|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:51:38 GMT -5
Kiếp hoa đào thật mỏng manh, từ lúc hoa nở đến lúc hoa tàn chỉ trong khoảng ba ngày ngắn ngủi, cả mùa hoa cũng chỉ kéo dài được ba tuần. Từ đầu tháng tư dương lịch, những đoá hoa khai mùa bắt đầu nở đến hết tuần thứ ba là những cánh hoa cuối mùa rụng hết. Nhưng dù ở thời điểm nào, vườn đào vẫn có một vẻ hấp dẫn riêng. Tươi mát, mơ màng khi những nụ hoa đầu tiên vừa chúm chím môi cười sau bao ngày im lìm trong băng giá. Tưng bừng, rực rỡ khi cả ngàn hoa rộ nở. Man mác, nên thơ khi những cánh hoa rơi bay tơi tả khắp không gian rồi trải thảm trên nền cỏ biếc.
Phải chăng vì mầu hoa đào thắm tươi, nồng nàn, quyến rũ, hay vì kiếp hoa đào mỏng manh bạc mệnh; hay vì vườn hoa đào đẹp một cách thanh thoát, thần tiên v.v… đã khiến gây được nhiều mỹ cảm cho người đời, nhiều thi hứng cho các tao nhân mặc khách? Chẳng thế trong kho tàng thi ca phong phú của Nhật Bản, của Trung Hoa cũng như của Việt Nam đã không hiếm những áng thơ văn tuyệt mỹ, những trang tình sử diễm lệ có liên quan tớí hoa đào.
Nước Nhật, ai cũng biết, có một đường lối giáo dục nghiêm khắc , một quân đội hùng mạnh, can cường, từng đi chinh phục được nhiều dân tộc trên thế giới, vậy mà dân họ lại có một cái nhìn rất bi quan về kiếp người khi đem cuộc đời ngắn ngủi của hoa đào ra so sánh, như hai câu thơ tiêu biểu dưới đây:
- Anh đào nở ba ngày đã rụng Khác chi người một kiếp phù du.
Trong một bản dân ca Nhật Bản đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc và chế lời Việt, cũng mang một quan niệm yếm thế không kém:
- Rượu nồng ta uống, uống, uống say một đêm ngất ngây Thả hồn theo gió heo may, đến hôn hoa, những cánh hoa anh đào say . Nhạc nghe xa vắng những tiếng buồn, đường tơ héo hon, đường tơ héo hon. Chạy theo ánh sáng lung linh, ánh trăng thanh đến mơn man cuộc tình trinh. Trời xuân man mác những mối sầu, tình theo gió mau Cánh hoa tươi tốt không lâu, một đêm nào sẽ rớt mau về đời sau. Rượu nồng ta uống choáng cõi đời để quên nắng phai, để quên nắng phai Đời người mỏng quá đi thôi, hỡi ai ơi hãy quên đi, rượu đầy vơi...
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:52:18 GMT -5
Trong khi đó, người Trung Hoa và người Việt Nam lại có cái nhìn rất phong phú và yêu đời về hoa đào, về cây đào. Người Trung Hoa xưa ví nhân tài như cây đào, cây mận. Địch Nhân Kiệt làm tể tướng đời Đường, thu dụng được nhiều nhân tài nên có người bảo “cây đào, cây lý trong nước ở cả cửa tướng công”.
Nói về thi ca Trung Hoa, kinh thi, tập thơ dân gian cỗ nhất của họ , do đức Khổng Tử san định khoảng giữa thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, mục Chu nam, thơ Ðào Yêu có câu :
- Đào chi yêu yêu Chước chước kỳ hoa Chi tử vu qui Nghi kỳ thất gia.
........... Nghĩa là: - Mơn mởn đào tơ Rực rỡ nở hoa Cô nàng lấy chồng Êm ấm cửa nhà.
Ở đây, cây đào non đã được ví với người thiếu nữ trẻ trung đến tuổi dậy thì, tuổi lấy chồng.
