|
Post by Robot on Mar 26, 2004 9:00:12 GMT -5
Mắm tép Hà Yên
Đây là một đặc sản quý và độc đáo ở vùng chiêm trũng xứ Thanh, nổi tiếng nhất là hai làng Đình Trung và Yên Xá thuộc xã Hà Yên, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Đặc biệt mắm tép làng Đình Trung, một làng Việt cổ, trước đây còn được dùng để tiến vua.
Công việc làm mắm tép đòi hỏi phải theo mùa, khi tép ngon, béo. Hằng năm cứ đến vụ cày bừa đông (tháng 11 và 12 âm lịch) cả làng ra đồng đánh tép. Dụng cụ đánh bắt tép có nhiều loại, nhưng phổ biến nhất vẫn là cái riu - một dụng cụ đan bằng tre, nứa hình con tôm cong ngược, được đẩy trong nước đánh rất tiện. Chỗ nào nhiều rong rẻ và rong trơn thì mới nhiều tép ngon.
Dân làng Đình Trung chỉ chọn loại tép riu làm nguyên liệu chế biến nước mắm, còn tép gạo tuy to và nạc hơn nhưng khi làm mắm không ngon. Tép riu đánh về nhặt sạch rong rêu và cá tạp, để cho thật ráo nước. Cứ mười bát tép là bốn bát muối, hai bát gạo rang giã nhỏ (thính) trộn đều, cho vào chum, chĩnh hoặc vại tùy theo số lượng tép, đổ nước vừa xăm xắp, rồi đậy kín. Mắm tép để càng lâu càng ngon, nhưng nhanh nhất cũng phải sáu tháng trở lên.
Khi nấu nước mắm, người ta cho mắm tép vào một túi vải, rồi vắt kiệt lấy nước cốt cho vào nồi nấu lên, khi đun vừa lửa, nếu muốn mắm đặc thì đun lâu hơn. Nước mắm thơm ngon cũng là một bí quyết. Trong khi nấu những người dân ở đây còn cho đậu xanh rang vàng, giã nhỏ đun sôi một lúc. Khi nấu giữ độ lửa sao cho khi rót ra, mắm có ánh vàng, sóng sánh như mật ong.
Xưa kia mỗi lần làm nước mắm tiến vua thì các chức sắc trong làng phải cử người đến tận khe Gia Giã, làng Cổ Đam (vùng Bỉm Sơn bây giờ ) để đánh riêng một loại tép quý, loại tép riu nhỏ, có mầu trong xanh, muối lên mầu đỏ trông thật ngon mắt. Khi nấu nước mắm cũng phải chọn người nấu giỏi nhất vùng. Đồ dùng để muối tép gọi là ton (giỏ ) hình tròn to và đều nhau, để vào trong vại hoặc chum. Miệng của ton vừa bằng ngang miệng vại, chum, rồi mới cho tép trộn thính, muối đổ chung quanh ton. Trong thời gian muối, nước cốt của mắm ngấm sang cái ton, đến khi mắm đủ độ chín thì dùng gáo bằng nứa, múc nước cốt đã ngấm đó, rồi theo bí quyết riêng nấu nước mắm.
(Theo Nhân Dân)
|
|
|
Post by Robot on Mar 26, 2004 9:10:48 GMT -5
'Phố nướng' ở Sa Pa Hàng trứng nướng. Du khách đến với Sa Pa không chỉ được du ngoạn những danh lam thắng cảnh mà còn thưởng thức những loại rau non mướt hay uống rượu Bắc Hà, Sán Lùng thơm tê đầu lưỡi. Thị trấn trong sương này còn có dãy phố chuyên bán những đồ nướng khi màn đêm buông xuống. Nằm trên con phố Hàm Rồng, trước cổng khách sạn Công Đoàn bề thế, bên sườn của nhà thờ đá cổ kính, chỉ có một đoạn ngắn chừng hơn 100 mét mà dễ có tới gần 30 quán hàng. Điều thú vị là các món ăn được bày bán tại đây đều là các món nướng, trở thành phố nướng Sa Pa. Từ những mẹt hàng ngô, khoai, sắn nướng nằm rải rác trên đường, trong thời gian ngắn, hàng loạt những quầy hàng được mọc lên. Chẳng biết phố nướng được hình thành có phải do nhu cầu, sở thích của du khách trong những đêm se lạnh. Hàng chục quầy hàng bán thịt chen cùng ngô, khoai, sắn, chỉ cần một cái thúng và một cái bếp than, vài ba cái ghế nhựa con là đã có nơi thưởng thức món ăn nướng. Còn nữa, trứng gà, vịt nướng, lòng mề lợn cũng thành món nướng. Chim nướng, gà nướng, bánh dày nướng, đậu phụ nhự nướng... Có tới hàng trăm món nướng mà trong vòng một tuần ở đây cũng chưa thưởng thức hết được. Mỗi một món ăn đều có cách tẩm và pha chế gia vị riêng mà ăn nhiều món cùng một lúc bạn không có cảm giác trùng lặp và chán ngán. Thí dụ như món đậu phụ nhự, người ta đem ngâm đậu cho tới khi đậu lên mùi chua nồng. Ai nếu chưa quen sẽ không dễ dàng chấp nhận mùi hương của nó, nhưng cứ thử một lần xem, bạn sẽ mê ngay bởi sự hấp dẫn ở hương vị bùi bùi của đậu tương, ngầy ngậy béo béo nóng ngoài, mát trong của viên đậu phụ nhự. Món bánh dầy nướng được ướp gia vị cùng với ruốc sẽ được nướng khi nào vỏ của bánh vàng suộm, thơm nức mùi gạo nếp sẽ được gắp ra đĩa chờ bạn thưởng thức. Thông thường ở dưới xuôi, mọi người chỉ quen ăn trứng luộc rán, ốp la chứ ít ăn trứng nướng. Quả trứng nướng có hương vị thơm bùi của lòng đỏ, cũng rất lạ khẩu vị. Trứng nướng được do tài nghệ của người bán hàng, bởi nếu không biết cách nướng, quả trứng sẽ vỡ ra. Những bắp ngô Sa Pa nhỏ nhưng mềm ngọt, dẻo cũng được đưa lên làm đồ nướng. Khói của các món đồ ăn bốc lên quyện với làn sương càng làm cho không gian ban đêm huyền ảo dọc cả dãy phố. Càng khuya, phố nướng càng đông khách. Tây có, ta có, không ít đồng bào dân tộc thiểu số cũng sà vào ăn. Mỗi món đồ nướng rẻ thì 1.000 đồng đắt cũng chỉ 5.000 đồng. Người có tiền thì trả tiền, nếu không thì trả bằng hiện vật, trả bằng đô, không sao. Thậm chí đồng bào dân tộc, ăn xong đứng lên giơ chai rượu mầm thóc tự nấu đổi cho người bán cũng xong. Mỗi một quầy hàng chỉ thắp đủ một bóng điện có công suất nhỏ, vì nếu sáng quá lại mất thi vị. Khách ngồi sát bên nhau cùng thưởng thức hương vị các món nướng nơi đây. (Theo Nhân Dân)
