|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:44:04 GMT -5
Cuối cùng, một danh sách chính thức ðã ðýợc thống nhất, trong ðó có Bob Dyland, Karl Max, M.M, một bức týợng nhỏ của Bạch Tuyết, và ngay cả những con búp bê lớn mặc áo có in biểu týợng của Rolling Stone. Sau khi mọi thứ ðýợc sắp ðặt, bìa của album ðã ðýợc ra ðời. Mỗi một track của album là ðộc lập với nhau nhýng ðều hoà quyện vào ý týởng thống nhất của cả album. Track ðầu tiên “Sgt.Pepper” là một lời giới thiệu trực tiếp ðýợc thu mono, sau ðó là âm thanh stereo tràn ngập album. Ringo hát chính trong bài hát cuối cùng, “A Little Help From My Friends” có tên nguyên gốc là “Bad Finger Boogie”. Phó chủ tịch Spiro Agnew ðã thử cấm lýu hành bài hát này vì có chữ “High.” --- “Lucy in the Sky with Diamonds” ðã bị cấm bởi BBC bởi có nhắc tới ma tuý. Theo nhý John, bài hát này ðýợc dựa trên ý nghĩa của một bức tranh do con trai anh, Julian vẽ. Một trong những bài hát ồn ào nhất là “Getting Better”. Bài hát này chứa ðầy những chuỗi guitar sắc lạnh cùng cảm xúc R&B. Paul ðã ðánh ðàn hạc(harpsichord) trong bài “Fixing a Hole”, một bài hát khác bị BBC cấm phát. George ðã chõi một ðoạn guitar solo rất tuyệt vời trong bài này. Theo nhý cảm xúc của ai ðã từng nghe “She is Leaving Home”, ðây là một vở kịch melô với những tiếng ðàn dây buồn bã. Chỉ có Paul và John là hát trong bài này. Một âm thanh ồn ào nhý tiếng của lễ hội carnavan với tiếng hát nhý từ một ðám ðông ðứng ngoài rạp xiếc ðã ðýợc kết hợp ðể tạo ra “Being for the Benefit of Mr.Kite”. George Martin ðã thêm vào những âm thanh organ tuỳ ý ðể tạo ra hiệu ứng âm thanh whirling. “Within U, Without U” là do George Harrison hát chính. Bài ca này giúp chúng ta có thể thấy rõ sự thấm nhuần triết học Ðông Ấn trong con ngýời của Harrison. Không có ai trong Beat hát cùng với Harrison. Paul viết “When I’m Sixty-Four” cho cha của ông. Ringo ðã ðể cho khoảng trống tràn ngập thay vì những tiếng trống của anh ðể oà lên lời ca chõi või ðầy giai ðiệu. Ringo ðã tạo ra một chuẩn mực mới ðối với bộ gõ của trống trong album này. “Love Rita” chứa những tiếng bass rất hay của Paul, và George Martin ðã chõi honky-tonk piano trong bài này. Ðoạn bridge của bài hát là ðoạn trio rýợt ðuổi của Harrison, Lennon và McCartney. “Good Morning, Good Morning” là một tác phẩm của John. Bài hát ðầy những tiếng của trang trại chãn nuôi gà vịt, trong ðó George Martin ðã thay tiếng gà cục cục bằng tiếng guitar lick. “Sgt.Pepper”, một ðiệp khúc càng ngày càng nhanh và sử dụng các hợp âm khác nhau so với track ðầu tiên, là một lời nhắc lại của ý týởng âm nhạc xuyên suốt trong cả ðĩa. Track cuối cùng, “A Day in the Life”, ðã khép lại một album với những âm thanh ðầy sức sống.
|
|
|
Post by xitrum on Aug 11, 2004 22:43:28 GMT -5
Phần thu âm
Phần thu âm là một trong những phần quan trọng và có ảnh hưởng nhất đến nghệ thuật của Beat. Sau năm 1966, Beat đã dừng các tour lưu diễn bởi những khó khăn xung quanh nó và chính những sự cản trở này đã làm cho Beat có thêm nhiều kinh nghiệm trong âm nhạc. Không giống như những ban nhạc sau khi đã diễn tập chán chê rồi đến phòng thu âm để thu, Beat đã coi phòng thu như một phòng thí nghiệm âm nhạc của mình.
