 13:56:13 GMT -5
Ông Nguyễn Ngọc Trân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội:
Điện hạt nhân là cần thiết nhưng phải làm hết sức thận trọng
Phía Viện Năng lượng nguyên tử VN đưa ra lý do đến năm 2017 phải đưa ĐHN vào nếu không thì nguồn năng lượng sẽ bị cạn kiệt. Tôi nghĩ là chưa hẳn đã đúng như vậy. Trong Luật Điện lực mới được QH cho ý kiến có nêu vấn đề ta phải sử dụng năng lượng một cách tiết kiệm, kể cả không cạn kiệt cũng cần phải tiết kiệm. Tôi có trao đổi với một số nhà khoa học chuyên ngành trong hội đồng chính sách khoa học quốc gia thì họ đều cho rằng không phải đến năm 2017 là năng lượng của VN bị cạn kiệt: Dầu khí, thủy điện và các dạng năng lượng khác vẫn còn. Thời điểm chúng ta cần đến năng lượng hạt nhân xa hơn, có thể là vào thập niên 30 của thế kỷ 21.
Tôi nhấn mạnh thời điểm là vì cái công nghệ, lò phản ứng là rất quan trọng. Hiện nay những công nghệ họ chào hàng với mình là loại lò thế hệ thứ 3, mà công nghệ này có thể thấy được những nhược điểm, không bảo đảm an toàn. Hiện nay họ đang nghiên cứu để cho ra loại lò phản ứng thế hệ thứ 4. Lúc đầu dự kiến ra đời khoảng năm 2030, nhưng nay có thể sẽ hoàn thiện vào khoảng năm 2025. Thế hệ lò phản ứng này an toàn hơn và chất thải cũng ít hơn. Tôi cho rằng rồi đến một lúc nào đó chúng ta cũng phải cần đến năng lượng hạt nhân, nhưng vấn đề là phải đi vào lĩnh vực này hết sức thận trọng. Cần phải chọn công nghệ tốt nhất, an toàn nhất, ít ảnh hưởng đến môi trường nhất để làm. Việc quy hoạch phát triển ĐHN phải làm hết sức thận trọng. Yêu cầu từ nay đến cuối năm phải hoàn thành quy hoạch này là quá sớm. Chạy vội vàng như thế tôi cho là không nên.
M.Nghĩa ghi
---------------------------------------------------
Ông Đào Văn Hưng, Tổng Giám đốc EVN:
Năm 2020, sẽ thiếu hụt khoảng 50.000 MWh
Trong 5 năm qua, nhu cầu điện năng của nước ta tăng khoảng 15% mỗi năm, đặc biệt năm 2002 là một năm quan trọng với mức tăng trưởng nhu cầu điện năng là 17%. Nhu cầu phụ tải tới năm 2005 là 48,5-53 tỉ KWh, năm 2010 là 88,5-93 tỉ KWh. Nhằm đáp ứng nhu cầu điện tăng cao, trong giai đoạn từ nay tới năm 2005 cần hoàn thành đưa vào vận hành 10 nhà máy đang xây dựng và chuẩn bị xây dựng với tổng công suất 3.023 MW. Giai đoạn 2006-2010 cần xây dựng mới và mở rộng thêm 52 nhà máy điện với tổng công suất khoảng 7.574 MW, trong đó có 42 nhà máy thủy điện (kể cả các nhà máy thủy điện do các doanh nghiệp ngoài Tổng Công ty Điện lực VN (EVN) đầu tư ) với tổng công suất khoảng 4.827 MW, 4 nhà máy nhiệt điện khí, 6 nhà máy nhiệt điện than. Đồng bộ với việc bổ sung nguồn điện, hệ thống lưới điện cũng phải được đẩy nhanh tiến độ, trong đó, xây dựng mới 15 trạm biến áp 500 KV và 2.326 km đường dây. Xây dựng mới 85 trạm biến áp 220 KV và 5.064 km đường dây 220 KV.
Theo tính toán của EVN, đến năm 2020, nhu cầu năng lượng của VN vào khoảng 200.000 MWh. Trong khi đó, nếu khai thác hết các nguồn năng lượng có thể cũng chỉ đạt 150.000 MWh. Như vậy sẽ thiếu hụt khoảng 50.000 MWh. EVN cũng tính đến phương án mua điện của một số nước xung quanh, tuy nhiên điều này gặp khó khăn và cũng không đủ đáp ứng nhu cầu.
G.Linh-M.Ng ghi
----------------------------------------------------------
GS Đặng Vũ Minh, Giám đốc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam:
Chỉ nên phát triển điện hạt nhân khi không còn giải pháp nào khác
Theo tôi, cần phải xem từ nay đến năm 2020 và sau đó nữa có cách nào giải quyết vấn đề năng lượng ở nước ta không. Nếu không còn cách nào khác, bị thiếu hụt năng lượng, là con đường độc đạo thì chúng ta phải tính đến việc phát triển ĐHN. Và nếu đã làm thì phải làm hết sức cẩn thận. Trường hợp còn hướng đi khác thì chúng ta phải cân nhắc cẩn thận. Lý do là việc đầu tư cho ĐHN không hề rẻ, vận hành khó khăn, đòi hỏi trình độ quản lý chuyên nghiệp cao. Đặc biệt vấn đề an toàn được nhiều người rất quan tâm. Cũng cần nhớ rằng, những cán bộ vận hành lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã được đào tạo từ những năm 1960-1961. Trung bình để đào tạo một cán bộ vận hành lò phản ứng hạt nhân phải cần ít nhất 15 năm. Cho cháy lò là một chuyện, để điều hành một cách an toàn là chuyện khác. Vì thế, nếu muốn năm 2020 có cán bộ vận hành được lò phản ứng hạt nhân thì phải cử cán bộ đi đào tạo từ bây giờ.
M.Nghĩa ghi
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 12:35:26 GMT -5
Ðiện Hạt Nhân : Nên dè dặt ðối với những luận ðiệu tuyên truyền của ngoại quốc
"Tôi rất vui mừng ðýợc biết nhiều quan ðiểm mới về Ðiện Hạt Nhân (ÐHN) ở nýớc nhà qua báo Ngýời Lao ðộng, ðặc biệt với các bài có tinh thần trách nhiệm quý báu của nhà vãn Nguyên Ngọc. Tiếp theo bài của TS Ðinh Ngọc Lân, tôi xin phép góp thêm ý kiến và bình luận vài con số.”
Ðó là ý kiến của GSTS Nguyễn Khắc Nhẫn từ Grenoble (Pháp) gởi về cho Ngýời Lao Ðộng Ðiện tử. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn ðọc ðể rộng ðýờng tham khảo.
Lò thế hệ III EPR ( European Pressurized Reactor ) sẽ có công suất 1 600 MW thay vì 1 450 MW nhý ðã nêu.
Trong số các lò thế hệ IV ðang ðýợc 10 nýớc nghiên cứu (Generation IV International Forum – GIF), lò nhiệt ðộ cao VHTR ( Very High Temperature Reactor ) 850° C sẽ có hiệu suất rất lớn 50 %.
Tôi không ðồng ý về những con số ghi trong bài nghiên cứu”the future of nuclear power” nãm 2003 của MIT (Massachusetts Institute of Technology). Bài này quá lạc quan chỉ thỏa mãn những mõ ýớc hão huyền của những công ty muốn xây cất hàng loạt nhà máy ÐHN khắp 5 châu. Không phải vô tình mà họ thổi phồng những tỷ lệ ÐHN của một số nýớc. Mục ðích của họ là ðánh tan sự nghi ngờ của thế giới ðối với thị trýờng ÐHN bị chìm lặng ðã gần 30 nãm trời.
Tôi ðã có dịp trình bày những lý do vì sao cõn khủng hoảng ÐHN trở nên trầm trọng thêm (mở cửa thị trýờng ðiện lực, thời gian thu lại vốn quá dài, chống ðối của dân chúng...). Xin nhắc lại ðây vài chi tiết quan trọng :
· Tỷ lệ ÐHN 6,5 % trong tổng kết nhu cầu nãng lýợng sõ cấp toàn cầu không thay ðổi từ nay ðến 2020.
· Ðến 2020, tổng công suất ÐHN thế giới sẽ hạ xuống còn 320 000 MW thay vì 358 000 MW hiện nay.
Nhý thế có nghĩa là từ 2020 ðến 2050, tỷ lệ ÐHN không thể nào nhẩy vọt một cách nhanh chóng và công suất những lò hạt nhân trên thế giới không thể tãng gấp ba, lên ðến 1 000 000 MW !
Ta có thể tính ðýợc số lò ÐHN rất lớn mà Mỹ và Nhật phải ồ ạt xây cất ðể ðạt tý lệ 50% và 60% vào nửa thế kỷ tới. Mỹ 715 lò (1000 MW) thay vì 104 hiện nay. Nhật 85 lò thay vì 54 lò hiện nay.
Với nhịp ðộ này sẽ có vấn ðề thiếu ðịa ðiểm tốt ðể xây cất nhà máy, thiếu công ty chế tạo lò ðể sản xuất, thiếu nhiên liệu Uranium giàu!
Ðối với nhà ðầu tý tý nhân, ÐHN kinh tế hay không là câu hỏi ðầu tiên quan trọng nhất, bất kể các vấn ðề an toàn, chất thải phóng xạ, tai nạn rủi ro, khủng bố, chống hiệu ứng nhà kính, môi trýờng...
Ðừng quên rằng Mỹ hết sức thận trọng về vấn ðề an toàn và luật lệ, họ chờ xem hiệu quả các lò thế hệ IV ra ðời, sớm lắm cũng không trýớc 2030-2035.
Ðến chân trời này, nãng lýợng tái tạo nhý gió, mặt trời ðã trở nên kinh tế và có thể cạnh tranh với dầu, khí, mà giá sẽ tãng vọt lên vì các mỏ bắt ðầu khan hiếm!
