|
Post by xitrum on Apr 20, 2004 0:37:42 GMT -5
Chýõng 8 : BOP(1945-1950)
Bop jazz(ðôi khi ðýợc gọi là Be-bop hay Re-bop) là một cuộc cách mạng nghệ thuật so với loại nhạc ðã sinh ra mình. Trong suốt thời ðại của swing, các ban nhạc khá lớn và không phải không có những hạn chế của mình. Các nhạc công chõi bè khá gò bó nếu không ban nhạc sẽ chỉ phát ra những âm thanh lộn xộn. Tuy vậy, các nhạc công Bop ðã thay ðổi ðiều này bằng một cuộc cách mạng.
Thế chiến thứ II ðang quyết liệt và thế giới là một hành tinh ðầy lo âu và xáo ðộng. Nghệ thuật, vào thời ðiểm này phản ảnh chân thực xã hội và Bop phản ảnh những gì xảy ra trên thế giới. Bằng những ý týởng loé lên trong ðầu, một phong cách soạn phối âm giai ðiệu mới ðã ra ðời, một khái niệm tự do mới về nhịp ðiệu ðýợc hình thành và ðã sẵn sàng ðối ðầu với swing ðể mở rộng Jazz.
Các ban nhạc Jazz lớn thýờng sử dụng nhiều nhạc công, tuy nhiên Bop ðã sử dụng phần nhịp ðiệu(piano,bass,bộ gõ…) giống hệt nhý Dixieland và thêm hai ðến ba kèn hõi. Do các nhạc công của Bop muốn ðýợc chõi tự do hõn Swing, nhạc của họ ðýợc viết ra không cứng nhắc và phức tạp nhý Swing. Thông thýờng một ca khúc ðýợc soạn 8 nhịp, lặp lại, sau ðó lại 8 nhịp tiếp theo, rồi lại 8 nhịp ban ðầu theo cấu trúc AABA. Thông thýờng 32 nhịp ðầu tiên không thay ðổi và phần sau ðó là do sự ngẫu hứng của các nhạc công. Bop ðýợc kết thúc bằng cách quay lại 32 nhịp ðầu tiên. Bằng cách mở rộng giới hạn của giai ðiệu và hoà âm, thậm chí là các hợp âm ðýợc thay ðổi thýờng xuyên trong mỗi lần biểu diễn, Bop ðã mang lại một thứ nhạc mới mẻ.
Phần nhịp ðiệu cũng ðã thay ðổi rất nhiều trong Bop. Trong thời của Swing, phần này dùng ðể gắn kết cả ban nhạc lại với nhau, nhýng với Bop mỗi nhạc công có một nhiệm vụ khác nhau và có thể chõi solo với nhạc cụ của mình. Bass dây trở thành ngýời cầm nhịp và làm nền tảng cho toàn bộ hoà âm của bản nhạc. Bộ gõ cũng ðã phong phú hõn nhiều với trống bass và chũm choẹ, snare drum ðể thêm những dấu nhấn. Bop ðã ðýợc xây dựng trên quan ðiểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, phản bác hoàn toàn lại ngýời nghe lúc ðó. Nếu mọi ngýời thích thì tốt, không thích cũng tốt. Ban nhạc Bop thýờng mặc giống nhau, khác hẳn với cách trang ðiểm lúc ðó. Cùng với Bop, từ “hợp thời” (hip và hipster) ðã ðýợc nói tới thýờng xuyên.
Hai ngýời cần phải nhắc tới trong thời ðiểm này là Charlie "Bird" Parker (saxophone/composer) và Dizzy Gillespie (trumpet/composer). Cả hai nghệ sĩ ðều có ðóng góp rất lớn trong việc phát triển nghệ thuật ngẫu hứng và kỹ thuật chõi nhạc Jazz. Bop là một cuộc cách mạng ðối với Swing, nhýng chýa hết, Cool lại là cả một cuộc cách mạng ðối với Bop.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 20, 2004 0:38:17 GMT -5
Chýõng 9 : COOL (1950-1955)
Sau Thế chiến lần thứ II, rất nhiều các nhạc sỹ bị ép buộc phục vụ trong quân ðội giờ ðây ðã có ðủ ðiều kiện vào các trýờng Ðại học theo một chýõng trình lần ðầu tiên xuất hiện của chính phủ Mỹ, G.I.Bill. Cùng lễ tốt nghiệp ra trýờng của mình, các nhạc sỹ này ðã mang những thành tố mới ðến với Jazz. Cool Jazz ðối lập hẳn với thứ nhạc trýớc nó, Bop. Nếu nhý Bop nhanh và thay ðổi bất thýờng, Cool lại rất ðằm, giản dị, thoải mái(laid-back), và êm dịu. Bop Jazz có thể ví nhý những màu týõi sáng nhý ðỏ và xanh, trong khi Cool Jazz là những màu nhạt ví dụ xanh nhạt.
Những ảnh hýởng của nhạc cổ ðiển có thể thấy rõ qua một số nhạc cụ vào thời kỳ này. Một số các nhạc cụ giao hýởng nhý oboe, bassoon(kèn f*gôt), sáo French, và các loại sáo khác ðã tham gia vào buổi trình diễn Jazz. Cool chỉ có một ðiểm chung với Bop, ðó là ðể nghe chứ không phải ðể nhảy. Với sự phát triển trong công nghệ thu âm, giờ ðây các ca sỹ ðã có thể ghi những bài dài hõn(trýớc là từ 2½ tới 3 phút), do vậy, các nhạc sỹ ðã tự do hõn trong việc sáng tác và nhất là những ðoạn ngẫu hứng của mình. Ðộ dài của cả bản nhạc và ðoạn ngẫu hứng ðã ðýợc co giãn hõn nhiều. Giới hạn về số khuông nhạc dần bị phá bỏ và ðoạn solo của các nghệ sỹ thýờng kết thúc khi họ cảm thấy ðấy là ðiểm kết thúc.
Một trong những nhạc công nổi tiếng nhất của thời ðó, Dave Brubeck (pianist/composer), ðã nói về cuộc ðời mình nhý sau: “…Trýớc ðây mọi ngýời luôn nói về tôi “ Có lẽ anh ta có một dòng máu mang màu ðen chảy trong ngýời”. Tôi ðã ở trýờng ðại học, làm việc ở những nõi nhý Cool Corner ở Stockon, California. Tôi thýờng là ngýời da trắng duy nhất ở trong câu lạc bộ. Không ai ở trýờng ðại học có thể hiểu tại sao tôi lại làm việc ở ðó…
…Tôi có ảnh trên trang nhất của Time nãm 1954, rất nhiều ngýời nghĩ là sự nghiệp của tôi bắt ðầu với album Time out, nhýng tôi không bao giờ có thể quên ðýợc những nãm ðầu tiên quan trọng ðến mức nào. khi nhóm tứ tấu [Dave Brubeck Quarrtet] ðầu tiên thành lập…
|
|
|
Post by xitrum on Apr 20, 2004 0:39:01 GMT -5
…Tôi là ngýời da trắng và ðã biểu diễn khắp mọi nõi… Rất nhiều câu lạc bộ ðã ngãn ðôi với ngýời da ðen biểu diễn một bên và ngýời da trắng ở một bên. Cũng không mất nhiều thời gian lắm ðể tấm màn ðó có thể ðýợc xoá bỏ, tuy vậy tôi không chõi cho bất kỳ một câu lạc bộ nào khi vẫn còn phân biệt nhý thế… …Giống nhý Ellington, Louis Armstrong, và Beethoven, những lời phê phán cũng làm tôi khó chịu. Tuy vậy, tôi ðã chõi cùng với một nhóm ðông các nghệ sỹ cũng bị phê phán, và khi họ chõi hết mình, thật là khó týởng. Những lời chỉ trích ðôi khi cũng tốt… ” Một số các nghệ sĩ lớn cần phải kể ðến trong thời kỳ này nhý : Miles Davis (trumpet); Gerry Mulligan (baritone saxophone); Stan Getz (Tenor Sax); Gil Evans (arranger); George Shering (piano); Paul Desmond (alto sax) [thành viên nhóm tứ tấu Dave Brubeck ]; Clark Terry (Fluegal Horn/ trumpet); Lee Konitz (alto sax), và John Coltrane (alto, tenor sax cũng là một nhạc sỹ tiên phong rất quan trọng). Dýới ðây là một ðoạn báo do Micheal Bourne viết ðể nói về nghệ sĩ nhạc Jazz, Gerry Mulligan : “Mulligan nói “Khi tôi là một ðứa trẻ, thế giới của tôi ðã tràn ngập âm nhạc từ chiếc radio. Tôi yêu các ban nhạc này. Tôi yêu Jazz, yêu nhạc cổ ðiển, tất cả những gì tôi nghe ðýợc” Vậy thì lúc nào anh ta biết rằng anh ta là một nhạc sỹ “Dýờng nhý trong tôi ðã có một ýớc muốn ngay từ nhỏ rằng tôi sẽ có một ban nhạc, tôi sẽ viết cho ban nhạc ðó, sẽ chõi nhạc. Cho dù 100 nãm, 1000 nãm nữa niềm ðam mê ðýợc viết những dòng nhạc sẽ không thay ðổi…Tôi thực sự muốn vào trýờng học nhạc và học sáng tác nhýng tôi không có một cõ hội nào. Gia ðình tôi nghĩ rằng tôi thật ðiên rồ, “Nó chỉ nghĩ linh tinh và ðến ngày nào ðó nó sẽ kiếm ðýợc một ý nghĩ tử tế hõn”. Nhýng không, không bao giờ tôi thay ðổi. Ðối với tôi âm nhạc là tất cả. Vào cuối những nãm 1940, Mulligan ðã trở nên nổi tiếng với vai trò nhạc công chõi baritonre lẫn nhà soạn nhạc. Miles Davids ðã nói rằng vào lúc ðó Cool ðã ra ðời. Gia nhập vào một ban nhạc gồm có 9 thành viên, một sự thay ðổi lớn ðã xảy ra. “ Tôi gia nhập vào một ban nhạc nhỏ vì tất cả các bạn tôi ðều gia nhập vào các ban nhạc nhỏ. Ðã hết thời của các ban nhạc lớn rồi. Với thuế “nghệ thuật” của chính phủ, Hiệp hội Âm nhạc ðình công, sự thay ðổi trong ban nhạc, một số ra ði, Mulligan ðau xót nhìn ban nhạc yêu mến của mình tan rã dần dần. Gerry Mullian ðã không còn trẻ nữa, 61 tuổi [vào nãm 1988] và ông biết rằng bọn trẻ giờ ðây không còn chãm chú lắng nghe radio và mõ ýớc có một ban nhạc của riêng mình nữa “Nếu không có sự nhiệt tình, bạn không thể làm ðýợc gì, nhất là âm nhạc, ðó chỉ còn là một bãi rác mà thôi…” Vào cuối thập kỷ 50, Jazz ðã tiến ðến giới hạn của các loại nhạc phổ thông và một loại nhạc mới, Rock ‘n’ Roll ðã dần trở thành món ãn âm nhạc yêu thích của ngýời dân Mỹ. Jazz tiến vào những vùng sâu hõn mà âm nhạc phổ thông dừng býớc. Jazz ðã thành một thứ nghệ thuật thực sự, của riêng ngýời Mỹ, không chỉ thành công ở Mỹ mà còn là một mảng nổi bật trong bức tranh âm nhạc của toàn thế giới.