Mark Lewisohn đã mô tả về quá trình thu âm của Beat(1962-1970) trong cuốn sách của ông The Beatles: Recording Sessions . Chúng ta có thể trích dẫn một số đoạn trong tác phẩm của ông :
26-11-1962: cCả nhóm đến Studio vào lúc 6h chiều sau một tiếng tập dượt. Sau đó, khi bắt đầu thu âm, nhóm quyết định rằng gPlease Please Meh cần thu âm mà không cần tiếng vọng rền rĩ của cây kèn harmonica. Sau đó nó lại được sửa đổi với việc ghi âm từng phần vì John khó mà vừa hát, vừa thổi harmonica lại vừa chơi guitar cùng một lúc. Việc thu tiếng harmonica đã mất đến 18 lần và sau đó George Martin đã nói gOK, chúng ta đã tạo ra Number One đầu tiên của mìnhh. Ông đã không nói saic 1-7-1963:chShe Loves Youh là một ca khúc vừa mới sáng tác. John và Paul đã sáng tác nó tại khách sạn Newcastle-upon-Tyne vào ngày 26-6c chTôi ngồi trên chiếc ghế quen thuộc của mình ở tại phòng thu trong khi John và Paul đang dạo những nốt nhạc đầu tiên trên cây guitar thùng, George tham gia một vài hợp âm g, George Martin kể lại, g Tôi nghĩ nó thật là tuyệt nhưng thật ngạc nhiên với hợp âm cuối cùng, một sự xếp đặt cọc cạch của hợp âm VI trưởng, trong khi George đánh hợp âm VI thì John và Paul lại đánh hợp âm V và VII giống như cách mà Glenn Miller đã làm. Họ đã thốt lên hQuá tuyệt, chưa có ai được nghe bao giờ đâu !!!h. Tất nhiên tôi biết điều đó không hoàn toàn đúngc gTôi chỉnh lại mic một lần nữa và ngó qua lời bài hát trước mich, Norman Smith nói, gTôi thấy gShe Loves You Yeah Yeah Yeah, She Loves You Yeah Yeah Yeah, She Loves You Yeah Yeah Yeahh. Tôi nghĩ lạy Chúa cái quái gì thế này, tôi chẳng thích tẹo nào. Thế nhưng khi họ bắt đầu hát, dường như tôi đã bay lên xung quanh bàn mixh.
9-12-1966 :cCó lẽ có quá nhiều lần ghi âm bài hát gStrawberry Fields foreverh. Sau khi đã ghi âm đến 24 lần, lần thứ 25 được trộn của lần thứ 15 và 24, Beat vẫn còn muốn thu âm thêm. Ringo đã thêm vào một số nhịp bộ gõ bao gồm một vài tiếng trống khá heavy, và George đã thêm vào âm thanh của swordmandel( một nhạc cụ của người Ấn) và cả âm thanh của chũm choẹ.
15-12-1966:cBốn cây trumpet và ba cây cello đã được tập hợp do George Martin đã để lại một âm thanh thật đặc biệt của bộ kèn gỗ (brass) và đàn dây khi ông và John quyết định cần phải sửa lại gStrawberry Fieldsh một lần nữac
Vào cuối buổi chiều mọi người đã bắt đầu cảm thấy ngán đến tận cổ khi sửa đi sửa lại bài này. Với những âm thanh của đàn dây cuồng nộ, tiếng trumpet om sòm, trống rất nặng cùng với giọng của John lúc vui lúc buồn khiến bản nhạc khác xa so với nguyên bản được thu âm vào hôm 24-11-1966. Không biết John đã thoả mãn chưa?