Tôi ðã cho biết là hiện nay giá ÐHN ở Mỹ cao hõn giá ðiện chạy than hay khí ít nhất là 60 %. Sau ðây là những con số mà ông Thomas B. Cochran, giám ðốc NRDC’s nuclear program ðã công bố ở Mỹ ngày 15/4/2004:
Nhà máy (vận hành 40 nãm) Cents USD/kWh ÐHN 6,7 Than 4,2 Khí (giá trung bình ) 4,1 Khí (giá hạ ) 3,8
Ðứng về phýõng diện kinh tế, ÐHN ở Mỹ chỉ có thể phát triển trở lại ngày nào chính phủ ðánh thuế carbone (carbon tax) từ 100 USD/tấn C ðến 200 USD/tấn C tùy nhà máy chạy than hay khí.
Pháp ðã tuyên bố sẽ dần dần hạ tỷ lệ ÐHN 77 % hiện nay ðể tãng phần nãng lýợng tái tạo.
Ở Nhật sau những sự cố ða xảy ra gần ðây, dý luận mất nhiều tin týởng ở ÐHN, nên khó phát triển mạnh.
Trung Quốc và Ấn Ðộ, với nhu cầu quá lớn, cực chẳng ðã, phải tiếp tục xây dựng một số lò thế hệ II PWR ( Pressurized Water Reactor ) vì không thể chờ ðợi lò thế hệ IV. Tuy nhiên, tỷ lệ ÐHN ở hai nýớc này cũng không thể ðạt mức 30 % vào nãm 2050.
Philippines tuy ðã bỏ ra 2,3 tỉ USD ðể xây cất nhà máy ÐHN Bataan nãm 1976, gần xong nãm 1984 thì phải ðóng cửa vì sợ ðộng ðất và vì ðịa ðiểm không tốt, ở không xa núi lửa Pinatubo.
Riêng ở nýớc ta, nếu muốn có tỷ lệ ÐHN 20 % từ 2020 ðến 2050, Công ty ðiện lực Việt Nam phải xây cất trung bình mỗi nãm 2 lò ÐHN, ðây không phải là một chuyện dễ !
Nói rằng Việt Nam chỉ có thể dùng lò PWR thì tôi không ðồng ý chút nào. Trong số 436 lò ðang vận hành ở 33 nýớc trên thế giới, gần 80 % thuộc kiểu PWR, nên kinh nghiệm gặt hái với loại lò này rất lớn, ðiều ấy không ai chối cãi ðýợc. Tuy nhiên, lò PWR (cũng nhý lò EPR vì cùng một kỹ thuật) ðýợc nhiều chuyên gia xem nhý ðã lỗi thời!
Nói rằng lò PWR an toàn hõn lò RBMK của Nga vì có thêm nhà giam hãm (enceinte de confinement) là ðúng nhýng không vì thế mà ðýõng nhiên sẽ tránh khỏi những tai biến rùng rợn, xếp ở cấp 7 cao nhất của thang ðộ ( Echelle INES – International Nuclear Event Scale ) nhý Tchernobyl.
Nếu không, tại sao phải bỏ bạc tỉ USD ðể nghiên cứu lò thế hệ IV? Và tại sao EDF(Electricite de France) không tiếp tục dùng lò PWR cho kinh tế và dễ khai thác hõn mà phải chuẩn bị mua lò EPR ðể lần lýợt thay thế những lò ðến tuổi phải thôi vận hành?
Bảo rằng không có con ðýờng nào khác ÐHN thì phủ nhận vai trò hết sức quan trọng, ðối với nhân loại và ðối với ðất nýớc ta, của các chiến lýợc tiết kiệm nãng lýợng và những chýõng trình phát triển nãng lýợng tái tạo.
Vì cớ gì ta lại phải tự ràng buộc, hấp tấp mua lò PWR ðể cho vận hành nãm 2017-2020? Các ðộc giả nghĩ nhý thế nào nếu chúng ta hứa sẽ tặng các cháu gái 5 tuổi ở Ninh Thuận, nếu học ngày ðêm ðứng nhất nhì trong lớp, 2 xe hoa 4 cv Renault (kiểu taxi Saigon, xuất hiện cùng thời ðiểm với kỹ thuật lò PWR của tàu ngầm Mỹ Nautilus nãm 1954) ðýa về nhà chồng cho oai với láng giềng, trong ngày hôn lễ 15 nãm tới?
Grenoble, 7/07/ 2004.
TS Nguyễn Khắc Nhẫn
Nguyên Cố vấn Nha kinh tế, dự báo chiến lýợc - EDF - Paris G.S Trýờng Ðại học Bách khoa Grenoble G.S Viện kinh tế, chính sách nãng lýợng Grenoble
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:37:01 GMT -5
Điện hạt nhân không kinh tế mà còn nguy hiểm cho đất nước !TS. Nguyễn Khắc Nhẫn Nguyên cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris GS. Trường Đại học Bách khoa Grenoble Tiếp theo bài « Phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam » của PGS.TS. Vương Hữu Tấn, Viện trưởng Viện Năng Lượng Nguyên Tử Việt Nam (VNLNTVN), đăng trên Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 13-5-2004 và bài của tôi viết đăng hai ngày 29-4-2004 và 6-5-2004 ( tailieu.thoidai.org/NKNhan_2003.pdf và tailieu.thoidai.org/NKNhan_ChuaDHN.htm), tôi xin phép góp một số ý kiến sau đây : I. « Điện hạt nhân (ĐHN) chưa được nghiên cứu và cân nhắc kỹ ».Theo tôi, nước ta không có vấn đề cân bằng năng lượng đến 2030 vì tài nguyên nội địa đa dạng và tương đối còn khá phong phú so với nhiều quốc gia khác. Lẽ cố nhiên, chúng ta phải có chiến lược tiết kiệm, triệt để sử dụng tối ưu, hợp lý, có hiệu quả năng lượng và đồng thời nổ lực phát triển chương trình năng lượng tái tạo. Hiện nay, con số tổng kết về phung phí, thất thoát rất quan trọng; nếu tiết kiệm được thì đó là một nguồn năng lượng vô cùng quý báu. Theo VNLNTVN thì : 1. Nhà máy ĐHN đầu tiên ở Ninh Thuận sẽ có 2 tổ máy (2 x 1 000 MW). Công suất này lớn, sẽ khó khai thác. Chúng ta sẽ phải mua lò thế hệ II (PWR, BWR, VVER, RBMK) đã lỗi thời hay sao? 2. Năm 2020, nước ta sẽ thiếu từ 36-65 tỉ kWh và năm 2030, từ 119-188 tỉ kWh. Mỗi năm, 2 lò 1000MW chỉ cho trung bình 12 tỉ kWh, như vậy những tỉ kWh kia sẽ được sản xuất bằng nhiên liệu gi ? Chẳng lẽ ta phải xây cất một loạt từ 6 đến 11 lò cho năm 2020 và đến 2030 ta phải có từ 20 đến 31 lò ? Cả một công nghiệp ĐHN đồ sộ, và với phương tiện nào ? Lý luận như thế để chứng minh rằng ĐHN không giải quyết vấn đề cân bằng năng lượng cho đất nước. Về an ninh cung cấp năng lượng cũng khó thực hiện được, vì ta sẽ phải tiếp tục lệ thuộc lâu dài với ngọai quốc, về thiết bị, nhiên liệu, nhất là Uranium làm giàu ra 3,5% 235U, vì việc xử lý nhiên liệu, lưu giữ chất thải phóng xạ, chưa kể phần chuyên viên kỹ thuật... Mua tích trữ nhiều năm nhiên liệu hạt nhân sẽ không kinh tế (tiền ứng đọng không sinh lời), nó sẽ ảnh hưởng không tốt đến giá điện. Ngoài ra, ta cũng chưa đủ điều kiện để làm chủ một số khâu sản xuất nhiên liệu : từ khi trích U ở các mỏ ra đến lúc chế tạo nhiên liệu đưa vào lò. Rất ít nước trên thế giới có thể bỏ hàng tỉ USD để đầu tư vào nhà máy làm giàu U. Chương trình ĐHN của EDF, nhất nhì thế giới, đã thu hút 200 tỉ USD. Pháp phải huy động một lực lượng rất lớn đầu tư vào tất cả các khâu của chu trình kín (cycle fermé). Tuy nhiên, tỉ lệ độc lập vẫn không quá 50%. Cho nên, nhập khẩu nhiên liệu hay năng lượng có sao đâu ? Về phương diện kinh tế, vấn đề an ninh và độc lập năng lượng, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, không còn ý nghĩa như xưa nữa. II. « ĐHN không nhất thiết đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước ».Phát triển ĐHN không tăng cường mạnh tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghiệp quốc gia như ta tưởng. Nó là một lĩnh vưc riêng biệt vì tính cách an toàn (nên đòi hỏi rất nhiều kinh phí). Nó chỉ là một phần của ngành năng lượng, nhưng nó sẽ thu hút hết nguồn tài chính quốc gia. Ta sẽ không còn đủ sức đầu tư vào các lĩnh vực then chốt : giáo dục- nghiên cứu, y tế và xã hội. Lấy ví dụ điển hình ở Trung tâm nghiên cứu hạt nhân Grenoble thành lập năm 1956 mà tôi được biết rõ, người ta biết chuyển hướng rất sớm, đã sang nghiên cứu từ lâu ngành micro (10-6m)điện tử và gần đây nano (10-9m) công nghệ (50 ngàn lần nhỏ hơn sợi tóc !). Các lò nghiên cứu hạt nhân Mélusine, Siloé và Siloette của Trung tâm này (nay gọi là CEA) đang phải tháo gở (tốn gần 200 triệu USD). Nhắc lại đoạn đường 50 năm qua để độc giả nhìn nhận chiến lược ngược chiều, sai lầm, nếu ta lựa chọn ngành ĐHN làm nền tảng công nghiệp xứ sở. Làm DHN sẽ đưa nước nhà vào một con đường bế tắc với bao chướng ngại vật. Mỗi nhà máy kẹt ít nhất 100 năm vì phải chờ 50 năm mới tháo gỡ đươc. Nên nhớ rằng giới khoa học đã đặt câu hỏi có nên tiếp tục một kỹ thuật già nửa thế kỷ (kỹ thuật PWR xuất hiện cùng một lúc với tầu ngầm Nautilus của Mỹ năm 1954). Nhiều chuyên gia cho rằng việc sử dụng chất phân rã (matière fissile) để làm điện không phải là một thượng sách. Cái may của nước ta, cũng như gần 170 nước khác, là chưa kẹt vào đó. VNLNTVN muốn làm chủ ngành ĐHN để làm gì? Phí công, mất của, mà còn nguy hiểm cho con cháu. Chúng ta không nên lạm dụng danh từ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiến triển khoa học ngày nay và việc toàn cầu hóa đã làm nhiều nước (trong đó có Pháp) phải dẹp dần một số công nghiệp không có triển vọng. Nói rằng các cường quốc đều thông qua chương trình phát triển ĐHN để nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghiệp quốc gia thì là quá đáng. Sự thật, thừa nhận rằng các nước có bom nguyên tử đều bắt đầu bằng chương trình ĐHN, để có sự hợp tác quốc tế công khai về mặt kỹ thuật cũng như tài chính thì đúng hơn.