Trong Tả truyện, chương thập tứ niên, hoa đào lại được biểu hiệu cho người phụ nữ có nhan sắc diễm lệ. Truyện kể, nàng Tức Vỉ, vợ Tức Hầu đời Xuân Thu, có sắc đẹp tuyệt trần. Sở Văn Vương mê nàng tìm cách diệt Tức Hầu rồi đem nàng về phong làm phu nhân. Tức Vỉ chẳng những có dáng hình tha thướt, yểu điệu mà đặc biệt hai má lúc nào cũng đỏ au như cánh hoa đào, vì thế nàng được người đương thời tặng cho biệt danh “Đào Hoa Phu Nhân”.
Bài Đào Nguyên ký của Đào Tiềm cho hay : Vào đời Tấn (245-419) có người thuyền chài ở Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược dòng suối, thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống, sau lạc vào nơi trồng cơ man là cây đào, ở đây người ta sống rất an vui hạnh phúc. Sau đó, chữ “động đào”, hay “đào nguyên”, hay “nguồn đào” được dùng chỉ nơi tiên ở.
Trong huyền thoại Trung Hoa có nói đến vườn đào của Tây Vương Mẫu ở thiên giới. Nơi đây, hoa nở quanh năm, trái đủ bốn mùa. Ai được ăn trái đào tiên này sẽ trường sinh bất lão (truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân cũng có nhắc tới).
Bởi vậy, ta thường thấy trong những bức tranh hay tượng tam đa, (hình ba ông Phúc-Lộc- Thọ ) ông Thọ bao giờ trên tay cũng cầm trái đào, còn trong tranh Tết thì hình thằng bé mũm mĩm, giang tay ôm trái đào tiên khổng lồ vào lòng, là có ý chúc trường thọ.
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:52:53 GMT -5
Còn về chuyện ái tình thì không thể không nhắc tới giai thoại Hoa Ðào Thôi Hộ, vì hoa đào ở đây đã làm nền cho một câu chuyện tình lãng mạn nhất trong văn chương thi phú Trung Hoa.
Thôi Hộ, một danh sĩ đời Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh, chàng lạc bước đến Đào Hoa Thôn rồi ghé vào Đào Hoa Trang gõ cổng xin nước giải khát. Một thiếu nữ ra mở cổng, rụt rè đưa nước cho chàng. Nàng rất đẹp, vẻ mặt e lệ, hai má đỏ hây như càng đỏ hơn dưới bóng cây hoa đào. Chàng cũng ngượng ngập, đỡ bát nuớc uống rồi vội vã từ giã ra về.
Nhớ người, nhớ cảnh, năm sau đến ngày hội xuân, Thôi Hộ háo hức trở lại Đào Hoa Trang, nhưng nơi đây cửa đóng then cài, người xưa vắng bóng, chỉ có ngàn hoa đào vẫn rực rỡ đang mĩm cười trước gió đông. Quá xúc cảm, chàng đã phóng bút đề bài thơ tứ tuyệt trên cổng nhà nàng:
- Khứ niên, kim nhật, thử môn trung Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Dịch: - Cửa này, năm ngoái, cũng hôm nay Mặt ngọc hoa đào, ánh đỏ hây Mặt ngọc đi đâu mà chẳng biết Hoa đào năm ngoái vẫn cười tươi.
Xế chiều, người thiếu nữ và thân phụ đi viếng chùa xa trở về, chợt nhìn thấy mấy câu thơ trên cổng, nét bút bay bướm, tình ý nồng nàn thì nàng đoán ngay của khách du xuân năm ngoái, lòng xiết bao cảm động. Từ đó ngày ngày nàng có ý ngóng trông... Nhưng hết mùa hoa đào này đến mùa hoa đào khác trôi qua, ai kia vẫn bặt vô âm tín.
Hoàn toàn tuyệt vọng, người thiếu nữ sầu khổ, bỏ ăn quên ngủ, dung nhan mỗi ngày một tiều tuỵ võ vàng. Thân phụ nàng hết lòng tìm thầy cứu chữa, nhưng vô hiệu vì:
- Nhược hữu lương y viên tuyệt mạng Tùng lai vô dược liệu tương tư.