|
|
|
Post by xitrum on Aug 11, 2004 22:43:58 GMT -5
22-12-1966:chJohn bảo tôi rằng anh ấy thích cả hai version của bài gStrawberry Fieldsh, bản gốc và bản đã được hoà âm với đủ các nhạc cụ khách, George Martin nhớ lại, gAnh ấy nói gTại sao anh không kết hợp đoạn đầu tiên của version đầu tiên với đoạn cuối của version thứ hai nhỉ?h Tôi đã nói rằng điều này rất khó vì các hợp âm của hai đoạn này khác hẳn nhau, tempo cũng khác nhau. John bảo, gKhông sao, anh có thể làm được màch George Martin và Geoff Emerick bắt đầu xem xét cẩn thận cả hai version và nhận thấy nếu họ làm nhanh version đầu và làm chậm version sau đi thì sẽ ghép được với nhau và nó chỉ còn cách nhau có nửa cung. Thật may mắn cho họ!!! Sau hơn một tháng cuối cùng họ cũng làm được điều mà John muốn và làm cừ đến nỗi ngày nay có rất ít người nhận ra điều này(bạn có thể tìm khi nghe sau dòng glet me take you downh). Những ngày cuối của Beat vẫn còn là một đề tài tranh luận đối với mọi người. Những bài viết về Beat còn rất nhiều và ngay cả chương này cũng chưa chấm dứt, tuy vậy người dịch muốn nó kết thúc ở đây để có thể trở lại trong một bài viết khác viết về Beat. Một số câu hỏi về Beat : Q:Beat đã bán được nhiều đĩa nhất so với các ban nhạc trước và cùng thời. Vậy thì cụ thể là bao nhiêu? A:Hơn 200 triệu single và đĩa trên toàn thế giới. Q:Bài nào của Beat là hit đứng lâu nhất trong bảng xếp hạng? A:hHey Judeh-9 tuần trong bảng xếp hạng Pop và sau đó là gI Want To Hold Your Handh-7 tuần. Q:Vào ngày 31-3-1964, Beat đã đạt được kỷ lục gì mà chưa band nào lập được??? A:Họ có single đứng vị trí 1,2,3,4,5 trong bảng xếp hạng Pop là các bài "Can't Buy Me Love," "Twist and Shout," "She Loves You," "I Want to Hold Your Hand," và "Please Please Me." Họ có 5 single khác đứng trong Top 100 cùng tuần. Họ chiếm 60% thị phần đĩa 45s ở Mỹ từ tháng 1 tới tháng 6 năm 1964. Q:Trong hai tuần Beat đến Mỹ vào tháng Hai năm 1964, có bao nhiêu bài báo về họ A:13882 bài khác nhau trong hai tuần. Q:Ai là Bonnie Jo Mason, và cô có ràng buộc gì với Beat??? A:Cô ấy đã thu một bài hát mới lạ gI love You, Ringoh. Bài hát này nhanh chóng bị quên lãng nhưng Bonnie thì không. Cô ấy chính là Cher. Q:Ai đã đưa Beat tới với cần sa A:Bob Dyland. Khi Beat tới New York , Dyland cũng ở đó. Ông tới khách sạn mời Beat hút vài điếu nhưng bị trả lời là họ không hút loại đó. Dyland ngạc nhiên vô cùng vì ông nghĩ Beat viết một bài hát về cần sa(gI want to hold your handh). Ông hỏi về câu "And which I touch you, I get high, I get high, I get high." John bảo thật ra là "When I touch you, I can't hide, I cant' hide, I can't hide." Sau đó Beat đã đồng ý hút thử và c Q:Ai nói câu :"I don't mean to belittle the Beatles when I say they weren't this, they weren't that. I'm just trying not to overblow their importance as separate from society. And I don't think they were more important than Glenn Miller or Woody Herman or Bessie Smith?" A:John Lennon