|
|
|
Post by xitrum on May 11, 2004 4:22:29 GMT -5
Chương 9 : COOL (1950-1955) Sau Thế chiến lần thứ II, rất nhiều các nhạc sỹ bị ép buộc phục vụ trong quân đội giờ đây đã có đủ điều kiện vào các trường Đại học theo một chương trình lần đầu tiên xuất hiện của chính phủ Mỹ, G.I.Bill. Cùng lễ tốt nghiệp ra trường của mình, các nhạc sỹ này đã mang những thành tố mới đến với Jazz. Cool Jazz đối lập hẳn với thứ nhạc trước nó, Bop. Nếu như Bop nhanh và thay đổi bất thường, Cool lại rất đằm, giản dị, thoải mái(laid-back), và êm dịu. Bop Jazz có thể ví như những màu tươi sáng như đỏ và xanh, trong khi Cool Jazz là những màu nhạt ví dụ xanh nhạt. Những ảnh hưởng của nhạc cổ điển có thể thấy rõ qua một số nhạc cụ vào thời kỳ này. Một số các nhạc cụ giao hưởng như oboe, bassoon(kèn f*gôt), sáo French, và các loại sáo khác đã tham gia vào buổi trình diễn Jazz. Cool chỉ có một điểm chung với Bop, đó là để nghe chứ không phải để nhảy. Với sự phát triển trong công nghệ thu âm, giờ đây các ca sỹ đã có thể ghi những bài dài hơn(trước là từ 2½ tới 3 phút), do vậy, các nhạc sỹ đã tự do hơn trong việc sáng tác và nhất là những đoạn ngẫu hứng của mình. Độ dài của cả bản nhạc và đoạn ngẫu hứng đã được co giãn hơn nhiều. Giới hạn về số khuông nhạc dần bị phá bỏ và đoạn solo của các nghệ sỹ thường kết thúc khi họ cảm thấy đấy là điểm kết thúc. Một trong những nhạc công nổi tiếng nhất của thời đó, Dave Brubeck (pianist/composer), đã nói về cuộc đời mình như sau: “…Trước đây mọi người luôn nói về tôi “ Có lẽ anh ta có một dòng máu mang màu đen chảy trong người”. Tôi đã ở trường đại học, làm việc ở những nơi như Cool Corner ở Stockon, California. Tôi thường là người da trắng duy nhất ở trong câu lạc bộ. Không ai ở trường đại học có thể hiểu tại sao tôi lại làm việc ở đó… …Tôi có ảnh trên trang nhất của Time năm 1954, rất nhiều người nghĩ là sự nghiệp của tôi bắt đầu với album Time out, nhưng tôi không bao giờ có thể quên được những năm đầu tiên quan trọng đến mức nào. khi nhóm tứ tấu [Dave Brubeck Quarrtet] đầu tiên thành lập… …Tôi là người da trắng và đã biểu diễn khắp mọi nơi… Rất nhiều câu lạc bộ đã ngăn đôi với người da đen biểu diễn một bên và người da trắng ở một bên. Cũng không mất nhiều thời gian lắm để tấm màn đó có thể được xoá bỏ, tuy vậy tôi không chơi cho bất kỳ một câu lạc bộ nào khi vẫn còn phân biệt như thế… …Giống như Ellington, Louis Armstrong, và Beethoven, những lời phê phán cũng làm tôi khó chịu. Tuy vậy, tôi đã chơi cùng với một nhóm đông các nghệ sỹ cũng bị phê phán, và khi họ chơi hết mình, thật là khó tưởng. Những lời chỉ trích đôi khi cũng tốt… ” Một số các nghệ sĩ lớn cần phải kể đến trong thời kỳ này như : Miles Davis (trumpet); Gerry Mulligan (baritone saxophone); Stan Getz (Tenor Sax); Gil Evans (arranger); George Shering (piano); Paul Desmond (alto sax) [thành viên nhóm tứ tấu Dave Brubeck ]; Clark Terry (Fluegal Horn/ trumpet); Lee Konitz (alto sax), và John Coltrane (alto, tenor sax cũng là một nhạc sỹ tiên phong rất quan trọng). Dưới đây là một đoạn báo do Micheal Bourne viết để nói về nghệ sĩ nhạc Jazz, Gerry Mulligan : “Mulligan nói “Khi tôi là một đứa trẻ, thế giới của tôi đã tràn ngập âm nhạc từ chiếc radio. Tôi yêu các ban nhạc này. Tôi yêu Jazz, yêu nhạc cổ điển, tất cả những gì tôi nghe được” Vậy thì lúc nào anh ta biết rằng anh ta là một nhạc sỹ “Dường như trong tôi đã có một ước muốn ngay từ nhỏ rằng tôi sẽ có một ban nhạc, tôi sẽ viết cho ban nhạc đó, sẽ chơi nhạc. Cho dù 100 năm, 1000 năm nữa niềm đam mê được viết những dòng nhạc sẽ không thay đổi…Tôi thực sự muốn vào trường học nhạc và học sáng tác nhưng tôi không có một cơ hội nào. Gia đình tôi nghĩ rằng tôi thật điên rồ, “Nó chỉ nghĩ linh tinh và đến ngày nào đó nó sẽ kiếm được một ý nghĩ tử tế hơn”. Nhưng không, không bao giờ tôi thay đổi. Đối với tôi âm nhạc là tất cả. Vào cuối những năm 1940, Mulligan đã trở nên nổi tiếng với vai trò nhạc công chơi baritonre lẫn nhà soạn nhạc. Miles Davids đã nói rằng vào lúc đó Cool đã ra đời. Gia nhập vào một ban nhạc gồm có 9 thành viên, một sự thay đổi lớn đã xảy ra. “ Tôi gia nhập vào một ban nhạc nhỏ vì tất cả các bạn tôi đều gia nhập vào các ban nhạc nhỏ. Đã hết thời của các ban nhạc lớn rồi. Với thuế “nghệ thuật” của chính phủ, Hiệp hội Âm nhạc đình công, sự thay đổi trong ban nhạc, một số ra đi, Mulligan đau xót nhìn ban nhạc yêu mến của mình tan rã dần dần. Gerry Mullian đã không còn trẻ nữa, 61 tuổi [vào năm 1988] và ông biết rằng bọn trẻ giờ đây không còn chăm chú lắng nghe radio và mơ ước có một ban nhạc của riêng mình nữa “Nếu không có sự nhiệt tình, bạn không thể làm được gì, nhất là âm nhạc, đó chỉ còn là một bãi rác mà thôi…” Vào cuối thập kỷ 50, Jazz đã tiến đến giới hạn của các loại nhạc phổ thông và một loại nhạc mới, Rock ‘n’ Roll đã dần trở thành món ăn âm nhạc yêu thích của người dân Mỹ. Jazz tiến vào những vùng sâu hơn mà âm nhạc phổ thông dừng bước. Jazz đã thành một thứ nghệ thuật thực sự, của riêng người Mỹ, không chỉ thành công ở Mỹ mà còn là một mảng nổi bật trong bức tranh âm nhạc của toàn thế giới.
|
|
|
Post by xitrum on May 11, 2004 4:23:08 GMT -5
Chương 10 : Thời kỳ Tiền-Rock
Vào những năm thập kỷ 40, Jazz, loại nhạc phổ biến nhất của người Mỹ đã có một bước chuyển đổi quan trọng. Từ loại nhạc đầu tiên của mình, Ragtime, Jazz đã có thể nhảy múa theo, Jazz đã nhanh chóng là loại nhạc phổ thông nhất. Nhưng vào thời kỳ Swing, Jazz đã chuyển sang hoà tấu, và khi Bop một lần nữa là một thể loại Jazz mới, mọi khả năng nhảy múa đã bay hơi hoàn toàn. Đây không phải là sự phát triển thụt lùi của Jazz nếu xét trên quan điểm âm nhạc, nhưng thực tế rằng, Jazz càng ngày càng khó nhảy theo và Bop đã bóp chết khả năng này.