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:40:10 GMT -5
III. « ĐHN không giải quyết vấn đề môi trường trong phát triển năng lượng bền vững »
Nhiều nhóm thế lực (lobby) quốc tế đã đầu tư quá nhiều tỉ USD vào lĩnh vực hạt nhân nên lợi dụng việc chống hiệu ứng nhà kính để cứu vãn tình trạng khủng hoảng đã kéo dài từ 25 năm nay; họ nêu khẩu hiệu DHN góp phần giải quyết vấn đề môi trường. Sự thật không phải vậy. Không ai phủ nhận vai trò ĐHN trong vấn đề CO2, nhưng đảm bảo rằng ĐHN là một nguồn năng lượng « sạch » thì thật là phi lý. Thí dụ Tchernobyl với trên 3 triệu nạn nhân (trong số đó có hàng chục ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người bị thương, lâm bệnh tật suốt đời).Thông tin này (ít được phổ biến) do cố vấn sứ quán Ukraine ở Pháp trực tiếp cho tôi biết tại hội thảo quốc tế về điên hạt nhân ở Paris tháng 4 vừa qua. Ông Viện trưởng VNLNTVN đã quá lạc quan khi dám tuyên bố « với công nghệ điện hạt nhân hiện nay sẽ không có tai nạn kiểu như Tchernobyl ! ». Nhiều nước Đông Âu vẫn tiếp tục khai thác một số lò RBMK (Tchernobyl), VVER (kỹ thuật Nga) còn thiếu an toàn tuy đã được tu bổ. Cộng đồng Châu Âu đã yêu cầu những nước xin gia nhập cộng đồng đóng cửa các lò RBMK. Vì vũ trụ vẫn vô thường, tai nạn vẫn có thể xảy ra : động đất, bão lụt, máy bay khủng bố hay khai thác sai lầm. Không có công ty nào trên thế giới lúc bán lò hạt nhân cho ta dám ký hợp đồng bảo đảm sẽ không có tai biến lớn xảy ra xếp ở cấp 7 cao nhất của thang độ (Echelle INES- International Nuclear Event Scale) như trường hợp Tchernobyl, mặc dù xác suất rủi ro là 10-6 (một phần triệu).
Theo ông Viện trưởng (bài kỳ hai 20/05) : « sau năm 2050 chúng ta mới phải lo chôn cất chất thải phóng xạ dài ngày. Lúc đó chắc chắn đã có công nghệ mới để xử lý, biến chất thải dài ngày thành ngắn ngày hoặc không còn phóng xạ ». Tôi thì lo ngay bây giờ. Suốt nửa thế kỷ, khoa học chưa tìm ra giải pháp, làm sao dám tin tưởng ở sự thành công trong tương lai? Bảo rằng chất thải sẽ không còn phóng xạ là coi rẽ những hiện tượng vật lý. Với tinh thần trách nhiệm, ta không thể để con cháu thừa hưởng cặn bả độc hại, mặc kệ cho chúng tùy nghi xử lý?
Vài lò hạt nhân ở Việt Nam không có nghĩa lý gì trước khối lượng CO2 của Trung Quốc thải ra. Than là nguồn năng lượng chính của nước này (3/4 tổng số nhiên liệu). Về số lượng dầu tiêu thụ, Trung Quốc vừa được sắp hạng 2 trên thế giới, chỉ đứng sau Mỹ. Nước Mỹ, có một trách nhiệm rất lớn về CO2 phát ra, nhưng vì coi nhẹ vấn đề môi trường, họ đã từ chối (như Nga và Trung Quốc) việc xác nhận quy ước Kyoto (1997) để chống hiệu ứng nhà kính. Với chỉ 5% dân số thế giới, Mỹ tiêu thụ một cách phung phí và vô tư 25% năng lượng của toàn cầu. Mỗi người dân Mỹ trung bình sử dụng trên 8 tep (tấn dầu), tức là 18 lần con số 0,45 tep của một người dân Việt Nam. Mỗi người Pháp được 4,4 tep. Điều cần biết là tất cả những nhà máy điện trên thế giới chịu trách nhiệm 1/4 số luợng CO2 được thải lên trời (24 tỷ tấn năm 2002). Nhiều mô hình khí hậu dự đoán rằng nhiệt độ trung bình thế giới có khả năng tăng lên từ 1,5 đến 6°C từ đây đến chân trời 2100. Đến đó mực nước biển cũng có thể cao hơn từ 10 đến 90 cm. Tuy vậy, một số hăm dò ý kiến gần đây cho biết là phần đông các nước chấp nhận hậu quả nguy cơ khí hậu hơn là tai biến hạt nhân. Nạn hạn hán (41-42°C) mùa hè 2003 ở Pháp làm 15 ngàn người lớn tuổi bị thiệt mạng và EDF suýt phải cúp điện nói lên sự mỏng manh (fragilité) của một chương trình ĐHN đồ sộ (77% ĐHN).
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:40:27 GMT -5
IV. « Xu hướng phát triển ĐHN trên thế giới hiện nay không thuận lợi cho Việt Nam ».
Theo tôi, thị trường ĐHN quốc tế còn lu mờ. Rất nhiều chuyên gia cùng cho rằng cuộc khủng hoảng sẽ kéo dài đến 2020. Bằng chứng là tỷ lệ 6,5% của nhiên liệu hạt nhân trong tổng kết nhu cầu năng lượng sơ cấp toàn cầu sẽ không thay đổi từ đây đến đó. Theo cơ quan năng lượng quốc tế, tổng công suất ĐHN thế giới sẽ hạ xuống còn 320 000 MW (năm 2020) thay vì 358 000 MW (năm 2000). Hiện nay, toàn cầu có 440 lò. Trong 4 năm qua, chỉ 32 lò đang được xây cất, phần lớn ở Châu Á. Con số nhỏ bé này nói lên sự trầm trọng của cuộc khủng hoảng.
Ở Châu Âu, nhiều nước như Đức, Thụy Điển, Bỉ, Ý, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ … đều đã tuyên bố rút lui hoặc không hưởng ứng sự phát triển ĐHN nữa. Pháp, tuy có sự chống đối mạnh, nhưng vì không thể đợi lò thế hệ IV (2035-2040) để lần lượt thay thế các lò đã lớn tuổi phải ngưng vận hành, sẽ bắt buộc bỏ ra 3 tỉ USD để xây cất lò mẫu EPR thế hệ III (1 600 MW) vào năm 2007. Phần Lan cũng sẽ mua một lò này.
Về phần nước Mỹ, gần 30 năm nay, không có xây dựng thêm lò nào cả. Vì nạn thiếu điện ở Californie và nhiều nơi khác, chính phủ đã lên tiếng muốn trở lại phát triển ĐHN. Nhưng ngoài những ràng buộc về luật lệ, tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn, khủng bố, thời gian xây cất, còn có sự chống đối của dân chúng. Hai chướng ngại vật lớn nhất của nhà đầu tư Mỹ là kinh tế và tài chính. Ai dám bỏ tiền ra khi mà giá ĐHN cao hơn 60% giá điện chạy than hay khí (NRDC Mỹ, 04/2004)? Ai chịu đầu tư nếu phải đợi tối thiểu 7,8 năm trời mới thu được vốn? Thị trường ĐHN không phải là thị trường ngắn hạn. Ngân hàng không dại ký giao kèo bảo hiểm về những rủi ro trong thời gian vận hành và nhất là tai biến, khủng bố. Vì những lý do trên, công suất đặt hạt nhân của Mỹ đến 2020 sẽ hạ xuống chứ không tăng lên được.
Những khó khăn vừa nêu trên không phải chỉ dành riêng cho nước Mỹ mà thôi. Thêm vào đó, sự mở cửa thị trường điện lực càng làm cuộc khủng hoảng trở nên gay gắt. Vì điện không tích trữ được (non stockable), sản xuất ra là phải tiêu thụ ngay. Nếu không có nhà nước thì ai lo kế hoạch đầu tư dài hạn, ai chú trọng đến vấn đề an toàn?