|
|
|
Post by xitrum on Aug 11, 2004 22:44:30 GMT -5
Chương 19 : Motown & Soul (1959-1970)
Vào giữa thập lỷ 50 và nửa đầu thập kỷ 60, một công ty thu âm đặc biệt do Barry Gordy Jr. thành lập đã ra đời. Công ty này mang tên Motown và đặt trụ sở của mình tại Detroit(Motown là tiếng lóng ở Detroit có nghĩa là gMotortownh).Motown đã tạo nên một đặc trưng riêng của mình với các nghệ sỹ da đen và trở nên phổ biến trong thế giới thính giả nghe nhạc phổ thông, cả da đen lẫn da trắng. Trong số 535 đĩa đơn được Motown tung ra thị trường vào giữa thập kỷ 60-70, có hơn 67% là thành công. Sự thành công này chịu ảnh hưởng rất lớn của người sáng lập ra Motown, Barry Gordy Jr và chất lượng của những nhạc công mà ông tin tưởng. Âm nhạc của Motown lusc đầu thường chứa những ca từ Pop đơn giản, giai điệu và hoà âm cũng đơn giản nhưng rất hoàn thiện. Càng về sau, âm nhạc của Motown lại càng tinh tế và phức tạp hơn. Gordy luôn nghe đi nghe lại rất nhiều lần cho tới khi đĩa nhạc được chính thức ra đời, thậm chí ông còn nghe nó cả trên radio của ô tô để xem giai điệu còn phải sửa chữa ở đâu. Motown đã có một cuộc lưu diễn rất thành công để giới thiệu hơn 45 nghệ sỹ của mình mang tên gMotortown Reviewh. Gorrdy đã giới thiệu tất cả các nghệ sỹ của mình tuyệt vời dưới mọi khía cạnh mà ông cảm thấy cần thiết để có thể thành công trên thị trường Pop. c Một số những nghệ sỹ nổi tiếng của Motown có thể kể đến như Smokey Robinson và the Miracles, Mary Wells, The Marvelletts, The Supremes, Marvin Gaye, The Temptations, Martha Reeves và the Vandellas, The Four Tops, Gladys Knight và the Pips, Stevie Wonder được phát hiện ở tuổi 12. Lúc đó Stevie được gọi là Little Stevie Wonder, tên thật của ông là Steveland Morris. Cho đến cuối thập kỷ 60, các nghệ sỹ da đen vẫn không hướng tới Motown cho tới khi một dòng nhạc mới ra đời, Soul, và công ty hơn bao giờ hết muốn tuyển mộ những nghệ sỹ da đen. Những âm thanh của Motown và Gordy cùng những nghệ sỹ của ông là một phần rất quan trọng trong lịch sử nhạc Rock. Cùng với Motown, nhạc Soul đã phát triển mạnh. Một số nghệ sỹ đã nối tiếng vào thời kỳ này như Ray Charles, James Brown, Aretha Franklin, và Otis Redding. Một vài loại Soul khác cũng đã phát triển tuỳ theo vùng địa lý. Ở Memphis nó được kết hợp với Gospel và R&B trong khi ở Chicago chứa nhiều âm thanh của nhạc gdoo-woph.
