|
Post by xitrum on Apr 8, 2004 5:17:43 GMT -5
LỊCH SỬ ROCK&JAZZ Phần 1: Những gì ðã tạo nên âm nhạc Âm nhạc bao gồm những thành phần cõ bản có thể thấy ðýợc thông qua lịch sử của mọi nền vãn hoá nhý : * Âm sắc (phẩm chất ðặc trýng về âm thanh của một giọng hát, nói hoặc một nhạc cụ) * Ðộ cao (pitch) * Ðộ ồn * Duration * Nốt lặng(Silence) Với nãm thành phần cõ bản này chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều các thành phần phụ nữa có thể tồn tại trong các loại nhạc này nhýng không tồn tại trong các loại nhạc khác. Trải qua nhiều thế kỷ, những suy nghĩ hay học thuyết về âm nhạc ðýợc phát triển rất khác nhau ðối với mỗi nền vãn hoá khác nhau. Ngày nay, lịch sử âm nhạc hoặc nền vãn hoá có thể ðịnh nghĩa chung bao gồm âm nhạc phýõng Tây, âm nhạc phýõng Ðông, và âm nhạc sõ khai. Trong các loại nhạc chung này, nền vãn hoá âm nhạc lại ðýợc chia ra thành rất nhiều nhánh khác. Ví dụ, ðối với âm nhạc phýõng Tây, chúng ta có thể bao gồm cả âm nhạc Tây Âu và Mỹ, trong khi ðó ðối với âm nhạc phýõng Ðông, chúng ta có rất nhiều vùng Tây Á, Ðông Á… Âm nhạc sõ khai có thể bao gồm âm nhạc châu Phi và thổ dân châu Úc. Âm thanh của âm nhạc ðýợc tạo ra bởi sự rung ðộng của một hay nhiều vật thể, ví dụ nhý cái dây, ống sậy, hay mặt trống. Tiếng rung ðộng của môi hay những rung ðộng của loa radio cũng ðýợc xếp là những âm thanh của âm nhạc. Trong một cây ðàn guitar, dây ðàn guitar sẽ rung khi có một tác ðộng vào nó nhý kéo-thả, trong khi ðó âm thanh của cây kèn trumpet ðýợc tạo ra bởi các rung ðộng ở môi của nghệ sĩ. Một rung ðộng nói chung ðýợc phân biệt bởi biên ðộ và tần số của nó. Tần số càng cao thì ðộ cao hoặc âm thanh sẽ càng cao. Âm thanh càng ầm ỹ thì biên ðộ của chúng càng lớn. Ðộ cao (pitch) ðýợc ðịnh nghĩa nhý là ðộ cao thấp của âm thanh. Nếu một âm thanh ðýợc phát ra khi chúng ta ấn một trong các phím ở bên trái cùng của ðàn piano sẽ rất trầm(khoảng 30 cps) trong khi ðó ngýợc lại sẽ rất cao (khoảng 4000cps) khi chúng ta ấn vào các phím ở phía bên phải cùng. Ngày nay, chúng ta có thể nghe rất nhiều ðộ cao khác nhau, từ những âm rất trầm nhý của tuba, bass dây, bass ðiện tử… ðến các âm rất cao nhý của piccolo(sáo kim, có âm cao hõn sáo thýờng một quãng tám), violin, guitar ðiện tử…Ðộ cao ðýợc phân chia thành hai thành phần chính là giai ðiệu và cách hoà âm. Hai thành phần này rất quan trọng ngay cả khi chúng không ðýợc sử dụng hết trong các dòng âm nhạc. Giai ðiệu có thể xuất hiện một mình, kết hợp cùng với các giai ðiệu khác(ðối âm/phức ðiệu) hay kết hợp với hoà âm. Giai ðiệu có thể chứa những ðoạn lýớt, ðoạn cách quãng, hay nói chung ðõn giản là các nốt nhạc kế tiếp nhau. Một giai ðiệu là sự kết hợp sinh ðộng giữa âm thanh và cảm xúc. Một số giai ðiệu có thể rất gai góc, ồn ào nhýng một số khác có thể rất bình dị, êm ả. Hầu hết các giai ðiệu phổ biến ðều ðõn giản và dễ hát, trong khi một số giai ðiệu mang tính nghệ thuật hõn lại khá phức tạp. (Tất nhiên, nói chung thì mỗi ngýời ðều cảm nhận một cách khác nhau, “ðõn giản” và “phức tạp” chỉ mang tính týõng ðối). Một ðịnh nghĩa ðõn giản về hoà âm là “âm thanh của hai hay nhiều nốt ở cùng một thời ðiểm”. Khái niệm hợp âm và vòng hoà âm là những khía cạnh quan trọng cần nhắc ðến khi nói tới hoà âm.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 8, 2004 5:20:25 GMT -5
Một hợp âm là âm thanh của 3 hay nhiều nốt nhạc ở cùng một thời ðiểm. Các hợp âm cõ bản thýờng bao gồm 3 nốt(ðýợc gọi là triad), 4 nốt(hợp âm 7), 5 nốt(hợp âm 9), 6 nốt(hợp âm 11), và 7 nốt(hợp âm 13). Thông thýờng các hoà âm ðõn giản(thýờng bao gồm các loại nhạc phổ thông nhý rock, country hay folk), chứa các hợp âm 3, trong khi một số hoà âm phức tạp hõn ( nhạc cổ ðiển và jazz) sử dụng tất cả các loại hợp âm kể trên. Một ví dụ về các bài hát sử dụng hợp âm ðõn giản là bài “Maybelline” của Chuck Berry trong khi ðó có thể có một ví dụ phức tạp hõn khi xem xét bài “Orinthology” của Charlie Parrker. Cần phải ghi nhớ lại một lần nữa là không có một ðịnh nghĩa tuyệt ðối về sự ðõn giản hay phức tạp của âm nhạc. Một số các bài nhạc ðõn giản không bao giờ khiến ngýời ta muốn rời bỏ chúng trong khi ðó một số các bài phức tạp khiến ngýời ta chỉ muốn vứt chúng ði ngay lập tức.
Hợp âm có thể ðýợc phân chia thành hai loại là hợp âm trýởng và hợp âm thứ. Một số nhà soạn nhạc ðõn giản coi hợp âm trýởng ðại diện cho những nét nhạc týõi sáng, vui vẻ trong khi hợp âm thứ dành cho những nét nhạc u ám, ảm ðạm và tối tãm hõn. Hoà âm của dòng nhạc phýõng Tây ðýợc thừa hýởng chủ yếu dựa trên hai loại hợp âm này và hệ thống hoà âm của họ ðýợc coi là hệ thống khoá trýởng-thứ(Major-Minor tonality - hệ thống này ðã ðýợc phát triển khá ðầy ðủ rất sớm từ những nãm ðầu thế kỷ XVIII). Hợp âm có thể ðýợc coi nhý là những từ trong một câu nhạc. Các câu nhạc sẽ bao gồm rất nhiều từ và nhạc sỹ có thể tự do chọn từ ngữ trong vốn từ của mình cho bản nhạc của họ.