Ở Việt Nam, ĐHN không thể kinh tế, vì trong giá điện phải tính các chi phí liên hệ đến việc xử lý nhiên liệu, an toàn, bảo hiểm, lưu giữ chất thải phóng xạ, tháo gỡ. (EDF phải để dành 20 tỉ USD cho khâu này vì tháo gỡ một nhà máy ĐHN tốn khoảng 330 triệu USD).
Dù muốn dù không, tất cả các nước trên thế giới đều phải, song song với việc áp dụng chính sách tiết kiệm và gia tăng hiệu suất, triệt để phát triển năng lượng tái tạo. Nhân loại phải lợi dụng « giai đoạn chuyển tiếp này (từ đây đến 2030) » để chuẩn bị thay thế một cách kinh tế các nguồn năng lượng hóa thạch (dầu, khí, than…) bởi các nguồn thông lượng (énergie de flux) tức là năng lượng tái tạo. Nước Đức, tuy đã có 19 lò hạt nhân (30% ĐHN) và mặc dù mỗi năm phải nhập khẩu hàng chục, hàng trăm tấn nhiên liệu đã cam đảm hy sinh ĐHN. Đức dẫn đầu về năng lượng gió (trên 12 000 MW) và đă có nhiều thành tích khả quan với năng lượng mặt trời. Đây là gương sáng chói cho toàn cầu. Chiến lược dài hạn của Anh Mỹ, đến chân trời 2050, không trông cậy (hoặc rất ít) vào ĐHN mà lại đặc biệt chú trọng đến việc sản xuất hydrogène từ các nguồn hóa thạch và kỹ thuật giam giữ (séquestration) carbone, gia tăng hiệu suất năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo (mặc dù có vấnđề về số lượng, môi trường và kinh tế ).
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:47:32 GMT -5
Tôi đã viết nhiều về điện, cũng như điện hạt nhân trên diễn đàn này nên ở đây chỉ kể lại thời gian của tôi trải qua tại một nhà máy ĐNT cho mọi người rộng đường suy nghĩ. Tôi trải qua nhiều ngành nghề khác nhau từ kỷ thuật viên điện thoại, kỷ sư bảo trì hệ thống và quản lý kỷ thuật viên...nhưng chính thức khởi nghiệp từ một lò điện nguyên tử tại Texas. Chú tôi là 1 kỷ thuật viên trong nhà máy điện Thủ Đức cũng như cha tôi là một quân nhân mang hàm thiếu tá điều hành phòng điện tử quân đoàn bốn xuất thân từ sĩ quan Đà Lạt nên cái duyên nợ với điện và ĐNT đã gắn với tôi từ còn bé. Ước mơ trở về Việt Nam góp phần vào xây dựng ĐNT để chấm dứt những ngày cúp điện đã giúp tôi thuyết phục người phỏng vấn nhận tôi vào hãng điện nguyên tử. Đó là nơi "nghỉ chân" tuyệt vời vì mỗi buổi sáng với 1 ly cafe tôi đi lang thang một mình trong khu vực thanh bình giữa hai hồ nước nhìn sương mù và những chú cá lên đớp bóng. Công việc chính của tôi trong năm đầu chỉ có học và học để vượt qua 22 kỳ thi từ điện căn bản cho đến vật lý, cấu trúc, hoá học, cơ học, xây dựng và nguyên tử lượng....đó là qui định của bên bảo hiểm đã ký với hiệp hội các nhà máy ĐNT. Tôi vượt qua 16 kỳ thi trong vòng 3 tháng và không biết phải làm gì cho hết thời gian nên bắt đầu xem các tài liệu và tiêu chuẩn của ngành. Tôi nhớ rất rõ, mỗi khi bước vào phòng điều khiển phải đứng xa dàn điều khiển hơn một cánh tay với, phòng trường hợp té không chạm vào hệ thống điều khiển. Chỉ một lần lỡ chân bước vào lập tức người hướng dẫn đã ký đầu tôi để nhắc nhở (một kỷ sư trưởng cũng là người VN). Đa số người điều khiển hệ thống đều xuất thân từ Navy và hãng ít nhất phải tốn trên dưới 1 triệu USD để cho ra lò một người điều hành. Kỷ sư hệ thống như tôi chẳng là cái đinh gì so với họ cả.
Khi bước chân vào lò phản ứng tôi mặt bộ đồ bảo hộ che kín cả người và mang máy báo hiệu bên mình như các nhà thám hiểm. Thao tác mặt đồ cũng như tháo bỏ cũng có lớp dạy mất mấy buổi. Đó là một lò phản ứng bê-tông có khả năng chịu được một chiếc B52 đâm vào hông nó. Khả năng duy nhất phá huỷ nó là chiếc B52 đâm thẳng vào đỉnh lò hoặc bom nguyên tử nổ ngay cạnh bên lò (đó là tính toán đặt ra khi thiết kế, thực tế ra sao chỉ có trời mới biết). Lò phản ứng nằm giữa khu vực không người ở với bán kính khoảng 10km. Vào đến hãng phải thông qua khu vực hành chánh và chỉ có những người làm việc bên trong mới có thể đi vào khu vực làm việc thông qua những cánh cổng sắt đủ một người đi lọt với chìa khóa là một tấm thẻ và vân bàn tay. Khu vực làm việc và lò phản ứng lại cách nhau bởi một lần cửa kiểm soát thứ hai và phải đi vào một thang máy đặt biệt giống như ta thường thấy trong các phim khoa học viễn tưởng. Cứ mỗi 3 tháng là giấy báo nồng độ nhiễm xạ của tôi được gửi về nhà theo đúng luật của ngành ĐNT qui định vì mỗi khi trở vào lò đều mang theo máy đo và khi trở ra đều phải trải qua một trạm "xả" nhiễm. Đây là một lò phản ứng dự án 1 tỷ nhưng phải tốn 11 tỷ để có thể chính thức hoạt động.
(còn tiếp)
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:47:45 GMT -5
Để đảm bảo an toàn như các nhà khoa học của ta nói là một điều có thể làm nhưng tốn kém của nó vượt quá những gì mà họ có thể nghĩ đến. Những gì tôi kể bên trên đối với VN đã là không tưởng nhưng chỉ là chuyện nhỏ của ngành ĐNT. Lò bê tông dày hơn 1 mét chỉ là lớp bảo vệ ở giữa chứ không hoàn toàn có khả năng chống nhiễm xạ ra ngoài khi có sự cố xảy ra. Độ dày của lớp chì cũng là một lớp bảo vệ nữa như chủ yếu nhất vẫn là nước. Trên lý thuyết trong vòng 72 giờ xảy ra sự cố mà khả năng khắc phục không thể thực hiện thì nước sẽ được tràn vào để nhấn chìm cả khu vực nhà máy nhằm bảo vệ môi trường. Từ báo động cấp một cho đến báo động cao nhất trải qua nhiều cấp độ khác nhau và phải thông báo không chỉ cho các ngành liên quan mà ở một cấp độ nhất định phải loan báo bên ngoài xã hội. Quản lý hành chánh ở đây rất phức tạp vì nó liên quan đến an toàn XH và nhạy cảm nhất trong chính trị tại Mỹ. Chính vì vậy mà hầu hết các nhà máy ĐNT đã già nua và có một số đang được xây dựng nhưng giấy phép hoạt động thì gần như không cấp ra trong những năm gần đây tại Mỹ và gần như bị hoàn toàn cấm hẳn tại một số nước châu Âu. Nhật bản thì gần như lệ thuộc vào ĐNT chứ không thể nói họ đạt đến trình độ cao trong trong ngành này.
Không chỉ phức tạp ở hành chánh, con người mà kỷ thuật là một vấn đề gần như không tưởng với XH VN ngày nay. Ở đó ta không thấy những kỷ thuật mới mà chỉ là những kỷ thuật của những năm 80-90 nhưng tiêu chuẩn của nó lại rất cao. Thường thì kỷ thuật áp dụng trong nhà máy ĐNT đi sau bên ngoài khoảng 15 năm vì ở đó không chấp nhận cho sự cố "mới" ngoài khả năng hiểu biết xảy ra. Nơi đó không có thời gian để chờ sự tìm hiểu về kỷ thuật mà chỉ có những câu trả lời ngay lập tức để kịp chạy đua với cấp độ sự cố và phản ứng hạt nhân trong lò. Mỗi năm họ dùng máy làm động đất để kiểm tra cũng như nửa năm họ lại phải chạy máy phát điện dầu trong vòng 1 tiếng nhằm bảo đảm khả năng hoạt động của 2 máy phát dự phòng luôn ở tình trạng tốt. Hai hoạt động này ngốn cả triệu nhưng chẳng thắm đâu so với các cuộc họp và lớp dạy về an toàn cho cả năm. Khu vực lò phản ứng bao quanh bởi 2 hồ nước nhân tạo để lò lấy nước từ bên này đổ sang bên kia và trả lại bằng một dòng kinh nhỏ. Sử lý nước là một trong những vấn đề quan trọng nhất ở đây. Không chỉ sử lý rát rưởi mà hóa chất cũng là một điều rất tốn kém. Nói một cách đơn giản là những bọt nước xuất hiện khi không được sử lý đúng bám vào vỏ thiết bị trong lò phản ứng làm sự giải nhiệt kém có thể dẫn đến sự cố. Không chỉ luôn đòi hỏi 2 đường điện dự phòng từ hai nhà máy điện khác nhau mà cả nước cũng phải dự phòng. Nếu kể hết ra những tốn kém mà nhà máy ĐNT cần phải chu cấp ngay tức thời và hàng năm thì có lẽ phải vài tuần mới hết.