|
|
|
Post by xitrum on Aug 11, 2004 22:45:37 GMT -5
Chương 20 : The Northern California Sound (cuối thập kỷ 60)
Do sự chia cắt của xã hội Mỹ, California hầu như đã bị chia cắt thành hai vùng, Nam và Bắc. Các thính giả Rock vào năm 1960 có thể nghe hai loại nhạc đối lập nhau từ hai vùng. Những âm thanh của miền Nam được nhắc tới với tính thận trọng, bảo thủ, cuộc sống êm đềm tôn thờ ánh mặt trời chói chang trong khi đó miền Bắc California, đặc biệt là ở khu vực Vịnh San Francisco tràn đầy những âm thanh tự do, sáng tạo và có một chút đua đòi, hợm hĩnh. Vịnh San Francisco với Trường đại học California tại Berkeley là một mầm sống của phong trào tự do ngôn luận cũng những tinh thần tự do, ma tuý, tự do tình dục, đấu tranh chống chiến tranh, và quan trọng nhất là thế hệ hippie mà tên ban đầu của nó là gcounter-cultureh. Âm nhạc ở vùng phía bắc này khởi đầu bởi sự kết hợp của nhạc folk và nhạc rock. Nhạc folk ở đây đã được truyền cảm hứng từ những thông điệp về quan điểm tự do của thập kỷ 60 và được tập trung tại vùng vịnh San Francisco. Cho tới giữa thập kỷ 60, vịnh San Francisco đã trở thành một thánh địa mecca của counter-culture. Vùng Haight-Ashbury trở thành vùng đất phóng túng cho những ai muốn tìm kiếm nhận thức mới và một cuộc sống mới trong xã hội. Âm nhạc ở đây đã phản ánh trung thực những gì mà xã hội thể hiện. Sự phản ánh xã hội ở đây được thể hiện trên nhiều khía cạnh. Các band không quá quan tâm tới khía cạnh tài chính hoặc được thế giới biết tới. Các band sẽ rất hạnh phúc nếu được biểu diễn tại những tụ điểm ca nhạc tự do để ủng hộ tự do và hoà bình. Grateful Dead trở thành ban nhạc nổi tiếng và không ai lại biểu diễn free nhiều hơn họ. Grateful Dead tạo ra âm nhạc từ tinh thần của hippy và nhạc country-rock thuần. Jerry Garcia gCaptain Tripsh mặc kệ tất cả những lời phản đối đã dần trở thành một guru của nền văn hoá hippy này. Họ không giống như Jefferson Airline, ban nhạc cùng thời, không có một số lượng đĩa bán ra để có thể ghi một kỷ lục nào cả. Jon Pareles của The NY Times (26-7-1987) đã bình luận g Trong khi nhiều ban nhạc khác hướng tới mục đích chơi lại các bản thu âm của họ khi trình diễn, Dead đã chơi một thứ nhạc jam mà không cần biết họ kết thúc ở đâu. Họ là ban nhạc không thể tiên đoán được, không lặp lại bản thân mình và là một cơn ác mộng cho nền công nghiệp thu âmh. Các thành viên của Jefferson Airline đều khá hoang dại, bất kham và khó đoán trước được nhưng đã kết hợp để tạo nên một ban nhạc hoàn hảo. Âm nhạc của họ thường mang tính hư cấu, đôi khi là sự va chạm giữa acid-raga-blues-folk-rock nhằm thể hiện những cảm xúc về xã hội. Các công ty thu âm lớn thường phải rất cân nhắc khi ký hợp đồng với Airline vì âm nhạc của họ thường nhắc tới ma tuý, mặc dù vậy, ban nhạc đã ký được một hợp đồng lớn với RCA Victor. Sau khi ký, Jefferson Airline ngày càng mở rộng sự ảnh hưởng của mình và nhanh chóng trở thành ban nhạc thành công nhất miền Bắc California. Đôi khi âm nhạc ở đây được đánh giá là acid rock hay psychedelic rock nhưng những loại này thực ra chỉ là loại con được bắt ng*ồn từ âm nhạc Bắc California. Những buổi hoà nhạc ở đây đã bắt đầu chú ý đến hiệu ứng ánh sáng, đôi khi là cả mùi thơm. Những thinh giả là một phần của buổi hoà nhạc và không chỉ đứng trước mặt các ban nhạc để nghe nhạc một cách thụ động. Các ban nhạc acid thường sử dụng âm lượng lớn và nhiều người dẫn chương trình. Âm nhạc không chỉ nghe mà còn bằng cảm nhận. Một số ban nhạc đã bắt đầu sử dụng LSD trong khi biểu diễn. Các ban nhạc và nghệ sỹ nổi tiếng vào thời gian này là Moby Grape, Jefferson Airplane, Country Joe và the Fish, Janis Joplin với Big Brother và the Holding Company hoặc the Full-Tilt Boogie Band, the Grateful Dead. (The Beatles' sử dụng tên "Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band" của một ban nhạc tại đây), và Creedence Clearwater Revival. [CCR thực ra không hẳn là hát theo cảm xúc của âm nhạc Bắc Calỉonia ].Với John Forgerty, CCR không phản ánh những âm thanh ảo giác, lối sống hippy, và một chiều hướng chính trị tích cực. Âm nhạc của Bắc California dù mang trong mình những tư tưởng không hoàn toàn đúng nhưng đã có chiều hướng tích cực và đối lập với Surf Music ở miền Nam. Sự đối lập tích cực này là khá quan trọng trong việc phát triển Rock và ngay cả xã hội Mỹ sau này.