Một thành phần chính khác của âm nhạc là Âm sắc (Timbre)- màu sắc của các tone nhạc. Mỗi một nhạc cụ âm nhạc sẽ tạo ra một âm sắc khác nhau mà ngýời nghe có thể nhận ra ngay ðâu là một nốt C của kèn trumpet, ðâu là của ðàn guitar. Tai của chúng ta cảm thấy sự khác biệt giữa kèn trumpet và ðàn guitar cũng nhý mắt của chúng ta phân biệt giữa mầu xanh và ðỏ(trừ khi bạn mù mầu). Cũng nhý việc pha trộn các mầu sắc khác nhau, âm sắc cũng có thể ðýợc trộn lẫn vào nhau. Khi bạn nghe trumpet và trombone hoà lẫn vào nhau bạn sẽ rất khó phân biệt ðâu là trumpet và ðâu là trombone. Tính ða dạng trong việc hoà lẫn âm sắc khác nhau là không có giới hạn và chắc hẳn bạn cũng nhý tôi ðã không ít lần phải ngạc nhiên ðến thán phục trýớc những cách phối hợp nhạc cụ này. Vậy thì âm sắc của âm thanh có ảnh hýởng tới tai của chúng ta nhý thế nào? Nhý ðã nói ở trên, mọi nhạc cụ(kể cả giọng nói) ðều tạo ra một âm sắc riêng biệt, các âm sắc này ðýợc tạo bởi các âm thanh nguyên bản ðồng bộ, mỗi âm thanh này ðýợc gọi là một âm bội(overtone). Âm thấp nhất và nổi trội nhất ðýợc gọi là âm cõ bản và ðây chính là âm thanh mà tai ta nhận biết ðýợc rõ nét. Ngoài các âm cõ bản này ra còn một số âm phụ chúng ta không thể phân biệt ðýợc một cách rõ ràng nhýng cũng rất quan trọng khi phân biệt các loại nhạc cụ týõng ðối giống nhau. Tất cả những âm thanh rắc rối nói trên ðýợc hợp nhất vào một từ âm sắc. Một ngýời ðầu bếp có thể làm một món mỳ gà khác hẳn ngýời ðầu bếp ở của hàng khác, và với cùng một nét nhạc, nhạc sỹ có thể tự do biến ðổi âm sắc ðể chúng ta có thể thýởng thức thoả thích cái tai của mình .
|
|
|
Post by xitrum on Apr 8, 2004 5:21:31 GMT -5
Một thành phần khác ðã ðýợc nói tới là ðộ ồn. Ðõn giản nhý tên của nó ðây là ðộ ồn ào nhý các bản nhạc Heavy Metal trong khi một số loại nhạc khác lại khá tĩnh lặng. Tuy vậy, các loại nhạc ðều sử dụng ðộ ồn một cách rất biến thiên trong bản nhạc của mình. Trong âm nhạc phýõng Tây có một số thuật ngữ dùng ðể chỉ ðộ ồn này . Mezzo-piano (trung bình thấp), mezzo-forte(trung bình cao), pianisimo(rất thấp), fortissimo(rất cao) là một số từ dùng ðể chỉ ðộ ồn. Nếu một giai ðiệu ðýợc bắt ðầu từ nhẹ nhàng và sau ðó là khá ầm mỹ chúng ta sử dụng từ “cresendo”, ngýợc lại là “decresendo”.
Thành phần thứ tý là Duration, ðýợc ðịnh nghĩa là khoảng thời gian cho tới khi ta nghe ðýợc nốt nhạc tiếp theo. Nói một cách khác, ðôi khi bạn nghe 4-8 nốt nhạc trong một giây, ðôi khi là ðến 10 giây mới nghe một nốt nhạc.
Duration có một thành phần phụ quan trọng là nhịp ðiệu. Nhịp ðiệu ðýợc sử dụng ở mọi nõi trong cuộc sống. Tim chúng ta ðập theo nhịp, những býớc chân theo nhịp, sóng biển vỗ bờ theo nhịp, và trong âm nhạc phổ thông nó là một trong những cái quan trọng nhất trong thành phần ðể tạo nên món ãn âm nhạc.
Có một số nhịp khá tự do nhýng nói chung nhịp ðiệu là một công thức bao gồm các duration(khoảng cách) nốt nhạc. Nói một cách thông thýờng trong âm nhạc phổ thông, nhịp ðiệu là một thýớc ðo sự lặp lại của âm thanh có thể cảm nhận ðýợc hay nghe ðýợc. Cái nhịp có thể cảm nhận hay nghe lại ðýợc này ðýợc gọi là beat. Trong một số loại nhạc (nhý hard-driving jazz hay rock) nhịp này khá mạnh trong khi ðó ở một số loại khác lại khá mỏng manh yếu ớt.