Tôi đã rời khỏi nơi đó để về làm truyền tải và cái ước mơ của tôi đã xếp lại vì ngay cả khi vài chục năm sau VN có khả năng xây dựng nhà máy ĐNT thì cái mảnh đất bé nhỏ của ta cũng không thích hợp để phát triển nó. Như tôi đã nói với người phỏng vấn khi xin vào ngành điện rằng dù rằng khoa học kỷ thuật tiến bộ như vũ bảo nhưng ta còn rất nhiều cái để làm nhằm khi ngành điện còn quá nhiều lỗ hổng sau lưng. Đó là tại Mỹ, nếu nhìn về VN thì lỗ hổng càng lớn hơn và ta càng có nhiều việc phải làm hơn. Một trong những yếu tố thúc đẩy xây dựng nhà máy ĐNT hiện tại ở VN là nhằm vào một nguồn viện trợ được gọi là "credit" cho việc giảm khi thải "ảo" cho một nhóm cá thể chứ không phải toàn dân cũng như nhằm vào việc "mua" kỷ thuật và thiết bị giá rẻ (thiết bị cũ hoặc thiết bị đang được thí nghiệm).
Có nhiều phương thức xây dựng và điều hành nhà máy ĐNT khác nhau nhưng không có một phương pháp nào rẻ và hoàn toàn an toàn cả. Cái giá phải trả cho một sự cố không chỉ dừng lại ở một thời điểm mà có thể kéo dài đến vài chục, vài trăm năm. Chỉ cần điều khiển dòng điện lưới điện hợp lý hơn ta có thể có một số năng lượng tương đương hoặc hơn một nhà máy ĐNT. Chỉ là xem cái lợi thuộc về toàn dân hay một nhóm người bên nào được xem trọng hơn mà thôi.
7604
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:51:33 GMT -5
Điện đối với tôi không chỉ là cái nghiệp mà là niềm đam mê nên các bác còn bàn luận mà tôi ngồi yên cứ như là ngồi trên ổ kiến vậy.
Như bạn NewGod cho rằng sự cố lần này là hơi nước chứ không liên quan gì đến ĐNT. Thực tế mối quan tâm trong ĐNT không phải như thảm hoạ 2 trái bom nguyên tử mà là chất phóng xạ thoát ra ngoài. Bất cứ một sự cố nào xảy ra bên trong lò phản ứng, trong dây chuyền phản ứng và bên ngoài khu vực switch-yard của khu vực hãng đều có thể dẫn đến sự cố hạt nhân. Nước chính là môi trường truyền dẫn nhiệt để tạo hơi mà quay cánh quạt nhưng cũng là môi trường truyền dẫn chất phóng xạ ra bên ngoài nếu không thông qua qui trình xử lý thích hợp. Bên ngoài lò phản ứng luôn là dòng nước ấm nên rất thích hợp cho cá phát triển đồng thời cũng không ai săn bắt nên đó là khu vực rất nhiều cá tươi và lớn. Tuy nhiên không mấy ai can đảm mà bắt cá nơi này ăn vì không ai đủ can đảm lấy bản thân mình ra thử nghiệm cái dòng nước được xử lý kia là an toàn. Trong trường hợp sự cố xảy ra và trục trặc ảnh hưởng đến cooling system tạo điều kiện cho dòng nước từ trong lò phản ứng thoát ra không theo qui trình xử lý nhất định nên mọi người yêu cầu giới hữu trách nói rõ sự thực vì họ có quyền nghi ngờ những ảnh hưởng có thể gây mang đi mạng sống của con người. Cá nhân tôi chứng kiến 1 trường họp khi giới hữu trách Singapo giấu nhẹm sự cố nguyên tử của họ mà chỉ có 1 giáo sư đang dạy ở UTA phải vào comandChe tham khảo ý kiến và bay về bên đó giải quyết sự cố cách đây 4 năm. Tiêu chuẩn an toàn của từng nơi khác nhau vì mức sống khác nhau. Nếu như ngày hôm nay rác ở Hải Phòng tràn ngập thành phố mà mọi người vẫn sống và chờ đợi quyết định của thành phố và hướng giải quyết thì thử hỏi tiêu chuẩn an toàn trong các công trình của ta đến đâu? Đó chính là câu hỏi mà tôi sẽ nêu với quốc hội nếu như tôi có cơ hội nói lên suy nghĩ của mình: biện pháp nào để phòng ngừa trường hợp xấu nhất xảy ra (beyond the technology) và biện pháp nào để giải quyết hậu quả trong trường hợp xấu nhất.
Tại sao 2 câu hỏi đó quan trọng? Tất cả chúng ta đều tin rằng ĐNT rất an toàn với kỷ thuật ngày nay. Cá nhân tôi tin vào điều đó hơn các bạn ở đây vì tôi đã từng đặt mạng sống mình vào nơi đó. Khu vực làm việc của nhà máy ĐNT nếu được thiết kế và đầu tư đúng sẽ là khu vực an toàn và ít nhiễm xạ hơn bên ngoài. Điều này rất đơn giản vì đầu tư đúng mức nghĩa là tiền đổ vào nơi này để giải quyết vấn đề nhiễm xạ tốn kém hơn bên ngoài XH rất, rất nhiều lần. Tuy nhiên như chúng ta đều biết rằng an toàn trong ĐNT không phải là 100% có nghĩa là sự cố luôn có thể xảy ra. Cũng như đi máy bay là phương tiện giao thông an toàn nhất nhưng máy bay vẫn rơi khi mà con người gần như làm chủ mọi kỷ thuật về nghành hàng không và sai số cho phép ở đâ nhỏ hơn 1/triệu. Mỗi một vụ rơi máy bay là một sự cố thảm khốc vì nó không có cơ hội cho con người chuộc lại lỗi lầm. Tuy nhiên mất mát đó chỉ dừng lại ở gia đình của những người liên quan và sẽ bị quên lãng theo nhịp tiến của XH. Ngược lại sự cố có liên quan đến phóng xạ kéo dài vài chục, vài trăm năm và ảnh hưởng lên con người, thiên nhiên...và mãi mãi được nhắc đến với nổi kinh hoàn.
Tôi làm trong một trung tâm phân tích và hỗ trợ đường truyền mà cũng là trung tâm điều khiển dự phòng cách trung tâm chính 40km. Hệ thống ở tầng hầm luôn được kiểm tra và trong trạng thái sẳn sàng phòng trường hợp trung tâm chính bị đánh bom. Lần đầu tiên tôi xem sơ đồ của toà nhà thì leader của tôi với 25 năm làm việc cho hãng nói với tôi rằng - mày có thể đặt mọi giả thuyết để chống lại thiết kế của toà nhà này nhằm vô hiệu hoá khả năng dự phòng của trung tâm. Hầu như mọi giả thuyết tôi nghĩ đến đều đã có câu trả lời vì nguồn điện cung cấp cho toà nhà đi vào từ hai nhánh khác nhau ở hai đầu đối diện của thành phố. Bên dưới tầng ngầm là hệ thống điện DC và một máy chạy dầu dự phòng. Với 4 nguồn cung cấp điện do 2 hệ thống cung cấp điện riêng biệt chạy song song gần như bảo đảm khả năng hoạt động của toà nhà. Bên trong khu vực chính được xây dựng kiên cố để phòng trường hợp bão xoáy cuốn đi toà nhà cũng như hệ thống bom thuỷ lực có khả năng bom nước ra ngoài trong trường hợp nước ngập khu vực. Chỉ một giả thiết duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra là nước lụt liên tục nhiều ngày nhấn chìm thành phố. Nói xong tôi mới nghĩ lại, nếu như vậy cần gì cái trung tâm nửa - cơn hồng thủy. Ông ta nói với tôi rằng, "we are the best but if God wants us...we are gone"
Chúng ta chỉ có thể ứng dụng khoa học kỷ thuật để phục vụ cuộc sống chứ không thể nhờ vào khoa học kỷ thuật để giải quyết mọi vấn đề. Một bản thiết kế đưa ra tiêu chuẩn buộc khoa học kỷ thuật đáp ứng khác với bản thiết kế sự dụng khoa học kỷ thuật để đáp ứng vấn đề. Một cái là Pro-active, chủ động và một cái là bị động. Chính vì vậy mà dù kỷ thuật ĐNT ngày nay dù đạt đến một trình độ rất cao cũng không nói lên điều gì khi mà tiêu chuẩn của ta luôn lệ thuộc và chưa rõ ràng. Rất nhiều bạn cho rằng những công trình bị sự cố chỉ là những công trình nhỏ...hãy nhìn lại các công trình đồ sộ như thủy điện trị an. Quan trọng hơn hết là có ai trong chúng ta bảo đảm rằng khi xây dựng nhà máy ĐNT ta sẽ trong tình trạng chủ động đòi hỏi và yêu cầu chứ không bị động ở tình trạng chấp nhận?
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:52:04 GMT -5
Hôm nay Iran gây xốc châu Âu bằng một văn bản yêu cầu nới lỏng chương trình hạt nhân của họ. Tất cả các vấn đề liên quan đến hạt nhân rất nhạy cảm, chúng ta có thể dễ dàng xây dựng một nhà máy hạt nhân mà không gây mối lo ngại với các nước khác? Ta xây xong thì Lào, Campuchia, Thái Lan...có lý do gì dừng lại? Hay là chúng ta sẽ mở ra một cuộc chạy đua mới ở bán đảo ĐNA? Trung Quốc có thể làm ngang xây đập chặn nước thượng nguồn vì nó lớn nên họ sẽ luôn dòm chừng các nước xung quanh, chắc gì không dao động khi kề bên nách lại có thêm một nước có khả năng không nghe lời? Có rất nhiều cách phát triển để bứt ra khỏi vòng kèm chế của TQ nhưng cũng có những bước phát triển sẽ đẩy ta gần với các nước đang tìm kiếm bước đường cường quốc hóa đất nước bằng nguyên tử lượng như Iran, Pakistan, Ấn Độ...con đường nào dẫn đến tương lai?
