|
Post by Oshin on Jan 11, 2004 5:56:03 GMT -5
Thảo Khấu có một topic về những câu chuyện của hoa trên mạng TTVN. www.ttvnol.com/f_202/88319.ttvnBây giờ TK tập hợp chúng lại và post trên diễn đàn của chúng ḿnh nhé. V́ có rất nhiều bài nên TK sẽ post từ từ, mỗi ngày một chút hen. Ah, hôm nay (8-4-2004) TK vào TTVN đọc tin tức th́ thật bất ngờ khi thấy topic về hoa của ḿnh được giới thiệu trên chuyên mục F5 nè, cũng vui vui các bạn ha. "Chuyện kể các loài hoa"Một forum khá hay về hoa: forum.dalatrose.com/default.asp Mục lục
|
|
|
Post by Oshin on Jan 11, 2004 6:00:57 GMT -5
Lời Giao Cảm (Nguyễn Thanh Thủy) Ngôn ngữ tình yêu cũng là ngôn ngữ loài hoa Những cánh Tử đinh hương rực sáng trên bàn đón chào ta vào buổi sớm mai, hay những cánh Dạ lan hương tỏa ngát trong đêm tĩnh lặng. Một bó Linh lan để đón mừng ngày lễ hội, hay chỉ một chùm Kim ngân đơn sơ tô điểm cho một ngày bình thường trong đời; một cụm hoa Anh thảo để chia sẻ niềm vui hay chỉ một đóa Thủy tiên vỗ về nỗi buồn. Tuyệt vời hơn nữa khi mà mỗi loài hoa đều mang một ý nghĩa riêng ẩn chứa bên trong. Từ thuở xa xưa, hoa đã được dùng để truyền đạt những sứ điệp của tâm hồn. Người La Mã xưa tôn vinh các anh hùng bằng những vòng nguyệt quế, thần thọai Hy Lạp kể cho chúng ta nghe về sự tích các loài hoa. Trong tác phẩm Hamlet bất hủ, nàng Ophelia đã nói về ý nghĩa của những cánh hoa mà nàng ôm trong vòng tay, bởi lẽ đại văn hào Shakespeare vốn rất am tường về hoa. Các nhà thơ từ cổ chí kim đã không ngớt ca tụng vẻ đẹp của muôn hoa. "When words escape, flowers speak" Suốt bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, các loài hoa phong phú đa dạng luôn giúp ta diễn đạt tình cảm của mình mà không cần dùng đến lời nói hay chữ viết. Hãy gửi đi một dây Thường xuân để nói lên lòng chung thủy, và nếu có kèm vài bông Trường thọ sẽ là bức thông điệp đòi hỏi sự hồi đáp cho lòng thủy chung. Hãy gửi đi những đóa Cẩm chướng để nói lên nỗi lòng một kẻ si tình đau khổ. Còn hoa Thủy tiên ư ? Chính là tượng trưng cho lòng kiêu hãnh của người đã gửi chúng. Nếu hoa Hồng xứ Capcadơ là sứ thần tình yêu thì hoa Hồng Pháp là lời hẹn hò gặp gỡ dưới ánh trăng đêm, và hoa Hồng vàng lại có nghĩa là tình yêu đang dần nhạt phai... Hoa là tặng vật của Tạo hóa ban cho con người và là tặng vật của chúng ta cho nhau. Những cánh hoa mỏng manh đẹp tuyệt vời kia luôn thì thầm nói với chúng ta nhiều điều. Vậy thì, xin mời bạn đến đây cùng với những câu chuyện từ lời cỏ hoa.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 11, 2004 6:03:46 GMT -5
Ngôn ngữ của loài hoa(Nguyễn Bích Nhã - Châu Nhiên Khanh) Ngôn ngữ các loài hoa đã có tự ngàn xưa, từ khi trái tim con người biết rung những nhịp đập tình yêu đầu tiên. Nó hiện diện trong tất cả các nền văn hóa khác nhau. Người Hy Lạp được xem là những nhà chơi hoa sớm nhất. Những người hát rong, những nhà thơ, các chiến binh...tất cả được khen thưởng bằng những vòng hoa phù hợp. Người La Mã đã đặt ra lễ hội để tôn vinh các loài hoa hàng năm, từ hơn 600 năm trước Công nguyên. Ngôn ngữ của loài hoa đã sớm được nhiều nước châu Âu hiểu rõ và ứng dụng tài tình. Ý nghĩa các loài hoa rất được xem trọng. Trong suốt thời Trung Cổ, người hiệp sĩ có thể biểu lộ tình cảm của mình bằng cách đeo phù hiệu (bằng những bông hoa) của người tình trên chiếc mũ sắt. Và chính người phụ nữ đó cũng bày tỏ tình cảm của mình với anh ta qua các đóa hoa cài trên người. Người ta nói rằng, chính bà Mary Wortley Montagu, vợ của Đại sứ Anh tại Constantinople, đã đưa khái niệm ngôn ngữ các loài hoa của phương Đông vào Anh năm 1717 . Kèm với bức thư của mình, bà gởi một nụ Đinh hương, một cành Trường Thọ, một quả Lê, một bông Hồng, một cọng rơm, một cọng rơm, một miếng quế và một ít hột tiêu. Những bông hoa, trái cây và gia vị này là những biểu tượng khá bí ẩn, đã được hiểu như sau : Nụ đinh hương : "Em mảnh mai như nụ đinh hương này. Em là một đóa hồng còn nằm trong nụ. Tôi đã yêu từ lâu và em không hay." Cành trường thọ : "Đáng thương cho sự say mê của tôi !" Quả lê : "Hãy cho tôi một ít hy vọng ! " Hoa hồng : "Em có thể hài lòng, và nỗi buồn của em là của tôi ! " Một cọng rơm : "Tôi là nô lệ của em." Một miếng quế : "Số phận của tôi thuộc về em." Hạt tiêu : "Hãy gửi cho tôi một câu trả lời" Ngày nay, dựa theo đặc điểm nội dung của thông điệp muốn bày tỏ, tùy theo sự đa dạng của các loài hoa có thể có được, và tùy theo sự sáng tạo độc đáo của người gởi, chúng ta hoàn toàn có thể "nói" bằng ngôn ngữ của loài hoa. Và dĩ nhiên, một bông Hồng đỏ là cách đơn giản nhất để nói rằng "Anh yêu em". Biết thêm một ngôn ngữ là khởi đầu cho nhiều khám phá thú vị. Hơn thế nữa, ngôn ngữ của loài hoa lại là thứ ngôn ngữ của nghệ thuật, phong phú và đậm tính thi ca, có thừa khả năng biểu đạt cảm xúc và các tâm trạng thay đổi của chúng ta. Theo một từ điển về hoa được biên soạn từ đầu thế kỷ 19, khi gửi đi một thông điệp hoa, người ta phải tuân theo vài nguyên tắc cơ bản : "Khi một bông hoa được trao tặng với tình trạng tự nhiên của nó thì ý nghĩa sẽ được hiểu theo thể xác định, còn ngược lại có nghĩa là phủ định". Ví dụ, một nụ hồng có đủ cả lá và gai thể hiện nỗi âu lo nhưng kèm theo hy vọng. Nhưng nếu nụ hồng ấy bị tước bớt lá và gai, nó sẽ được hiểu là chẳng âu lo cũng chẳng hy vọng. Cũng với nụ hồng đó, nếu đã bị tước hết cả lá lẫn gai nó lại được hiểu là đang hy vọng và lạc quan nhất. Và khi người ta ngắt bỏ bớt các cánh hoa và giữ lại đầy đủ lá gai thì đó chính là nỗi niềm đang ấp ủ những lo âu sợ hãi tệ hại nhất. Cúc vạn thọ là biểu tượng của sự thất vọng (phương Đông thì lại quan niệm khác), để nó lên đầu có nghĩa là nỗi lo lắng của trí óc, đặt lên trái tim là nỗi đau của tình yêu, đặt lên giữa ngực là sự chờ đợi mỏi mòn. Đại từ "tôi" thường được thể hiện bằng cách nghiêng biểu tượng hoa về bên phải, và đại từ "bạn" thì nghiêng về bên trái.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 12, 2004 7:59:40 GMT -5