|
|
|
Post by Robot on Mar 26, 2004 9:11:41 GMT -5
Măng đắng Đây là thứ sản vật dân dã và phổ biến đối với nhiều dân tộc ở khu vực miền núi phía bắc, đặc biệt là các dân tộc Tày, Thái, Mường... Măng đắng có thể chế thành nhiều món như xào mẻ, luộc, hầm xương, hấp quấn thịt vịt hoặc thịt lợn. Vào tháng Chạp, khi trời đổ mưa phùn, đó là lúc những củ măng vầu sau một giấc ngủ dài bắt đầu nhú khỏi mặt đất, tìm ánh sáng và nước mát của đất trời. Mùa xuân về, tiết trời trở nên ấm áp, làm cho sự sinh sôi trong các cánh rừng bỗng trở nên nhộn nhịp. Đây cũng là lúc những loạt măng vầu thi nhau vươn chồi và lớn nhanh như thổi. Đầu mùa, khi lượng mưa còn ít, măng vầu thường có vị ngọt xen lẫn vị đắng. Không hiểu sao, khi có tiếng sấm, mưa bắt đầu nặng hạt, măng vầu lại chuyển sang vị đắng một cách nhanh chóng. Từ những bụi vầu, những mầm măng nhú lên tua tủa, lúc này mùa măng đắng thực sự bắt đầu. Đến mùa măng người dân lại lục tục rủ nhau vào các cánh rừng vầu để lấy măng. Những búp măng dưới bàn tay chế biến khéo léo có thể trở thành các món ăn hấp dẫn như măng xào mẻ, măng luộc chấm mẻ, hầm với xương, măng hấp quấn thịt vịt hoặc thịt lợn... (Theo Nhân Dân)
|
|
|
Post by Robot on Mar 26, 2004 9:12:28 GMT -5
Chuối ngự đồng chiêm Ở ngoại thành Nam Định, và dọc bờ sông Châu Hà Nam, nhiều nơi nổi tiếng về trồng chuối ngự. Nhưng ngon nhất, vẫn là chuối làng chiêm trũng Đại Hoàng (Lý Nhân, Hà Nam). Quả chuối mềm nuột, mầu vàng nhạt, cắn một miếng, lộ ra ruột vàng sậm, thơm nức. Cây chuối ngự, theo các cụ kể ít ra đã có từ thời nhà Trần. Từ phủ Thiên Trường đến ngoại thành Nam Định, các làng xóm ở Hà Nam, nhiều vùng đất là quê hương, là thái ấp các vua quan nhà Trần. Những ông vua thương dân, đánh giặc giỏi, lại được dân quý trọng, trồng lên loại sản vật quý giá dâng vua: chuối ngự. Trồng chuối cũng kỳ công, từ mùa xuân năm nay đến mùa xuân năm sau mới ra hoa kết trái. Khác với cây chuối ngự trâu, quả to, ăn nhạt, chuối ngự thóc (hay còn gọi là chuối ngự mít) là loại được chọn tiến vua. Qua mùa bão táp mưa sa, cây càng phải gìn giữ kỹ. Mỗi cây có một cột tre làm nơi nương tựa. Ngay đến chăm sóc, chuối ngự cũng cầu kỳ, "ăn" sạch các loại bùn ao, nước gạo, dầu lạc, chớ không ưa các loại phân uế tạp. Chuối ngự đậu quả, không để chín cây mà phải giấm rất kỳ công. Lò giấm vách đất, chứa đựng mươi buồng, đủ nhiệt độ cho chuối chín mà không nẫu. Mùa chuối chín, hương thơm tỏa đầy ắp nhà. Quả chuối ngự xinh xinh, bụ bẫm, cuống thanh thanh. Các cụ ngày xưa ví như "búp tay cô gái" kéo sợi dệt vải quê đồng chiêm. Vỏ chuối vàng óng như lụa, bóc vỏ, ruột lộ ra liền. Quả chuối mềm nuột, mầu vàng nhạt, cắn một miếng, lộ ra ruột vàng sậm, thơm nức. Cái ngọt đậm đà đầu lưỡi. Mùa chuối ngự, ở chợ Rồng, chợ Viềng, mầu vàng sáng rực chợ. Cái mầu vàng làm say lòng Nguyễn Tuân khi thăm chợ Rồng: "Tơ chín vàng, chuối chín vàng. Mầu hoa hòe nở rộ vào mỗi mùa nhập trường thi chữ Hán ngày xưa, cũng khó mà đọ được với vàng chuối, vàng tơ của chợ Rồng chói lọi. Cái màu vàng giãy nãy lên ấy, tưởng chỉ có được trong nghệ thuật và tranh mầu". Tơ, lụa, chuối, theo Nguyễn Tuân, làm cả chợ rực sáng lên như nhuộm tắm trong một cái ráng trời óng lộng cuối mùa thu. Làng Đại Hoàng, đất của chuối ngự, cũng chính là làng quê của nhà văn Nam Cao. Nghe kể, thời đi dạy học đi viết văn ở Hà thành, Nam Cao rất nhớ món chuối ngự làng mình. Ông đi chợ, gặp chuối ngự là mua về, để thơm nức mới thưởng thức, như nhớ về rặng tre, vườn chuối thân thương. (Theo Nhân Dân)
|
|
|
Post by Robot on Apr 23, 2004 12:33:41 GMT -5
Quả sấu Hà Nội Ai đã từng sống nhiều năm ở Hà Nội đều có chút kỷ niệm vương vấn với quả sấu. Món quà đặc trưng này níu chân biết bao người, từ già trẻ, sang hèn... Sấu hiện diện ở khắp nơi, từ lọ ô mai góc phố đến mâm cơm gia đình. Lá sấu tán dày trở thành nơi trú mưa cho những ai đang đi đường gặp cơn mưa đột ngột. Hằng năm, chỉ trong mấy ngày tháng 4, lá sấu già nhất loạt lìa cành và ngay lập tức, lá non mơn mởn đã nhú ra ngay. Các tán lá sấu còn là nơi trú ẩn lý tưởng của lũ ve sầu sau khi từ dưới đất chui lên lột xác. Tháng 5, trên những con đường phủ đầy lớp hoa sấu, mỗi lần có cơn gió thổi qua lại rụng rào rào. Quả sấu từ lúc còn non cho tới khi chín vàng ươm đều hấp dẫn đủ mọi lứa tuổi. Quả sấu mới nhỉnh bằng đầu ngón tay cái, hột còn rất mềm, đã được cạo sạch vỏ, cắt khoanh, ngâm trong nước đường, thứ đường cát vàng vàng, thêm gừng giã nhỏ, đựng trong lọ thủy tinh thành món sấu dầm, là món quà hấp dẫn không chỉ lũ học trò nhỏ mà còn khiến bao nữ sinh tha thướt với bộ trang