(Ví có thầy giỏi cứu được mạng sống con người Nhưng chưa từng có thuốc chữa được bệnh tương tư )
Rồi tới một mùa hoa đào sau đó vài năm, biết không thể sống nổi, người thiếu nữ thú thật tâm sự cùng cha già và xin cha tha cho tội bất hiếu. Nhìn con gái đang hấp hối trên giường bệnh, xót con nóng lòng, ông lão chạy vội xuống đường mong tìm cho ra người đề thơ trên cổng đến nỗi đâm bổ vào một chàng văn nhân. Nhìn nét mặt lão hốt hoảng, nước mắt đầm đìa, chàng hỏi cớ sự, hiểu ra liền oà lên khóc và thú nhận mình chính là Thôi Hộ, kẻ đã đề thơ thuở nào. Ông lão mừng rỡ,cuống quít kéo chàng vào nhà… thì cũng vừa lúc người thiếu nữ trút hơi thở cuối cùng.
Quá thương cảm, Thôi Hộ quì xuống bên giường, cầm lấy tay nàng, áp mặt vào mặt nàng, nức nở khóc. Kỳ lạ thay, nước mắt chàng Thôi vừa nhỏ xuống mặt người thiếu nữ thì nàng từ từ mở mắt, sống lại.
Sau đó, chuyện gì phải đến đã đến và thiên tình sử Hoa Đào Thôi Hộ đã khép lạ ở đây, nhưng dư âm của nó vang vọng mãi đến muôn đời sau.
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:55:10 GMT -5
Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y cựu tiếu xuân phong. (Thôi Hộ )Dịch thơ: Năm ngoái gặp nhau ở chốn nầy Hoa đào in bóng má hồng say Người đi phiêu bạt phương nào mất Chỉ có hoa đào quyện gió bay. (Anh Vũ ) Giai nhân cùng với hoa đào Ngày này năm ngoái bên nhau cợt đùa. Người chừ tách biệt phương nao? Đào hoa riêng bóng đón chào gió xuân! (Tuấn Kiệt) Ngày ấy năm xưa tại chốn nầy Má hồng tương sắc hoa đào say Mặt thẹn cố nhân giờ đâu thấy? Đào vẫn cợt đùa gió Xuân đây (Minh Tâm) Ngày này năm trước tại viên trung Người ấy cùng hoa khoe sắc hồng Người ấy xuân nay giờ vắng bóng Hoa tàn rơi rụng gốc rêu phong (Lê Quang Thưởng )
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:57:43 GMT -5
Riêng ở nước ta, hoa đào đã đi vào lịch sử, ngôn ngữ hàng ngày và thi ca một cách đậm đà ý vị.
Về lịch sử, vào tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung sau khi đem đoàn quân tốc chiến từ Nam ra Bắc, đại phá được 20 vạn quân Thanh xâm lược, liền sai quân sĩ chọn lấy một cành bích đào đẹp nhất Thăng long, cho ngựa phi gấp mang vào Phú Xuân để tặng công chúa Ngọc Hân, thay cho thiếp báo tin mừng chiến thắng.
Trong ngôn ngữ hàng ngày thi - màu đào, dùng để tả màu hồng thắm hay đỏ tươi như: má đào, lụa đào, cờ đào, máu đào
Qua thi ca, thành ngữ - “đào tơ mơn mởn” chỉ người thiếu nữ đang tuổi dậy thì, có vẻ đẹp tươi mát, đầy sức sống - “Liễu yếu đào tơ” chỉ người thiếu nữ có vẻ đẹp yểu điệu mảnh mai - “Số đào hoa” là số có duyên, được nhiều người khác phái ưa thích - ‘Kiếp đào hoa’ cũng như ‘Số hoa đào ‘ , nói như Nguyễn Du trong truyện Kiều : ‘Chém cha cái số hoa đào Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi’ (c.2151-2152) chỉ số phận hẩm hiu, bạc mệnh của kiếp gái giang hồ.