Tốc ðộ của các nhịp (beat) này ðýợc gọi là nhịp ðộ(tempo). Nhịp ðộ phụ thuộc khá nhiều vào các loại nhạc cụ(ví dụ nhý kèn chẳng ai lại thổi nhanh nhý khi ðánh guitar ðiện ) và vào cảm xúc của nhạc sỹ cũng nhý loại nhạc. Các bản ballad trữ tình thýờng có nhịp ðộ khá chậm trong khi ðó những bản Heavy Metal ðôi khi có nhịp ðộ nhanh không týởng.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 8, 2004 5:22:24 GMT -5
Các loại nhạc phổ thồn thýờng sử dụng một mẫu nhịp bao gồm nhóm 2,3 nhịp hoặc sự kết hợp của các nhóm này. Ví dụ, nếu nhý trong mẫu nhịp nhóm 2 nhịp ngýời ta có thể ðếm 1,2,1,2,1,2… trong khi nhóm 3 nhịp là 1,2,3,1,2,3,1,2,3… Mỗi một nhịp có ðộ dài nhất ðịnh. Nói chung nhạc Rock thýờng sử dụng mẫu nhịp 4/4(nói chung). 4/4 ðýợc hiểu là mỗi một ðõn vị nhịp(khuông nhạc chẳng hạn) có 4 nhịp thời lýợng bằng nhau (kết hợp hai nhóm 2 nhịp) tuy vậy các nhịp này không ðýợc coi trọng nhý nhau. Nhịp 1 và 3 ðýợc coi là các nhịp “mạnh”, nhịp 2 và 4 ðýợc coi là các nhịp “nhẹ”. Mạnh hay nhẹ ở ðây cũng có thể coi nhý sự lên xuống trong nhịp ðiệu. Thông thýờng trong các loại nhạc phổ thông, ca từ và/hoặc giai ðiệu thay ðổi dựa trên các nhịp mạnh, trong khi nhip yếu là các dấu nhấn “nhân tạo”. Trong cách ðánh trống của nhạc Rock, trống cái thýờng dùng ðể tạo ra các nhịp mạnh trong khi snare drum(trống có dây cãng ngang ðể tạo âm thanh dồn dập ) và chũm choẹ nhấn ở các nhịp yếu. Nhấn ở nhịp yếu còn ðýợc gọi là nhấn lệch (syncopation). Trong nhịp 3/4, nhịp ðầu tiên là mạnh trong khi hai nhịp còn lại là yếu. Nói chung tất cả các mẫu nhịp ðều có nhịp ðầu tiên là mạnh ðýợc gọi là nhịp ðầu(downbeat). Ngay cả khi jazz và Rock ðýợc tạo bởi các nhịp dựa trên mẫu nhịp 2 hoặc 3, cũng vẫn có một số sự kết hợp khác. Ví dụ nhịp 5/4(3+2) và có thể ðýợc ðếm 1,2,3,4,5,1,2,3,4,5,… trong ðó nhịp 1 và 4 là mạnh, các nhịp còn lại là yếu. (ví dụ khác nhý bài Yesterday ðýợc viết trên nhịp 7/ Thành phần cuối cùng của mọi loại âm nhạc là khoảng lặng. Khoảng lặng là một âm thanh quan trọng trong nghệ thuật sắp xếp âm thanh ðể tạo nên bản nhạc. Không có khoảng lặng âm nhạc chỉ còn là một bát cháo sýờn ðặc quánh âm thanh mà thôi và khoảng lặng ðã mang lại sự sáng sủa cho bản nhạc. Âm nhạc là một món ãn với các thành phần vô cùng ða dạng phụ thuộc vào loại âm nhạc và sự sáng tạo của các nhạc sỹ. Tuy vậy, nãm thành phần cõ bản trên không thể thiếu ðýợc trong bất cứ một loại nhạc nào nhýng ca từ, giai ðiệu, nhịp ðiệu… có thể không nhất thiết phải tồn tại.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 8, 2004 5:23:13 GMT -5
Chýõng 2: Khởi ng*ồn của nhạc Jazz
Nhạc jazz ðýợc khởi ng*ồn từ ðâu ? Nhạc sỹ nào, xã hội nào, nền vãn hoá nào ðã tạo nên jazz ?
Jazz là một nét vãn hoá bản xứ ban ðầu chỉ của riêng ngýời Mỹ và ðã ðýợc tạo ra bởi ngýời Mỹ. Âm nhạc phýõng Tây và châu Phi là nõi ðã gieo hạt nên jazz, nhýng chính vãn hoá Mỹ mới là nõi jazz nảy mầm và phát triển. Jazz không phải là loại nhạc của ngýời da trắng, cũng chẳng phải là của ngýời da ðen, mà nó là cả một câu chuyện về những phong tục, di sản và cả triết học.
Trong suốt những nãm ðầu tiên phát triển của ðất nýớc Mỹ, chế ðộ sở hữu nô lệ ðýợc coi là một chuẩn mực. Nô lệ bị ép buộc ðến từ châu Phi phải làm việc vất vả trong các ðồn ðiền của ngýời Mỹ. Những nhạc công và những tài nãng âm nhạc trong số ðó ðã học ðýợc rất nhanh nền âm nhạc vốn có sẵn của phýõng Tây, cùng lúc ðó, âm nhạc phýõng Tây cũng ðã có không ít bài học về âm nhạc Phi châu.
Nền vãn hoá sõ khai của châu Phi coi trọng âm nhạc hõn phýõng Tây rất nhiều. Âm nhạc là một khía cạnh quan trọng trong những hoạt ðộng hàng ngày của thổ dân châu Phi. Thổ dân châu Phi rất coi trọng các hoạt ðộng theo nhịp ðiệu khá phức tạp và tiến bộ dựa trên một ca từ và giai ðiệu ðõn giản. Những nét nhịp ðiệu này ðã gắn liền với nô lệ châu Phi trong suốt thời gian họ bị bắt ép làm nô lệ ở Mỹ.
Hõn nữa, một số những ngýời Mỹ da ðen mới cũng thể hiện mình thông qua nét âm nhạc truyền thống của họ. Vì cách xa quê hýõng nên âm nhạc truyền thống một phần cũng không thể thể hiện chính xác ðýợc vì rất nhiều lý do, ví dụ nhý không ðýợc sử dụng các nhạc cụ châu Phi truyền thống. Chúng ta có thể hiểu nhý một ban nhạc rock của các nghệ sỹ châu Phi khi biểu diễn ở Mỹ không ðýợc sử dụng bất cứ một cây guitar ðiện, một dàn trống… Tuy vậy, ban nhạc này vẫn ðủ nội lực ðể có thể sử dụng các nhạc cụ có sẵn tạo ra âm nhạc của mình và ðiều này là chính xác ðối với các nô lệ da ðen ở Mỹ.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 8, 2004 5:23:53 GMT -5
Bên cạnh việc tìm các nhạc cụ mới, các nhạc sỹ châu Phi cũng ðã mở rộng mình ðể tìm hiểu âm nhạc của phýõng Tây. Sự mở rộng này là khởi ng*ồn nảy mầm của nhạc jazz. Những ca từ, giai ðiệu, nhịp ðiệu, và cả vãn hoá Tây phýõng không ít thì nhiều cũng ðã dần thấm vào những ngýời da ðen. Tất nhiên, các nhạc sỹ da trắng cũng ðã bị ảnh hýởng nhiều khi nghe nhạc của ngýời da ðen. Thời gian trôi qua, và sự trao ðổi âm nhạc này ðã tạo ra Jazz.
Ngày nay, ở ðâu ðấy chúng ta vẫn còn bắt gặp những nét nhạc cổ xýa của Phi châu trong Rock và Jazz. Ví dụ, chúng ta có thể thấy phýõng pháp “gọi và trả lời” ðýợc biến tấu khi ca sỹ hát chính hát một ðoạn nhạc và sau ðó cả nhóm ðồng ca hát phụ hoạ lại (giống nhý những câu hỏi và trả lời).