phục quần trắng áo dài đang đạp xe tới trường cũng phải ứa nước miếng thèm thuồng. Mấy năm nay, tại các quán giải khát bình dân, bên cạnh cốc chè đen đá, cốc thạch đen, thạch trắng, chân châu, chanh muối... ta lại được thưởng thức cốc sấu đá. Quả sấu xanh lớn hết cỡ đã gọt vỏ được cho vào nồi nước rau muống luộc để có bát canh chua, hoặc dầm vào bát nước mắm ớt chấm rau. Rồi bát canh chua thịt nạc, hoặc sườn nấu sấu còn bốc khói bày trên mâm cơm giữa buổi trưa hè nóng nực sao mà hấp dẫn. Nhưng quả sấu xanh “lên giá” nhất khi được các bà, các chị cạo sạch vỏ chế biến thành những quả ô mai chua chua, ngòn ngọt sau khi đã được ướp bao loại gia vị, rồi được sấy tới một độ khô vừa phải, sao cho quả ô mai vẫn mềm mà lại bảo quản được cho tới vụ sấu năm sau. Những ai đã từng nhiều năm ở Hà Nội, phải xa nơi đây, mỗi dịp hè về không khỏi nhớ nhung vị chua, vị ngọt của quả sấu chẳng khác gì thu về nhớ cốm làng Vòng và chuối chín trứng cuốc. (Theo Nhân Dân) Sấu dầm Hà Nội Khi cái nắng hè đã bớt gay gắt để nhường chỗ cho mùa thu mát mẻ thì cũng là lúc Hà Nội bước vào mùa sấu dầm. Đây là món đặc sản khó quên với bất kỳ ai. Trước hết phải chọn mua loại sấu già, vỏ đã chuyển sang mầu xanh sẫm, trái to vừa phải, cùi dầy, có độ chua cao, lại ít nhớt. Sau khi gọt vỏ ngoài, người làm dùng con dao nhỏ và sắc gọt xoáy tách phần thịt sấu ra khỏi hột và ngâm vào nước vôi loãng cho giòn. Khoảng một giờ sau, vớt sấu ra, rửa sạch bằng nước lã, ráo nước, rồi chần qua nước sôi. Đây là khâu đòi hỏi phải có kỹ thuật, khi chần phải nhanh tay nếu không sấu sẽ nhũn, ăn kém ngon. Sau đó, sấu được ướp với đường kính trắng. Thông thường cứ 1 kg sấu cần 300 gam đường, thêm vào một lát gừng tươi đã gọt vỏ và đập giập. Nếu gặp ngày trời nắng to thì chỉ phơi khoảng sau 5 giờ là sấu ngấm đường và tiết nước cốt. Chắt một chút nước cốt, thêm vào ba quả sấu cùng vài thìa đá đã đập nhỏ cho vào cốc thủy tinh khuấy đều cho đến khi nước sấu có mầu vàng nhẹ, trông thật đẹp mắt. Uống một ngụm nước sấu mát lạnh, bạn sẽ cảm nhận được vị chua chua thanh thanh của sấu, pha lẫn vị ngọt của đường và hương thơm thật dễ chịu của lát gừng. Hãy lấy một quả sấu dầm, bỏ vào miệng bạn sẽ thấy thịt sấu thật thơm, giòn tan và đậm đà khó quên. (Theo Văn Hóa Nghệ Thuật Ăn Uống)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 9:42:15 GMT -5
Cơm cháy Đây là món ăn lạ miệng, độc đáo. Từ lâu, cơm cháy ăn với nước sốt nóng từ tim, gan lợn là đặc sản của thị xã Ninh Bình, ai qua đây cũng muốn ghé lại "thử một miếng". Cơm cháy Cơm cháy chính là miếng "xém" lấy từ đáy nồi cơm do để già lửa. Cơm cháy có ở Ninh Bình từ bao giờ, chưa ai biết chính xác, nhưng theo một số cụ cao tuổi ở thị xã, món ăn này được những người Hoa sang làm thuê truyền lại. Quán cơm phở Hương Mai ở gần ngã ba chợ Đón, Ninh Bình là quán đầu tiên ở Ninh Bình có món cơm cháy. Từ những năm sau kháng chiến chống Pháp người ta thấy xuất hiện món cơm cháy ở đây. Khoảng chục năm gần đây cơm cháy được khách ưa dùng, nên các quán thi nhau bán món này. Muốn có cơm cháy chất lượng, đúng tiêu chuẩn cũng không phải dễ. Đầu tiên phải quan tâm đến việc chọn gạo: thường là gạo tẻ thơm dẻo, có thể pha thêm một tỷ lệ thích hợp gạo nếp hoặc tám thơm. Khi nấu cơm đổ vừa nước, vừa lửa như bình thường. Cơm chín vừa, không khô, không nát sẽ có xém ngon. Để tạo xém người ta thường dùng nồi gang dày (giữ nhiệt tốt). Khi cơm chín thì lấy ra, chỉ để lại phần dính đáy nồi và tiếp tục cấp nhiệt. Thời gian tạo xém khoảng vài chục phút là vừa. Nếu để lâu quá lớp xém sẽ quá dày, ngả mầu vàng mất ngon. Xoay tròn nồi cho nóng đều sẽ có lớp cơm cháy mỏng, trắng đều và tự bong ra khỏi thành nồi. Người ta lấy ra phơi hoặc sấy thật khô rồi đem bọc kín trong túi ni-lông dùng dần. Khi khách có nhu cầu, nhà hàng mới cho những miếng xém vào chảo dầu sôi chưng lên. Miếng cháy nóng hổi sẽ được vớt ra cho khách dùng cùng với món súp thường bằng tim, gan, cật lợn cũng nóng hổi. Bát cơm cháy sôi xèo xèo khói trắng ngùn ngụt bốc lên tỏa hương thơm ngào ngạt. Lúc ấy cơm cháy mới rã ra, ròn tan, đầy ấn tượng với những âm thanh, màu sắc, hương vị quyến rũ. Làm món súp cũng cần phải có kỹ thuật. Liều lượng bột dong phải vừa đủ để tạo độ sánh cho nước súp thấm sâu vào những miếng cháy. Ngoài ra, phải khéo gia giảm hành, gừng ớt... cùng những thứ ăn kèm theo sở thích của khách hàng. Điều đáng lưu ý là làm món cơm cháy cần thao tác nhanh mới bảo đảm được độ nóng sốt của món ăn này. Nếu chậm trễ chất lượng hương vị, âm thanh món cơm cháy sẽ giảm sút. (Theo Du lịch)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 10:40:16 GMT -5