Theo giả thiết 2020 ta sẽ không đủ điện dùng....chúng ta cần một lò ĐNT. Đây chỉ là giả thuyết tính toán theo mức sử dụng hiện tại và dự đoán tương lai. Nền kinh tế của ta từ đáy phát triển thẳng đứng và sắp tới khu vực bảo hào nên chắc gì mô hình tính toán điện đã thích hợp? Lượng điện thất thoát của ta còn quá lớn cũng như chất lượng điện còn kém. Hệ thống truyền tải chưa hoàn thiện cũng như khu vực tiêu dùng còn chưa bắt đầu ứng dụng biện pháp tiết kiệm hiệu quả. Cạnh tranh chưa thật sự xảy ra trong ngành điện nên đại diện của ngành điện vẫn nằm trong tay của một số công ty lớn. Các công ty này hoạt động chủ yếu dựa vào bán điện nên việc phát triển ngành điện đồng nghĩa với việc xây thêm nguồn cung cấp. Những gì xảy ra sau công tơ điện chưa điện chú trọng đúng mức vì các sản phẩm từ đó trở đi không phụ thuộc vào ngành điện mà đúng hơn là nguồn lợi của tổng công ty điện lực.
Cuối cùng đó là việc ta không chỉ mua điện mà cũng bán điện vì vậy không thể nói ta sẽ phụ thuộc vào nguồn điện nước ngoài. Đồng thời nhiệt điện của ta không phụ thuộc vào nhiên liệu của Trung Đông và thủy điện còn chưa cung cấp hết khả năng. Xây nhà máy ĐNT tốn kém rất nhiều nên việc có thêm nguồn ĐNT không đồng nghĩa với việc giá điện giảm mà chỉ có thể tăng. Đến lúc đó nguồn điện cung cấp sẽ tăng lên nhưng khả năng sử dụng điện của người dân chưa chắc đã được cải thiện. Green-Power, Renewable Power đang phát triển theo đà của KHKT thì 10 nửa khả năng marketing của nó hoàn toàn là một điều rất có thể. Những cánh quạt chạy sức gió cung cấp điện khi có gió nhưng không có nghĩa là khi gió ngưng thì người dân không có điện để dùng. Xếp lại nguồn điện hợp lý có thể giải quyết được nhiều vấn đề mà kỷ thuật không đáp ứng nổi.
7604
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 11:53:18 GMT -5
Tôi không hoàn toàn bác bỏ khả năng sử dụng ĐNT của VN trong tương lai, nhưng với điều kiện hiện tại tôi không ủng hộ.
Bộ công nghiệp cho rằng ĐNT là bước tiến tất yếu của sự phát triển là điều chưa đúng. Hãy nhìn lại những nước phát triển ĐNT xem có bao nhiêu nước thành công bao nhiêu nước lâm vào tình trạng tồi tệ hơn? Những nước thành công là những nước có một nền công nghiệp kỷ thuật và kinh tế mạnh nên hạt nhân chỉ là một con đường phát triển của họ chứ không phải là yếu tố nhất định của sự phát triển. Đồng thời cũng xem lại có phải những nước không phát triển ĐNT có phải đều là nước không phát triển? Phát triển ĐNT đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của XH về khoa học kỷ thuật, kinh tế, và chính trị. Không có nền tảng đó chống đỡ thì ĐNT là một hiểm họa hơn là lợi ích.
Chúng ta hiện đang xuất khẩu dầu thô và khả năng về khí đốt rất cao, tại sao không có khả năng phát triển năng lượng? Có phải chỉ có ĐNT mới là năng lượng còn dầu thô và khí tự nhiên chỉ là khoáng chất? Cái cốt lõi là ở đó, khả năng biến đổi khoáng chất ra sản phẩm tiêu thụ của ta không có vì yếu tố kỷ thuật và kinh tế nhưng lại chạy theo một kỷ thuật khác mà hoàn toàn ta cũng phải lệ thuộc vào nước ngoài và xa xỉ với nền kinh tế vừa phát triển. ĐNT với là một nguồn nhiên liệu sạch nhưng ô nhiễm môi trường ở nước ta có phải từ các nhà máy điện hay từ những nguồn khác trong XH. Sử dụng ĐNT có làm môi trường của ta tốt hơn không? Nhiệt độ tăng lên rất cao các năm gần đây ở các thành phố lớn có phải là do hiệu ứng nhà kính gây ra hay do ta xây dựng nhà cao tầng một cách đại trà và phá hủy cây cỏ thiên nhiên? Xây một nhà máy ĐNT rất dễ, nhưng để giữ nó hoạt động lâu dài tạo ích lợi cho XH lại là điều rất khó và tốn kém.
Mức sống con người ngày càng cao hơn nên nhu cầu cũng phát triển dẫn đến đòi hỏi năng lượng ngày càng cao. Hơn nửa nước VN đất hẹp người đông thì đòi hỏi năng lượng lại càng cao. Tuy nhiên nhu cầu tăng cứ tăng mãi thì liệu thêm một hai hoặc hai nhà máy ĐNT có đáp ứng được không? Hay là lúc đó lại phải nghĩ đến những giải pháp khác và lại chạy theo đuôi mãi. Nên nhớ rằng bài toán tính nhu cầu điện dựa trên cách tính nhân đôi còn khả năng của nhà máy ĐNT là cố định. Như vậy ta đổ dồn vào một kỷ thuật mà mức giới hạn thấy rõ để giải quyết một vấn đề không giới hạn có thích hợp không?
Mật độ dân số ta lớn nhưng lại là rất cao ở các thành phố lớn chứ không trải đều ảnh hưởng rất lớn đến việc tiêu thụ năng lượng. Sau cái công tơ điện là cả một thế giới của những con bạch tuột hút năng lượng mà hiện tại đang bỏ ngõ có được quan tâm đúng mức chưa? Tại sao ngành điện không tập trung vào hoàn thiện mình trước mà chỉ tập trung vào kiếm thêm nguồn cung cấp? Có phải vì có thêm nguồn cung cấp là có thêm nguồn lợi khổng lồ còn chất lượng và sự hao tốn đã có người tiêu dùng gánh chịu?
Chẳng qua chỉ là ý kiến của người ngoài cuộc chứ tôi hiểu rằng hoạch định tương lai của đất nước đã có những anh tài của đất nước. Chỉ hy vọng rằng với tài năng của mình họ sẽ đưa đất nước tiến lên trên một con đường quang đảng chứ không phải đầy chông gai.
7604
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 12:16:57 GMT -5
- Cách đây không lâu trong hội nghị tai Mexico đại diện VN là một trong những nước thuộc số ít không ký tên vào hiệp định phát triển năng lương tái sử dụng và năng lượng xanh. Cùng lúc đó đề án ĐNT của được đưa lên mạng. Có nghĩa là hướng đi của ngành năng lượng đã được quyết định từ lâu chứ không phải lúc đó hay chỉ mới gần đây. Tại sao?
- Nhìn lại kỷ thuật trong nước, ta đã có viện nghiên cứu nguyên tử Đà Lạt từ những năm giữa 50s. Sau 75'' ta tiếp quản và cho đến nay thì ngoài việc ứng dụng lẻ tẻ thì chúng ta đã có khả năng gì về ĐNT? Ngược lại vtv gần đây có chiếu những cảnh về tiến sĩ của trường ĐHBK TPHCM giúp bà con ứng dụng điện năng lượng mặt trời và điện năng lượng gió dù ở mức độ thấp và nhỏ. Có phải các nhà khoa học của ta đi một đường còn chính sách một nẻo? Dù rằng tiếp xúc với công nghệ năng lượng mới chưa bao lâu nhưng ta đã hiểu và có khả năng ứng dụng ngay lập tức những công nghệ này nhưng nó có được đầu tư đúng mức chưa? Tại sao?
- Deregulation trong ngành điện thực hiện theo mô hình của Mỹ (chỉ một nửa bên ngoài) là đường truyền và tổ điều động vẫn nằm bên dưới sự quản lý của tổng công ty còn phần sản xuất và phân phối được cạnh tranh (Đây là con đường mà EVN biết từ lâu mình phải trải qua.) Ai là người sẽ bảo đảm sự cung cấp điện không bị gián đoạn vì sự cạnh tranh của các businesses? Khi mà ta không hề có lượng điện thừa và ngay cả dự phòng cũng không có thì việc mua điện đấu giá sẽ xảy ra như thế nào?
Trả lời cho những câu hỏi trên sẽ thấy sự liên quan mật thiết giữa tổng công ty điện VN với bộ/ngành năng lượng ra sao. Nếu như có 1 nhà máy ĐNT thì ai sẽ là người điều hành và quản chế? chính phủ hay là tổng công ty điện lực? Nếu đầu tư đúng mức vào nguồn năng lượng mới thì sẽ có biết bao nhiêu người cạnh tranh, ngược lại nếu xây nhà máy ĐNT thì không ai lọt vào cửa này ngoài tổng công ty điện lực VN? Đây là con đường bảo đảm cho tổng công ty thao túng thị trường trong mọi trường hợp. Tiếc rằng chúng ta đều quên một điều là sau 40 năm hoạt động cái gì sẽ xảy ra với nhà máy ĐNT? (lúc đó các quan đã về vườn và hy vọng thế hệ sau giải quyết hậu quả!) Cứ cho rằng nó hoạt động không hề xảy ra trục trặc gì. Trong thời gian hoạt động không phải chỉ "trục trặc" của nhà máy điện mới dẫn đến xáo trộn thị trường điện mà mức độ hoạt động của nó cũng có khả năng điều khiển thị trường vì lúc đó đã không còn khả năng ngừng lại. Đây mới thật sự là power đang tìm kiếm?