Một ví dụ khác là “pitch-bending”. Trong suốt những nãm ra ðời của Jazz, các nhạc sỹ ðã uốn cong cao ðộ trong bài hát của mình tuỳ theo những yêu cầu khác nhau. Hiệu ứng này tạo ra một sự ngạc nhiên cho tai của chúng ta vì không biết thực sự nốt nhạc kết thúc ở ðâu. Một số ít các nhạc sỹ Rock và Jazz hiện nay vẫn sử dụng phýõng pháp này, hãy lắng nghe một ðoạn guitar solo trong một bản Rock mà xem. Hầu hết các nhạc cụ tổng hợp(ví dụ Organ) ðều có các thiết bị pitch-bend tích hợp bên trong.
Khi nhạc Jazz phát triển, có rất nhiều các loại nhạc khác ðã ra ðời dựa trên jazz, Rhythm & Blue, Soul,Funk,Rap và Rock ‘n’ Roll ðều ðã thừa hýởng rất nhiều từ Jazz.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 9, 2004 0:16:30 GMT -5
Chýõng 3 : Và Blues xuất hiện…
Trýớc khi chúng ta ði sâu hõn về Jazz, cần phải dừng lại ở một loại nhạc. Ðây có thể không chính xác ðýợc xếp là một phong cách nhạc nhýng nếu chỉ coi là những nền móng của một loại nhạc thì không thật chính xác. Những nền móng này không chỉ ðýợc bắt gặp ở trong Rock và Jazz mà còn trong rất nhiều các loại nhạc phổ thông khác, bao gồm, country, gospel, và cả một số tác phẩm cổ ðiển cùng thời với nó. Ðó chính là Blues. Khởi ng*ồn của Blues không ðõn giản một cách chắc chắn nhý là ðã ðýợc khắc lên ðá. Trong một vài nãm, ðã có rất nhiều chuẩn mực về giai ðiệu, cách hoà âm ðýợc thiết lập, và những chuẩn mực này ðã và vẫn ðang ðýợc biểu diễn rộng rãi. Blues có thể rất buồn, hạnh phúc, chậm, nhanh, không lời, ca khúc… và thậm chí là bất cứ nét nhạc nào do các nghệ sỹ viết ra.
Một trong những chuẩn mực ðýợc phổ biến rộng rãi về blues ðýợc gọi là “gam blues” (blues scale - bắt ðầu từ C : C,Eb,F,Gb,G,Bb) ðýợc xuất phát có lẽ là từ gam ngũ âm của ngýời châu Phi (African Pentatonic scale- C,D,E,F#,G#,A#) và kết hợp với các gam âm nguyên của phýõng Tây (C,D,E,F,G,A, và dần dần kết hợp ðể tạo nên gam blues nhý hiện nay. Nhý ðã nói ở trýớc, các nốt méo ðýợc sử dụng ngay từ những ngày ðầu tiên phát triển nên Jazz, theo cách ðó hiệu ứng “pitch-bending” có thể tạo ra những nốt nhạc lỏng lẻo ðể tạo nên những thuật ngữ nhý “flat-third”,”flat-fifth”, và “flat-seventh”, của gam blues. Tính lỏng lẻo không ổn ðịnh của blues ðã tạo nên một chất rất riêng của nó.
Cùng với gam chuẩn của nhạc blues, một quá trình hình thành giai ðiệu của nhạc blue cũng ðã xảy ra. Quá trình ðó bây giờ ðýợc gọi là “12 bar blues -?” (I,I,I,I,IV,IV,I,I,V,IV,I,I). Mỗi một chữ số La Mã ở ðây týõng ứng với một trong bốn nhịp và mẫu này ðýợc lặp lại trong suốt quá trình soạn một bản nhạc blues.
Lời cua những bản nhạc blues thông thýờng khá ðõn giản nhýng vào thời ðiểm ðó khá là sầu thảm. Rất nhiều lời của các bài blues ðýợc viết dýới dạng thõ ngũ âm(iambic-thõ trào phúng cổ của ngýời Hy lạp). Khi lời của bài hát ðýợc viết dýới dạng ngũ âm, 12 hợp âm của chúng ta ðýợc chia thành 3 phần bằng nhau. Phần ðầu của lời(gọi là phần A) thýờng ðýợc lặp lại và sau ðó ðến phần tiếp theo khác ði(phần là phần cuối cùng. Lời bài hát sẽ ðýợc lặp lại theo mẫu sau “A A B”. Ðây là một ví dụ, bài “Don’t Fish in My Sea” của Ma Rainey :
My daddy come home this mornin' drunk as he could be, (A) My daddy come home this mornin' drunk as he could be, (A) I knowed by that he's done got bad on me. ( He used to stay out late, now he don't come home at all, He used to stay out late, now he don't come home at all, I know there's another mule kickin' in my stall. If you don't like my ocean, don't fish in my sea, Don't like my ocean, don't fish in my sea, Stay out of my valley, and let my mountain be. I ain't had no lovin' since God knows when, I ain't had no lovin' since God knows when, That's the reason I'm through with these no good triflin'men. Never miss the sunshine till the rain begin to fall, Never miss the sunshine till the rain begin to fall, You'll never miss you ham till another mule be in your stall. Lịch sử của các giọng hát nhạc blues ðýợc chia thành hai nửa. Mỗi nửa thể hiện một giai ðoạn khác nhau. Nửa ðầu tiên vào khoảng cuối thế kỷ IXX ðến những nãm 1930. Nửa này ghi nhận hai phong cách hát blues riêng biệt. Phong cách thứ nhất có thể ðýợc coi là country hoặc rural-blues trong khi ðó phong cách còn lại ðýợc gắn mác city hoặc urban-blues ().
|
|
|
Post by xitrum on Apr 9, 2004 0:18:06 GMT -5
Nhạc blues ðồng quê ðýợc hát bởi những ngýời ðàn ông với nhạc cụ và phần nhạc ðệm ðõn giản. Những ca sỹ hát nhạc blues thời ðó thýờng chỉ có cây guitar là nhạc cụ duy nhất ðể ðệm cho mình. Ca từ cũng rất ðõn giản và âm nhạc thật sự rất mộc mạc và không hề ðýợc gọt dũa. Một số ca sỹ nam nổi tiếng ðýợc ghi vào sử sách có thể kể tới là Lightnin' Hopkins, Huddie Ledbetter, Big Bill Broonzy, và Blind Lemon Jefferson. Nhạc blues thành phố bao gồm cả giọng ca của các ca sỹ nam và nữ. Âm nhạc ở ðây tao nhã và tinh tế hõn nhạc blues ðồng quê. Thay bởi phần nhạc nền ðõn giản, những ca sỹ nhạc ðồng quê thành phố còn có thể sử dụng một nhóm khiêu vũ nhỏ phụ hoạ. Bessie Smith, Ma Rainey, và Chippie Hill là những ca sỹ nổi tiếng nhất ở phong cách này. Sau nãm 1930, phong cách nhạc blues bắt ðầu thay ðổi. Ði theo sự phát triển của các giọng ca blues, sự phát triển trình ðộ của một số các nhạc công cũng tãng lên ðáng kể. Vào lúc này, những nghệ sỹ nhạc blues lớn có thể sử dụng nhạc cụ tốt nhý là giọng hát của họ. Vào thời gian khởi ðầu, các nhạc công thýờng bắt chýớc phong cách của các ca sỹ nhýng ðến thời ðiểm này một số ca sỹ cũng ðã phải sao chép phong cách của các nhạc công lớn. Một số các nghệ sỹ chính trong thời kỳ này có thể kể ðến nhý Joe Turner (có ảnh hýởng lớn tới Rock ‘n’ Roll sau này) , Joe Williams, và Jimmy Rushing (Both Williams và Rushing ðều hát trong ban nhạc nổi tiếng Count Basie). Các nhạc sỹ có thể vừa hát vùa ðệm ðàn nổi tiếng có thể kể tới Louis “Satchmo” Armstrong, B.B.King, Ray Charles.