Món ngon xứ Thái www.thanhnien.com.vn/TinTuc/DoiSong/AmThuc/2004/9/20/29717/am-thuc_A2.jpg[/img] Ai đã từng đến xứ Thái vùng Tây Bắc, từng đến thăm các bản làng của người Thái, hẳn sẽ không bao giờ quên được những món ăn mang đậm chất văn hóa Thái. Người Thái vốn mến khách, bất kể họ là ai, đã đến nhà là khách quý, đều được đón tiếp trọng thị. Đối với đồng bào dân tộc Thái, việc chế biến các món ăn hợp khẩu vị đã thật sự trở thành nhu cầu hàng ngày. Theo ý niệm của người Thái: “Làm ăn ngon miệng còn không biết thì mọi lời nói hay cũng chỉ là nói suông mà thôi”. Bình thường, người Thái hay nói đến 50 món ăn chủ yếu, cơ bản gồm hơn 300 thứ loại, chia làm 5 phần lớn khác nhau như căm chẳm (phần về chấm), căm nặm (phần về uống), căm cắp (phần về ghém), căm kin (phần về thức ăn), căm khẩu (phần về cơm). Về thứ tự xếp đặt, có thể thay đổi trước sau đôi chút, nhưng hầu như không thể thiếu phần nào. Mùa nào thức ấy, tùy điều kiện hoàn cảnh cụ thể cho phép ở từng lúc, từng nơi và tùy thuộc loại khách mà gia chủ sẽ lựa chọn cho phù hợp, với các hình thức chế biến thức ăn đặc sắc. Một số món ăn đặc trưng như nhộng ong, sâu măng, nhai trâu, bào thai sơn dương, trứng cá chiên, cơm độn trám, cơm lam, cá suối nướng, pho cá… Sau một ngày đường dài, bên vò rượu cần thơm, gia chủ và khách quây quần bên mâm cơm đầm ấm. Tiếng trò chuyện râm ran từ xế chiều cho tới đêm. Đêm đã về khuya, ngả mình trên tấm đệm hoa lau thơm thơm mùi cỏ mới, những mệt mỏi sau chặng đường dài chợt tan biến đi đâu để sớm mai về xuôi, lữ khách lại man mác nhớ về vùng đất Tây Bắc thân yêu. (Theo Báo ÐBP)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 10:49:46 GMT -5
Bánh đa làng Kế www.vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/Am-thuc/2004/09/3B9D6EF0/282.jpg[/img]Bánh đa làng Dĩnh Kế (Bắc Giang) nổi tiếng là đặc sản vùng sông Thương. Chiếc bánh to dầy vàng ruộm, phủ vừng thơm lừng, vị bùi, ngọt, là món quà quê được nhiều người ưa thích. Con đường vào làng Dĩnh Kế nhỏ và sâu. Trong từng nếp nhà, không nhà nào không có những chiếc phên nứa để phơi bánh tráng. Cả làng có trên một trăm hộ làm bánh đa. Trong một gia đình làm bánh, cả gia đình đều biết và thành thục với mọi khâu làm bánh chỉ trừ lũ trẻ bây giờ không còn có thời gian mà học cách quạt bánh gia truyền và nhiều công phu nữa. Đều đặn 5 giờ sáng hàng ngày, người dân làng Kế lại thức dậy để chuẩn bị nguyên liệu làm bánh, bắt đầu một ngày làm việc không ngơi nghỉ. Thường là một căn bếp rộng rãi. thoáng đãng đủ để cho hai cái lò hoạt động cùng với một cối xay bột và hàng loạt phên nứa. Nghề làm bánh đa của làng được truyền từ đời này sang đời khác, và bí quyết làm bánh chỉ được giữ riêng cho làng. Không vùng nào dù xa hay gần có thể làm được những chiếc bánh đa như chiếc bánh của làng Kế, dù họ có giữ công thức trong tay, và biết rõ từng công đoạn làm bánh. Chợ bánh đa ở ngã ba Kế lúc nào cũng họp, với các cô, các chị tay dẻo dai quạt bánh từ màu trắng nhóc thành màu vàng sậm, cong hình đai ngựa, thơm nồng mùi gạo pha lẫn mùi khói... Khách đến đây chỉ việc chọn lựa hàng bánh nào ngon nhất mà đem đi làm quà. Muốn có được những chiếc bánh ngon, người làng Kế đã đổ vào đấy bao nhiêu mồ hôi và công sức. Gạo tẻ đất Kế phải là thứ gạo để lâu, khi vo không vo kỹ, sau đó đem ngâm ba, bốn giờ đồng hồ, để gạo chua ở độ vừa phải, vớt ráo nước rồi đem vào cối xay. Người ta xay hai lần cho bột thật mịn, trắng, nhuyễn như nước, không còn gợn, không còn sạn. Cơm nguội cũng được đem xay cùng gạo. Bột làm bánh đa phải làm sao cho bánh có vị đậm thơm của gạo, vị bột đậm đà. Tráng bánh như tráng bánh cuốn. Chỉ khác là bánh được tráng hai lần làm cho bánh có độ dầy dặn, khi quạt bánh nở to. Nếu tráng bánh kém thì khi đem quạt, bánh sẽ chín không đều, chỗ bị quá lửa, chỗ lại mang vị dai của bánh sống. Chỉ đặt bột lăn vài giây trong nồi hơi cho hơi nước làm chín bánh, rắc vừng, lạc giã lên mặt bánh rồi dùng ống nứa to, đường kính khoảng 5 cái cuộn bánh đặt nhẹ nhàng lên phên nứa. Khi phên nứa đã đầy, người ta vác từng phên ra sân phơi nắng. Độ nắng nóng và thời gian phơi bánh cũng có con số nhất định, không đơn giản chút nào. Người ta phải kịp thời lật mặt bánh để bánh không dính vào phên. Luôn luôn phơi mặt bánh trắng lên trên trước, lật mặt vùng sau. Khi bánh đã khô, phải xếp chúng vào trong túi nilon, tránh ẩm ướt. Khó nhất của chiếc bánh đa Kế chính là khâu quạt bánh. Nhìn chị gái làng Kế một tay đảo qua đảo lại cái bánh đa trên mặt bếp than hồng, tay kia phe phẩy cái quạt nan lúc nhanh lúc chậm, lúc giơ cao, lúc chúc xuống, khi lấy nẹp tre dằn lên bánh đa, lúc lại lấy tay cuốn từng mép bánh... Những chiếc bánh sống qua đôi bàn tay khéo léo của người con gái làng Kế thoáng chốc phồng lên, giãn nở đều, chín rộp dần dần và cong lên khum khum như hình yên ngựa, từ từ chuyển sang màu vàng ruộm, vừng chín thơm lừng. Bánh đa kếSở dĩ có cái tên như vậy là vì có một khu chợ bán toàn bánh đa nướng ở ngã ba Kế, ven thị