Đừng nghĩ rằng chúng ta có khả năng hạt nhân hay xa hơn nửa là có vài quả bom hạt nhân là có thể sánh ngang hàng và đối chọi với TQ. Chỉ là ví dụ vì chắc chắn chúng ta không đi tìm cái này mà chỉ đơn thuần là năng lượng!!! TQ xây dựng đập thủy điện lớn nhất thế giới không chỉ để tìm năng lượng thiếu hụt mà nhằm vào "power" điều khiển hạ lưu sông Mê-Kông. Kẻ ngông cuống bao giờ cũng phải trả giá. Nên hay không phải cân nhắc cho kỷ chứ không thể nói là chưa làm thì đừng sợ.
Kinh tế phát triển thì lo gì TQ? đầu tư đúng mức thì lo gì không có nguồn năng lượng mới, an toàn hơn? Đi tìm sức mạnh và cũng cố sức mạnh của mình là điều nên làm nhưng phải hiểu mình làm ở đâu và với ai. Ngược lại sẽ gặt hậu quả hơn là thành quả.
Khi nhắc đến tổng thống Mỹ, Bush thì đa số hình dung ông ta là đầu nậu của ngành năng lượng, nhưng ông ta đã nói và làm 1 điều mà chưa ai trong đảng dân chủ làm là toàn tâm ủng hộ nguồn năng lượng từ nước. Có phải ông ta ngu khi mơ tưởng đến việc dùng nước để chạy xe vì nước có mặt khắp nơi? Hãy nhớ lại những nhà phù thủy tìm công thức tạo vàng họ đã tìm ra những gì cho cuộc sống dù rằng họ không thành công. Nói đúng hơn ngày nay con nguời có khả năng tạo ra vàng nhưng giá thành cao hơn nên không làm. Giống như vậy nguồn năng lượng từ nuớc đã xuất hiện trên trái đất này nhưng còn chưa được sản xuất vì rất tốn kém. Chỉ cần được đầu tư đầy đủ thì biết đâu một ngày không xa kỷ thuật đó sẽ được đưa vào cuộc sống? Chúng ta thì không nên mơ mộng nhiều nhưng nếu được đầu tư đúng mức thì công trình của các tiến sĩ trường ĐHBK TPHCM sẽ có có mặt trong đời sống ở diện rộng hơn và hoàn chỉnh hơn.
7604
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 12:18:14 GMT -5
Dấu hiệu cạn kiện về khoáng sản của ta đã bắt đầu hiện rõ, nhất là nguồn tin về mỏ dầu tại Vũng Tàu giảm sản lượng đã được đưa lên vtv4 cách đây hơn 2 tháng. Không phải dầu mà tất cả khoáng sản, tài nguyên của đất nước VN nếu có thể múc lên để bán ra tiền đều đã và đang bị đem bán trong những năm gần đây. Dù có xây dựng nhà máy ĐNT thì cũng không tránh khỏi tình trạng này nếu như ta không có sự thay đổi trong quản lý. Cùng lắm chỉ là làm chậm lại chứ không giải quyết được vấn đề. Chỉ có đầu tư vào những nguồn năng lượng khổng lồ từ thiên nhiên như gió, nước, năng lượng mặt trời thì mới đảm bảo lâu dài và đó là hướng đi của thế giới. Chỉ có nước ta và một số nhỏ đang đi ngược lại. Nếu ta tránh được tình trạng bán sản phẩm thô thì cái giới hạn 10-20 năm có còn đúng không? Chẳng qua là bài toán kinh tề đang được sử dụng là cái gì mang về tiền nhanh nhất, tức thì sẽ được ưu tiên hàng đầu mà bất kể hậu quả.
Các kỷ sư, tiến sĩ nguyên tử lượng với bằng đỏ từ LX về đúng là có 1 lượng kiến thức dồi dào về nguyên tử lượng nhưng để đưa nhà máy vào hoạt động thì lại là một chuyện xa vời. Trong nhà máy ĐNT tính chất kỷ thuật chỉ đứng thứ 3. Trên nó là các bước điều hành và tối cao là tiêu chuẩn. Cái thứ 3 dù ta chưa có nhưng cứ coi như tạm ổn vì ta có "bằng đỏ" và có thể đào tạo hỏa tốc. Nhưng cái thứ 2 và cái đầu tiên thì không biết ta đang ở trạng thái nào. Các chuyên gia nguyên tử hàng đầu của ta thường cho rằng "sự cố ĐNT xảy ra vì lý do con người hơn là kỷ thuật". Điều này nói lên rằng chúng ta chúng ta chỉ nhìn đến cái thấp nhất trong việc điều hành một nhà máy ĐNT còn hai cái kia thì ...mù tịch. Có lẽ nói hơi quá nhưng thực tế là vậy. Hãy xem lại các tiêu chuẩn của ta trong công nghiệp như tiêu chuẩn về đường sông của ta có phải bê nguyên từ LX về và tai nạn xảy ra thì mới té ngửa là cái sông của ta khác cái sông của bạn hiền.
Chưa có ai khẳng định rằng 5-10 năm nửa chất thải hạt nhân sẽ được sử lý an toàn. Sử lý nó là một vấn đề tốn kém kinh khủng và đau đầu các nước tiến bộ, đến nay vẫn chỉ là mơ ước. Nevada là khu vực gần như không có khả năng sinh sống (trừ thần bài) nhưng nghĩa địa cho chất thải hạt nhân luôn gặp sự phải đối và việc đền bù cho khu vực này rất là hậu hỉ. Ngay cả khu vực Siberi không người ở cũng không có đề án thiết lập nghĩa địa vì khi đã chôn nó xuống thì coi như mãnh đất đó đã thuộc về một thế giới khác ít nhất là trong vài trăm năm với nền khoa học hiện tại. Mảnh đất cong cong hình chữ S của ta bao lớn và nơi nào không có người ở và nơi nào có khả năng bảo đảm không có người đến ở trong thời gian dài? Hình cái đầu lâu với hai cái gạch có nhát được dân VN không?
|
|
|
Post by Robot on Nov 3, 2004 12:18:32 GMT -5
Năng lượng đúng là nền tảng của mọi nền công nghiệp nhưng không phải là năng lượng nguyên tử. Các loại năng lượng mới ra đời chưa bao lâu nên vẫn đang trong giai đoạn tiền phát triển. Ứng dụng của nó chưa đủ lớn và chưa ổn định vì hai yếu tố là kỷ thuật và giá thành. Tuy nhiên nếu nhìn ra thế giới để mà nói ĐNT là một nguồn khổng lồ thì cũng không thể nói Green Power là nguồn nhỏ nhoi (Không thể so sánh trái cam với trái bưởi mà phải so sánh cam với cam và bưởi với bưởi) Rất nhiều hãng đang bán Green Power cho người tiêu dùng ở những khu vực thành phố và nó ngày càng lớn dần. Tiện đây tôi cũng nói luôn cái nghịch lý của năng lượng gió trong phát điện là khi nguồn điện cần nhiều thì gió càng ít và ngược lại. Điều này là tự nhiên không thay đổi được nhưng cách sử dụng sao cho hợp lý thì hoàn toàn có thể lợi dụng nó hiệu quả. Khó khăn của năng lượng gió là việc nối vào mạng vì tính ổn định của nó tùy thuộc vào thiên nhiên nhưng đã có phương pháp khắc phục mà bằng chứng là những công ty đang bán năng lượng từ gió. Năng lượng mặt trời hay năng lượng nước rồi cũng sẽ được cải thiện vì đầu tư vào lĩnh vực này chỉ mới bắc đầu và được chính phủ Mỹ tài trợ rất lớn. Hiện tại nó đã vượt qua gian đoạn không thể sản xuất sang có thể sản xuất. Nó đang bước vào giai đoạn không thể kinh doanh sang có thể kinh doanh và trong một tương lai gần nó sẽ tiến vào gian đoạn kinh doanh mang lại lợi nhuận lớn. Đây là điều hiển nhiên vì khi infrastructure đã hình thành thì bắt đầu đến hoàn vốn và lấy lãi. Hệ thống sử dụng năng lượng mới này rất ít khả năng bị hư hỏng so với các dạng sử dụng trong năng lượng cổ điển nên thời gian sử dụng sẽ kéo dài và ROI sẽ càng lớn. Ngược lại ĐNT đang đi vào chốn bế tắc ít nhất là tại thời điểm này. Nhật đang lo lắng với 22 nhà máy ĐNT đang bước vào tuổi 40, chưa biết giải quyết ra sao vì 30% năng lượng nước này phụ thuộc vào ĐNT. Họ phát triển và xây dựng năng lượng DNT vào những năm mà cả thế giới ào ạt phát triển vì khoa học và kỷ thuật lúc đó chỉ có ĐNT là phương pháp duy nhất. Mỹ thì cũng sẽ phải cho phép renew các nhà máy đã củ (không có đường chọn lựa) nhưng chưa cho phép xây mới cái nào trong mấy năm gần đây dù rằng sản lượng điện của họ luôn trong tình trạng thiếu hụt ở một số nơi. Châu Âu thì đa số các nước đã cấm tiệt và xua đuổi nguồn năng lượng ĐNT. Thế giới đã nhiều thay đổi sau 40 năm, không lẽ ta lập lại cao trào đó để chứng tỏ rằng ta chỉ đi sau thế giới có 40 năm chứ không phải 100 như họ vẫn nói?
Về việc ngẩng cao đầu thách thức kẻ mạnh làm tôi nghĩ đến Bắc Hàn, Iran, Pakistan, Ấn Độ...cá nhân tôi tin rằng dân ta đang sống hạnh phúc hơn dân các nước đó và cũng hy vọng rằng không vì những ảo tưởng mà dân ta phải trả giá đắt.