Nhý ðã nói ở trên, Blues ðýợc sử dụng nhiều trong tất cả các loại nhạc phổ thông. Chúng ta có thể kể ra ðây một vài ví dụ nhý "Rock Around the Clock" bởi Bill Haley và the Comets (l954); "409" bởi the Beachboys (l961); "Reeling and Rockin" bởi Chuck Berry (late l950s); "In the Mood" thực hiện bởi Glenn Miller (l941); "Hound Dog" bởi Elvis Presley (l957); và "Can't Buy Me Love" bởi the Beatles (l965).
|
|
|
Post by xitrum on Apr 12, 2004 0:39:39 GMT -5
Chýõng 4: Ragtime (1890-1920)
Phong cách tiêu biểu ðầu tiên của Jazz và có lẽ là phong cách phổ biến nhất ðầu tiên ở Mỹ là Ragtime, dựa trên chủ yếu là nền nhạc piano solo.
Vì Ragtime ðýợc xây dựng chủ yếu trên một nền nhạc solo, kỹ thuật sử dụng piano ở ðây ðýợc coi trọng và rất phát triển. Phần bên trái ðýợc sử dụng ðể chõi các âm thanh trầm và hợp âm, phần tay phải chõi ðệm cho bài hát. Vào thời ðiểm ðó, cách chõi này là khá khó khãn và ðòi hỏi những kỹ nãng nhất ðịnh. Song song với những âm thanh mạnh mẽ của Ragtime là một số lýợng lớn các nốt nhấn lệch khá rắc rối.
Hầu hết các bản nhạc và lời của Ragtime ðã ðýợc soạn trên giấy. Lý do ðõn giản là các nhạc sỹ ðã có thể bán ðể kiếm tiền nhý các ca sỹ bán bãng và ðĩa nhý hiện nay. Vào thời ðó, TV, radio, còn chýa ðýợc phát minh hoặc chýa ðýợc phổ biến rộng rãi, vì vậy, nhu cầu giải trí tại gia là rất lớn.
Chõi piano vào những nãm cuối thế kỷ IXX là khá phổ biến, mọi ngýời dân ðều có thể tự chõi nhạc tại nhà, ngay cả nếu họ không biết/muốn chõi, họ vẫn có thể trả tiền ðể mời một nhạc công tới chõi. Nhờ cách ðó, Ragtime ðã ðýợc nghe và phổ biến trên khắp nýớc Mỹ.
Nhờ tính phổ biến của mình, Ragtime ðýợc sử dụng trong nhiều hoàn cảnh , hội hè, trong khách sạn, quán ãn, Những cuộc thi Ragtime trên khắp nýớc Mỹ cũng ðýợc tổ chức, và thậm chí dân chúng cũng có thể nhẩy múa dựa trên phong cách Jazz phổ biến này.
Ragtime ðýợc cấu tạo dựa trên rất nhiều các chất liệu cổ ðiển phýõng Tây. Mỗi Rag chứa 4 giai ðiệu chính và quan trọng ngang nhau. Tuy vậy các phần trong nhạc Rag lại khá ðối lập nhau, phần ðầu rất ồn ào ầm mỹ trong khi phần thứ hai lại ngýợc lại hoàn toàn. Nghệ sỹ viết và chõi nhạc Ragtime nổi tiếng nhất có lẽ là Scott Joplin. Joplin ðýợc ðào tạo chính quy ðể viết opera. Một số các nhạc sỹ quan trọng khác là Tom Turpin, Joseph Lamb, và James Scott.
Ragtime dần dần lụi tàn vào khoảng nãm 1920 khi các dòng nhạc Jazz khác phát triển. Vào những nãm 1970, Ragtime(ðặc biệt kể ðến Scott Joplin) ðã một lần nữa phát triển lại dòng nhạc này trong bộ phim nổi tiếng “The Sting” ðýợc ðóng bởi Robert Redford và Paul Newman. Soundtrack của bộ phim này ðã ðýợc giải thýởng của Viện Hàn lâm trong cùng nãm ðó. Những nhà ðạo diễn và cả những ngýời dân Mỹ một lần nữa lại tìm ra phong cách nhạc ðộc ðáo này sau nửa thế kỷ Scott Joplin không còn tồn tại nữa.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 12, 2004 0:40:43 GMT -5
Chýõng 5 : New Orleans Dixieland (1900-1920)
Ngay trong khi Ragtime ðang phát triển rực rỡ, một dòng nhạc Jazz khác ðã ðýợc hình thành. Ở miền nam nýớc Mỹ, một thành phố cảng với nền kinh tế vững chắc ðã là cái nôi ðể phát triển dòng nhạc Jazz mới. Kết quả là chúng ta có dòng nhạc Jazz ở New Orleans theo kiểu Dixieland.
Trong những nãm ðầu tiên của thế kỷ XX, New Orleans với nền kinh tế vững chắc của mình ðã là cái nôi vững chắc ðể nghệ thuật phát triển. Khi Venice(Italy) vào những nãm 1500 tới 1600 phát triển mạnh, âm nhạc thời kỳ Phục hýng và tiền-Baroc ðã ðýợc gieo mầm và phát triển. Pháp và Ðức vào những nãm 1700-1800 cũng là những nýớc có tiềm lực kinh tế mạnh, ði cùng nó là nghệ thuật hội hoạ ðỉnh cao. Một lần nữa vào những nãm 1900 Mỹ là nýớc phát triển mạnh nhất và New Orrleans là trung tâm của những cõ hội phát triển mới.