Hoa Thủy Tiên Vàng Tên Hán Việt : Ngọc Châu Kim Đài Tên cổ : Jonquil (hoa trường thọ) Tên tiếng Anh : Daffodil Tên tiếng Pháp : Narcisse des près Tên Latin : Narcissus sylvestris Hoa của tháng 3 - Hoa của mùa lễ Phục Sinh Ngụ ư : unrequited love, deceitful hope, great regard, respect Thông điệp : "You're the Only One", "The sun is always shining when I'm with you" Thông điệp của màu hoa vàng : chivalry Thủy Tiên, loài hoa thuộc họ gừng nghệ, có màu vàng dịu dàng, rất được các văn-thi sĩ yêu thích và ca ngợi. Tên tiếng Anh của Thủy Tiên hoa vàng là Daffodil, có lẽ bắt nguồn từ một chữ Anh cổ : Affodyle, nghĩa là người đến sớm. Ở vào thời của Shakespeare, loại hoa này có nhiều biệt danh như Daffodilly hay Lent Lily (hoa Loa Kèn mùa chay). Ở một số nơi, Thủy Tiên c̣n được gọi với nhiều tên khác như : Daffodowndilly, Daffley, Chalice... Có người cho rằng nếu giữ hoa này trong nhà sẽ gặp chuyện xui xẻo bởi v́ Thủy Tiên hoa vàng luôn rũ đầu xuống, có thể đem lại nước mắt và bất hạnh. Điều này cũng có thể bắt nguồn từ một truyền thuyết của thần thoại Hy Lạp. Déméter có một nàng con gái xinh đẹp là công chúa Proserpina, kết quả cuộc t́nh lăng mạn giữa nữ thần và thần Zeus. Một hôm, nàng Proserpina cùng các bạn dạo chơi trên thung lũng Nisa đầy hoa. Pluto là vị thần cai quản âm phủ, mặt mày dữ tợn, tóc sậm, vương miện bằng gỗ mun đứng trên chiếc xe do những con ngựa đen kéo, tay cầm quyền trượng có hai mũi nhọn. Khi đứng trên ngai vàng, dưói chân Pluto thường có con chó 3 đầu. Pluto nh́n thấy Proserpina và quyết định bắt cóc nàng. Pluto yêu cầu thần đất Gaia cho mọc lên những bông hoa h́nh loa kèn xinh đẹp lạ lùng, mùi hương tỏa khắp nơi. Proserpina nh́n thấy bông hoa, vội chạy đến, giơ tay định hái. Bỗng mặt đất nứt ra, Pluto xuất hiện. Trong nháy mắt, Pluto đă bắt dược nàng. Cỗ xe lao vút xuống ḷng đất. Proserpina khiếp sợ, chỉ kịp kêu lên một tiếng "Mẹ ơi" rồi buông rơi những đóa hoa và chúng lập tức biến thành Thủy Tiên hoa vàng ngay khi vừa chạm đất. Thần thoại La Mă cũng có một nhân vật tên Dis giống hệt như Pluto. Và v́ từ lâu, các văn thi sĩ đă xem Thủy Tiên như là một thành viên của họ hoa loa kèn nên họ c̣n gọi loài hoa này là "việc làm ám muội của hoa loa kèn của Dis". Ngày nay, người ta xem màu vàng tươi sáng của hoa như là một biểu tượng của sự hồi sinh-dấu hiệu cho sự bắt đầu mùa xuân. Thủy tiên được chọn là loài hoa của tháng ba - tiết xuân phân. Người ta cho rằng Thủy Tiên đem lại may mắn cho những ai tránh giẫm đạp lên chúng. Tuy nhiên, do e ngại nó có thể mang lại sự phù phiếm bất hạnh cho cô dâu, Thủy Tiên không bao giờ hiện diện trong đám cưới. Thủy Tiên vàng muốn nói rằng : "Mặt trời luôn chiếu sáng khi em ở bên anh". Thủy Tiên vàng biểu thị cho t́nh yêu đơn phương, ḷng yêu mến, kính trọng và tinh thần, phong cách hiệp sĩ. Cô đơn như vạt mây trôi Tôi đi qua núi qua đồi lửng lơ Hốt nhiên như một t́nh cờ Tôi may mắn gặp bất ngờ Thủy Tiên Bên hồ nương gió chao nghiêng Tán cây che thắm thêm duyên hoa vàng Tựa như sao sáng xếp hàng Rạng ngời lấp lánh thênh thang Ngân hà Dọc dài vô tận ngàn hoa Ngất ngây vũ khúc hoan ca rộn ràng...
Dơi theo tôi khắp giang hà Đôi mắt lóng lánh lời hoa nồng nàn Cô đơn, tôi với hoa vàng Hóa thân hạnh phúc muộn màng sóng đôi.(William Wordsworth)
|
|
|
Post by Oshin on Jan 13, 2004 3:21:38 GMT -5
Hoa Thủy Tiên TrắngTên Hán Việt : Ngọc Châu Ngân Ðài Tên tiếng Anh : Narcissus, White daffodil Tên tiếng Pháp : Narcisse des poétes Tên Latin : Narcissus poeticus Ý nghĩa : Yêu chính mình, tính ích kỷ(selfishness, egotism) Biểu týợng : sự sang trọng, kiêu sa Thông ðiệp : "My fond hopes have been dashed by your behavior", "Stay as sweet as you are"Thủy Tiên là loại cây có thân hành, nở hoa vào mùa xuân, có những chiếc lá mịn màng mọc thẳng và những ðóa hoa sáu cánh trắng nhý tuyết, nhị hoa nhý một cái ly màu vàng ở giữa, chung quanh mép viền một vòng ðỏ thẫm, hýõng thõm rất dịu. Cái nhụy hình ly nằm giữa bông hoa ðýợc cho là ðể dùng chứa nýớc mắt của chàng Narcissus bất hạnh theo truyền thuyết dýới ðây. Narcissus là một chàng trai hết sức xinh ðẹp, nhýng chẳng yêu ai ngoài bản thân mình. Chàng cho rằng chỉ có mình mới xứng ðáng với tình yêu của mình mà thôi. Có lần, ði lạc vào rừng, chàng gặp tiên nữ Echo. (Echo bị nữ thần Hera, vợ của thần Zeus trừng phạt ; nàng phải im lặng và chỉ ðýợc lặp lại những lời ngýời khác nói). Echo nấp mình trong rừng sâu, ngắm nhìn và say mê chàng. Narcissus nhìn quanh và cất tiếng hỏi : -Có ai ðấy không ? -Có ai ðấy không ? - Nàng Echo ðáp -Lại ðây - Narcissus gọi to. -Lại ðây - Echo ðáp. Nàng Echo býớc ra chìa tay cho Narcissus nhýng chàng ðã ðẩy nàng và phóng ngựa chạy mất. Nàng Echo ðau khổ chỉ còn biết âm thầm nhắc lại bất cứ tiếng gọi nào. Một ngày mùa xuân, Narcissus ðến bên một dòng suối ðể uống nýớc. Chàng sững sờ ngắm nhìn bóng mình dýới lòng suối. Chàng vẫy gọi rồi ðýa tay vuốt ve, bóng hình tan vỡ. Chỉ một dòng suối lạnh buốt ðáp lại. Gọi mãi, gọi mãi... Cuối cùng, vì quá yêu thýõng hình ảnh của chính mình phản chiếu trên dòng suối, Narcissus mỏi mòn dần, gục chết bên ðám cỏ xanh. Ở nõi chàng gục xuống, bỗng mọc lên một bông hoa trắng muốt, thoang thoảng hýõng thõm. Ngýời ta gọi ðó là hoa Thủy Tiên. Còn nữ thần Echo vốn yêu say ðắm Narcissus nhýng không ðýợc ðáp lại nên cũng ðã héo hon tàn tạ dần cho ðến khi chỉ còn âm thanh của nàng výõng vấn nhớ nhung trên cõi trần gian. Phải chãng do sự tích này mà Thủy Tiên ðýợc coi nhý biểu týợng của sự kiêu sa và quá yêu thýõng bản thân mình. Các cô gái khi ðýợc tặng hoa Thủy Tiên hẳn sẽ bối rối : ngýời ðã gởi nó chỉ luôn chú ý tới chính anh ta nhiều hõn. Ðất hoang em vẫn phiêu bồng Một cành hoa trắng yêu kiều dễ thýõng Trời xanh cây cỏ týõi cýời Hoa kia ấp ủ nỗi phiền muộn xýa Tình yêu cay ðắng muôn vàn Bên dòng suối ngọc bàng hoàng lệ rõi (John Keats) ****** Trên ðây là quan niệm phýõng Tây về hoa Thủy Tiên. Phýõng Ðông lại có một truyền thuyết khác, từ ðó hoa Thủy Tiên cũng mang một ý nghĩa khác. Có một thanh niên là con út trong một gia ðình ðông con sống ven biển. Sau khi cha mẹ chết, anh ta bị các anh chèn ép chỉ ðýợc chia một mảnh ðất nhỏ dýới chân ðồi cằn cỗi. Trái với các anh, anh này rất chãm chỉ hiền lành, việc ấy ðộng ðến trời ðất. Anh ðýợc một ông tiên từ dýới biển hiện lên cho một nắm hạt, dặn ðem trồng trên mảnh ðất ðó. Sau quả nhiên, cây mọc xanh týõi, cho một thứ hoa thật quý, nãm liền nãm, hoa cho không dứt. Anh ta trở nên giàu có. Ðể nhớ õn tiên ông, anh ðặt tên cho hoa ðó là hoa Thủy Tiên. Theo quan niệm phýõng Ðông, ðây là loại hoa rất tiên cách, cây ðẹp từ rễ ðến hoa. Thời trýớc, chỉ có những ngýờigiàu sang quyền quý hay quan lại hoặc các bậc khoa mục mới chõi loại hoa này. Thủy Tiên quý là giống hoa trắng ðõn, vừa ðẹp vừa thõm. Cây hoa Thủy Tiên (ở Việt Nam) có nguồn gốc từ vùng Hoa Nam - Trung Quốc và Nhật Bản. Tại Nhật, nó mọc thành thảm lớn ở các vùng ðồi thấp ðất tốt và ẩm. Ngýời ta cho rằng hoa nở ðúng giao thừa là ðiềm báo một nãm thật tốt lành cho chủ nhân. [Từ nãm 1920-1946, hằng nãm, ðền Nghè (còn gọi là miễu Ngàn, ở Hải Phòng, thờ nữ týớng Lê Chân) mở hội thi hoa Thủy Tiên (chỉ dự thi hoa cánh trắng ðể tỏ lòng tôn kính) ðể dâng cúng nữ anh hùng vào ngày 8-2 âm lịch, ngày Khánh ðản của nữ týớng, và kéo dài trong 3 ngày (Hoa Hữu Hội)].