|
|
|
Post by xitrum on Aug 11, 2004 22:46:45 GMT -5
Chương 21 : Cuộc xâm chiếm của những người Anh (giữa thập kỷ 60)
Dường như để đáp lại sự đổ bộ của các ban nhạc Rock vào thập kỷ 50, Beat đã đổ bộ lên Mỹ và để lại một dấu ấn huy hoàng ở đó vào những năm giữa thập kỷ 60. Sau khi các công ty thu âm hàng đầu thấy rõ lợi nhuận khi Beat đổ bộ vào Mỹ, họ bắt đầu quan tâm đến tất cả các ban nhạc có âm nhạc và gkiểuh giống như những người Anh. Giống như thời kỳ Teen Idol (ND- xem chương 14), rất nhiều các nhóm nhạc người Anh đã được các công ty này tuyển chọn và trong số đó đã có một vài ban nhạc thành công cả về mặt âm nhạc lẫn tài chính. Một trong những ban nhạc sẽ còn được nhắc đến mãi mãi trong thời kỳ này là the Rolling Stones. Bắt đầu với những âm thanh của R&B, The Rolling Stones(còn được gọi tắt là Stones) đã chuyển mình để đến với những âm thanh Rock enf Roll thực sự vào năm 1963. Trong năm này, ban nhạc đã ổn định về mặt nhân sự với Mick Jagger (lead vocalist), Keith Richard (guitar), Bill Wyman (bass), và Charlie Watts (bộ gõ). Ông bầu của Stones thời kỳ đầu là Andrew Oldham. Nếu Brian Epstein đã làm thay đổi Beat thì oldham cũng đã làm Stones trở nên nổi tiếng. Trong thời kỳ đầu tiên của mình, Stones xuất hiện với trang phục complet cà vạt giống như các ban nhạc Anh khác. Thời kỳ chưa nổi tiếng này, Stones có lúc đã bán được có 300 vé cho buổi diễn của mình trong khi nhà hát có đến 3000 vé. Oldham đã nhận xét rằng đám đông sẽ cuồng nhiệt hơn nếu như Stones làm một cái gì đó khác người và Oldham đã biến các chàng trai này thành những gbad-boyh. Họ bắt đầu phô trương sự suy đồi của mình với xã hội và ngay lập tức với những phản ứng của xã hội, họ càng ngày càng trở nên nổi tiếng hơn. Trong khi Beat còn khá xa lạ với xã hội vì họ khá hiền lành thì Stones đã chống đối lại cả xã hội. Âm nhạc của Stones ban đầu dựa vào những nhạc sỹ khác nhưng đến năm 1965, họ đã bắt đầu tự viết nhạc riêng cho mình. Beat có John/Paul thì Stones cũng có Jaggers/Richards không kém phần. Ngay cả khi Stone không đạt được tới tầm kỹ thuật và nghệ thuật như Beat, họ vẫn là cái gì đó thật đáng nói trong lịch sự nhạc Rock. Một số các ban nhạc khác vào thời kỳ này phải kể đến như The Who, The Moody Blues, Elton John, The Byrds, The Yardbirds, the Dave Clark five, Donovan, the Kinks, và Pink Floyd (Một số nhà phê bình đã xếp những nhóm như Moody và Pink Floyd vào Symphonic Rock). Rất nhiều các nhóm nhạc Anh thời kỳ này chỉ có một thời gian tồn tại ngắn, chủ yếu phục vụ cho những nhu cầu giải trí phổ thông, tuy vậy những nhóm nhạc nêu trên đã để lại một dấu ấn khá sâu đậm tới lịch sử nhạc Rock.