Sau thế chiến lần thứ II, Mỹ lại nổi lên như một cường quốc có tiềm lực kinh tế rất mạnh. Người dân Mỹ sau những sự tàn phá về kinh tế trong lần thứ nhất phố Wall sụp đổ (Great Depression) và sự hỗn loạn trong thế chiến thứ II sẵn dàng bỏ tiền của mình ra để được vui vẻ.
Sau năm 1950, xã hội Mỹ đã chia rõ thành 2 nhóm tuổi, những người trưởng thành và trẻ con. Nhưng vào đầu những năm 1950, một nhóm nhỏ đã bắt đầu hình thành ở Mỹ và một số nước phương Tây khác với từ “teenager”. Họ chưa trưởng thành nhưng không còn là trẻ con nữa, họ cần phải có tiếng nói và sự tôn trọng riêng cho mình. Thế hệ “baby-boom” (đa số sinh khoảng 1942-1964) đã bắt đầu gây ảnh hưởng lên nước Mỹ. Nước Mỹ thời đó khá giàu và thế hệ này không ít thì nhiều cũng đã bắt đầu làm những việc nhỏ và kiếm được không ít tiền.
Các công ty thu âm vào cuối thập kỷ 40 và đầu thập kỷ 50 ở Mỹ có 3 bảng xếp hạng : Pop, Rhythm & Blue , Country and Western. Bảng xếp hạng Pop là bảng xếp hạng có quyền lực kinh tế nhất vì các công ty thu âm lớn thâu tóm nó. Các công ty này có một mạng lưới phát hành lớn trên khắp nước Mỹ và trên toàn thế giới. Nhạc Pop thường bao gồm các ngôi sao lớn thận trọng và hát những bài hát mềm mại ( kể cả nhạc Jazz cũng chỉ là các bài hát mềm mại mà thôi). Lời thì thường chứa những cảm xúc(nói chung) của giới trung lưu da trắng, khá trong sạch và chẳng phê phán ai. Thời đó, Frank Sinatra, Bing Crosby, và Doris Day khá nổi tiếng với loại nhạc này.
R&B là loại nhạc khó nuốt hơn với những lời trần tục, pha chút nhục dục, với những ca từ như muốn người nghe có thể cảm nhận ngay những gì mà ca sỹ hát được dựa trên nền tảng giai điệu 12 nhịp của blue (cùng với nhiều thành tố khác của Jazz). Không giống như Pop, R&B có thể hát bất cứ những gì mà ca sỹ muốn nói, kể cả sex hay những công việc thường ngày. Phong cách này không phổ biến trên toàn đất Mỹ(giống như Pop) nhưng lại khá phổ biến ở các thành phố vùng phía nam. Các công ty thu âm ít khi động chạm đến loại nhạc này vì ca từ của nó cũng như việc phần lớn người da đen là nhạc công chính. Một số các công ty độc lập cũng phát hành R&B, nhưng các công ty này không thể có các đại lý rộng khắp trên cả nước như các công ty to, do vậy R&B cũng chỉ phát triển có giới hạn. Một số các nhạc sỹ nổi tiếng vào đầu những năm 50 là Joe Turner, Ray Charles, and Muddy Waters.
Một trong các nghệ sỹ R&B nổi tiếng nhất là Muddy Waters. Muddy có một ảnh hưởng sâu sắc tới tất cả các loại nhạc lúc đó. Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của ông, “Rollin’ Stone”, đã là tên của một ban nhạc Anh nổi tiếng, được Bob Dylan hát lại và là tên của một tạp chí âm nhạc nổi tiếng bây giờ.
Bản xếp hạng thứ ba, C&W, khác với dòng nhạc đồng quê bây giờ rất nhiều. C&W cũng giống như R&B được các công ty con lúc đó sản xuất và phát hành đĩa. C&W được gọi là “nhạc dân gian” lúc bây giờ (hill-billy)). Nó được những người da trắng tầng lớp thấp và trung bình nghe nhiều nhất ở miền Nam nước Mỹ. Nếu so sánh với nhạc đồng quê bây giờ, C&W khá thô kệch ,đơn giản. Không giống như R&B với chất Blues, C&W sử dụng các chất liệu dân ca miền Nam trong giai điệu và ca từ.
Một vài loại C&W lúc đó là Western Swing, hillbilly boogie, honky-tonk(mà sau này kết hợp với Blues tạo ra Rockability) và blue grass.
Những teenager người Mỹ bắt đầu tìm kiếm những dấu ấn riêng của mình và đơn giản là đã tìm được thứ âm nhạc dựa trên sự kết hợp của cả 3 loại nói trên. Vào thập kỷ 50, phần lớn những teenager da trắng trung lưu chưa chấp nhận được những ca từ gợi tình của R&B nhưng lại thích thú với âm nhạc của nó. Và để xoá nhoà ranh giới đó, các nhạc sỹ da trắng đã vay mượn âm thanh của R&B để kết hợp với những ca từ thuần khiết của Pop. Một số những ca sỹ da trắng cũng bắt đầu nổi danh với C&W, do vậy, ảnh hưởng của C&W lên dòng nhạc popular lúc đó cũng tăng lên. Dần dần các ca sỹ bắt đầu quen với sự kết hợp này và một dòng nhạc mới đã được khai sinh. Theo rất nhiều tài liệu lịch sử, 1955 là năm đánh dấu sự ra đời của một dòng nhạc phổ thông mới ở Mỹ mà được biết với tên Rock ‘n’ Roll.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:33:21 GMT -5
Chýõng 11 : Bill Haley và the Comets
Nãm 1954, Holywood ðã cho ra ðời bộ film mang tên Nãm The Blackboard Jungle. Bộ film này ngay lập tức ðã thức tỉnh ý thức nổi loạn của tầng lớp xã hội mới, teenager. Nhạc nền của bộ film là bài “Rock Around the Clock” do Bill Haaley và the Commets thực hiện. Ngọn lửa sục sôi của Rock ‘n’ Roll ðã bắt ðầu ðýợc nhóm lên.
Bill Haley là một ca sỹ hát nhạc C&W. “Rock Around the Clock” ðýợc kết hợp bởi ba thứ nhạc phổ thông nhất lúc bấy giờ(Pop, R&B, C&W). Giai ðiệu, cách hoà âm ðýợc lấy từ R&B, lời ðýợc sáng tác theo phong cách của Pop, nhýng cây ðàn guitar steel và tiếng trống lách cách(clicks) là của C&W chính hiệu .
Một thời gian ngắn sau khi “Rock Around the Clock” xuất hiện, Bill Haley ðã cho ra ðời “Dim,Dim the Light”. Bài hát này ngay lập tức ðứng ðầu bảng xếp hạng R&B(một ðiều chýa từng xảy ra với các ban nhạc của ngýời da trắng). Bill Haley cũng ðã “cover” lại bài “Shake, Rattle and Roll” theo phong cách R&B. (từ “cover” ðýợc hiểu là khi một ca sỹ hát lại một bài khác ðã từng ðýợc hát trýớc ðó của một ca sỹ khác).
Cho ðến nãm 1957, Bill Haley có y cõ không còn ðýợc yêu thích ở Mỹ nhýng lại tìm ðýợc những khán giải mới của mình ở Anh. Ông ðã có một tour lýu diễn rất thành công và còn trụ ðýợc ở phong ðộ cao thêm một vài nãm nữa.
Cho dù có rất nhiều ca sỹ biểu diễn thành công hõn Bill Haley, nhýng ông là ngýời ðầu tiên gõ vào cánh cửa âm nhạc ðể tiến ðến Rock, tạo ra một cõ hội cho các nghệ sỹ khác mở toang nó.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:33:59 GMT -5
Chýõng 12 : Elvis Aaron Presley
“Whoa, hãy nhìn ðây này, tôi không biết anh chàng ãn chõi nào ðã ở ðây, nhýng ðã có ai ðó mở cánh cửa này rồi”---Jerry Lee Lewis
Một vài nãm trýớc các nghệ sỹ da ðen có công lớn trong việc hỉnh thành Rock ‘n’ Roll, nhýng không may mắn bởi mầu da của mình, họ ðã không ðýợc ðể ý tới và không nhận ðýợc sự ðộng viên cũng nhý ghi nhận mà họ ðáng ðýợc hýởng. Các công ty thu âm muốn những tài nãng âm nhạc ngýời da trắng có ðủ uy tín ðể làm bật lên những âm thanh mới của Rock ‘n’ Roll. Và Elvis Aaron Presley xuất hiện.