|
|
|
Post by Oshin on Jan 15, 2004 1:09:08 GMT -5
Iris - Hoa Diên Vĩ Sứ điệp Hạnh Phúc
Ý nghĩa : Lòng trung thành, sự khôn ngoan, lòng dũng cảm, niềm hy vọng. Thông điệp : "Promise", "I have a message for you", "Your friendship means so much to me", "My compliment to you". Symbol of Idea & Message Rainbow IrisNhững sắc màu nhẹ chuyển đổi đó đây Của báu vật tuyệt vời trong vũ trụ Chính là hoa Diên Vĩ phía trời tây Bắc ngang chiều chiếc cầu vồng tình tự.(John Arrington) Tiếng Hy Lạp, "Iris" có nghĩa là Cầu Vồng. Trong thần thoại Hy Lạp, Iris là tín sứ của thần Zeus và nàng thường xuất hiện dưới hình một chiếc cầu vồng. Nàng là người đưa tin trên đỉnh Olympus, Iris mang thông điệp của các vị thần linh từ "con mắt Thiên Đường" xuống cho nhân loại trên trái đất qua vòng cung cầu vồng rực rỡ. Từ Iris cũng có nghĩa là "con mắt Thiên Đường" (the eye of Heaven). Iris, như ta đã biết, là tên của một nữ thần Hy Lạp, một loài hoa, và nó còn có nghĩa là tròng đen trong con mắt chúng ta. Điều này ngụ ý rằng mỗi chúng ta đều mang trong mình một mảnh của Thiên Đường. Những người đàn ông Hy Lạp thường trồng hoa Diên Vĩ tím trên mộ những người phụ nữ mà họ yêu thương để tỏ lòng tôn kính nữ thần Iris, người mang sứ mệnh dẫn dắt những linh hồn phụ nữ này đến chốn Thiên Đàng (the Elysian fields). Diên Vĩ là loài cây lưu niên có thân thảo vươn cao, lá hình lưỡi kiếm và những đóa hoa to nhiều màu sắc với ba cánh và ba đài hoa rũ xuống. Có hơn 200 loài hoa Diên Vĩ xinh đẹp khác nhau với các màu xanh da trời nhạt, tím, vàng, trắng, hồng, cam, nâu đỏ...đa dạng như màu sắc cầu vồng. Hoa Diên Vĩ được xem như sứ giả mang đến những điềm lành. niềm hy vọng. Ba cánh hoa Diên Vĩ đại diện cho lòng Trung Thành, sự Khôn Ngoan và lòng Dũng Cảm. Hoa Diên Vĩ vàng là biểu tượng của ngọn lửa và niềm đam mê Hoa Diên Vĩ đã từng được thấy ở sa mạc, đầm lầy hay cả miền Bắc cực Siberia lạnh giá, nhiều nhất vẫn là ở các vùng khí hậu ôn hòa. Hoa Diên Vĩ thường được vẽ trong những bức tranh tĩnh vật, như của các danh họa Vincent van Gogh, Monet...Có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và phía Nam Châu Âu, hoa Iris đã từng được những người Hy Lạp cổ đặt trên trán của Nhân Sư và trên vương trượng của đức vua xem như là biểu tượng của quyền lực. Vào năm 1479 trước Công Nguyên, ở Ai Cập, để ghi nhớ chiến công tại Syria, vua Thutmose III đã cho vẽ những bông hoa Diên Vĩ trên bức tường ngôi đền thờ của mình. Nhà thờ La Mã xem hoa Lily là hiện thân của Đức Mẹ Đồng Trinh. Do có ba cánh đặc biệt, fleur-de-lis cũng được làm hình ảnh tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi linh thiêng (the Holy Trinity). Hoa Diên Vĩ đã là biểu tượng của hoàng gia và sự che chở thần thánh suốt hàng thế kỷ trên khắp thế giới. Loài hoa đầy sức thu hút này được rất nhiều người ngưỡng mộ. Các vị vua chúa nước Pháp đã dùng nó làm biểu tượng hoàng gia và gọi nó là Fleur-de-lis. "Fleur-de-lis" có nguồn gốc từ tên "Fleur-de-Louis", sau thời vua Louis VII, năm 1147. Theo thời gian, tên đó chuyển thành "Fleur-de-luce", có nghĩa là hoa của ánh sáng (flower of light), cuối cùng đến ngày nay, nó được gọi là "Fleur-de-Lys", hay Flower of the Lily (Lily : Hoa Huệ Tây, Loa Kèn, Bách Hợp). Fleur-de-Lis đã là biểu tượng của nước Pháp từ thế kỷ 13. Hoàng gia Pháp trang trí hoa Diên Vĩ trên áo choàng, các đồ vật trong cung điện và trên những bức tường như biểu hiện của sự toàn bích, ánh sáng và cuộc sống. Có nhiều truyền thuyết khác nhau giải thích tại sao hoa Diên Vĩ được chế độ quân chủ Pháp chọn làm biểu tượng . Tương truyền rằng, Clovis, vua nước Pháp triều đại Mêrôvê khi đối mặt với đội quân thiện chiến của Alamanni (Đức) đến xâm chiếm vương quốc mình, ông đã nói với hoàng hậu Clotida rằng ông sẽ theo đạo và chịu rửa tội nếu như Chúa phù hộ ông đánh thắng trận đấu này (trước đó hoàng hậu đã nhiều lần khuyên chồng mình vào đạo nhưng ông vẫn không nghe). Cuối cùng, ông thắng thật và nhận fleur-de-lis làm biểu tượng. Tiếp đó, vào thế kỷ 12, vua Louis trở thành hoàng đế nước Pháp đầu tiên khắc họa hoa Diên Vĩ trên chiếc khiên của mình. Nữ anh hùng nước Pháp, Joan of Arc (Jeanne d'Arc) đã mang theo lá cờ trắng có biểu tượng Chúa hộ mệnh của hoàng gia (hoa Diên Vĩ ) khi bà đánh bại quân Anh tại Orléans (1429). Ở Nhật, hoa Diên Vĩ tượng trưng cho chí khí anh hùng và dòng dõi quý phái. Hoa Diên Vĩ là một phần quan trọng trong lễ hội mùa xuân dành cho các bé trai. Vườn diên vĩ Nhật Bản Được xem như một loài hoa thiêng, người ta tin rằng hoa Diên Vĩ có khả năng chữa bệnh và đã được dùng làm thuốc từ thời xa xưa. Vào thế kỷ đâu tiên sau Công Nguyên, vị y sĩ Hy Lạp Dioscorides đã đưa ra bài thuốc dùng rễ cây hoa Diên Vĩ uống với mật ong, giấm hay rượu vang để chữa ho, cảm lạnh, khó tiêu và chứng đau thần kinh tọa. Rễ cây hoa Diên Vĩ cũng được dùng để tạo hương thơm.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 15, 2004 17:54:17 GMT -5
Hoa đàoTrương Diệp Từ cổ chí kim, văn chương viết về hoa đào thật phong phú, nhiều màu vẻ. "Đào chi yêu yêu" trong Kinh Thi tượng trưng cho hôn nhân hạnh phúc và đẹp ("Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa" - "Cây đào mơn mởn, nở hoa rực rỡ" - tả cảnh mùa Xuân hoa đào nở rực rỡ, như đồng điệu, đoạn sau tả cảnh ngày cưới tràn đầy sướng vui). Bài thơ "Nhân diện đào hoa" của Thôi Hộ thể hiện sự si tình và nhớ nhung thương cảm. "Từ chôn hoa" của Đại Ngọc làm cho hoa đào có cái vẻ đẹp thê thảm, bi thương. "Trường An cổ ý" của Lư Chiếu Lân làm cho hoa đào có cái vẻ đẹp đài các. Trong "Tả truyện", câu chuyện Tề tướng công tặng hoa đào cho Văn Khương rồi hai người yêu nhau, làm cho hoa đào mang màu sắc lãng mạn. "Hoa đào chùa Đại Lâm" của Bạch Cư Dị làm cho hoa đào phảng phất mùi thiền. "Quạt hoa đào" của Khổng Thưởng Nhiệm làm cho hoa đào mang tính lịch sử và bi tráng. "Đào hoa nguyên ký" của Đào Uyên Minh làm cho hoa đào đi vào cõi lý tưởng như mộng như tiên, cao nhã mỹ lệ... Đọc cái này tự nhiên lại nhớ câu hát trong phim Hồng Lâu Mộng :
Em là bông hoa kì lạ Anh là hòn ngọc sáng trong Nếu rằng không phải duyên nhau Đời sao lại gặp đúng anh đây Nếu rằng quả là duyên nhau Thì sao tình lại tan thành khói mây...