|
|
|
Post by xitrum on Aug 11, 2004 22:47:37 GMT -5
Chương 22 : Những âm thanh điện tử ( cuối 60s-đầu 70s)
Thời đại của âm nhạc điện tử bắt đầu từ khoảng cuối thập kỷ 60, gần như là một nhánh của âm nhạc Bắc California. Rất nhiều ban nhạc thời kỳ này đã bắt đầu tạo được những không khí mà bình thường chúng ta không thể nghe được âm thanh tự nhiên nào to đến vậy. Âm nhạc bắt đầu được nhắc tới với sự dữ dội, khuyếch đại công suất điện tử, guitar feedback, quang cảnh sân khấu chói loà ánh đèn và đạo cụ sân khấu, những hợp âm đơn giản, những ca từ ảo giác được ma tuý chắp cánh như muốn với tới sự tự do . Một số nghệ sỹ thời kỳ này đã khởi đầu cho thời kỳ Tiền-Heavy Metal. Thuật ngữ Acid Rock được nhắc tới trong thời kỳ này. Một trong những người tiên phong trong thể loại này là Jimi Hendrix. Hendrix xứng đáng được công nhận là một bậc thầy trong làng guitarist đã và sẽ có ảnh hưởng sâu rộng tới những guitarist trên toàn thế giới. Cùng với những kỹ thuật điêu luyện của mình, ông đã nâng khả năng sáng tạo của guitar lên rất nhiều. Tiếc rằng, vì sử dụng ma tuý quá liều ông đã ra đi ở tuổi 27, kết thúc một sự nghiệp ngắn ngủi nhưng vinh quang bất diệt. Micheal Nesmith , một tên tuổi lừng danh của Monkees đã nói về quá trình Monkees phát hiện và đưa tài năng Jimi Hendrix đến với mọi người như sau : gCó một điều nhỏ không thể phủ nhận được là Hendrix đã được giới thiệu ở Mỹ bởi Monkees. Anh ta đã được phát hiện bởi Mickey Dolenz [một thành viên của Monkees] tại một câu lạc bộ nhỏ ở London.