Một vài ngýời nói rằng âm nhạc của Elvis mang chất “da ðen”, và nếu có thế thì các công ty thu âm ðã kêu gọi tùm lum mọi ngýời phản ðối âm nhạc của anh mất rồi. Không những Elvis có một giọng ca xuất sắc (mà một số các ca sỹ hát nhạc Rock không thể có ðýợc) mà anh còn nhảy rất cừ. Elvis nhảy tới nỗi mà nhiều ngýời có tuổi ghê sợ anh ta(nhýng họ kinh sợ bao nhiêu thì các teenager lại thích bấy nhiêu). Cùng với không khí sẽ ðýợc thýởng thức những “trái cấm”, lại thêm khi Elvis xuất hiện trên truyền hình trong chýõng trình The Ed Sullivan Show, anh chỉ ðýợc quay từ phần thắt lýng trở lên khiến cho các teenager lại càng khao khát muốn nhìn vậy phần dýới ðấy nhý thế nào nhỉ
Elvis ðã xuất hiện ðúng thời ðiểm và ðúng chỗ cần một ngýời nhý anh. Gặp ðýợc những ngýời quan trọng nhý Sam Phillips(Sun Records) và sau ðó là “Colonel” Tom Parker (ngýời sau này trở thành ông bầu của anh) ðã thúc ðẩy sự nghiệp của anh rất nhiều. Khi Tom Parker bắt ðầu nhận làm ông bầu cho Elvis, sự nghiệp của anh ðang xuống dốc trầm trọng. Ông ðã nảy sinh và thực hiện ý nghĩ làm cho Elvis xuất hiện mọi nõi, ký hợp ðồng thu âm mới với RCA, hợp ðồng ðóng film, và quan trọng là hát trên TV. Parker ðã là ngýời ðầu tiên nhận ra tầm quan trọng của một môi trýờng mới, TV.
Elvis bị gọi ði lính nãm 1958, và trýớc sự ngạc nhiên của mọi ngýời, anh ðã gia nhập quân ðội không chút lýỡng lự. Sau hai nãm anh ðã ðýợc giải ngũ trong vinh quang, và khi trở về, anh ðã nổi tiếng hõn ai hết. Elvis tiếp tục ðóng film và thu âm cho ðến nãm 1960, nãm anh giã từ Rock.
Trong suốt sự nghiệp của mình Elvis ðã có 45 ðĩa vàng, và quan trọng hõn, anh ðã mở cánh cửa tới Rock cho mọi ngýời, da trắng lẫn da ðen. Rock ‘n’ Roll ðã trở thành một câu chuyện lớn.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:34:34 GMT -5
Chýõng 13 : Những ca sỹ la hét…
Ngày nay, những ca sỹ hát Rock ðýợc thừa hýởng kỹ thuật hát từ những ca sỹ hay gào thét của Rock ‘n’ Roll thập kỷ 50, và họ thì lại thừa hýởng từ những ca sỹ hát nhạc Blues ở thập kỷ 30 và 40.
Khi vừa hát vừa gào thét (shout style), ca từ ðýợc hát theo một cách có nhịp ðiệu hõn so với lời hát thông thýờng. Kỹ thuật này ðýợc sử dụng rất nhiều trong nhạc cổ ðiển, một số phong cách Jazz và thậm chí là ở một số dạng dân ca Mỹ. Trong suốt thập kỷ 50, các loại nhạc phổ thông kiên trì theo phong cách tình cảm êm nhẹ của Frank Sinatra, nhýng shout style ðã thoả mãn ðýợc cái tai ðói âm thanh của các teenager. Hai ca sỹ tiêu biểu khởi ðầu cho shout style là Richard Penniman(a.k.a Little Richard) và Jerry Lee Lewis(a.k.a The Killer) ðã ảnh hýởng nhiều tới các ca sỹ sau này. Richard là ngýời da ðen còn Lewwis là ngýời da trắng, nhýng họ có một ðiểm chung, tiếng hét.
Richard và Lewwis là tiêu biểu cho những ngýời thuộc tầng lớp trung lýu nhýng ðầy những cảm xúc dồn nén. Elvis Preley là ca sỹ hát trữ tình, êm dịu, với phong cách của một quý ông ở miền Nam, nhýng Richard và Lewis thì rất hoang dại và khác hẳn với cái kiểu thông thýờng ai cũng thấy ở thập kỷ 50 này. Cả hai ðều ãn mặc khá giống nhau với zoot-suit(áo dài ðến ðầu gối, quần hẹp-ND), áo giả da và kim tuyến, tóc dài. Cả hai nhạc sỹ ðều rất giống nhau trong cách chõi piano, những ðoạn lặp dữ dội, những cú nhấn bất ngờ bên tay phải với phong cách chõi chẳng ai có, vừa ðứng vừa ðánh ðàn hay thậm chí là ngồi lên cả piano.
Richard quả thật là một cái máy gào thét; khi giọng ca của anh kết hợp với tiếng kèn saxophone nhún nhảy giục giã, âm nhạc của anh ðã tìm ðýợc ðến với những cảm xúc tột cùng mà những thính giả teenagers ðang tìm kiếm. Phần giai ðiệu của Richard ðýợc lấy chủ yếu từ chất liệu R&B, phần lời thì không có gì ðáng kể.
Jerry Lee Lewis và cả Little Richard ðều biểu diễn rất hoang dại trên sân khấu. Những phụ huynh ngýời da trắng lại càng không thể chấp nhận ðýợc anh ta vì một lý do ðõn giản anh ta là ngýời da trắng. Hát những bài hát với chủ ðề mở nói về nhục dục không chút ngại ngùng, cùng những nốt nhấn mạnh mẽ trên cây ðàn piano của mình, Lewwis ðã làm thoả lòng thế hệ teenager và làm kinh sợ bố mẹ họ. Vào lúc ðó, làm cho các vị phụ huynh nổi giận là mục tiêu luôn ðýợc các nghệ sỹ Rock mong muốn.
Một trong những nghệ sỹ khác cũng “la hét” chẳng kém ai mà nhiều ngýời coi là “cha ðẻ” của Rock ‘n’ Roll là Chuck Berry(guitar). Berry không chỉ là một nhà soạn nhạc ðiển hình(một trong những nghệ sỹ Rock vừa sáng tác vừa biểu diễn ðầu tiên), Berry còn là một cây guitar có kỹ thuật không thể chê ðýợc. Tiếng ðàn của ông ðã trở thành một cái gì ðó ðể vô số các nghệ sỹ Rock phải ngýỡng mộ và học tập theo.
Không giống nhý Richard và Lewis, nhạc của Berry dù sao vẫn còn làm các bậc phụ huynh tầng lớp trung lýu yên tâm ðôi chút. Những ca từ về cuộc sống của mình, nhý về các cô gái, về những chuyện tình lãng mạn hay cả những chiếc ô tô tràn ngập trong các bài hát của ông. Berry ðã phản ánh trung thực xã hội của các teen thời ðó.
Âm nhạc của Chuck Berry vào thập kỷ 50 rất ðặc biệt khác hẳn mọi ngýời. Ông sử dụng những nhịp “Rock” rõ nét nhý trong bài “Maybelline” hoà trong nhịp ðiệu “rolling” thực hiện bằng cách thay ðổi liên tiếp các hợp âm hầu hết sử dụng các nốt nhạc “blues”. Tác phẩm của ông cũng có thể ðýợc nhận ra với những ðoạn guitar mở ðầu than vãn, nhanh, âm vực cao và tổng thể khá ấn týợng với nhịp ðiệu nhanh nhý súng máy trong ca từ lýu loát.
Chuck Berry có ảnh hýởng lớn ðến thế hệ ðàn em sau này nhý Beachboys, the Beatles, the Rolling Stone, và ngay cả Bob Dylan. The Beatles ðã thu âm bài “Roll Over Beethoven” và “Rock and Roll Music". Ðĩa ðõn của the Rolling Stone là bài “Come on” của Berry và sau ðó Stone còn thu âm thêm một số các ca khúc khác của Berry. “Sweet Little Sixteen” của ông ðýợc Beachboy phối âm lại và thêm một số ca từ ðã trở thành một hit của Beachboy “Surfin’ USA”. Khi Bob Dylan ðýợc coi nhý một nghệ sỹ Hard Rock vào nãm 1965 với bài hát “Subterranean Homesick Blues”, ông ðã dựa trên hoà âm, khuôn mẫu và thậm chí là cả cảm xúc trong bài “Too Much Monkey Bussiness” của Chuck Berry.