Em nhớ ngày xưa mình đã khóc khi xem đoạn nàng Đại Ngọc chôn hoa, và nhất là khi nàng chết trong đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn vào đúng đêm tân hôn của người yêu ! Em cũng đã khóc khi nhìn thấy trong phim, Vương Hy Phượng chết bị kéo đi trên tuyết lạnh trắng xóa, tiếng nhạc như xoáy lòng người, và các thước phim lần lượt quay ngược lại những hình ảnh một cuộc đời thăng trầm của một người đàn bà đẹp, tài ba, sắc sảo với đầy đủ vinh hoa phú quý, quyền lực thời hoàng kim, vậy mà đến hồi sa cơ lỡ vận thì tất cả như một giấc mộng tan... Khoan xét tội, xét công gì hết...
Lâu rồi em không có xem trọn vẹn một bộ phim nào, tivi cũng chẳng theo dõi, chỉ có xem tin tức thời sự mấy hôm nay. Lâu rồi em không khóc nữa. Hình như cũng có nhưng mà chả thấm vào đâu với ngày xưa . Nên buồn hay vui đây ?
Trầm tĩnh hơn thì tốt nhưng đừng bao giờ để lòng "chai sạn" nhé ! Tự nhắc, tự nhắc...
|
|
|
Post by Oshin on Jan 15, 2004 17:58:01 GMT -5
Hoa Anh Đào Biểu tượng Nhật Bản Tên tiếng Nhật : Sakura Tên tiếng Anh : Cherry blossom Sakura là quốc hoa của Nhật bản. Đặc điểm của nó là rơi trong khi còn đương độ tươi thắm. Hoa anh đào tượng trưng cho tinh thần võ sĩ đạo - samurai - biết chết một cách cao đẹp. Nhật Bản có câu : " A flower is a cherry blossom, a person is a Samurai" (Nếu là hoa, xin làm hoa anh đào. Nếu là người, xin làm một võ sĩ đạo) . Điều đó có nghĩa là, khi một võ sĩ đạo đối mặt với hiểm nguy, anh ta không run sợ trước cái chết, bởi vì, giống như hoa anh đào, anh ta sẽ tự đâm mình và gục xuống ngay lập tức, không ngần ngại. (Ghê quá !!!). Đối với người Nhật Bản, hoa anh đào không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao mà còn là nỗi buồn về sự ngắn ngủi, phù dung và tính khiêm nhường, nhẫn nhịn. Cây hoa anh đào đem tặng được xem như biểu tượng hòa bình của nước Nhật với các nước khác trên thế giới. Hoa anh đào mọc ở Triều Tiên và Mĩ không có mùi hương. Trong khi đó, ở Nhật Bản, người ta ngợi ca hương thơm của hoa anh đào trong những vần thơ. Trong ngôn ngữ Nhật, nhất là trong thơ ca, chữ ''hana'' (hoa) và ''sakura'' hầu như đồng nghĩa. Hoa anh đào nở báo hiệu mùa xuân đến. Suốt tuần lễ thứ hai của tháng Tư, lễ hội hoa anh đào được tổ chức khắp nơi đón mùa xuân mới và mọi người tụ tập trong các buổi tiệc ngắm hoa ''ohanami'' (flower viewing) parties.Dưới những tán cây anh đào trùng điệp muôn ngàn bông hoa hồng nhạt, người ta uống rượu sakê và ca múa, liên hoan thật vui vẻ. Bài hát của trẻ em về hoa anh đào Sakura Sakura (Tiếng Nhật) Sakura ...... sakura ......... noyamamo satomo Miwatasu kagiri Kasumi-ka kumo-ka .... asahi-ni niou Sakura .... Sakura..... Hanazakari
The Cherry Blossom Song [/b] (dịch sang tiếng Anh) Cherry Blossoms, cherry blossoms. On mountains, in villages. As far as you can see. They look like fog or clouds. They are fragrant in the morning sun. Cherry blossoms, cherry blossoms. In full bloom.
Hoa anh đào
Hoa anh đào, hoa anh đào. Trên núi rừng, trong xóm làng. Khắp nơi mà bạn có thể thấy được. Chúng giống như sưong mù hay những đám mây. Hoa anh đào ngát hương dưới ánh mặt trời buổi sáng. Hoa anh đào, hoa anh đào. Nở rực rỡ.***** Sakura - Mùa hoa anh đào ở Nhật Bản(Edward Fowler) [/center] Sau 51 tuần bị lãng quên trong năm, cây hoa anh đào lại được người ta nhớ đến. Loài cây giản dị có độ cao trung bình với lớp vỏ và lá cây mộc mạc này không có cái vẻ hùng vĩ của cây thông, vẻ rực rỡ của cây mận và vẻ duyên dáng của cây liễu, song hoa anh đào nở rộ trong một tuần của mùa xuân lại phù hợp với tính đa cảm của người Nhật tới mức hoa anh đào đã trở thành đồng nghĩa với thế giới của loài hoa (Hana). Cùng họ thực vật với hoa Hồng, những bông hoa Sakura nhỏ nhắn không hương vị trở nên mờ nhạt trước những bông hoa rực rỡ đầy hương sắc có họ hàng xa của mình. Sakura là hoa của các nhà thơ, chứ không phải hoa của họa sĩ. Nếu bị tách ra trên giá vẽ của các họa sĩ, nó cần tới sự phân biệt rõ ràng của hoa Mẫu Đơn, hoa Trà hay hoa Cúc. Còn trong những vần thơ ngắn, người ta không ngớt lời ngợi ca hoa anh đào khiến nó trở nên một phần quan trọng trong tinh thần người Nhật Bản. Những cánh hoa màu hồng nhạt của một cây hoa anh đào đơn độc là một bài học về sự cô đơn, giống như một người Nhật Bản đơn độc vậy. Nhưng nếu đứng trong cả một rừng hoa nở rộ, giống như những người Nhật Bản đoàn kết lại với nhau, thì nó sẽ trở nên tràn đầy sức sống và bao trùm cả cảnh quan. Thực ra, một cây với muôn ngàn bông hoa của nó đã là một cảnh đẹp rồi, song, tầng tầng lớp lớp cây nọ nối cây kia trên bờ hào, bờ sông, trên những con đê, bãi cỏ thì quả là một bức tranh tuyệt tác. Người Nhật Bản quên mình đi trước vẻ đẹp tập thể của hoa anh đào. Và khi cùng quần tụ dưới bóng hoa, họ quên đi những gì là của riêng mình. Họ uống rượu, hát và nhảy múa. Họ hét toáng lên, tranh luận với nhau ầm ĩ và cười nắc nẻ. Theo tinh thần của mùa hoa anh đào, mỗi năm một lần, người Nhật Bản dành trọn vẹn mình cho một cuộc vui chơi thoải mái, thổ lộ hết mình như một ánh sao băng lóe sáng vậy. Tuy nhiên, ẩn dưới cái đẹp của mùa hoa là những vần thơ bất hủ mà thiếu nó, Sakura không thể chiếm lĩnh được trái tim của người Nhật Bản đến như vậy được. Ngay khi đạt đến độ nở đẹp nhất của mình, những bông hoa Sakura bắt đầu rụng xuống theo những cơn gió xuân bất chợt và trải xuống theo những giọt mưa xuân. Hoa anh đào rụng một cách khoan dung, buồn bã và hùng hồn. Khoan dung vì chỉ sau vài ngày rộ nở, bông hoa bắt đầu tàn héo. Buồn vì những cánh hoa rụng xuống, theo truyền thống, vẫn nhắc người ta nhớ tới những cuộc đời ngắn ngủi. Hùng hồn vì bông hoa có cuộc đời ngắn ngủi này đã khẳng định một nét thẩm mĩ rất tự hào của người Nhật Bản, rằng những gì đẹp trong thiên nhiên cũng như trong cuộc đời thường hiếm khi tồn tại lâu, rằng chính sự tàn phai sớm cũng là một nét đẹp, và rằng nỗi luyến tiếc về những cuộc đời đã tắt lụi đúng ở đỉnh cao rực rỡ của nó chính là cái đẹp cao cả nhất.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 17, 2004 5:48:25 GMT -5