Tục ngữ: - “Một giọt máu đào, hơn ao nước lã” ý nói, bà con có chung một huyết thống, dầu xa nhưng còn hơn người dưng.v.v...
Trong truỵện cổ tích Từ Thức, động Bích Đào ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn, gần núi Thần Phù, là di tích một câu chuyện thần tiên. Tích xưa kể rằng, Từ Thức nguyên là tri huyện Tiên Du (Bắc Ninh), vào ngày hội hoa mẫu đơn tại ngôi chùa sở tại, chàng đã cởi áo khoác cầm cố để giải cứu cho người thiếu nữ chót đánh gẫy cành hoa quý.
Ít lâu sau, Từ Thức treo ấn từ quan, ngày ngày ngao du sơn thủy. Một hôm chàng chèo thuyền ngoài cửa bể Thần Phù, ghé vào bờ núi đề thơ rồi lạc đến một động tiên, chàng được phu nhân tiên chủ gả con gái yêu là Giáng Hương cho, để đền cái ơn đã cứu nàng thuở nào.
Sống ở Đào Nguyên tuy vui sướng nhởn nhơ nhưng Từ Thức không nguôi lòng nhớ cố hương, bèn xin trở về. Biết không thể lưu giữ được lâu hơn, phu nhân ban cho vân hạc đưa chàng về trần, còn Giáng Hương trước phút từ biệt, trao cho chàng một phong thư, dặn khi tới nhà hãy đọc.
Từ Thức về đến quê, xiết bao bỡ ngỡ vì cảnh cũ đã hoàn toàn thay đổi mà người xưa cũng không còn. Chàng hỏi thăm ông già bà cả trong xóm thì có người cho biết, cụ tổ ba đời của ông ta tên là Từ Thức, đi vào núi không thấy về, nay đã trên 60 năm.
Quá bơ vơ, lạc lõng, chàng Từ Thức tính quay lại níu lấy cánh hạc để trở về tiên động, nhưng cánh hạc đã bay vút trời cao. Chàng mở thư vợ ra xem mới hay ‘ tình duyên trần tiên đã đoạn, muốn tìm lại động xưa chẳng còn được nữa’. Sau đó ít lâu, Từ Thức đi vào núi Hoành Sơn ( gần Thanh Hoá), không thấy trở lại.
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:58:22 GMT -5
Thi sĩ Tản Đà, giữa đầu thế kỷ XX, cảm hứng chuyện cũ, sáng tác nên bài từ khúc ‘Tống Biệt’ :
- Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh, Một bước trần ai Ước cũ, duyên thừa có thế thôi! Đá mòn, rêu nhạt Nước chảy, huê trôi. Cánh hạc bay lên vút tận trời Trời đất từ nay xa cách mãi. Cửa động đầu non, đường lối cũ Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Khác với bài hát Thiên Thai của Văn Cao, nhằm ca ngợi cảnh đẹp và hạnh phúc mà hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu trong truyện thần tiên Trung Hoa, được vui hưởng khi lạc tới Đào Nguyên đến quê cả đường về; sau hai chàng trở lại trần gian vẫn còn luyến tiếc mãi không thôi:
- Thiên Thai, chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian Có một mùa đào cùng ngày tháng chưa tàn phai một lần …… Đào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên đường về …… Nay tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?
Bài từ khúc của Tản Đà lại hướng về quê hương hạ giới, cốt làm nổi bật hai khía cạnh trong đời sống tâm lý muôn thuở của thế nhân:
Con người ta sống ở nơi nào, dù được sung sướng đến đâu (như ở chốn thiên tiên) vẫn không thể quên được cố hương, và sẽ có ngày tìm về.
Trái lại, dù được sống ở quê hương, nhưng một khi người xưa, cảnh cũ không còn, tất cả đã hoàn toàn đổi thay thì con người lại cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, ắt có ngày sẽ tính chuyện bỏ xứ ra đi.