VN sắp bắt đầu đến hạn trả nợ rồi, cứ mãi mê kêu gọi đầu tư một cách vô tội vạ thì món nợ sẽ do ai gánh? Đời cha ăn mặn thì đời con khát nước. Giờ còn chút khoáng sản để mà múc lên trả nợ, nhưng khó khăn đang hiện rõ trước mắt. Hết cái này đến cái khác bị kiện phá giá hết nơi nọ đến nơi kia. Trong cái trò chơi thương mại toàn cầu không có công bằng tuyệt đối mà chỉ có thể thấy được ta đang tận dụng mọi cơ hội kiếm ra tiền mà không có kế hoạch lâu dài và bất chấp hậu quả. Hậu quả đầu tiên mà ta đã gặp là các nhà đầu tư nước ngoài luôn thúc ép EVN tăng giá điện nhằm bảo đảm khả năng hoàn vốn cho họ. Trong khi người dân thì rên xiết vì giá điện tăng chóng mặt lôi theo các mặt hàng khác đều tăng thì EVN vẫn phải vuốt lưng các nhà đầu tư nước ngoài mà cho rằng giá điện ta còn thâp hơn mặt bằng khu vực!!!
Người dân lao động là người trực tiếp và gián tiếp sử dụng điện. Họ trả tiền điện phục vụ nhu cầu và trả tiền điện cho các mặt hàng họ mua trong cuộc sống. Khi điện tăng 1 đồng họ phải trả thêm 2 đồng. Nếu điện làm ra nhiều mà giá cả tăng mãi thì việc làm ra điện có thật sự mang lại lợi ích cho XH không?
7604
|
|
|
Post by Robot on Nov 25, 2004 14:26:48 GMT -5
Năng lượng hạt nhân góp phần bảo vệ hay phá huỷ môi trường? Việc tìm ra năng lượng nguyên tử được coi như một trong những phát minh lớn nhất của con người, Năng lượng nguyên tử đã và đang đóng góp tích cực cho sự phát triển nền văn minh nhân loại. Song, do sự bất cẩn của con người, hoặc do mưu đồ chính trị... nên năng lượng hạt nhân đã gây ra tai hoạ, làm huỷ hoại môi trường sống và trở thành vấn đề nhạy cảm trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, nguồn năng lượng này đang giúp chúng ta hạn chế việc sử dụng những nguồn nhiên liệu truyền thống như than, dầu mỏ, khí đốt... giảm thiểu lượng khí thải cacbonic, góp phần tích cực cho việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Vào khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, trong các tầng lớp xã hội ở phương Tây diễn ra cuộc tranh luận lớn xung quanh vấn đề có nên sử dụng năng lượng hạt nhân hay không? Khi đó, nhu cầu về năng lượng tăng nhanh đến mức các nguồn năng lượng truyền thống khó có thể đáp ứng đủ, và những biến động ở vùng Trung Đông cũng làm ảnh hưởng đến khả năng cung cấp dầu mỏ. Các nhà khoa học cho rằng: nguồn năng lượng hạt nhân chính là lối thoát khả thi duy nhất cho bài toán này.
Phát minh ra năng lượng hạt nhân là một trong những phát minh lớn nhất của thế kỷ XX. Một thời gian dài, những khái niệm về năng lượng hạt nhân, năng lượng nguyên tử... được coi như biểu tượng của nền văn minh hiện đại. Trong thực tế, năng lượng hạt nhân được sử dụng ngày càng rộng rãi trong cuộc sống, trong tàu ngầm, tàu phá băng, dùng trong nông nghiệp, y học và đặc biệt là trong sản xuất điện năng... năng lượng nguyên tử với khối lượng nguồn nguyên liệu, chất thải không đáng kể, với những ưu thế đặc biệt, tưởng sẽ như một công cụ đa năng hoàn thiện. Song một số sự cố, trục trặc ở nơi này, nơi khác và nhất là sự huỷ diệt ghê gớm của 2 quả bom nguyên tử ở Nhật Bản trong chiến tranh thế giới lần thứ II đã làm thức tỉnh nhiều người, giúp chúng ta ý thức được việc phải hết sức cẩn trọng khi sử dụng nguồn năng lượng đặc biệt này.
Từ lâu, nhiều chuyên gia đã cho rằng, không thể phát triển công nghiệp mà không sử dụng năng lượng nguyên tử. Điều này đã được thực tế chứng minh là đúng. Các nước Tây Âu hiện có khoảng 150 nhà máy điện hạt nhân, cung cấp chừng 30% điện năng. Riêng nước Pháp có 59 nhà máy, cung cấp gần 3/4 điện năng cho cả nước. Nước Mỹ có khoảng 100 nhà máy điện hạt nhân cung cấp gần 20% điện năng sử dụng... Nếu không có điện hạt nhân, chắc chúng ta khó tưởng tưởng nổi bức tranh về năng lượng trên thế giới hiện nay.
Nhiều đảng phái chính trị, nhiều nhà khoa học, các nhà công nghiệp... ủng hộ việc sử dụng năng lượng điện hạt nhân vì mục đích hoà bình. Trong khi chờ khoa học tìm ra những nguồn năng lượng mới trong tương lai, họ coi đây như là một giải pháp bảo vệ môi trường. Năng lượng hạt nhân thay thế một phần việc sử dụng các nhiên liệu truyền thống, nên giảm thiểu sự phát thải khí cacbonic - một trong những nguyên nhân gây ra hiệu ứng nhà kính, gây ảnh hưởng tiêu cực tới khí hậu trên thế giới ngày nay còn tồi tệ hơn rất nhiều so với những gì mà chúng ta đang phải chịu đựng.
|
|
|
Post by Robot on Nov 25, 2004 14:27:03 GMT -5
Ngược lại, phe chống đối cho rằng, chính các lò phản ứng nguyên tử là nguy cơ tiềm tàng đối với việc phá huỷ môi trường. Sự cố do các lò phản ứng gây ra ở một diện tích rộng lớn với những hậu quả cực kỳ thảm khốc cho con người và môi sinh.. Sự cố tại lò phản ứng Windscale (Anh - 1957), lò phản ứng ở đảo Three Miles (Mỹ - 1979)... và thảm hoạ tại nhà máy điện nguyên tử Chernobul (Liên xô - 1986) như giọt nước cuối cùng làm tràn cốc nước đầy. Sau sự kiện này, khắp nơi trên thế giới diễn ra phong trào tẩy chay năng lượng hạt nhân. Người ta biểu tình, tuần hành, tìm cạch ngăn chặn những phương tiện vận chuyển nhiên liệu hạt nhân hoặc các chất thải phóng xạ, cấm xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở nơi này, nơi khác. Thế là, năng lượng hạt nhân từng có lúc được đề cao, được coi như biểu tượng của sự văn minh, lại bị người ta coi như một thứ đạo tặc, chết chóc.
Thực ra năng lượng nguyên tử không có lỗi gì, con người hiện đại tìm ra nó cũng giống như tổ tiên xa xưa của chúng ta tìm ra lửa ở thời cổ dại. Ngọn lửa xưa kia đã giúp cho nhân loại có được bước phát triển bượt bậc thì ngày nay, "ngọn lửa thiêng" - năng lượng nguyên tử cũng đã và đang góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội.,
Hiện nay, các nước Bắc Âu có kế hoạch sẽ chấm dứt việc sử dụng năng lượng hạt nhân sau vài ba thập niên nữa, trong khi rất nhiều nước lại đang tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng các nhà máy điện nguyên tử với công nghệ tiến tiến hơn. Điện hạt nhân cung cấp khoảng 35% nguồn điện ở Nhật Bản và người Nhật dự định sẽ tăng tỷ lệ này lên 45% trong thời gian tới.
Việt Nam với chính sách nhất quán: "Chỉ sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình". Chúng ta đã và đang triển khai nghiên cứu ứng dụng năng lượng nguyên tử trong nhiều lĩnh vực khác nhau như công nghiệp, y học, nông nghiệp... Theo dự báo, Việt Nam cần phải có điện hạt nhân vào năm 2017 với công suất cỡ 1200-4000MW tuỳ thuộc vào nhu cầu thực tế khi đó. Ngày 7/5/2001, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cho phép tiến hành nghiên cứu dự án tiền khả thi về nhà máy điện hạt nhân để trình Quốc hội xem xét trong năm 2003 và đã được thông qua. Như vậy, trong vòng hơn một chục năm tới, khả năng sử dụng điện hạt nhân ở nước ta sẽ trở thành hiện thực. Việc chúng ta bắt đầu mọi việc ngay từ bây giớ là hợp lý, bởi lẽ kinh nghiệm của những nước đi trước cho thấy phải có thời gian chuẩn bị khoảng từ 15 - 17 năm.
Đảm bảo chế độ làm việc an toàn cho các nhà máy điện hạt nhân được coi là cực kỳ quan trọng. Trong quá khứ, các sự cố xảy ra phần nhiều là do sự bất cẩn của con người. Do vậy, khi xây dựng các nhà máy điện nguyên tử, ngoài các yếu tố về vốn đầu tư, địa điểm, nguồn nhiên liệu... thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành nhà máy sẽ đóng vai trò quyết định. Nhà máy điện hạt nhân thực sự sẽ như một "ốc đảo", hiểu theo ý nghĩa đầy đủ của từ này, mà ở đó trình độ chuyên môn của người lao động, kỷ luật lao động, chế độ đãi ngộ... phải cao hơn rất nhiều so với mặt bằng chung của xã hội. Hy vọng là với sự chuẩn bị thật kỹ về nhân tài, vật lực kết hợp với việc áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ trên thế giới, chúng ta sẽ có đủ khả năng làm chủ được vấn đề an toàn hạt nhân.
Việt Nam sử dụng năng lượng điện hạt nhân để giải quyết bài toán năng lượng, chẳng những góp phần làm giảm thiểu khí thải, bảo vệ môi trường, mà còn tiết kiệm được những nguồn nhiên liệu hoá thạch cho các thế hệ tương lai. Bộ Công nghiệp
|
|