Cũng cần phải nói ðến một nhạc công guitar, bạn ðồng nghiệp của Berry, Buddy Holly. Một vài nãm trýớc khi qua ðời trong một tai nạn máy bay vào nãm 1959, ông ðã góp phần xác ðịnh và làm rõ vai trò của ngýời biểu diễn/ngýời soạn nhạc Rock ‘n’ Roll. Là một nhạc sỹ C&W, tuy vậy Holly yêu thích những âm thanh của R&B và ông ðã kết hợp ðể tạo ra âm nhạc mới cho các teen. Giống nhý Berry, Holly cũng ðánh guitar rất tuyệt, âm nhạc của ông thýờng ðýợc viết trong sáng dễ hiểu. Ông là ngýời tiên phong trong việc thành lập ban nhạc gồm 2 guitar, bass và trống, ðồng thời cùng kỹ thuật thu âm có tên double-tracking.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:35:13 GMT -5
Chýõng 14 : Ngay cả thần týợng cũng là teen (1958-1962) Trong một vài nãm ðầu tiên của nhạc Rock, rất nhiều ngýời, ngay cả các công ty thu âm hàng ðầu ðều tin rằng thứ nhạc này cũng chỉ là một sở thích kỳ cục dở hõi nhất thời của ngýời Mỹ. Tuy vậy, một khi các công ty nhận thức rõ ðýợc lỗi lầm của mình, họ ðã cố gắng sửa lại nó bằng cách tham gia vào thị trýờng nhạc Rock. Một số những nhãn hiệu lớn ðã bắt ðầu tìm hiểu xem các teenager muốn gì và sản xuất ra những âm thanh phù hợp với ý thích ðó. Những sản phẩm này ðýợc gọi là “Teen Idol”. Vào nãm 1958, phần lớn các nghệ sỹ tiên phong của Rock không còn chõi nhạc Roock nữa. Elvis ðang ở trong quân ðội, Little Richard ðã trở thành một mục sý dòng Christian, Buddy Holly thì ðã chết trong một tai nạn máy bay thảm khốc, Chuck Berry thì ðang nghỉ mát trong nhà ðá, Jerry Lewis ðang bị phản ðối vì ði cýới cô cháu gái 13 tuổi của mình sau khi bỏ vợ. Các công ty thu âm thấy rằng tiền chỉ có thể ðến với họ khi các ngôi sao nhạc Rock thu âm, bây giờ thì chẳng còn ngôi sao nào cả, và họ ðành tự tạo ra các ngôi sao vậy. Thay vì việc tạo ra các nhạc sĩ thực thụ, các công ty này ði thuê các ca sỹ không chỉ vì giọng hát của họ mà chính là vì hình ảnh của họ mà các công ty này muốn thấy.(ND-Ðáng ngạc nhiên nhỉ, nhất là nhạc Rock). Tất cả các teen idol này còn rất trẻ và hầu nhý không có kinh nghiệm. Các thần týợng này có thể kể tới Paul Anka, Frankie Avalon, Fabian Forte, Bobby Rydell, và Neil Sedaka. Âm nhạc của họ khá trong lành và mang một hýõng vị lãng mạn thõ ngây-không có gì ngoài những cánh tay bên nhau với một nụ hôn nửa chừng. Những ngýời trýởng thành không thấy sự sợ hãi xuất hiện khi xem và nghe loại nhạc này, và khi mà những ngýời trýởng thành ýa thích và muốn con họ nghe loại nhạc này, họ ðã trả tiền ðể mua. Trong suốt kỷ nguyên của teen idol và một vài nãm trýớc ðó, rất nhiều các nhạc sỹ da trắng ðã “cover” lại các bản nhạc R&B của các nghệ sỹ da ðen. Các bản nhạc này thýờng chỉ dùng phần nhạc, phần lời ðã ðýợc viết lại ðể mang không khí “trong lành” hõn tới ngýời nghe. Một thần týợng của giới trẻ lúc ðó, Pat Boone, ngýời nổi tiếng với các bản cover ðã nói : “Chúng ta cần phải thừa nhận rằng, có ðến õn 90% các ðài phát thanh trên ðất nýớc chúng ta(ND-Mỹ) không bao giờ phát các bản R&B của Chuck Berry, Fat Dominos hay Little Richard. Thực tế, những nhạc sỹ này hy vọng và cầu Chúa ðể các bài hát của họ ðýợc cover lại, phát ði trên khắp mọi miền, cũng có nghĩa rằng âm nhạc của họ sẽ có nhiều ngýời nghe, nhiều ngýời thích hõn. Chúng tôi không phải là một lối thoát sống còn, nhýng ðã là một chất xúc tác quan trọng ðể ðẩy R&B phát triển lên Rock ‘n’ Roll. Tôi có một cảm xúc rất lớn mỗi khi nghe các bài hát của các nghệ sỹ R&B thực thụ. Tôi biết rằng tôi ðã hýởng lợi từ những bài hát của họ, tôi ðã thay ðổi một số ca từ trong những ca khúc của họ. Những sự thay ðổi này nhỏ, có thể không quan trọng ðối với họ nhýng lại quan trọng ðối với tôi. Ví dụ nhý trong bài “Tutti-Fruitti” của Little Richard (ND-Không biết có phải Queen hát lại bài này không nhỉ ) có một ðoạn “Boys, You don’t know what she’s doing to me.”, tôi ðã không hát thế mà sửa thành “Pretty little Suzie is the right girl for me”. Cũng vẫn hát ðýợc ðấy chứ, bọn trẻ cũng không ðể ý lắm, tôi nghĩ rằng chúng cũng chẳng nhớ ðâu…” Các công ty thu âm ðã tìm ðủ mọi cách ðể lãng xê ca sỹ của họ lên. Cac tạp chí của các fan ðýợc sử dụng cùng với các bộ film “B” của Hollywood. Các công ty này nghĩ là họ ðã biết Rock là cái gì, nhýng họ ðang huỷ diệt dần Rock. Phải ðến ðầu thập kỷ 60, Rock mới lại ðýợc trở lại là Rock.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:35:55 GMT -5
Chýõng 15 : Nhạc Twist
Trýớc thập kỷ 60, hầu nhý tất cả các ðiệu nhảy ðều ðýợc coi là nhảy theo kiểu “touch” vì những ngýời tham gia cần phải chạm tới ngýời khác trong quá trình nhảy. Với sự xuất hiện của một ðiệu nhảy mới vào nãm 1960, The Twist, cái nhìn về các ðiệu nhảy phổ thông ðã thay ðổi. Twist trở thành một ðiệu nhảy ðầu tiên của nhạc Rock trong ðó các ðôi nhảy không hề chạm vào nhau trong quá trình nhảy. Twist ngay lập tức ðýợc rất nhiều ngýời ðem ra mổ xẻ tranh luận và tự hỏi xem nó liệu là một ðiệu nhảy hay là một bài tập thể dục. Tất nhiên, các teenager thích ðiệu nhảy này còn mặc kệ ngýời lớn họ nghĩ gì.
Nghệ sỹ khởi ðầu của Twist là Chubby Checker. Chubby nổi tiếng với ðiệu nhảy này ðến nỗi dân chúng không cho phép ông ðýợc biểu diễn một thể loại nhạc nào khác nữa. Thật không may mắn cho Chubby, ðiều này ðã cản trở tính sáng tạo của ông khi ðến với các loại nhạc khác và ðã giới hạn sự nghiệp của ông rất nhiều.
Nhạc Twist khá ðõn giản, vẫn dùng nhịp 12 khuông của blues với ca từ theo kiểu shout style. Nhạc Twist có nhịp ðiệu khá mạnh và cũng chẳng quan tâm tới ca từ nhiều, nó chỉ ðể nhảy, nhảy và nhảy.
Chubby Checker ðã nói về sự phát triển của Twist nhý sau : “Vào nãm 1959, Kal Mann gọi cho tôi từ Cameo và nói,”Chúng tôi có một bản thu âm tên là “The Twist”, Tôi nói rằng “Ừ, tôi có biết Hank Ballard và the Midnighters ðã thu âm bài ðó.” Ngay lập tức Kal nói với tôi “Biết rồi, nhýng tôi nghĩ chúng ta có thể thêm chút nhảy nhót vào ðó.” Tôi ðã ðồng ý.
Hank Ballard là một thần týợng của tôi, một con ngýời rất nổi tiếng vào thập kỷ 50. Ông ðã thực hiện những bài hát mà tôi nghĩ chắc chẳng ai hát ðýợc nhý thế “Annie Had a Baby”, “Work with Me, Annie”. Radio không bao giờ phát những bản nhạc của ông, nhýng những bọn trẻ nhý tôi thì yêu các bài hát ðó.
Do vậy, tôi ðã không lýỡng lự và tới ngay Cameo-Parkway. Chúng tôi ðã thực hiện “The Twist” với 3 býớc nhảy. Vấn ðề là làm thế nào ðể chúng ta diễn tả ðýợc với công chúng nhỉ? Tôi cũng chẳng biết cuối cùng ai ðã nghĩ ra ðýợc nhýng có một cách ðõn giản thế này này :” Cứ týởng týợng anh dùng hai chân của mình ðể dập tắt một ðiếu xì gà, và sau ðó cùng với nhịp của bản nhạc, anh dùng phần dýới của mình ðể nghiền nát nó ra”. Cái công thức vãn vẻ nhỏ bé này ðã thay ðổi cả thế giới.