Cây Mai ngày TếtLê Việt Điểu Qua khỏi cầu Bình Lợi, trên quốc lộ số 1 hướng về Thủ Đức là những khu vườn sầm uất với các loại cây ăn trái như mãn cầu, bòn bon, lê kei ma, ổi… và đôi khi có nhà vườn trồng đôi ba gốc chôm chôm và dâu da. Nơi đây là những khu vườn tư nhân không phải là nơi thương mại như các vườn cây Lái Thiêu. Các khu vườn nầy đôi khi có những con lạch nhỏ chảy qua và những gốc dừa xiêm cao không quá bức tường thành ngăn cách đường xe lửa xuyên Việt chạy qua khu vực. Những khu vườn nằm trên quốc lộ số một bên kia sông Sài Gòn không xa đô thành là mấy, như mang một vẽ khác hẳn với chốn thị thành. Những làng quê, nửa chợ nửa quê, là nơi vui thú điền viên của các chủ nhân một thời chen chân trong chốn bụi hồng. Tuy nhiên, phần lớn các gia chủ là những nông dân, tiểu thương gia, hoặc một đôi căn là nhà từ đường của giòng họ. Nằm dọc theo sông Sài Gòn về hướng Bình Triệu, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một còn có những khu vườn nho nhỏ xinh xinh trồng hoa kiểng bán Tết. Trong những khu vườn đó có những khu vườn trồng rặt một loại: Hoa Mai. Hoa Mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiêt đới rất thích hợp môi trường cho Hoa Mai đơm bông nẩy lộc mỗi dịp Xuân về Tết đến. Khác với miền Bắc, khí hậu có phần nào lạnh lẽo hơn, thích hợp cho Hoa Đào khoe sắc. Đào đỏ, mai vàng. Màu đỏ thăm tươi biểu tượng cho sự vui mừng; màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang. Tại nước Việt màu vàng còn tượng trưng cho Vua (thời phong kiến) Màu vàng thuộc hành Thổ trong ngũ hành- Thổ nằm ở vị trí Trung Ương, và màu vàng cũng tượng trưng cho nòi giống Việt. Không ngạc nhiên dân Việt chuộng mai vàng cho ngày đầu năm tại phương Nam. Nói đến hoa Mai sách vở và trong dân gian chia Mai làm mấy loại: Khánh khẩu mai: Mai trồng ở vùng núi Khánh Khẩu (Có lẻ ở bên Tàu) Hà Hoa mai: Cánh mai giống cánh hoa sen ôm tròn vào nhụỵ Đàn Hương mai: Mai vàng màu sậm, nhiều hoa, hương thơm nồng, nở sớm. Ban Khấu mai: Cánh hoa cong cong, không nở xòe như các loại khác. Cẩu Đăng mai: Hoa nhỏ không có hương thơm. Không biết từ lịch sử nào trong dân gian có những phân chia như vậy về Mai. Tuy nhiên, theo sự thông tục bình thường, người chơi mai, mua mai chỉ chú đến 2 loạị Mai Tứ Quý, nở bốn mùa có năm cánh, bông to, và một loại Mai có mười cánh, bông nhỏ hương thơm. Khi chọn mua một cành mai về chưng trong ba ngày Tết, người mua thường để ý các điểm sau đây. - Những cành mai có dáng đẹp, với các hình dáng một gốc “lão mai” gốc to, da sần sùi, mọc rong rêu càng tốt, nhánh khẳng khiu và có thể có những hình thể như: Chân quỳ, Hạc bay, Phụng Hoàng… Ngoài những nét trên, người mua mai còn chú trọng đến sự phân chia các nhánh trên một gốc mai. Nhánh to, nhánh nhỏ, sự sắp xếp các nhánh. Có thể phân chia tên gọi tùy sự phong phú của các tay chơi mai chuyện nghiệp. Nhìn chung có các điểm cần chú ý khi lực một nhành mai: Các cành phân chia thứ lớp, bông rải đều, nhánh to khỏe, nhánh uyển chuyển, nụ bụ bẩm, lá non vừa nhú. Ngoài ra các người chơi mai chuyên môn còn phân biệt thêm nhiều thứ phụ khác nữa mà chỉ có các nhà ấy biết mà thôi. Thí dụ như Nhụy Âm Dương, Cành Tứ Quý. Nhụy âm đương là chỉ đạo vợ chồng phu phụ, cành từ quý chỉ bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông…v.v. Đặc biệt là các nhà nho học chơi mai rất công phụ Một cành mai nở không đúng vào dịp Tết, mai vừa nở đã rụng, hoặc các nhánh phân bố không hợp cách là xui xẻo cả năm (Người chơi mai tin như vậy). Nói chung do sự nhân cách hóa mà con người đã đặt vào cây mai khi đem bày trong nhà trong ba ngày Xuân. Phong tục á Đông nói chung, Việt nam nói riêng rất trọng sự tôn ti trật tự, trên dưới trong ngoài thành nề nếp. Và mỗi cuộc chơi đều mang theo nhiều ý nghĩa cao siêu. Từ những nhu cầu như thế cho nên ngoài những cành mai bình thường bày bán trong các chợ tết, những cành mai nầy cắt từ những cây mai trong vườn, bó lại bằng lá dừa và mang ra chợ bày bán, cốt mua về cho có hương thơm, có màu vàng trên bàn thờ cho tăng thêm không khí tết; các chủ nhân các gốc lão mai thường ỏ công ra chăm bón những cành mai rất đạt tiêu chuẩn yêu cầu của các bậc danh nho đòi hỏi. Tất nhiên các gốc mai nầy giá đáng bạc vạn. Trồng mai trên đất vườn phải là thứ đất đen, đất thịt nhưng không giữ nước để tránh úng thủy. Mai trồng trên các luống vồng cao, có khoảng cách vừa đủ đề cây tăng trưởng. Mỗi năm vào rằm tháng 10 Âm Lịch phải ngắt hết lá để dồn nhựa cho các nhánh ra hoa. Tuốt lá không đúng ngày sẽ ảnh hưởng đến ngày hoa nở. Khi cắt nhánh đem ra chợ phải đốt gốc. Cách đốt gốc cũng góp một phần không nhỏ vào việc giữ cho hoa nở bền hơn. Ngoài các loại mai vàng kể trên, tại Lục Tỉnh còn một loại mai trắng, còn có tên gọi là Nam Mai- Cây Nam Mai chánh thực là cây gì? Đó là cây Mù U. “Nhánh mù u con bướm vàng không đậu, vì xa em mà thành điệu nhớ não lòng” Mù u bông trắng, năm cánh, lá mù u to bản dày kích thước chừng bàn tay người lớn. Thân mu u là thân mộc, mù u có trái tròn không ăn được, hột mù u ép làm dầu thắp đèn, nhiều khói ít sáng. Cây mù u có tên Nam Mai trong sự tích Gia Long Tẩu quốc. Cứ mỗi dịp Xuân về bất cứ con người Việt Nam nào, nếu còn yêu quê hương, còn trông về nguồn gốc, đều cảm thấy một nỗi sầu man mát dâng tràn. Dù cho đang sống tại quê nhà hay đang lưu lạc khắp năm châu bốn biển. Nhắc đến cây Mai là nhắc đến ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc đến bành dày bánh chưng, cây nêu tràng pháo, thịt mỡ dưa hành. Tại Hoa Kỳ không tìm được giống Mai Vàng nên tạm dùng cành đào hồng (plum) bông nhỏ mỏng manh thay thế cây Mai Vàng ngày đó để chưng nơi bàn thờ và treo đôi bà cánh thiệp xuân để nhớ những ngày Xuân yêu thương trên đất mẹ. Lê Việt Điểu
|
|
|
Post by Oshin on Jan 17, 2004 5:50:28 GMT -5
Mai vàng phương Nam (VietNamNet) - Từ xưa, người chơi hoa đã đưa triết lý cuộc sống, nhân sinh quan, thế giới quan mà tạo thế cho MAI, làm cho MAI không chỉ đẹp mà còn hữu ý thể hiện cả lẽ sống của người chơi hoa. Nhiều nghệ nhân chơi MAI còn đưa cả nền tảng đạo đức truyền thống dân tộc thể hiện trong từng dáng MAI “phụ tử”, “huynh đệ”, “bằng hữu”, “mẫu tử”… thể hiện quan hệ đạo đức con người trong dáng “tiều phu quảy tử”… Các nghệ nhân còn thể hiện mối quan hệ con người với vũ trụ qua mỗi thế MAI như “nghinh phong”, “xung phong”, “nhất trụ khi thiên”, v.v… Xuân về cũng là dịp để những người đã bỏ nhiều công sức chăm chút cho từng thân cây, cành lộc hoàn tất công trình nghệ thuật của mình. Đó là cả một sự nhẫn nại, bền chí và đặc biệt là sự sáng tạo nghệ thuật, sao cho mỗi mùa Xuân đến mỗi cây MAI mang mỗi dáng vẻ khác nhau từ hình dáng, thế cây, nhánh hoa, tàn lá theo quan niệm chung về cây cảnh: nhất hình, nhì thế, tam chi, tứ điệp. Để có được một cây MAI “vào thế”, người trồng cây phải mất nhiều năm chăm sóc, uốn tỉa nâng niu sao cho đủ tầng, đủ nhánh. MAI CHIẾU THỦY theo thế âm dương thì cây âm bên dưới phải có 3 tầng, 1 ngọn; cây dương bên trên phải có 5 tầng, 1 ngọn. Phương Nam – một vùng đất mới với hầu hết là dân lưu cư, mở đất, cùng sống chan hòa trên một vùng đất sông nối sông, đồng nối đồng, nương tựa vào nhau giữa “thâm lâm cùng cốc” ở một vùng đất đai, sông nước đầy chướng khí, mong sao gia đình sum vầy, làng xóm quây quần. Trên bước đường mở đất, có phải chăng những tiền hiền, khai cơ đã bắt gặp một loài hoa đẹp nở rộ đúng vào mỗi độ Xuân về mà MAI VÀNG đã trở thành “sứ giả”, biểu tượng cho mùa Xuân phương Nam. Và, có phải vì vậy mà người dân phương Nam khi nhắc đến Tết là nhắc đến MAI VÀNG. Nhưng MAI VÀNG phương Nam ngày nay không còn là một loài hoa 5 cánh như nó từng vốn có. Các nghệ nhân đã ghép rất nhiều loại MAI: MAI Sa Đéc 9 cánh, MAI Mỹ Tho 24 cánh, MAI Gò Đen 48 cánh, MAI Bến Tre 120 cánh, v.v… Màu hoa MAI giờ đây cũng đã được các nghệ nhân làm cho phong phú hơn lên: từ vàng tươi, vàng nhạt, vàng mơ, vàng chanh, vàng thau, vàng nghệ, vàng cam đến ngay trên cùng một cánh hoa cũng đã có viền vàng ven một sắc vàng, trên cùng một thân cây ra hoa MAI VÀNG với những sắc độ khác nhau, số cánh khác nhau. Và, tùy vào mỗi giống mà bông mai nhỏ hay lớn, nhụy thẳng hay