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 11:58:56 GMT -5
Lại như trong thi ca bác học cổ điển của ta, vì chịu ảnh hưởng văn học Trung Hoa nên các mầu sắc, hình ảnh : mầu đào, hoa đào... thường được sử dụng để tả nhan sắc của người phụ nữ(có tính cách ước lệ ). Song chắc chắn chưa một tác phẩm nào lại ca ngợi sức quyến rũ phi thường của đôi má đào người đàn bà như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, sáng tác cuối thế kỷ XVIII:
- Áng đào kiểm đâm bông não chúng Khoé thu ba dợn sóng khuynh thành. Bóng gương lấp ló trong mành Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
(c.15-18)
- Má đào không thuốc mà say Nước kia muốn đổ, thành này muốn long.
(c.167-168)
Đôi má đỏ au như hoa đào của người cung phi ở đây không phải bùa mê thuốc ngải mà có sức hấp dẫn mê hồn, có khả năng làm say đắm lòng người đến độ có nhiều vị trấn thành, trị quốc mê mệt tới sao lãng cả công vụ, đưa đến tình trạng mất thành mất nước như chơi.
Riêng Nguyễn Du, trong truyện Đoạn Trường Tân Thanh viết hồi đầu thế kỷ XIX, thì mượn cây đào làm bối cảnh cho cuộc tình của đôi tài tử giai nhân Kim Trọng – Thuý Kiều.
Sau buổi được tao ngộ cùng Thúy Kiều trong ngày hội Đạp Thanh, Kim Trọng trở về không lúc nào quên được nàng. Chàng say mê Kiều đến độ giả danh du học, thuê hiên Lãm Thuý để mong có cơ hội gặp lại người tình trong mộng của mình.
Cây đào ở cuối vườn nhà Kiều, bên kia tường là hiên Lãm Thúy, Kim Trọng ngày ngày ghé mắt nhìn sang. Lần đầu tiên Kim thoáng nhìn thấy Kiều dưới tàn cây đào :
- Cách tường phải buổi êm trời Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Kim đã với được chiếc kim thoa của nàng vướng trên một cành đào:
- Lần theo tường gấm dạo quanh Trên đào nhác thấy một cành kim thoa Giơ tay với lấy về nhà.
Nhờ đó Kim Trọng đã được gặp lại Thuý Kiều. Nhân một hôm cha mẹ và hai em vắng nhà, Kiều khẽ hắng giọng làm hiệu gọi Kim cũng ở bên gốc cây đào này :
- Dưới hoa sẽ dặng tiếng vàng Cách hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Thì ra Kim Trọng lúc nào cũng loanh quanh luẩn quẩn ở gần cây đào để chờ Kiều. Như thế, cây đào đã gắn liền với những kỷ niệm về mối tình đầu giữa Kim và Kiều. Sau nửa năm xa vắng (Kim phải về Liêu Dương thọ tang chú), Kim trở lại vườn Thúy, chàng thấy mọi vật đều đã đổi thay, riêng có cây đào năm xưa vẫn tưng bừng nở hoa như ngày nào, như muốn trêu ghẹo nỗi cô đơn của chàng.
Tâm trạng Kim Trọng lúc này chẳng khác nào Thôi Hộ khi trở lại Đào Hoa Trang, không được gập lại người thiếu nữ đã cho chàng bát nước giải khát trong ngày hội xuân năm trước. Thế nên, Nguyễn Du đã mượn ý hai câu thơ cuối trong bài tứ tuyệt của Thôi Hộ để tả cảnh ngộ và tâm trạng Kim Trọng:
- Trước sau nào thấy bóng người Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Có ai ngờ câu chuyện tình Hoa Đào Thôi Hộ vẫn còn để lại dư âm đến tận ngày nay?
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 12:01:04 GMT -5
Vào mùa hoa đào năm 1991 tại Parc de Sceaux, nhìn thấy vườn đào rực rỡ với muôn ngàn đoá hoa đang lung linh trong nắng xuân hồng, chúng tôi lại nhớ đến khung cảnh thơ mộng trong cuộc tao ngộ giữa danh sĩ Thôi Hộ và người em gái Đào Hoa Trang thuở nào, lòng bỗng dạt dào cảm xúc.