…Có lẽ, “The Twist” thực sự ðã phá hỏng cả ðời tôi. Tôi ðang trên ðýờng ðể trở thành một nghệ sỹ biểu diễn ở câu lạc bộ lớn, và nó ðã quét sạch mọi ham muốn của tôi. Không ai nghĩ rằng tôi là ngýời có tài…”
Dựa trên nền tảng của Twist, một số các ðiệu nhảy khác ðã ðýợc ra ðời với cùng một công thức “couple-apart”. The Jerk, the Watusi, the Fly, the Pony bắt ðầu ðýợc công chúng yêu thích. Bên cạnh sự phát triển của các thể loại âm nhạc phổ thông, The Twist ðã xuất hiện bên cạnh sự phát triển của nhạc Rock nhý một thể loại có thể dễ dàng nhảy theo và ðã trở thành truyền thống của ngýời Mỹ.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:38:53 GMT -5
Chýõng 16 : Những âm thanh ðến từ phía Nam California (ðầu thập kỷ 60)
Rất nhiều ngýời vào ðầu thập kỷ 60, ðặc biệt các teenager, coi phía Nam California nhý một vùng ðất của âm nhạc. California có một cuộc sống týõi ðẹp ðầy quyến rũ của Hollywood, sự thảnh thõi và vui vẻ nhý Disneyland, thậm chí nhý là cõi niết bàn của các teenager với cuộc sống luôn mang không khí hội hè. Có lẽ ðối với rất nhiều ngýời Mỹ, vùng phía Nam của California thể hiện một cuộc sống hoàn mỹ và một thể loại Rock mới nhý ðã ðýợc vẽ nên bởi tất cả sự quyến rũ ở ðây.
Vào ðầu thế kỷ, vùng phía Nam California là một vùng nông nghiệp hoang vắng, nhýng vào thập kỷ 50 và 60, mọi thứ ðã phát triển với một tốc ðộ chóng mặt với dân cý ðến từ rất nhiều vùng khác nhau của nýớc Mỹ. Nếp sống thoải mái (laid-back) bắt ðầu hình thành và hoà trộn với không khí chính trị của phe Bảo thủ.
Khi tuyết bắt ðầu rõi ở vùng trung-Tây nýớc Mỹ, mọi ngýời lại mõ tới ánh nắng ngập tràn của những bãi biển vùng California, những cuộc vui dýờng nhý bất tận với những âm thanh của vùng biển phía Nam hay còn ðýợc gọi là Surf music. Surf music là một thứ âm nhạc ðõn giản của những ngýời bảo thủ. Ca từ phản ánh trung thực không khí hội hè thý giãn, thýờng nói về những chủ ðề nhý những cuộc tình, những cô gái ðẹp, ô tô, ánh nắng, bãi biển và tuyệt ðối không một bài hát nào muốn khuấy ðộng cái không khí thần tiên ở ðây. Phần nhạc nền thýờng chứa những hoà âm ðõn giản cùng giai ðiệu mà mọi ngýời có thể nhảy theo ngay lập tức. Xen lẫn với giọng hát là những hợp âm khá dầy cũng với ðoạn counter melody với giọng nam cao. Khi kiểu nhạc này ðýợc hình thành, ngay lập tức có hàng trãm bài hát cùng kiểu ðýợc sáng tác và trên tất cả là nhóm The Beachboys. The Beachboys ðýợc thành lập bởi Brian Wilson vào nãm 1961 và ðã ngay lập tức cuốn mọi ngýời dân nýớc Mỹ vào cùng một cảm xúc của ban nhạc. Các thành viên của ban nhạc này bao gồm anh em nhà Wilson(tất cả họ ðều chỉ ở tuổi teenager) Brian,Dennis, Carl, anh họ Mike Love và bạn của họ,Alan Jardine. Ðầu tiên ban nhạc ðýợc mang tên Pendletones(trýớc khi họ mặc một loại áo kẻ sọc vuông thýa dùng ðể lýớt sóng mà sau này ðã thành ðồng phục của họ), sau ðó là Carl and the Passion và cuối cùng là the BeachBoys. Âm nhạc của The Beachboys cũng ðã ðýợc quảng cáo và lãng xê rất nhiều trên TV nhý Elvis Presley vào những nãm 1950. Khi nghe The BeachBoys, ngýời ta có thể cảm nhận một thứ âm nhạc dịu dàng, chất giọng ðằm, ca từ ðõn giản dễ nhớ, phần nhạc ðệm khiêm tốn lẩn mình, và tất cả hoà với nhau ðể tạo ra một khúc ca hoàn mỹ nhý cái không khí ở ðây. Rất nhiều hit của The Beachboys ban ðầu ðýợc sáng tác bởi tài nãng trẻ Brian Wilson. Cho dù có một số nhà phê bình chỉ trích âm nhạc của họ, The BeachBoys ðã và ðang ðýợc rất nhiều ngýời dân Mỹ coi là thứ âm nhạc phản ánh sự yên bình.
Vào khoảng giữa những nãm 60, The Beachboys ðã bắt ðầu thay ðổi phong cách của họ do có những ảnh hýởng của The Beatles và các ca sỹ hát nhạc folk nhý Bob Dylan. Vào nãm 1967, họ cho ra ðời album Pet Sounds ðã chứa ðựng rất nhiều những nét nhạc và kỹ thuật výợt trội so với các thu âm trýớc ðó. Một vài nhóm nhạc Surf khác có thể kể ðến nhý The Hondas và The Sufaries. Surf music ðã trở thành một loại nhạc ðýợc mọi ngýời ýa thích. Chúng ta biết rằng, ðôi khi những bản nhạc, những loại nhạc hay nhýng không ðem lại một dấu ấn xã hội, nhýng một thể loại nghệ thuật khiến cho mọi ngýời ðều ngýỡng mộ sẽ ðýợc ghi vào lịch sử nghệ thuật. Surf music ðã làm ðýợc ðiều ðó.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:39:37 GMT -5
Chýõng 17 : Folk-Rock(1960-1965)
Vào thời kỳ ðầu tiên của mình, Rock sinh ra chỉ với một mục ðích duy nhất là ðể các thính giả teenager giải trí. Khi Rock bắt ðầu trýởng thành và bắt ðầu trở thành một cái gì ðó của nghệ thuật, Rock ðôi khi trở nên ðứng ðắn hõn và ðýợc cả xã hội ðể ý. Một thành phần quan trọng nổi bật trong lúc ðó phải kể tới là Folk-Rock.
Thông thýờng Folk-Rock chỉ nhý là một tác phẩm nghệ thuật giản ðõn cho hầu hết mọi ngýời; nhạc folk phản ánh quan ðiểm nhìn nhận xã hội, vãn hoá và lối sống của một vùng hay một nhóm ngýời. Chúng ta có thể thấy phần nhạc của folk-rock ðýợc kìm nén ðể sự quan trọng ðặt lên phần ca từ, ca từ thýờng ðýợc ðặt theo phần nhạc và lặp lại giống nhý những khổ thõ tứ tuyệt(stanzas). Thập kỷ 60 có thể coi là một býớc ngoặt của xã hội Mỹ với những cuộc trở mình ðầy biến ðộng nhý cuộc chiến tranh ở Việt Nam, vấn ðề môi trýờng, quyền công dân,tự do tình dục … và rất nhiều những vấn ðề khác. Trýớc folk-rock, ca từ trong nhạc Rock không ðýợc coi trọng, âm nhạc và tiếng ðập từ trống mới là cái ðể nói tới. Tuy vậy, trong thời ðại của folk-rock, ca từ ðôi khi lại quan trọng hõn cả phần nhạc. Những nhạc sỹ viết folk-rock ðôi khi ðýợc coi nhý những nhà thõ gây nên sự chú ý của xã hội bằng những bài hát của mình.
Có rất nhiều các ca sỹ và nhóm nhạc quan trọng cần nhắc tới trong thập kỷ này. Một vài ngýời nhý Peter, Paul, Mary tạo ra cho folk-rock một chuẩn mực với môi trýờng trình diễn chuyên nghiệp trong khi ðó một số nhý Bob Dylan ðýợc biết tới với sức mạnh của ca từ và âm nhạc của mình. Bob Dylan ðã tiếp nối những khúc ca của các nghệ sỹ lang thang dùng ca từ của mình nhý một phýõng tiện truyền tải những thông ðiệp tới ngýời nghe. Cách mà ông hát làm cho mọi ngýời có cố tình không hiểu cũng hiểu ðýợc những gì ông muốn nói khiến rất nhiều nhạc sỹ và thính giả coi ông nhý một ngýời hát rong tiên tri về mọi ðiều trong cuộc sống này.
Phong cách của folk-rock ðã ảnh hýởng mạnh ðến toàn thể giới học sinh sinh viên của Mỹ. Hình ảnh anh chàng sinh viên với cây ðàn guitar thùng sau lýng lúc này ðã phổ biến trong khắp các trýờng trung học và ðại học.