cong, lá cuốn hay thẳng, v.v… Để một cành MAI tròn đầy căng nụ, rực hoa thì người trồng cây phải mất nhiều năm chăm sóc để biết “nết cây” ra hoa sớm hay muộn, người trồng phải nhạy cảm với thời tiết để tỉa cành, tuốt lá, kích thích ra hoa để có một cành MAI, một cây MAI bung nụ rực vàng đúng vào đêm Giao thừa. Mùa Xuân năm nay, các làng MAI Hiệp Bình Chánh, Bình Triệu, Bình Chánh 1, Bình Chánh 2 (nằm cách trung tâm TP.HCM qua con sông Sài Gòn, bên kia cầu Bình Triệu) lại vào Xuân. Ngoài làng hoa ở huyện Bình Chánh vừa mới xây dựng, so với làng hoa Gò Vấp thì làng hoa Hiệp Bình Chánh (Thủ Đức) là một trong những làng hoa ven thành phố hình thành và phát triển khá lâu đời. Do nhiều áp lực, trong đó có áp lực đô thị hóa nên hiện nay làng hoa Hiệp Bình Chánh diện tích còn khoảng 6 ha. Ở đây có những nghệ nhân như ông Nguyễn Văn Ghép (ấp Bình Triệu) trồng hoa suốt hơn 30 năm nay. Với diện tích 3.000 mét vuông, ông Nguyễn Văn Ghép trồng luân phiên 2.000 gốc MAI và hàng năm cho thu nhập hàng trăm triệu đồng từ cây MAI kiểng. Ngoài ra còn có hàng trăm hộ dân khác ở ấp Bình Triệu, Bình Chánh 1 và 2 cũng khá lên nhờ có công với MAI. Chuẩn bị cho cái Tết Giáp Thân năm 2004, ngay từ tháng 11 âm lịch, các thương lái đã lũ lượt kéo về các vườn MAI ở Hiệp Bình Chánh để chọn lựa, ngã giá mua cả những luống “MAI lá”, rồi gởi lại các “vườn chủ” để tiếp tục tự chăm bón cho đến giáp Tết (rằm tháng Chạp) thì vặt lá, cây nhỏ thì cho vào bội trúc, cây lớn hoặc có dáng đẹp thì cho vào chậu sành với tiền nào của nấy. Ngoài những cây MAI bứng nguyên gốc rễ đưa vào chậu bán cho người chở mai, các thương lái và chủ vườn còn cắt những cành MAI đang căng nụ bán cho các “gia chủ” chưng trong mấy ngày Tết… Vào dịp Tết, việc mua MAI thường là người chủ gia đình, thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong cách chọn Mai. Tùy vào không gian nội thất mà người chủ nhà chọn Mai cành lớn hay nhỏ, lão Mai hay dáng trực, gió lùa hay thác đổ, ngũ phúc hay song long, phụ tử, mẫu tử hay tam đa, tam tài, v.v… để đặt vào chậu tròn hay chậu dẹt, ô van hay lục giác… - đều tùy thuộc vào con mắt thẩm mỹ của người chủ gia đình để cùng cả nhà, làng xóm vui vầy đón chào Xuân, mong cho năm mới được an khang và thịnh vượng. Đón mừng năm mới, trong những ngày trời trở bấc se lạnh, những bàn tay vàng của những nghệ nhân trồng cây cảnh đến những người trồng cây trong những khoảnh vườn nhà, đang âm thầm vun trồng cho những cành mai nở rộ đúng Xuân, giữ hương, giữ sắc cho đất trời phương Nam, mừng đất nước thêm một tuổi mới… Xuân Huệ
|
|
|
Post by Oshin on Jan 17, 2004 5:54:44 GMT -5
Tản mạn với hoa mai (VietNamNet) - Người ta từng gọi tên của một quốc gia bằng một loài hoa, dù loài hoa đó không là tài sản riêng của đất nước ấy mà hiện diện ở hầu khắp thế giới. Hoa mai ở Việt Nam thì không như thế, dù cái tầm của mai thì dư sức đạt đến điều đó. Bungari là đất nước hoa hồng, Hà Lan là xứ sở của hoa tuylip, cũng như hoa anh đào được coi là biểu tượng của xứ Phù Tang. Cũng là hoa, là lá, là cỏ cây như bao loài thảo mộc khác, nhưng những loài hoa ấy mang trên mình sứ mệnh của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả dân tộc. Người Nhật từng tôn sùng hoa anh đào là kuni no hana (quốc hoa) cũng với ý nghĩa ấy. Hoa mai ở Việt Nam thì không như thế, dù cái tầm của mai thì dư sức đạt đến điều đó. Ấy là tôi “nghĩ hộ” cho hoa mai vậy, chứ bản thân hoa mai chắc cũng đã hài lòng với các “tước hiệu”: sứ giả của mùa xuân, loài hoa cao quý, kẻ song hành với các nhà thơ... mà bao thế hệ con Rồng, cháu Tiên dành tặng cho mai. Cũng như hoa đào ngoài Bắc, hoa mai đến với dân Việt Nam mỗi năm chỉ một lần vào dịp xuân về, nhưng sức sống của mai trong lòng người thì không chỉ giới hạn trong vài ba ngày Tết mà trở nên trường cửu. Người ta ngóng trông mai suốt cả năm ròng nên khi cái Tết qua đi, hầu như không ai muốn rời bỏ hoa mai ngay lập tức mà còn cố vương vấn, níu kéo mai ở lại với họ thêm đôi ba bữa nữa. Tôi cũng vậy. Có lần, một người bạn ngoài Bắc vô thăm Huế, ghé nhà tôi chơi. Tết đã qua được gần một tháng, song trên bàn làm việc, tôi vẫn còn chưng một cành mai, và hoa thì không còn lấy một nụ. Bạn tôi thắc mắc: “Hoa đã rụng hết sao anh chưa vứt bỏ?”. Tôi cười bảo: “Anh có biết hai câu kết trong bài Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư: ''''Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai'''' không? Vẫn biết là thiền sư có ý dạy rằng “đừng có nghĩ xuân tàn thì hoa rụng hết, bởi đêm qua trước sân vẫn có một nhành mai” để nói về cái vòng chu chuyển tất yếu của thiên nhiên và sinh mệnh. Nhưng sao tôi vẫn nghĩ hơi khác một chút. Ðã tàn xuân mà thiền sư trông thấy mai. Ấy mới là sự lạ. Phải chăng có cành mai nở muộn, hay chỉ là lối ẩn dụ của cách nói “xuân rày tiếp nối xuân kia”. Tôi đồ rằng thiền sư đã nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân nơi một cành mai tàn có thực trước chùa mà nói vậy. Cành mai này hẳn là không có hoa rồi, nhưng sư Mãn Giác đã nhận ra thông điệp của mùa xuân kế tiếp, của thế hệ kế tiếp nơi cành mai ấy mà truyền bảo cho đệ tử. Tôi giữ cành mai tàn trong nhà cũng là mong được nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân trong căn phòng của mình vậy”. Bạn tôi đáp: “Người Huế các anh thi vị cuộc sống quá. Dân Bắc chúng tôi, sau Tết là ném ngay cành đào lên chiếc xe rác chạy ngang trước cửa cho nó rảnh nhà. Hơi đâu mà...”. Anh bỏ lửng câu nói, nhưng tôi đoán anh đang cười thầm suy nghĩ có vẻ lẩn thẩn của tôi. Mà đâu chỉ một mình tôi có lòng với mai. Thử ngẫm mà xem có loài hoa nào được văn chương nước Việt nhắc đến nhiều như hoa mai. Mai đi vào “thơ thiền” của sư Không Lộ thời Lý, có mặt trong “thơ thần” của Nguyễn Trãi thời Lê. Hình ảnh của hoa mai cũng được thi hào Nguyễn Du mượn để tả về nét đẹp quý phái, đoan trang của chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Tản Ðà thì dùng hình ảnh “xương mai một nắm hao gầy” để nói lên nỗi niềm của mình trong lời thề non nước. Ngay như Nguyễn Ðình Chiểu, khi đôi mắt của ông không còn nhìn được sắc vàng rực rỡ của mai, thì hình ảnh về loài hoa xuân ông từng yêu quý vẫn được ông ghi lại trong ký ức và được vẽ ra bằng một nét bút tài hoa: “Hữu tình thay ngọn gió đông. Cành mai nở nhụy, lá tòng reo vang”. Và khi muốn nói về cuộc hội ngộ đầy chất thi vị, tao nhã giữa đôi trai tài gái sắc Vân Tiên - Nguyệt Nga, Nguyễn Ðình Chiểu lại mượn hình ảnh của mai để so sánh: “Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai”. Rồi Thanh Hải, Chế Lan Viên, Lê Văn Thảo ... những văn, thi sĩ thời đánh Mỹ, giữa những đau thương, khốc liệt của chiến tranh vẫn có những vầng thơ, những áng văn đằm thắm, trữ tình viết về hoa mai. Chừng đó thôi cũng nói lên cái địa vị cao quý của hoa mai trong lòng thi nhân Việt Nam. Song theo thiển ý, có hai câu thơ, tương truyền là của Chu Thần Cao Bá Quát, xứng đáng là những ngôn từ đẹp nhất, trân trọng nhất mà người ta có thể viết ra để xưng tụng hoa mai: ”Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. (Mười năm chu du tìm gươm cổ Cả đời chỉ cúi lạy hoa mai).