xã Bắc Giang. Dân làng Kế sống hầu hết bằng nghề làm bánh đa. Anh Đào Hồng, một người mà gia đình chuyên nghề này cho biết, khác với bánh đa Sầm Sơn (Thanh Hóa), bánh đa nước cốt dừa ở Quy Nhơn (Bình Định), công nghệ và nguyên liệu làm bánh đa Kế khác hẳn. Gạo làm bánh đa phải chọn loại gạo càng để lâu càng tốt. Khi vo, người ta không vo kỹ, để cho cám vẫn còn bám vào hạt gạo. Vo xong, gạo được đem ngâm, để gạo chua ở độ vừa phải, vớt ra, để ráo nước, rồi xay như xay bột gạo nước. Cẩn thận hơn, phải xay hai lần, cho bột thật mịn, thật trắng. Người ta thường thử bằng cách cho tay vào, thấy bột mịn, nhuyễn như nước, không còn gợn, không còn sạn trong tay là được. Cơm nguội (cơm nấu xong, dỡ ra để nguội), rồi cho xay cùng gạo - cũng xay hai lần. Tráng bánh như tráng bánh cuốn. Bánh chín bằng hơi nước. Nhưng khác với bánh cuốn, bánh đa Kế phải được tráng hai lần. Lần đầu tráng, bánh chín, còn ướt, để trong nồi, người ta lại múc tiếp bột nước đổ lên trên mặt, tráng tiếp lần hai. Chính cách tráng hai lần, khiến bánh nướng giòn, nở đều hai mặt, trông dày dặn. Bánh chín, dùng một ống nứa to, đường kính 5 cm, cuộn bánh, lấy ra phơi trên phên nứa. Trước khi phơi, rắc vừng đen, lạc sống (lạc sống giã giập) cho vừng, lạc "bắt" vào với mặt bánh. Lại có nhà cho lạc vào bột nước cùng tráng lên khuôn. Kỹ thuật phơi bánh cũng công phu. Phên phơi bánh bằng nứa, đan nong mốt. Khi bánh se mặt, phải kịp thời bốc để bánh khỏi dính vào phên. Lật sang mặt bên kia, phơi tiếp cho đến khô. Bánh được xếp vào túi nilông cho khô ráo, tránh ẩm ướt. Than để nướng bánh bao giờ cũng phải là thứ than củi. Người nướng, một tay cầm bánh, một tay cầm quạt. Kỹ thuật nướng cũng đòi hỏi sự khéo léo. Không được quạt mạnh quá, than bốc lửa, bánh dễ cháy mà không chín. Mà phải quạt như khi quạt nướng chả, đều tay, than đượm - "chín âm". Các bà, các chị khéo tay vừa quạt, vừa phải lật bánh luôn tay để bánh chín vàng rộm đều hai mặt, thỉnh thoảng dừng quạt, uốn chiếc bánh đang chín dần theo hình yên ngựa. Bánh võng ở giữa, vênh hai đầu, như hình yên ngựa, theo các cụ già sành điệu, đó mới là chiếc bánh đẹp, chứng tỏ người quạt bánh khéo tay, có con mắt thẩm mỹ. (Theo VHNT)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 10:52:52 GMT -5
Bún ốc Phủ Tây Hồ Ốc hồ Tây đang cạn dần, người làm bún ốc phải đi xa về các vùng quê khác để mua. Tuy nhiên, vẫn chưa có nơi nào có ốc ngon như ở hồ Tây. Trước khi bưng ra cho khách ăn, người làm hàng phải pha vào nồi canh một lượng dấm vừa đủ để khử mùi tanh. Theo các cụ già trong xóm Quảng Khánh (Quảng An - Tây Hồ ) thì bún ốc của vùng này có lẽ xuất hiện từ khi dân làng xây phủ thờ Bà chúa Liễu Hạnh. Thời kỳ đó, ốc Tây Hồ nhiều và ngon lắm, nhất là từ tháng giêng có mưa xuân, ốc đã béo và thời điểm đó cũng là lúc khách thập phương về phủ thắp hương Bà chúa Liễu. Bây giờ ốc hồ Tây đang cạn dần, người làm bún ốc phải đi xa về các vùng quê khác để mua ốc. Tuy nhiên, vẫn chưa có nơi nào có ốc ngon như ở hồ Tây. Theo các chủ hàng, có lẽ ốc ở Nam Định là khá hơn cả và hợp với khẩu vị của khách. Để đáp ứng nhu cầu ẩm thực ngày càng sành điệu của người Hà thành, nên người làm bún ốc lúc nào cũng phải chú ý tới việc chế biến, nhằm tạo hương vị độc đáo, hấp dẫn khách ẩm thực lâu dài. Cách làm bún ốc rất cầu kỳ: Trước tiên phải chọn mua được ốc và các đồ gia vị chính hiệu, ốc phải sống. Chọn bún Phú Đô thứ thiệt. Khâu chuẩn bị nguyên vật liệu tốt chiếm tới 50% sự thành công. Phải chọn loại ốc quế, con ốc to trung bình, màu vỏ óng vàng, béo tròn, miệng đầy. Khi đưa ốc về, có nhà nhập hàng tấn ốc một lúc, vì vậy phải biết cách bảo quản để ốc luôn tươi sống. Giữ được ốc tươi lâu mà vẫn giữ được độ béo, miệng lúc nào cũng đầy là việc rất khó. Cách tốt nhất là đổ ốc xuống nền nhà rộng, thoáng mát, hàng ngày cho ốc ăn bồ hóng. Khi làm ốc, động tác đập vỏ cũng phải hết sức thận trọng, để tránh thịt ốc không bị giập nát. Sau đó đem bóp muối để khử các chất nhớt và tanh, rồi ướp với các gia vị cần thiết (không nên cho mỳ chính). Khi nào có khách ăn mới đổ ốc vào chảo để chiên mỡ cho vừa chín tới, vừa dậy mùi thơm, vừa mềm thịt... Tuyệt đối không được để lọt một tý nào phần thịt thâm cuối của ốc và phần ốc đang có trứng. Nước dùng phải là nước sạch đã qua lọc cẩn thận, không được lấy nước trực tiếp từ giếng khơi, hoặc không được lấy nước máy còn mùi khử trùng hay chất sắt. Nước dùng càng trong càng ngon. Pha chế và cho gia vị cũng như các loại rau như lá lốt, xương sông, hành, răm, tía tô, húng Láng... cũng không được quá tiết kiệm. Nếu cho các loại đó không hợp lý, bát bún ốc sẽ không có hương vị đặc trưng. Trước khi bưng ra cho khách ăn, người làm hàng phải pha vào nồi canh một lượng dấm vừa đủ để khử mùi tanh của ốc. Còn một công đoạn nữa giúp cho bún ốc thơm ngon, ăn một lần nhớ mãi hương vị độc đáo hơn bún ốc ở các vùng khác là biết sử dụng một số dược thảo, mà chỉ có người vùng này biết. Để bún ốc là đặc sản của riêng vùng Tây Hồ, người dân ở đây rất thận trọng khi mở hàng bán bún ốc. Nếu không phải là người bản địa bán bún ốc, chắc chắn sẽ không trụ lại được lâu. Bà con vùng này thường khuyến cáo những người từ nơi khác đến mở hàng kinh doanh bún ốc tại đây nếu muốn trụ lại được lâu dài, nên sử dụng những người bản xứ làm đầu bếp.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 10:54:22 GMT -5