|
|
|
Post by xitrum on Aug 11, 2004 22:48:14 GMT -5
Tôi không nhớ tại sao chúng tôi lại ở London lúc đó, nhưng chúng tôi đang dự định có một chuyến lưu diễn với John Lennon. Mickey đến và bảo tôi rằng anh ta đã nghe một bản tam tấu(trio) ở câu lạc bộ hôm qua và thứ nhạc Rock enf Roll quá khác lạ so với những gì anh ta đã được nghe từ trước đến nay. Trong thời điểm đó chúng tôi đang có đủ mọi quyền hành để quyết định xem chúng tôi sẽ mời ai cùng đi tour với chúng tôi. Mickey nói rằng anh ta muốn có một bộ ba và tôi nghĩ tại sao không ? Tôi tới câu lạc bộ và gặp John, Paul, George Harrison và Eric Clapton. Cuộc gặp này cứ như là các tu sỹ gặp nhau ở Vatican vậy. Lennon nói gNày, các cậu nghe cái này nhé!!!h, và anh ấy đã bật cái đài Sony bé tý của mình cho chúng tôi nghe bản gHey Joeh, cũng lại là của Jimi Hendrix, người mà Mickey nhắc tới hôm qua. Chúng tôi đã im lặng rất lâu để nghe đi nghe lại một âm thanh mới, một con người mới đã đến với âm nhạc theo một cách rất khác với chúng tôi. [Nesmith nói về lần đầu tiên gặp Hendrix ở tiền sảnh] Cửa mở ra và Jimi xuất hiện như một phép mầu, rất loè loẹt. Mitch Mitchell và Noel Reading đứng bên cạnh anh ta. Tóc của Jimi dựng đứng. Anh ta nhìn qua nhìn lại và tôi thấy một mái tóc đầy những vật nhỏ đầy mầu sắc . Mắt của anh ta có những vệt nhỏ cũng rất loè loẹt. Tôi tự nhủ gAi thế này nhỉ h Anh ta tiến đến chỗ tôi và nói g Chào Mike. Tôi là Jimi Hendrixh Tôi nói gOhh. Tôi chỉ có thể nói thế vì đang bị choáng ngợp bởi cách ăn mặc của anh ta. Tôi nghĩ tốt nhất là nghe nah ta biểu diễn ngay bây giờ. Tôi đứng đấy nghe anh ta đấnh bài đầu tiên gPurple Hazeh và nhớ là mình đã lùi lại hai ba bước vì kinh ngạc. Tôi nghĩ rằng gCó lẽ anh ta đã cắm vào đó những lối thoát của thiên đàng rồih [Nesmith nói về sự thờ ơ của các khán giả trẻ đối với Hendrix] Từ Raleigh tới Forest Hills, mọi việc có vẻ hơi tồi tệ. Các cô gái gào lên gChúng tôi muốn Monkeesh trong khi Jimi đang chơi và điều này đã ảnh hưởng tới Jimi, đã huỷ hoại Jimi. Cuối cùng ở NY, tại Forest Hill, Jimi đã chứng tỏ được mình, sau khi anh đã làm cho mọi người bay lên như những con chim, anh bước ra ngoài sân khấu và nói gF*** Uh. Chúng tôi biết rằng mọi chuyện đã bắt đầu tốt hơn.h Một sô các nghệ sỹ / ban nhạc khác có ảnh hưởng lớn trong thời kỳ này là Steppenwolf, Cream, Vanilla Fudge, Jethro Tull, the Yardbirds, The Doors, và the Animals. Một nhân vật quan trọng khác cần phải nhắc tới là Eric Clapton(guitar). Với những dấu ấn của mình khi chơi tại the Yardbird, ông đã ghi danh vào lịch sử như một cây guitar đại thụ. Sau đó, ông chơi ở một số ban nhạc khác cho tới khi cùng những người bạn của mình Jack Bruce và Ginger Baker lập ra Cream. Ảnh hưởng của Clapton , đặc biệt với những fan của nhạc Blue tại Anh đã tăng lên không dừng. Trong thời kỳ này, ông đã bắt đầu khám phá vào một vùng đất mới của Rock, những khúc ngẫu hứng. Eric cũng đã chơi nhạc với nhiều các nghệ sỹ quan trọng khác như George Harrison, Steve Winwood, và Leon Russell. The Doors, một ban nhạc xuất phát từ LA, cũng dần dần trở thành một ảnh hưởng quan trọng trong thời kỳ này. Với ca sỹ chính hát như một nhà thơ của mình, Jim Morrison, the Door đã đi sâu vào mọi tầng lớp ở dưới đáy của xã hội. Âm nhạc của họ nói về những điều huyền bí, totem(ND-vật tổ của người Anh-điêng Bắc Mỹ) , những điều cấm kỵ trong xã hội đương thời của nước Mỹ.
|
|