Một vài các nghệ sỹ quan trọng khác cũng nên nhắc tới là Peter Seeger, The Kingston Trio, Joan Baez. các nghệ sỹ này và nhiều nghệ sỹ cùng thời ðã in ðậm dấu ấn của mình lên sự phát triển trong Rock. Ca từ ðã trở thành một phần ðáng kể trong bài hát. Sau thời kỳ này, ðã xuất hiện một dạng con của folk-rock ðýợc biết tới với cái tên Electric Folk-Rock. Nói chúng về mọi thứ, âm nhạc, ca từ, cách phối âm ðều giống với folk-rock, tuy vậy chỉ có một ðiều khác là sử dụng nhạc cụ ðiện tử. Bộ khuyếch ðại công suất (amplification) ðã trở nên quan trọng với tất cả các ban nhạc Rock. Thời kỳ này có một số ca sỹ/nhóm nổi lên nhý Simon and Garfunkel, the Byrds, the Mamas and Papas, và the Lovin' Sthingyful.
Nhóm The Byrd ðã mang tới cho thính giả thực chất là hầu hết các version của các ban nhạc folk-rock nhýng ðýợc thể hiện bằng nhạc cụ ðiện tử. “Mr.Tambourine Man” là một bài hát của Dylan ðã trở thành hit của The Byrd.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:41:23 GMT -5
Chýõng 18 : The Beatles
The Beatles,một sản phẩm của âm nhạc trong thập kỷ 60, có lẽ ðã là nhóm nhạc Rock quan trọng nhất trong mọi thời ðại. Âm nhạc của họ phát triển qua ba thời kỳ khi mà xã hội lúc ðó luôn ðặt họ ở vị trí ðứng ðầu. Không chỉ bởi âm nhạc, sự ðột phá, quan ðiểm rất quan trọng về nhạc Rock mà lối sống của họ cũng ðã ảnh hýởng ðến rất nhiều ngýời. Sự quan trọng của nhạc Rock, xét trên khía cạnh âm nhạc lẫn xã hội ðã ðýợc phát triển trong xã hội ðầy biến ðộng suốt thập kỷ 60, và The Beatles ðã ðýợc coi nhý ngýời cýỡi những con sóng biến ðộng ðể mang ðến cho mọi ngýời niềm say mê bất tận của nhạc Rock. Bắt ðầu sự nghiệp với tý cách là những ngýời ở tầng lớp lao ðộng trung bình thấp ở thành phố Liverpool, Anh(), The Beatles ðã dần dần trở thành một tiêu ðiểm của cả thế giới. Song song với sự phát triển mạnh mẽ của nhạc Pop ở Anh, nhạc skiffle(ND-nhạc dân gian, phối hợp giữa Jazz và nhạc dân gian, thýờng sử dụng các nhạc cụ tuỳ hứng và một ca sỹ chõi guitar hay banjo), giới trẻ ở Anh cũng rất thích các loại nhạc phổ thông ở Mỹ. Các nghệ sỹ Mỹ nhý Bill Haley hay Little Richard ðã thu hút một số lýợng lớn ðám ðông cuồng nhiệt trong các chuyến lýu diễn của mình ở Anh. The Beatles, sống ở một thành phố cảng nhỏ, nhý mọi ngýời khác cũng ðã ðýợc nghe nhiều những bản thu âm của các nghệ sỹ Mỹ nhý Buddy Holly, Gene Vincent, Elvis Presley, và Jerry Lee Lewis. Những teenager ở Anh bắt ðầu cảm thấy không bằng lòng bởi sự thua kém của họ khi so sánh với các nghệ sỹ ở Mỹ.
John Lennon lúc ðầu thành lập một ban nhạc có tên là QuarryMen, sau khi qua rất nhiều lần thay ðổi tên gọi và nhân sự(cùng việc thêm những ngýời mới nhý Paul McCartney, George Harrison và Pete Best), The Beatles ðã ra ðời. Trong những ngày ðầu tiên của mình, The Beatles thýờng biểu diễn ở khắp mọi nõi giữa Ðức và Liverpool ðể trau dồi vốn liếng âm nhạc và kinh nghiệm biểu diễn của mình. The Beatles thýờng biểu diễn ở câu lạc bộ Indra ở Hamburg, Ðức và không khí vây quanh câu lạc bộ cùng ban nhạc chỉ thýờng là không khí của một quán bar. Paul nói :
“Câu lạc bộ là nõi mà khách du lịch thýờng ghé qua. Khi mà họ dừng chân ở cửa, bạn cũng biết rằng ðiều ðầu tiên họ quan tâm tới là giá bia, xem có rẻ không thì họ mới vào uống và nghe chúng tôi hát. Khi chúng tôi thấy họ ở cửa, chúng tôi thýờng cố gắng hát sao cho ðạt ðể hấp dẫn họ. Vai trò của chúng tôi lúc ðó là làm mọi ngýời mua thật nhiều bia.“
Vào nãm 1961, với việc mời Brian Epstein làm nhà quản lý, George Martin làm nhà sản xuất, cộng với việc Ringo Starr(Richard Starkey) thay thế Pete Best ðể ðảm nhiệm bộ gõ, The Beatles ðã bắt ðầu býớc vào kỷ nguyên của mình.
The Beatles yêu thích nhạc Rock ‘n’ Roll của Mỹ và thời kỳ ðầu tiên của họ(1960-1964) và ðã kết hợp chất liệu ðó với những sáng tác riêng của mình. George Martin nói “Chúng tôi ðã tái nhập khẩu lại âm nhạc của Mỹ vào Mỹ. Rất nhiều những gì mà John và Paul ðã làm ðýợc ðýợc sao chép nhiều từ những gì họ ðýợc nghe. Cách mà Paul hát giọng cao cùng với cách họ lắc ðầu khi hát chẳng khác gì Little Richard. Nếu nhý George Harrison có thể ðánh ðýợc một ðoạn riff của Chuck Berry thành thạo, anh ấy sẽ rất tự hào và ðánh ði ðánh lại khiến chúng tôi phát ngán ra.”
Khi The Beatles(ND-cho phép ðýợc gọi là Beat) ðã bắt ðầu ðýợc biết tới nhiều hõn ở Anh, họ ðã bắt ðầu kết hợp thêm những thành tố cõ bản của âm nhạc phổ thông ðýõng thời. Những nét tiêu biểu ðõn giản ban ðầu ðýợc kết hợp thêm với những dòng bass ðõn giản, một vài mẫu nhịp ðiệu, những ca từ ðõn giản và trong sáng, trữ tình giống nhý Rock ‘n’ Roll ở Mỹ vào những nãm 1950. Có thể nói là Beat lúc này có phong cách hoàn toàn giống với nhạc thập kỷ 50, nhýng chõi chuyên nghiệp và mang phong cách riêng hõn hẳn.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:42:08 GMT -5
Ngay cả khi Beat ðã trở thành nỗi ám ảnh khó dứt của ngýời Anh vào nãm 1963, họ vẫn hầu nhý không ðýợc biết tới ở Mỹ. Nhýng vào nãm 1964, họ ðã bắt ðầu ðổ bộ lên Mỹ với những âm thanh mới mẻ, chất hài hýớc trên tất cả các phýõng tiện truyền thông lúc ðó. Trong 6 tháng nửa ðầu nãm 1964, Beat ðã chiếm trên 60% thị phần của các ðĩa ðõn 45s cũng với 6 single ðứng trong Top 10 của Mỹ; ðó là một hiện týợng phi thýờng mà có lẽ khó lặp lại ðýợc. Paul nói rằng “Có lẽ lời nói giả dối nhất của chúng tôi khi nói với ông bầu, Brian Epstein, là chúng tôi không muốn sang Mỹ cho tới khi chúng tôi ðứng ðầu thế giới.” Paul ðã nói ðúng và vào nãm 1964,nýớc Mỹ và cả thế giới ðã sôi lên trýớc một cõn sóng Rock chýa từng có. Thời kỳ ðầu của Beat có thể ðánh dấu bằng các hit nhý “Love Me Do”, “Please, Please Me” và “She Loves You”.
Vào cuối nãm 1964, Beat ðã ðặt chân vào thời kỳ thứ hai của mình, thời kỳ thử nghiệm(1965-1966). Trong thời kỳ này, nhạc folk-rock ðã ảnh hýởng rất mạnh mẽ tới Beat. Âm nhạc của họ ðýợc dần dần thêm vào phần nhạc ðệm phức tạp hõn, thêm nhiều các nhạc cụ và kỹ thuật ðiện tử hõn;giảm bộ gõ ði và gần với nhạc folk hõn, những ca từ nhý những bài thõ song song với ngữ nghĩa ẩn dấu, cùng với nhiều thử nghiệm khác về hoà âm, phối âm. Beat bắt ðầu thử nghiệm với các dòng nhạc không thuộc Rock, ðặc biệt âm nhạc Ðông Ấn, dàn nhạc giao hýởng, nhạc cụ của jazz, ðồng thời là giai ðoạn kết hợp chặt chẽ các nhạc cụ ðiện tử với nhau ðể thành một thể thống nhất. Thời kỳ này là thời kỳ hoạt ðộng cả cho âm nhạc lẫn xã hội, Beat nhanh chóng trở thành một ngýời phát ngôn cho cả một thế hệ.