Bánh cuốn Thanh Trì (Hà Nội) Bánh cuốn Thanh Trì được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy. Món ăn ấy đã trở thành đặc sản được yêu thích nhất của vùng ngoại thành này. Gọi là bánh cuốn mà chẳng cuốn thứ gì hết, ấy là bánh cuốn Thanh Trì. Đó chỉ thuần là những lá bánh được tráng mỏng như tờ giấy, mướt như mạ non, xếp gọn gàng ngay ngắn từng lớp từng lớp trong lòng một chiếc thúng, trên phủ tàu lá sen hay lá chuối, lá dong. Bánh cuốn Thanh Trì không bao giờ nằm tòng teng trên hai đầu quang gánh. Người bán luôn đội thúng bánh trên đầu, ve vẩy đôi tay mà đi khắp ba mươi sáu phố phường Hà Nội. Sở dĩ bánh cuốn của miền ven ô Hà Nội mỏng mướt là nhờ bột xay thật nhuyễn. Những chiếc cối đá gia truyền mặt đá đã nhẵn lỳ, tay cầm bằng gỗ mít đã lên nước đen bóng, từ đời này sang đời khác đã biến những hạt gạo dẻo thơm thành thứ bột nước trắng ngần. Gạo phải tuyền loại gié cánh, tám thơm. Chẳng vậy mà có nhà nhất định không làm bánh cuốn từ gạo dẻo nhập khẩu tận Thái Lan. Bếp lò tráng bánh cuốn phải là bếp than, để lửa được đượm. Không ai chỉ bắc một cái bếp mà tráng bánh. Ít nhất phải ba bếp đỏ lửa. Xoong bột gạo được thẩm định kỹ lưỡng: loãng quá bánh nát, mà đặc quá, bánh dày mình ăn khí thô, lãi lời lại chẳng còn được là bao. Múc lưng muôi bột, dàn đều trên khuôn vải. Đậy nắp vung lại. Rồi nồi thứ hai, nồi thứ ba cũng thế. Quay lại nồi thứ nhất, lấy que tre xọc ngang một cái, nguyên một tờ gạo mong manh được nhắc ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại. Cứ thế tiếp tục. Xoong bột vơi và thúng bánh cứ đầy dần. Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Mẻ bánh bán buổi sáng cho người Hà Nội cầu kỳ khảnh ăn điểm tâm. Hạ chiếc thúng xuống dưới chân cột đèn góc phố, người bán hàng, bày ra giang sơn của mình. Người ăn ngồi xổm chung quanh thúng bánh. Dăm lá mùi xanh mướt, miếng chả quế hồng, miếng bánh trắng đục, tất cả cứ nhuần đi trong vị nước chấm. (Theo KT&ĐT)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 11:03:03 GMT -5
Đặc sản “Cốm làng Vòng” www.thanhnien.com.vn/TinTuc/DoiSong/AmThuc/2004/8/27/27488/com_A2.jpg[/img] Về Hà Nội, không ai không nhớ đến một thứ quà ngon nổi tiếng, thứ quà của lúa non. Cái thứ quà vừa dân dã vừa thanh tao đó có tên gọi là “Cốm làng Vòng”. Làng Vòng cách trung tâm Hà Nội về phía Tây Bắc độ dăm cây số, gồm có các thôn: Vòng Tiền, Vòng Hậu, Vòng Sở, Vòng Trung nhưng chỉ có hải thôn Vòng Hậu và Vòng Sở là làm cốm ngon. Ngày nay, Hà Nội được quy hoạch, mở rộng thêm, làng Vòng ngày xưa nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy. Mặc dù vậy, cái tên làng Vòng vẫn không mất đi trong tâm trí của mỗi người dân thủ đô bởi nó đã gắn liền với một đặc sản nổi tiếng. Đặc sản “Cốm làng Vòng” có từ lâu đời được làm từ nếp cái hoa vàng, một năm có hai vụ: vụ chiêm chỉ có cốm vào tháng tư. Vì đây là trái vụ nên cốm của vụ chiêm không mấy hấp dẫn. Muốn ăn cốm ngon phải đợi đến vụ mùa, bắt đầu từ tháng bảy đến tháng mười. Khi ấy là vào mùa thu, mùa của đất trời Hà Nội. Cũng không phải ngẫu nhiên mà thứ quả mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam lại cùng mùa thu Hà Nội đi vào thơ ca “Hà Nội mùa thu..., mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua...”. Cốm là thức quà riêng biệt của một đất nước. Thức quà ấy mang trong hương vị tất cả sự đảm đang, cần cù và sáng tạo của người dân làm nông nghiệp. Cũng như những thứ quà khác, cốm ngày xưa được làm ra với ý nghĩa ban đầu là làm quà sêu tết, tặng nhau. Ấy mới có chuyện những chàng rể xưa muốn lấy lòng bố mẹ vợ liền làm cốm đem biếu. Dần dần phát hiện ra thứ quà thanh nhã và tinh khiết ấy rất phù hợp với các việc lễ nghi nên người ta làm cốm để thờ cúng tổ tiên, lễ chùa và dùng trong đám cưới, đám hỏi của người Kinh Bắc. Cho đến nay, cốm Vòng được bán khắp các phố, chợ Hà Nội. Cứ mỗi mùa thu đến, lại thấy các bà, các chị làng Vòng quẩy đôi gánh xinh xinh, giắt đầy cây lúa non đã tuốt hạt, đi dọc các phố mà rao “Ai cốm đây”, nghe thật quen thuộc. Nói về cách thức làm cốm, tất nhiên là rất nhiều vùng quê biết làm nhưng phải thừa nhận rằng không có đâu làm được hạt cốm dẻo và thơm ngon bằng ở làng Vòng. Người làng Vòng làm cốm rất công phu. Đầu tiên họ trồng lúa, đợi đến lúc lúa khum