New Orleans là một thành phố có thể bao dung mọi thành phần trong xã hội cũng nhý mọi nền vãn hoá. Lịch sử của thành phố ðã chứng minh ðiều này. Ðầu tiên, thành phố này là của ngýời Pháp trong khoảng 50 nãm. Vào nãm 1764. nó là của ngýời Tây Ban Nha trong khoảng 40 nãm. Sau khi ðýợc trả lại cho ngýời Pháp, cuối cùng nó ðã ðýợc mua bán ðể thành một phần của nýớc Mỹ. Với sự giao thoa này thì ðây là một nõi lý týởng ðể hoà trộn nền vãn hoá châu Phi và phýõng Tây tạo nên Jazz.
Một vài hiện týợng tự nhiên, xã hội, kinh tế tồn tại ở ðây ðã ảnh hýởng trực tiếp tới Jazz. Ðầu tiên phải kể ðến những ngýời Pháp lai da ðen có một nền vãn hoá âm nhạc cổ ðiển trang nghiêm, và tiếp ðến là âm nhạc cổ truyền thô mộc ít tinh tế hõn của ngýời da ðen.
Thứ hai, một truyền thống tổ chức tang lễ rất ðặc biệt nhýng lại phổ biến ở New Orleans với sự tham gia của ban nhạc tang lễ chõi các hành khúc. Trong lịch sử có rất nhiều kiểu nhạc công ðã ðýợc mời chõi trong các lễ tang, nhýng ở New Orleans, nhạc công chõi theo một cách rất ðặc biệt. Nhý mọi ban nhạc tang lễ chõi ngoài nghĩa ðịa khác, họ cũng tấu những bản nhạc chậm rãi, u ám. Ngay sau tang lễ, ban nhạc cũng lặp lại những ca khúc ðau buồn ðó cho ðến khi ðám rýớc tiến ðến cổng nghĩa trang. Ngay lập tức ban nhạc sẽ chuyển sang loại nhạc nhanh và vui vẻ. Thứ nhạc nhanh và vui này sẽ ði theo ðám rýớc cho tới khi họ về ðến thị trấn ðể rũ bỏ những u sầu khi mất một ngýời thân.
Thứ ba, bên cạnh nền kinh tế tãng trýởng mạnh mẽ, thành phố còn có 32 khu vực ðặc biệt gọi là Storyville (lầu xanh-“red-light” district). Trong mỗi khu thýờng có 4 lầu xanh 2 tầng, tầng dýới là các phòng lớn và tầng trên dùng ðể “làm việc”. Các phòng lớn này cũng giống nhý hộp ðêm hiện nay ðã chõi một thứ nhạc mới và thịnh hành suốt cả ngày ðể ðem lại thý thái cho những ông chủ. Khu Storyville này ðã ðem lại rất nhiều công việc cho các nhạc công chõi Jazz. Khi dòng nhạc Dixieland bắt ðầu phát triển cũng là lúc phong cách chõi nhạc và nhạc cụ ðýợc ðịnh hình. Các nhạc cụ chuẩn bao gồm kèn trumpet(hoặc cornet), clarinet, trombone, banjo, tuba và trống.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 12, 2004 0:41:27 GMT -5
Trumpet thông thýờng là loại nhạc cụ “to mồm” nhất trong số này và hấu hết thời gian trumpet ðảm nhận vai trò chính trong ban nhạc. Ngýời chõi trumpet thýờng ðýợc gọi là “King”. Ngoài vai trò chõi nhạc theo giai ðiệu có sẵn, trumpet còn có nhiệm vụ chõi những khúc ngẫu hứng. Thông thýờng các nhạc công sẽ tự chõi những khúc ngẫu hứng theo ý mình, tuy vậy cũng không ði quá xa với bản nhạc ðể ðến nỗi công chúng không còn nhận ra ðýợc . Ngoài ra, ngýời thổi kèn trumpet với vai trò “to mồm” nhất của mình còn phải sáng tạo thế nào ðể có thể lôi kéo ðông ðảo dân chúng lắng nghe và… Clarinet cung cấp các hoà âm và ðối âm dựa trên nền trumpet chính. Clarinet không to mồm nhý trumpet, nhýng lại có khả nãng chõi nhanh và với âm vực cao hõn. Một nghệ sỹ clarinet giỏi có thể thêm rất nhiều sáng tạo ðộc ðáo cho bản nhạc của mình. Kèn trombone, với thanh kéo của mình( -gọi là rì ý nhỉ ) có thể dễ dàng tạo ra những âm méo (pitch-bend), những âm thanh phổ biến trong nhạc Jazz. Có thể nói, với ba nhạc cụ trong bộ kèn hõi này, một thứ âm nhạc phức ðiệu(polyphonic) ðã ðýợc ra ðời. Bên cạnh ðó, các ban nhạc còn sử dụng các nhạc cụ giữ nhịp bao gồm tuba,banjo và bộ gõ. Tuba cung cấp những âm thanh trầm(bass), banjo cung cấp những hợp âm ổn ðịnh, còn trống và bộ gõ tạo ra nhịp của bài hát. Một trong những nhạc sỹ nổi tiếng ðýợc nhiều ngýời biết tới nhất trong thời ðại ðó là King Oliver (leader/trumpeter). King Oliver cũng ðã tập hợp ðýợc nhiều nhạc công giỏi và mỗi ngýời trong số họ cũng ðã nổi tiếng ở vị trí của mình, trong ðó phải kể ðến Louis Amstrong. Vào cuối thế chiến lần thứ nhất, những sự thay ðổi trong luật pháp ðã làm cho khu Storyville bị tan rã. Với việc mất ði các saloon và chỗ làm việc, các nghệ sỹ bắt ðầu chuyển sang sống ở các khu vực khác của nýớc Mỹ, phần lớn ở Chicago. Với sự gia nhập này, một dòng nhạc Jazz mới ðã ðýợc hình thành.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 13, 2004 19:58:34 GMT -5
Chýõng 6 : Chicago style Dixieland (1920-)
Nãm 1920 ðýợc ðánh dấu trong lịch sử nýớc Mỹ bởi hai sự kiện, trong ðó có một sự kiện là “Jazz Age”(còn lại là “Roaring Twenties”). Sau thế chiến thứ nhất, Mỹ giờ ðây ðã là một siêu cýờng về mặt kinh tế. Ðộ ngắn của váy ðã tãng lên cùng với thị trýờng chứng khoán , và tâm trạng của ngýời Mỹ rất phấn khích. Phụ nữ ðã bắt ðầu tìm ðýợc chỗ ðứng trong xã hội và sự tự do của mình.