|
|
|
Post by Oshin on Jan 17, 2004 5:55:02 GMT -5
Hoa mai với riêng tôi cũng đầy ắp những nỗi niềm. Trong bước đường phiêu lãng của mình, tôi có nhiều kỷ niệm với mai. Ðó là những ngày tôi là một sinh viên nghèo, không đủ tiền xuôi Nam ăn Tết cùng gia đình, đành ở lại ký túc xá, kiếm cành mai làm bạn, ngồi uống rượu suông, chờ mùa xuân mang thêm cho mình một tuổi. Ðó là những ngày theo chân bè bạn về quê người ăn Tết, ngắm nhìn vườn mai vàng rực như muốn dát vàng lên đồi cát trắng Phong Thu. Ðó là lúc tôi ngồi ngắm trăng nơi vườn mai nở muộn trong Hoàng Thành Huế, rưng lòng trước cái đẹp mờ ảo của đêm nguyên tiêu, mà ngâm ngợi bài Nguyệt mai - một bài cổ thi có trên chiếc dĩa trà sứ men đồ men lam Huế, tôi đã thuộc nằm lòng từ cái ngày đầu tiên theo nghiệp khảo cứu đồ xưa:
“Mai hoa đắc nguyệt cánh thiêm thần Nguyệt lý mai hoa sắc dũ chân Quế điện lung linh hoa lộng ảnh Hoa chi diêu duệ nguyệt xâm nhân Mê ly nguyệt để hoa xâm ngọc Tịch mịch hoa gian nguyệt tuyệt trần Ngã ái mai hoa kiêm ái nguyệt Nhất mai nhất nguyệt lưỡng giai xuân”
Cũng vì mai, mà tôi từng liều lĩnh dấn thân vào cuộc bút đàm với các bậc cao minh trong làng cổ ngoạn về gốc gác hai câu thơ: “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người xưa”. Thơ của ai đây? Của Nguyễn Du như người đời từng gán ghép, hay của Ðịnh Viễn Quận Vương, hoàng tử thứ 6 của vua Gia Long, hoặc của Ðông Các đại học sĩ Ðinh Phiên, người đã phụng mệnh vua Gia Long làm phó sứ cho Cần Chánh đại học sĩ Nguyễn Xuân Tình sang Thanh năm 1819, như một giả thuyết đang gây tranh luận.
Song cái kỷ niệm đáng nhớ nhất là khi tôi đứng dưới chân lâu đài Osaka vào ngày 6/3/1998 trong một rừng mai muôn hồng nghìn tía. Hôm ấy, cô Junko Kusaka, một người bạn Nhật, biết tôi thích mai nên rủ tôi đến chân thành Osaka để ngắm hoa. Tôi hào hứng theo chân cô, những tưởng là sẽ được ngắm một rừng mai vàng rực như ở chốn quê nhà sau một cái Tết vắng bóng mai vàng. Tôi hồi hộp bao nhiêu khi thấy hai chữ Mai lâm (Rừng mai) ở lối vào vườn mai, thì càng thất vọng bấy nhiêu khi trước mắt là một rừng đầy mai đỏ và mai trắng mà không một bóng mai vàng. Hóa ra cái tôi thèm muốn, cái tôi nhớ nhung và cái tôi tản mạn nãy giờ là hoàng mai, là mai vàng xứ Huế chứ không phải một thứ mai nào khác.
Ừ nhỉ! Họ hàng mai vốn có nhiều loại, nhưng ta chỉ nặng lòng với chỉ mình ngươi. Mai vàng ơi!
Trần Đức Anh Sơn
|
|
|
Post by Oshin on Jan 18, 2004 9:34:30 GMT -5
Hoa cúc trắngInnocence - Loyal love - I'll never tell - Purity – Beauty Tên tiếng Việt - Tên tiếng Anh - Tên tiếng Pháp - Tên Latin - Ý nghĩa Hoa cúc kép : Daisy double - Paquerette double - Bellis hortensis - Affection Hoa cúc đơn : Daisy single - Paquerette simple - Bellis simple - Innocence Hoa cúc dại : Daisy wild - Marguerite des près - Bellis perennis - Do you love me ? Cúc dại là loài hoa nhỏ thường mọc hoang, có những cánh trắng ngần, từ giữa tỏa ra như hình nan hoa quanh một nhụy vàng tươi. Trẻ em thường thích hái hoa cúc dại để kết thành bó hay xâu thành chuỗi. Ở Anh, cúc dại còn được gọi là Baby's pet hay Bairnwort có nghĩa là hoa của trẻ em. Tên tiếng Anh - Daisy - của loài hoa này bắt nguồn từ một từ Saxon, day's eye, có nghĩa là "con mắt ban ngày", có lẽ vì hoa nở cùng với ánh sáng ban mai rồi khép lại những cánh trắng khi chiều xuống. Theo thần thoại La Mã, bông hoa nhỏ bé này có nguồn gốc từ Belides, một trong các nữ thần chăm sóc các khu rừng. Một hôm, khi Belides đang nhảy múa với người yêu của mình là Ephigeus, cô đã lọt vào mắt xanh của Vertumrus, vị thần cai quản các vườn cây. Để bảo vệ cô khỏi sự săn đuổi này, Flora, nữ chúa các loài hoa, đã biến cô thành một đóa hoa cúc trắng. Còn theo truyền thuyết của người Ailen cổ, hoa cúc trắng chính là linh hồn những hài nhi đã chết khi vừa mới sinh ra. Chúa rải hoa cúc khắp núi đồi và thảo nguyên, khắp trần gian để làm vơi đi nỗi buồn của những người cha mẹ ấy. Truyền thuyết giải thích tại sao daisy mang ý nghĩa sự trong trắng - ngây thơ. Người xưa còn dâng tặng hoa cúc cho Artemis (The goddess of women). Người ta tìm thấy rất nhiều hình những bông cúc trên gốm sư Ai Cập cũng như ở những nơi khác suốt vùng Trung Đông. Người Assyria dùng hoa cúc để chữa một số bệnh về mắt. Họ cũng tin rằng, nếu bạn nghiền hoa cúc và trộn chúng với dầu rồi quét lên tóc sẽ làm cho tóc muối tiêu đen trở lại. (Em hông biết về người Assyria là ai, hic ! Tra từ điển chỉ thấy nói, đó là một đế quốc thời cổ đại ở Tây Nam châu Á, bành trướng từ vịnh Ba Tư đến Ai Cập và vùng Tiểu Á, vào thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên). Ở Việt Nam, hoa cúc được xếp vào tứ quý (Mai, Lan, Cúc, Trúc). Người thời xưa yêu hoa cúc vì nó là loài hoa : " Diệp bất ly chi, hoa vô lạc địa". Lá hoa cúc không bao giờ rụng khỏi cành, dù đã héo quắt. Hoa cúc cũng không chịu rụng, dù héo khô vẫn bám lấy cành như người quân tử suốt đời không rời xa lý tưởng của mình. Trong quốc huy nước Nhật cũng có hình hoa cúc . "Marguerite"-tên tiếng Pháp của hoa cúc, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là hạt ngọc trai "pearl". Người ta nói rằng, St. Louis đã khắc hình hoa cúc cùng với hoa diên vĩ (fleur-de-lis) và thánh giá trên chiếc nhẫn của ông. Chiếc nhẫn này, theo lời nhà vua, tượng trưng cho tất cả những gì ông yêu quý nhất : tôn giáo, nước Pháp, và vợ ông - Marguerite. Có một câu nói xưa của người Anh bảo rằng mùa xuân vẫn chưa đến cho tới khi bạn có thể đặt bàn chân mình trên 12 bông cúc. Họ cũng cho là, nếu bạn mơ thấy hoa cúc vào mùa xuân hay mùa hè thì tốt, nhưng nếu vào mùa thu hay mùa đông thì lại là điềm chẳng lành.