ngọn, hãy còn sữa thì gặt đem về làm cốm. Lúa để làm cốm thì không được vò hay đập mà phải tuốt. Sau đó cho vào nồi rang. Cốm rang xong phải mang giã ngay, không được để nguội. Trong quá trình giã phải có kỹ thuật, không được giã mạnh tay quá cốm sẽ nát. Khi giã phải luôn tay đảo cốm từ trên xuống, dưới lên cho đều. Giã khoảng 10 lần thì đem cốm đi sáng và hồ, rồi đựng vào lá sen. Không hiểu sao người ta lại dùng lá sen để đựng cốm? Có lẽ thứ quà tinh khiết ấy phải được gói bằng lá của loài hoa “sạch sẽ”, “gần bùn mà chẳng hôi tanh” thì mới thấy hết được ý nghĩa của nó. Mặc dù đó chỉ là cách suy luận, song thực tế thì cốm được gói bằng lá sen thơm và ngon hơn khi ta gói bằng một thứ lá khác. Cốm thường được ăn cùng với chuối tiêu trứng cuốc nhưng ngon nhất vẫn là ăn với trái hồng chín đỏ. Và Thạch Lam trong cuốn “Hà Nội 36 phố phường” đã ví: “Cái màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, không gì hòa hợp bằng”. Có thể nói thương hiệu “cốm làng Vòng” đã nổi tiếng khắp ba kỳ. Thế nhưng, những năm gần đây Hà Nội đất chật, người đông, đất làng Vòng xưa kia trồng lúa giờ đã nhường chỗ cho những ngôi nhà cao tầng. Làng Vòng sầm uất hơn, náo nhiệt hơn nhưng không còn lúa để làm cốm nữa. Mặc dù lúa nếp để làm cốm giờ phải sang làng khác hoặc ra các huyện ngoại thành mua về, nhưng người làng Vòng vẫn cố gắng để giữ công nghệ làm cốm cũ. Dù có mai một đi nhưng thương hiệu “Cốm làng Vòng” vẫn giữ mãi trong nét đẹp văn hóa đất nước. Chính vì thế chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm phát triển một thương hiệu dân gian truyền thống, góp phần gìn giữ đặc trưng riêng của Hà Nội ngàn năm văn hiến. (Theo Du lịch Việt Nam)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 11:17:27 GMT -5
Trám - đặc sản dân dã Trám có vào mùa cuối tháng 7 đầu tháng 8. Trám có thể nhồi thịt, kho cá hoặc đem om cũng vẫn giữ vị bùi, béo. Bát cơm gạo mới trắng tinh có mấy miếng trám đen kho cá là cả một bữa tiệc đồng quê. Khi vải đã vãn trên đất đồi Lục Ngạn là lúc trám bắt đầu vào vụ ở quê hương ông Đề Thám. Cây trám không kén đất. Đất cằn cỗi, mới trồng trám. Yên Thế là quê hương của trám đen, hay còn gọi là trám sâm. Trám đen có hai loại: trám đực và trám cái. Trồng bảy năm cây mới bói vụ đầu, nhưng chỉ cây trám cái là có quả. Không có cách gì phân biệt được giữa trám đực và trám cái ngoài cách lựa hạt. Những cụ già trồng trám lâu năm mới có kinh nghiệm chọn hạt, nhưng cũng chỉ là tương đối. Vậy nên nhiều nhà trồng trám, đợi cả chục năm trời mới biết phải cây trám đực, lại phải thay lượt cây mới. Khi già, thân trám cao to là thế mà ruỗng cả. Nhưng người Yên Thế yêu trám, đã trồng cây cho quả là không chặt, chỉ đến khi mưa bão, cây đổ, họ mới bỏ. Có những cây trám cổ thụ xòe tán rộng đến vài chục hecta. Gần đây, trám đen Yên Thế đã xuất hiện tại nhiều nhà hàng ở Hà Nội. Người ta bổ trám làm đôi, nhồi thịt, trứng... rồi đem rán lên. Trám trở thành đặc sản. Thực ra, trám vốn là món ăn quá đỗi dân dã. Đổ trám vào xoong, đun nước nóng lên cho đến khi không còn nghe tiếng trám gõ loong choong vào đáy nồi thì bắc xuống, đậy vung, om chừng năm phút là có thể ăn được. Tưởng dễ, nhưng ai không quen, không chắc đã làm được. Nước nguội quá, trám không chín! Nước nóng quá, trám rắn đanh như đá. Người ta thử bằng cách để cho nước chưa kịp sôi, nhúng ngón tay vào thấy hơi bỏng là được. Người thôn quê dân dã chỉ ăn có vậy. Sang hơn thì bắt con cá dưới sông, đem kho với trám. Trám hút vị cá, vị riềng, ăn vừa béo, vừa bùi, thơm ngon hơn thịt. Bát cơm gạo mới trắng tinh có mấy miếng trám đen kho cá là cả một bữa tiệc đồng quê. VNE
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 11:25:08 GMT -5
Chả cốm Khi tiết trời chuyển từ hạ sang thu, cũng là lúc người dân thủ đô được thưởng thức hương vị của cốm, món quà quê dân dã, chỉ xuất hiện một lần trong năm, mỗi lần kéo dài 2-3 tháng. Khoảng vào đầu tháng 8 âm lịch, những người nông dân ở ven đô, lại cho cốm vào hai cái thúng và gánh tỏa đi khắp phố phường Hà Nội với tiếng rao "Cốm ơ...ơ...!". Người dân mua cốm về ăn hoặc chế biến các món ăn như: chè cốm, xôi cốm, kem cốm, kẹo cốm, chả cốm... Chả cốm là món ăn rất khác so với chè cốm, xôi cốm ở hương vị và cách chế biến. Nguyên liệu để làm món ăn này có cốm, thịt, giò sống. Cốm thô (cốm sống) gồm 3 loại: cốm đầu mùa (cốm lá me), hạt mỏng, mềm, dẻo thích hợp cho ăn chay hoặc ăn kèm chuối. Cốm giữa mùa dùng để làm chả cốm và cốm cuối nia hạt thường to, dầy, ăn hơi cứng, chỉ phù hợp cho việc nấu chè. Chọn cốm để làm món ăn là thao tác quan trọng, vì nếu chọn loại cốm không thích hợp sẽ làm chả cốm trở nên quá nát hoặc quá cứng. Thịt trộn cốm nên dùng nạc vai vì trong loại thịt này có mỡ giắt đảm bảo cho chả không bị khô hay bị hao khi rán. Nhiều bà nội trợ còn cẩn thận để 