George Martin ðôi khi ðýợc coi nhý thành viên thứ 5 của Beat bởi những ðóng góp âm nhạc rộng rãi và quan trọng của ông trong sự nghiệp phát triển âm nhạc của Beat. Là một nhạc công ðýợc ðào tạo về âm nhạc cổ ðiển chính quy, Martin hiểu ðýợc hầu hết các khái niệm âm nhạc trong khi Beat chỉ có một số hiểu biết cõ bản ít ỏi về âm nhạc . Beat giờ ðây ðã có một ngýời ðýa lối dẫn ðýờng ðể có thể tìm hiểu sâu hõn về kho tàng âm nhạc. Martin ðặc biệt quan trọng trong thời kỳ thứ hai này, lúc mà Beat ðang thử nghiệm những nét nhạc mới. George Martin ðã nói về sự cộng tác giữa ông và Beat nhý sau :
“Tôi lúc ðó có trách nhiệm dậy cho họ hầu hết những gì họ cần biết. Họ mang tới chỗ tôi một bài hát còn thô và tôi sửa cho họ . Tôi sửa cho họ cấu trúc của bài hát “hai hợp âm ở ðây, hợp âm thứ hai cần một ðoạn guitar solo. Chúng ta cũng cần có một ðoạn Intro và ending chứ”.
…Tất nhiên, những bài hát sẽ trở nên thú vị hõn, phức tạp hõn và ðòi hỏi nhiều thời gian ở studio hõn.“
Thời kỳ thứ hai của Beat có thể ðýợc ðánh dấu bởi các hit nhý “A Hard Days Night”, “Eleanor Rigby” và “Yesterday”. Paul nói về Yesterday nhý sau : “Khi tôi viết Yesterday, tôi ðã nhắm tới những ngýời hiểu biết âm nhạc hõn là những teenager cuồng nhiệt…Chúng tôi ðã thuyết phục ðýợc bọn trẻ, và giờ ðây chúng tôi cần thuyết phục cả bố mẹ của bọn trẻ nữa …” Thời kỳ thứ ba và cuối cùng , thời kỳ trýởng thành (1967-1970) , bao gồm những kỹ thuật cao hõn về âm nhạc, Beat ðã có những kỹ thuật và xúc cảm của một giàn giao hýởng. Với việc cho ra ðời kiệt tác của mình vào nãm 1967, Sgt. Pepper, Beat ðã ðánh dấu ðýợc mình bằng cả một album “khái niệm” chứ không còn là một album ðõn thuần nữa. “Concept” album chứa trong nó một suy nghĩ về âm nhạc hoặc một mục ðích ðýợc chia thành nhiều bài hát hoặc phần (giống nhý một symphony). Cả thế giới ðã choáng váng bõi những gì mà âm nhạc mang tới trong Sgt.Pepper. Trýớc ðó không lâu, Rock chỉ là một thứ âm nhạc vui vẻ mang lại cho ngýời ta vài ðiệu nhảy, nhýng bây giờ, nhờ có Beat, Rock ðã có giá trị nghệ thuật xứng ðáng và tiếp tục phát triển thành một trào lýu nghệ thuật.
Thời kỳ này ðýợc ðánh dấu bằng những bài hát nhý “Hey Jude”, “Let It Be” và “The Long and Winding Road”.
|
|
|
Post by xitrum on Jun 30, 2004 22:43:15 GMT -5
Sgt.Pepper
Chýa từng có trong lịch sử nhạc Rock lại có một album gây nên một ấn týợng và sự ðột biến nhý Sgt.Pepper. Ðýợc tung ra thị trýờng vào ngày 1 tháng 6 nãm 1967 ở Anh và ngày 2 tháng 6 nãm 1967 ở Mỹ, album này ðã tiêu tốn mất hõn 700 giờ trong phòng thu của Beat(album ðầu tiên chỉ mất có 12h ðồng hồ và tốn bằng một phần 20 tổng chi phí). Sgt.Pepper ðã bán ðýợc 2.5 triệu bản trong vòng 3 tháng và ðứng trong bảng xếp hạng 113 tuần. Cho ðến cuối nãm 1967, Sgt.Pepper ðã bán ðýợc trên 15 triệu bản. Có lẽ bởi vì Sgt.Pepper ðã chứng mình ðýợc Rock thực sự là một phần không thể chối cãi tạo nên nghệ thuật ngày nay.
Trýớc Sgt.Pepper, ðĩa LP(long-playing) chỉ nhý một tập hợp các single nhýng với một concept album, ðĩa LP ðã ðýợc coi nhý nhiều phần của một câu chuyện, giống nhý các bản symphony. Sgt.Pepper ðã trộn lẫn ðýợc các bản nhạc với nhau tuyệt vời ðến nỗi ðôi khi ngýời nghe không còn cảm thấy chỗ nối của các bản nhạc ðó.
Trong vài tuần ðầu tiên ở phòng thu âm, Beat thu "When I'm Sixty-four," "Strawberry Fields Forever," và "Penny Lane." George Martin nói “Tôi thật sự cảm thấy bị choáng váng với "Strawberry Fields Forever," và "Penny Lane,” tôi biết rằng Beat ðã bắt ðầu thổi một cõn bão mới vào nhạc Rock. Họ ðã lột xác và trýởng thành lên rất nhiều “ Vào giữa tháng 1 nãm 1967, EMI bắt ðầu than phiền vi mãi không thấy Beat ra ðĩa ðõn và Beat ðã ðýa cho họ "Strawberry Fields " và "Penny Lane." Ðến cuối tháng 3, Beat ðã ðýa tiếp "When I'm Sixty-Four" , "Meter Rita," "A Day in the Life," "Good Morning, Good Morning, Good Morning," "She's Leaving Home," và "Sgt. Pepper's Blues." Alan Livingston, nhà quản lý của Capitol Records ðýợc mời tới studio Abbey Road ðể nghe thử lần cuối. Khi nghe lại “A Day in the Life”, Alan ðã thốt lên ” Cái quái gì ðây cõ chứ ? Tôi không thể nào tin nổi. Ðôi chân tôi dýờng nhý ðã rời khỏi sàn nhà mất rồi”.
Phép màu của những rãnh ðĩa ðã xảy ra dýới một phòng thu ðõn sõ so với kỹ thuật ngày nay. Ở ðó không có một dụng cụ ðiện tử nào nhý ngày nay từ máy tạo nhịp (sampling machines) ðến âm thanh tổng hợp. Những bài hát ðã ðýợc thu với kỹ thuật týõng ðýõng với kỹ thuật thu thanh tại gia ngày nay. George Martin nhớ lại lúc thu âm “ Chúng tôi ðã cố gắng sáng tạo trên những ðồ nghề của mình cứ nhý ðang ở thời ðồ ðá vậy. ” Một ví dụ của việc ngẫu hứng là trong “Love Rita”, ðể có thể ðạt ðýợc những tiếng piano run rẩy mà về sau ðã ðýợc công nhận là những âm thanh ảo giác, Martin ðã gắn một ít keo vào trục quay bãng ðể tạo ra tiếng ðộng méo mó của bãng, sau ðó mix lại với tiếng piano thật ðể tạo ra hiệu ứng mới. Một ví dụ khác minh chứng cho tính sáng tạo của Beat là trong bài “A Day in the Life”. Thực ra bài này có thể ðýợc coi nhý bao gồm hai bài, một của Lennon, và ðoạn giữa là của McCartney. Theo nhý Martin nói “ Ý của Paul muốn có cả một dàn giao hýởng chõi phần mở ðầu. Anh ta tự nhiên có vẻ khờ khạo bởi vì anh ta nói rằng hãy bảo dàn nhạc ðến ðây và chúng ta sẽ bảo họ chõi tuỳ ý. Tôi phản ðối Paul vì bảo 90 ngýời chõi tuỳ ý thì quả thật là hỗn loạn. Tuy vậy tôi ðã nghĩ ra một cái gì ðó thật mới mẻ và hay ho. Thực tế, khi bài hát ra khỏi ðoạn ðiệp khúc với tiếng piano ðan xen tắt dần, rồi giọng John lại cất lên “I said the new today oh boy…” , tôi ðã lạnh cả xýõng sống.” Phần kết của bài hát, cả 4 thành viên và Martin ngồi tại 3 chiếc ðàn piano khác nhau và cùng ðánh một hợp âm cuối. Sau khi tất cả phần âm nhạc ðã ðýợc hoàn thành, bây giờ ðến phần làm bìa ðĩa. Beat mặc ðồng phục nhý họ vừa từ một buổi hoà nhạc ði ra, ðằng sau là cả một ðám ðông. Có một vài danh sách ðám ðông ðứng ðằng sau ðã ðýợc dựng lên, trong ðó có danh sách dài ngoằng từ John và Paul;danh sách của George thì chỉ toàn chứa những bậc phụ lão trong cộng ðồng ngýời Hindu(guru); danh sách của Ringo chỉ có một câu "Whatever the other chaps say is fine."
|
|