He loves me, he loves me not, he loves me...Nếu một cô gái nhỏ nhắm mắt lại và hái một chùm cúc dại rồi đếm thì số hoa trong chùm hoa đó sẽ là số năm còn lại trước khi cô lấy chồng. Các thiếu nữ cũng thường bói tình yêu bằng cách lần lượt bứt từng cánh của một bông cúc dại đồng thời lập đi lập lại điệp khúc : "Chàng yêu ta, chàng không yêu ta, chàng yêu ta..."
Nếu có thể trở thành một bông hoa Xin được hóa thân thành hoa cúc trắng Khép nhẹ khi hoàng hôn tĩnh lặng Và nhờ dương đánh thức lúc ban mai Ta đón chào tia nắng sớm khoan thai Và đón cả những long lanh nước mắt(I'd choose to be a Daisy - Khuyết danh)
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:49:43 GMT -5
Hoa Đào Ngoài Đời Và Trong Thi Ca Phạm Thị Nhung
Mùa xuân ở nước Việt ta, nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán, là lúc muôn hoa rộ nở, hồng tía khoe tươi. Giống như hoa mai vàng ở miền Trung và miền Nam, hoa đào mầu hồng thắm ở miền Bắc nổi bật giữa các loài hoa và được chưng bày khắp mọi nhà, nó tạo cho ngày Tết một màu sắc, một phong vị đặc biệt, và nghiễm nhiên trở thành loại hoa Tết chính thống của dân tộc.
Tục lệ chơi hoa đào ngày Tết ở xứ Bắc đã có từ lâu đời, vì chẳng những hoa đào có màu hồng rực rỡ là mầu “hỉ tín”, rất phù hợp với không khí vui tươi, tràn trề hy vọng của những ngày đầu năm mới mà người xưa còn tin là cây đào trị được ma quỉ. Tích xưa kể rằng, dưới gốc cây đào già nơi núi Độ Sóc có hai vị thần Trà và thần Lũy cư ngụ, họ giữ trọng trách cai quản đàn qủi, qủi nào làm hại dân gian thì ra tay trừng phạt ngay. Mỗi khi Tết đến, lợi dụng cơ hội các vị hành khiển trông nom việc dưới thế phải lên chầu trời để trình tấu mọi việc thế gian, bọn qủi liền ra quấy phá. Do đó, vào dịp này người ta thường trưng một cành đào trong nhà, để bọn qủi tưởng là nơi hai vị thần Trà thần Lũy trấn giữ, sợ, không dám bén mảng.
Ở ven đô Hà Nội, phía tây bắc Hồ Tây. là làng Nhật Tân, nổi tiếng về nghề trồng bích đào và đào phai. Trước năm 1954, tám mươi phần trăm dân làng ở đây chuyên nghề trồng đào, họ khai khẩn đến gần trăm mẫu đất, trồng hàng vạn cây đào mới đủ cung ứng nhu cầu thị hiếu chơi hoa đào vào dịp Tết của dân Hà thành.
Loại bích đào hoa to, mỗi cụm chỉ độ dăm bông, mỗi bông có 12 hay 14 cánh nhưng cũng có loại 32 cánh ( loại bông kép), loại này ít trồng vì không mấy được ưa chuộng. Cánh hoa bích đào dầy, màu hồng thắm, xếp thành nhiều lớp, nhị vàng tua tủa; lá có hình mũi mác, mầu xanh biếc, cành thì vươn thẳng. Bích đào là loại hoa đẹp nhất, hiếm, quí vì khó trồng và phải có thổ ngơi thích hợp.
Bích đào và đào phai (đào ăn quả ) xưa lấy giống từ Trung Quốc. Theo các nhà khảo cổ học về cây cỏ thì người Trung Hoa biết trồng đào ít nhất từ bốn ngàn năm. Đào từ Trung Quốc truyền vào Trung Á (Asie Centrale), vào Ba Tư (Perse tức Iran). Một thế kỷ trước công nguyên, ông Alexandre Le Grand mang giống đào từ xứ Perse vào Rome và mãi đến thế kỷ XVII, cây đào mới được du nhập vào Mỹ Châu. Các nhà thực vật học đầu tiên tưởng Perse là quê hương của đào, nên đặt cho nó cái tên khoa học là Prunus persica. Sau người ta biết là nhầm nhưng đã quen gọi lâu đời nên vẫn để nguyên tên đó., thay vì phải đổi là Prunus sinensis, họ Rosacées.
Ở Việt Nam ta từ thời xa xưa đã biết trồng đào phai để ăn quả, loại này cánh hoa mỏng, thưa, màu hồng nhạt, còn lá thì màu xanh nõn. Đào phai dễ trồng và sức sống của nó rất mạnh. Thị trấn Sa Pa thuộc vùng Hoàng Liên Sơn là xứ sở của đào phai. Dân làng Nhật Tân mua cây đào phai còn non về trồng, một năm sau cây đủ mạnh, họ sử dụng làm gốc ghép. Trước tháng 11, họ cắt một nhánh bích đào ghép vào gốc cây đào phai, chờ đến Tết là họ có một cành đào bích tươi tốt đem bán. Mỗi năm mỗi gốc đào phai chỉ dùng ghép được một cành bích đào, thế nên gốc đào phai có bao nhiêu mấu là cây đó bấy nhiêu tuổi.
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:51:04 GMT -5
Quê hương của bích đào và đào phai là Trung Quốc, nhưng quê hương của hoa anh đào lại là nước Nhật Bản. Người Nhật gọi hoa Anh Đào là “quốc hoa”, tức là loài hoa đại diện cho dân tộc của họ. Nước Nhật còn được mệnh danh là “xứ hoa anh đào”, vì hoa anh đào dược trồng khắp nơi trên dải đất Phù Tang, nhất là ở những vùng đồi núi hẻo lánh, nơi có những ngôi chùa cổ kính. Nhìn từ xa người ta chỉ thấy mái chùa ẩn hiện thấp thoáng dưới những lùm đào cổ thụ um tùm. Mỗi độ xuân về, hoa nở hồng ngát cả môt phương trời, tạo cho chốn thiền môn một vẻ thanh tịnh, nhuốm đầy đạo vị.
Năm 1912, Nhật Bản gửi tặng Hoa Kỳ 3.000 cây anh đào, gồm nhiều loại khác nhau, nhưng hai loại chính là Yoshimo và Kwanzan. Những cây này phần lớn đem trồng dọc hai bên bờ sông Potomac tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Kể từ năm 1934, nhà cầm quyền nơi đây cũng bắt chước dân Nhật mở Hội Hoa Anh Ðào. Nhưng thay vì đi dạo ngắm hoa, ngồi thiền trà hay ca hát dưới hoa thì ở Mỹ người ta tổ chức các cuộc diễn hành, thi xe hoa và có các ban nhạc từ các tiểu bang khắp nước gửi về tham dự.
Hoa đào mỗi năm nở sớm hay muộn tuỳ theo thời tiết, người ta phải đoán trước để định ngày lễ hội cho đúng dịp hoa nở. Năm nào chẳng may gặp những trận mưa đá hay mưa tuyết bất thường làm hoa tàn tạ sớm thì đám người dự hội chỉ còn nước ngắm cảnh cành trơ với những cánh hoa tan tác bên đường.
Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản cũng đã gửi tặng nước Pháp nhiều cây anh đào. Số cây anh đào trồng tại Jardin des plantes tuy chỉ vài chục cây nhưng có đủ loại, từ loại cánh hoa đơn dến cánh hoa kép, có hương hay không hương, mầu trắng phớt hồng đến hồng đậm rồi tới đỏ thẫm.
Riêng tại vườn đào trong Parc de Sceaux, hiện đếm được 147 cây, những cây cổ thụ trồng từ đầu thế kỷ nay còn lại độ một phần ba, những cây chết được thay thế ngay bằng những cây mới nên tới mùa hoa, vườn hoa anh đào bao giờ cũng xum xuê. Tất cả những cây đào trồng ở đây đều thuộc loại anh đào, cây cao chừng 3-4 mét có hoa mọc thành chùm, cánh hoa mỏng như lụa , màu phấn hồng ngọt ngào. Tới mùa, hoa nở chi chít, ngọn lả xuống tận mặt đất, trông như những lẵng hoa thiên nhiên khổng lồ đặt trên nền thảm cỏ non, xanh mướt. Ngồi từ dưới gốc cây nhìn lên thấy cả một trời hoa lồng lộng, nhìn ra tứ phía, một màu hồng bát ngát bao phủ khắp không gian. Đúng là cảnh Thiên Ðàng hạ giới!
|
|