10 phút cho gia vị ngấm. Làm như vậy cũng được song nếu để quá lâu sẽ làm cốm nát, mất ngon. Nặn chả thành những miếng to bằng miệng chén uống nước. Đem miếng chả vừa nặn, hấp cách thủy 15- 20 phút. Sau khi hấp cách thủy cho chả vào chảo mỡ nóng già, vừa rán vừa lật đến khi vàng đều hai mặt gắp, bỏ vào lá sen non, không bỏ vào đĩa. Để giữ nguyên hương vị cốm, món chả không cho gia vị hành tỏi... Nhiều gia đình cho thêm phẩm hoa hiên để có màu sắc. Như vậy cũng được, nhưng để màu xanh của cốm vẫn hấp dẫn hơn.? Ăn lúc nóng sẽ cảm nhận được cái giòn tan của vỏ bên ngoài, cái dẻo đến dính răng của nhân bên trong, đậm đà của gia vị. Người ăn không chỉ ăn chả mà còn thưởng thức cả hương vị cốm, thoang thoảng hương vị sen.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 11:28:57 GMT -5
Hương vị ổi Bo Xã Hoàng Diệu (Thái Bình) nổi tiếng là quê hương của trái ổi Bo. Loại ổi này ăn giòn, ngọt đậm, thơm lừng. Giá bán của ổi Bo luôn luôn cao hơn các loại ổi khác từ 5.000-7.000 đồng/kg. Tương truyền rằng cách đây đã lâu lắm rồi, không còn ai nhớ đó là khi nào có một người đàn ông của làng Bo ra bờ sông Trà Lý hóng mát. Bất ngờ ông nhìn thấy một quả ổi trôi dạt vào chỗ ông đứng. Thấy lạ, ông mang về trồng tại đất vườn nhà mình. Chẳng bao lâu cây lên xanh tốt rồi đơm hoa kết trái, quả ăn ngon ngọt vị rất lạ. Người này truyền lại cho người kia cứ thế cây ổi được người dân trong đang trồng mỗi ngày một nhiều. Cũng từ đó làng Bo có giống ổi như ngày nay. Ổi Bo rất dễ trồng và được nhân giống bằng hạt. Để phân biệt ổi Bo với các loại ổi khác, khi mua ổi chớ tham to, quả ổi Bo chỉ nhỉnh hơn nắm tay, quả tròn và có ngấn, khi nhấc quả ổi thấy chắc nịch và nặng, rất đầm tay. Khi bổ đôi, lớp cùi của quả ổi Bo dày, hạt ít và mềm, dễ dàng ăn cả hạt. Khác hẳn với các loại ổi khác, ổi Bo ăn giòn, ngọt đượm và có mùi thơm đậm đà. Cũng là giống ổi Bo nhưng khi trồng ở vùng đất khác, quả không được thơm ngon mà thường thì chát hơn, rắn hơn và không to. Trong quả ổi Bo hội tụ đủ năm mùi ngọt, bùi, thơm, chát, mềm. Đến mùa thu hoạch, cây to có thể cho tới 70 kg quả/vụ, cây nhỏ từ 40 – 50 kg/vụ. Giá bán của ổi Bo luôn luôn cao hơn các loại ổi khác từ 5.000 - 7.000 đồng/kg. (Theo Tư Vấn Tiêu Dùng)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 11:32:36 GMT -5
Chè sen làng Mỹ Độ Chè sen Mỹ Độ. Người dân làng Mỹ Độ (Bắc Giang) có nghề làm chè sen lâu đời. Chè ở đây được ướp bằng sen bách diệp, loài thơm và hiếm nhất. Một nhúm chè trong ấm nhỏ cũng có thể làm ẩm khách có cảm giác như đang đứng trước một đầm sen bách diệp. Những cánh sen nhỏ xíu bằng ngón tay út đang nằm e ấp bao quanh nhụy vàng, đó là sen bách diệp. Trong khoảng ba tháng hè (từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 7 âm lịch), vào buổi sáng sớm, khi những tia nắng đầu tiên rọi xuống, khi gió của thiên nhiên ở thời điểm tinh khiết, trong lành nhất - những người làm chè sen làng Mỹ Đô lại chèo thuyền đi hái sen. Hoa sen nở rất nhanh. Phải lấy sớm vì khi đó hoa đang ở độ chúm chím, giữ được hương. Càng lấy sớm càng tốt. Nếu muộn chỉ khoảng 9-10h là cánh hoa bung ra hết, không còn hương nữa. Ướp chè cần nhiều thời gian và lòng kiên trì, quan trọng nhất là tinh thần thanh tịnh. Thời gian qua đi mà người ướp chè nơi đây vẫn luôn làm chè thật cẩn thận chứ không hề cẩu thả, dù để có được một lượt chè sen người ta phải cần đến đúng 9 ngày và nhiều sự tỉ mỉ khác. Công cụ làm chè đơn giản chỉ là mấy cái âu sành sứ hoặc những chiếc xoong nhôm đủ chủng loại lớn nhỏ để vừa với lượng sen có được; một cái sàng và một túi xi-măng 2 lớp, lớp trong cùng là một tờ giấy can sao cho không có khí bên ngoài lọt vào. Những chiếc âu và xoong để ướp chè với nhị sen; chiếc sàng để đãi nhị sen, giữ lại chè để tiếp tục cho một lượt nhị mới; còn túi xi-măng để sấy chè. Mọi thứ tưởng như hết sức đơn giản nhưng phải là người hiểu và quen thuộc với công việc lắm mới có thể tránh được những rủi ro do thời tiết hay sơ suất nhỏ đem lại. Một người dân trong làng kể: "Lần đầu mới học cụ ướp chè, mình không biết đậy kín xoong, lúc mở ra chè hỏng hết, đành phải đổ đi". Đó là những bí quyết gia truyền mà người dân làng Mỹ Độ phải học hỏi và lưu giữ bao lâu mới có được. Người dân nơi đây tự hào vì có được thứ sen quý, lại có công thức gia truyền độc đáo. Họ làm ra chè vì thế mà chỉ để dành cho những người biết thưởng thức và hiểu trà. Những người mua chè ở đây về chủ yếu để thưởng thức, để mời khách quý, để làm quà biếu ngày Tết, ngày lễ hay để gửi sang nước ngoài. Rất ít người không tự nhiên lại mua chè về để dùng, bởi vì giá một lạng chè sen ở đây không rẻ so với giá trên thị trường, vào khoảng 80.000 đến 100.000 đồng/lạng chè. Nhưng nó lại là rẻ so khi đem so nó với cái công và tâm huyết của người làm chè. (Theo Thời Báo Kinh Tế)
|
|