Rất nhiều các nhạc sỹ nhạc jazz ngýời New Orleans ðã di chuyển lên phía bắc,bao gồm cả King Oliver và Louis Amstrong, và làm rung chuyển thành phố này bởi âm nhạc của mình. Chicago vào những nãm 1920 là một thành phố phát triển, tuy chính quyền bị ðiều khiển bởi các bãng nhóm gangster(tiêu biểu là Al Capone) nhýng là nõi rất tốt ðể một dòng nhạc Jazz mới bắt ðầu phát triển. Vào những nãm 1920, việc phủ sóng radio trên toàn nýớc Mỹ ðã thành công và radio ðã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của ngýời Mỹ. Radio là một vật dụng không thể thiếu của các gia ðình Mỹ dùng ðể nghe những tin tức trực tiếp và giữa các tin tức ðó là âm nhạc. Âm nhạc của các nhạc sỹ Jazz, ðó chính là Jazz, một phong cách nghệ thuật mới.
Cùng với sự phát triển của radio, công nghiệp thu âm bắt ðầu phát triển. Máy quay ðĩa gia ðình bắt ðầu ðýợc phổ biến và các nhạc sỹ Jazz cũng ðã bắt ðầu thu âm các ca khúc của mình ðể phổ biến khắp nõi. Ngay cả khi công nghệ radio và thu âm lúc ðó còn quá thô sõ so với bây giờ, dân chúng cũng ðã say mê môi trýờng âm nhạc mới mẻ này. Ngoài ra công nghệ thu âm cũng ðã mang lại môi trýờng giáo dục cho các nhạc sỹ mới với các ca khúc kinh ðiển có thể nghe ði nghez lại.
Chicago-style Dixieland khác khá nhiều so với nguyên bản của nó (New Orleans). Nhóm nhạc Jazz ở Chicago thýờng lớn hõn, có thêm một số nhạc cụ bộ kèn hõi, ví dụ nhý saxophone hoặc vài cây kèn trumpet nữa. Nhũng ðoạn solo ngẫu hứng cũng trở nên phức tạp và ðầy kỹ thuật. Guitar chõi chậm rãi ðã thay thế banjo, và các tay bass ðàn dây ðã thay thế dần tuba. Vì các ban nhạc ở ðây không còn tham gia vào các ðoàn diễu hành nhý ở New Orleans nữa, piano và một số các nhạc cụ cố ðịnh khác cũng ðã ðýợc thêm vào ban nhạc. Việc phối âm cũng ðã phức tạp hõn rất nhiều.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 13, 2004 19:59:35 GMT -5
Một số các nghệ sỹ ðã nổi lên vào thời ðiểm này nhý Don Redman (saxophone), Bix Beiderbecke (trumpet), Fletcher Henderson (band leader), Jelly Roll Morton (piano/composer), và Kid Ory (trombone/composer).
Một nghệ sỹ ðã trở nên chín chắn và ðýợc mọi ngýời thán phục vào thời kỳ này là Louis “Satchmo” Armstrong (trumpet). Armstrong ðóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nhạc Jazz, vì vậy nhiều ngýời gọi ông là “cha ðẻ” của Jazz. Vào thời của Armstrong, các nhạc sỹ gọi ông là “Pops” nhý là dấu hiệu của sự kính trọng. Armstrong là nghệ sỹ solo lớn ðầu tiên trong lịch sử nhạc Jazz và những nốt nhạc phiêu du của ông ðánh dấu một býớc ngoặt trong Jazz với việc xuất hiện những khúc solo ngẫu hứng mà trýớc ðây là của một nhóm nhạc sỹ. Satchmo cũng là ngýời ðầu tiên ðã ðịnh lại nhịp ðiệu của Jazz bằng cách bỏ tính cứng nhắc trong Ragtime, áp dụng nhịp 8 nốt du dýõng, và làm cho ngýời nghe cảm týởng những nốt nhạc của ông luôn ði sau nhịp của bản nhạc. Tất cả những thay ðổi này khiến ngýời nghe có cảm giác thý giãn và ðýợc gọi về sau là Jazz swing.
Armstrong mang ðến một cách nghĩ mới, âm nhạc của ông ðýợc dựa trên một cấu trúc chặt chẽ và không phải chỉ là một nét tô ðiểm thêm cho bản nhạc mà trái lại là một giai ðiệu riêng dựa trên các hợp âm ðã có sẵn(khái niệm âm nhạc này vẫn còn ðýợc áp dụng cho các khúc ngẫu hứng hiện nay). Bên cạnh tiếng trumpet ðầy cảm xúc của mình, Armstrong có một cách hát ảnh hýởng rất nhiều ðến các ca sỹ hát Jazz. Ông ðã phổ biến một lối hát Jazz không thành lời (scat). Trong lối hát này, các ca sỹ hát ngẫu hứng các âm tiết thay cho các từ.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 13, 2004 20:00:43 GMT -5
Chýõng 7 : Big band swing(1932-1945)
Sự sụp ðổ của thị trýờng chứng khoán Mỹ vào nãm 1929 ðã kéo theo sự khủng hoảng nền kinh tế mà bây giờ ðýợc gọi là Great Depression. Sau những býớc nhảy vọt về kinh tế và xã hội vào ðầu những nãm 1920, Mỹ ðã chững lại, kéo theo 25% dân số trong tuổi ði làm thất nghiệp cộng với một số lýợng lớn ngýời dýới tuổi làm việc. Chúng ta ðã thấy sự ảnh hýởng của kinh tế ở trong các giai ðoạn trýớc và dýờng nhý ðây cũng không phải là một ngoại lệ.
Trong những nãm ðầu tiên của thập niên 30, thu nhập của ngýời dân bị giảm xuống một cách trầm trọng, nhiều câu lạc bộ nhỏ ðã phải phá sản vì không còn ðủ kinh phí ðể tiếp tục. Những nhà kinh doanh chợt nhận ra rằng, khi biểu diễn ở các câu lạc bộ lớn, lãi suất bình quân trên ðầu ngýời có thể giảm những tổng số lãi lại cao hõn rất nhiều. Và các câu lạc bộ lớn ðã ra ðời, các ban nhạc cũng dần dần mở rộng cýờng ðộ các nhạc cụ của mình. Bằng việc này, một dòng nhạc Jazz lại ðýợc ra ðời với cái tên Big Band Swing và nhanh chóng ðýợc phổ biến rộng rãi.
Trýớc khi Big Band Swing thực sự ðýợc phát triển, một dòng nhạc phụ, Pre-Swing, ðýợc biết tới nhý một sự chuyển tiếp vào những nãm 1930. Khi các band sử dụng các nhạc cụ lớn hõn, âm thanh ðã thay ðổi. Chicago Dixieland chỉ sử dụng 4 nhạc công bộ kèn hõi thì giờ ðây Pre-Swing ðã sử dụng từ 7-8 nhạc công. Bộ kèn hõi ðýợc nhanh chóng chia thành các phần nhỏ hõn, nhạc cụ hõi làm bằng gỗ (woodwind) bao gồm saxophone và clarinet, kèn ðồng(brass) nhý trumpet và trombone. Với sự mở rộng này việc sáng tác cũng trở nên khó hõn và các nhạc sỹ ðã phải thay ðổi quan niệm của mình khi sáng tác. Fletcher Henderson và Don Redman là hai nghệ sỹ ðầu tiên thích ứng với cách sáng tác này. Henderson ðã giải quyết vấn ðề này bằng cách sử dụng woodwind, brass, và phần cầm nhịp song song với việc sử dụng các nhạc cụ solo riêng biệt. Nền móng do ông tạo ra vẫn còn ðýợc sử dụng cho tới ngày nay.
Swing ðýợc phổ biến trong dân chúng Mỹ và cả toàn thế giới một cách rộng rãi ðáng ngạc nhiên. Cả những ngýời trýởng thành lẫn thanh niên ðều yêu thích thứ nhạc này. Các chuẩn mực về nhạc cụ cũng ðã ðýợc hình thành trong thời ðiểm này và ðã ðýợc sử dụng cho tới tận ngày hôm nay. Nhạc cụ bao gồm phần saxophone(woodwind) gồm 5 nhạc cụ : hai alto, hai tenor, và một baritone; 4 kèn trumpet;4 trombone;và phần nhịp ðiệu bao gồm piano, guitar, ðàn bass dây, và bộ gõ. Phần trumpet và trombone ðýợc gọi là bộ kèn ðồng(brass). Chúng ta có thể không týởng týợng là ban nhạc lớn nhất thời ðấy ðã có từ 30-40 ngýời. Mặc dù nói rằng những nhạc cụ trên là “chuẩn” tuy vậy các ban nhạc vẫn tìm tòi ðể tạo ra những âm thanh của riêng mình. Ðồng thời các ban nhạc lớn cũng cố gắng ðể tạo ra chuẩn mực riêng cho mình, ví dụ, Glenn Miller sử dụng clarinet ðể làm lead cho phần woodwind của mình, còn Woody Herman sử dụng 3 tenor và một baritone thay cho phần saxophone nói chung. Vào thời ðó, dancing ðã bắt ðầu phổ biến và các ban nhạc lớn thýờng chõi ðể phục vụ dancing. Những ðiệu nhảy giật gân(jitterbug) ðã phát triển trong thời kỳ swing này, tuy vậy, các ban nhạc lớn cũng rất thành thạo trong việc chõi các bản ballad ðệm cho các ðiệu nhảy slow.
|
|
|
Post by xitrum on Apr 13, 2004 20:01:41 GMT -5
Dancing và nghe các big swing band chõi nhạc là một lối thoát cho những ngýời Mỹ chán nản thời thế lúc ðó. Từ những thị trấn nhỏ cho ðến những sảnh lớn ðều có thể tụ tập tới 5000 ngýời nhảy múa. Trong khi dancing, ngoài những ngýời ðang ðam mê với các ðiệu nhảy của mình là những ðám ðông ðứng sát sàn biểu diễn ðể nghe nhý những buổi biểu diễn Rock hoành tráng ngày nay. Nền công nghiệp thu âm ðã phát triển mạnh vào thời kỳ này và có ảnh hýởng lớn tới sự phát triển của swing. Ðể vừa vặn mới phần thời gian của ðĩa(khoảng 2½ phút tới 3 phút), các band thýờng thu âm các bản nhạc ðã ðýợc rút gọn lại và thành công trong các buổi diễn. Những chiếc ðĩa này ðýợc nghe ở khắp mọi nõi, thậm chí là ở các máy hát tự ðộng(juke-box) ðặt ở khắp nõi trên ðất Mỹ. Dân chúng Mỹ giờ ðây ðã có thể tham dự các buổi live-show của các ban nhạc mà họ hâm mộ hoặc nghe những bài hát mới nhất qua ðĩa. Rất nhiều các ban nhạc nổi tiếng ðýợc mời ghi âm cho nhạc nền của film ở Holywood và Holywood cũng thýờng sử dụng các ban nhạc này ðể quảng cáo và làm cho các bộ film của mình thêm phần nổi tiếng.
Một trong những band nhạc nổi tiếng nhất lúc bấy giờ là “King of Swing”, Benny Goodman (clarinet). Tiếng kèn của Gooodman ðã là một chuẩn mực ðể các nhạc công lúc ðó phải ngýỡng mộ và học tập theo ông. Song song với tiếng kèn tuyệt vời và khả nãng lãnh ðạo ban nhạc hoàn hảo, Goodmann ðã góp phần phá vỡ hàng rào phân biệt chủng tộc trong lĩnh vực giải trí trên toàn thế giới. Bằng cách thuê những nghệ sỹ da ðen tài nãng nhý Lionel Hampton(vibraphone), Teddy Wilson(piano), cộng với việc không biểu diễn nếu không có ðủ các thành viên của ban nhạc, Gooodman ðã bắt buộc chính phủ phải phá vỡ hàng rào phân biệt chủng tộc của mình.
Chúng ta hãy dừng lại với Gooodman ở một lời bình luận của tạp chí “T.V.guide” 15 tháng 3 nãm 1986, “Goodman là một nghệ sỹ clarinet vĩ ðại hõn bất cứ nghệ sỹ clarinet nào. Có lẽ ông ðã dành thời gian ðể trau chuốt tiếng kèn của mình gấp 15 lần toàn bộ ban nhạc của ông cộng lại …” Glenn Miller cũng là một nghệ sỹ trombone nổi tiếng lúc ðó. Ban nhạc “In the Mood” của ông ðýợc coi là một trong những ban nhạc lớn nhất vào thời ðó. Rất tiếc, Miller cũng nhý bao nghệ sỹ khác ðã gia nhập quân ðội chiến ðấu vào những nãm Thế chiến thứ II và ðã hy sinh ở chiến trận. Còn rất nhiều các nghệ sỹ quan trọng ðầy sáng tạo khác trong thời ðiểm này mà chúng ta chýa nhắc tới nhý William "Count" Basie (piano); Harry James (trumpet); Duke Ellington (piano/composer); Billie Holiday (vocal); Ella Fitzgerald (vocal); Woody Herman (clarinet/saxophone); Tommy Dorsey (trombone); Jimmy Dorsey (saxophone); Coleman Hawkins (saxophone); Lester Young (saxophone); và Artie Shaw (clarinet). Sự bắt ðầu của cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ II cũng là ðiểm kết thúc của thời ðại Big Swing Band. Xãng dầu và cao su ðể sản xuất lốp bị hạn chế vô cùng và các ban nhạc rất khó khãn trong việc di chuyển. Rất nhiều các nhạc công gia nhập quân ðội, và các ban nhạc mất dần ði những tài nãng của mình. Ngýời Mỹ yêu thích những bản nhạc swing, nhýng Jazz ðã ði býớc tiếp theo trong sự phát triển của mình, BOP.
|
|