Thay vì thương cảm cho tình cảnh của chàng Thôi khi trở về chốn cũ không gặp lại người xưa như Nguyễn Du trong truyện Kiều, hay hầu hết các vị nam nhân khác mỗi khi nhắc đến câu chuyện tình thơ mộng này ; chị em phụ nữ chúng tôi lại thường xót xa cho cảnh ngộ của người em gái Đào Hoa Trang, chỉ vì đôi lời thơ hoài cảm của ai kia mà mang lụy vào thân, đã bao tháng năm phải chờ đợi trong cô đơn, âm thầm, vô vọng… nên đã sáng tác nên mấy vần thơ, thác lời Người Em Đào Hoa Trang để làm kỷ niệm.
- Trong vườn hoa đào rộ nở Lung linh dưới nắng xuân tươi Cô em má hồng ửng đỏ Chợt chàng Thôi Hộ ghé chơi.
Bốn câu thơ viết theo thể phú, mô tả cộc tao ngộ giữa danh sĩ Thôi Hộ và người em gái Đào HoaTrang.
- Gặp nhau chỉ dám thoáng nhìn Sông chờ, bến hẹn tưởng nghìn kiếp xưa. Cổng ngoài có mỗi bài thơ Hoa đào vẫn nở, người mơ chẳng về.
Hai câu năm sáu, viết theo thể hứng; nhân cuộc gặp gỡ nẩy sinh tình yêu. Rồi dùng thể tỉ để diễn tả tâm tình người đẹp: Nàng vừa gặp chàng là bị trúng ngay tiếng sét ái tình. Nàng yêu liền và tưởng chừng hai người đã thương nhau, đã chờ đợi nhau từ nghìn kiếp trước, nay bất ngờ gặp lại hẳn sẽ không bao giờ còn lìa xa nữa.
‘Sông chờ’, ‘bến hẹn’ dùng phép tỉ, vừa nhân cách hóa, vừa mượn hình ảnh thơ để diễn tả tình cảm tha thiết đợi chờ của hai kẻ yêu nhau, hay ít ra cũng có trong tưởng tượng, trong mơ ước của nàng.
Hai câu kết, người em gái Đào Hoa Trang lộ vẻ đau đớn, vừa tủi thương cho mình, vừa hờn trách đối tượng. Tưởng chàng yêu nàng tha thiết thế nào, ngờ đâu chỉ vẻn vẹn có một bài thơ rồi bỏ đi chẳng một âm hao ; trong khi tình yêu của nàng dành cho chàng là cả một niềm thủy chung như nhất, chẳng khác nào những bông hoa đào hàng năm vẫn nở mỗi độ gió đông về (gió đông tức gió xuân, vì mùa xuân mới có gió từ phương đông thổi tới).
|
|
|
Post by Oshin on Feb 24, 2004 12:02:02 GMT -5
Để kết thúc bài ‘Hoa Ðào Ngoài Ðời Và Trong Thi Ca’, chúng tôi xin tóm tắt như sau : Hoa đào là một thực tại, không ai có thể phủ nhận. Nhưng thực tại đó hiện hữu như thế nào còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố, nhất là môi trường nó xuất hiện và cảm quan của người tiếp nhận. Như hoa đào tả chốn Bồng Lai thì người ta cho nó có vẻ đẹp xinh tươi, nở chốn thiền môn thì có vẻ đẹp thanh tịnh, xuất hiện trước mắt những kẻ đang yêu thì có vẻ đẹp rực rỡ, nồng nàn. Lại như khi đi qua một vườn hoa đào, có người thấy đẹp, cảm thấy rất an vui hạnh phúc , có người lại không. Như vậy đủ rõ, qua cái nhìn của mỗi cá nhân, thực tại không còn là thực tại mà đã được chuyển hoá. Có thể bị bi quan hoá như cái nhìn của người Nhật về hoa anh đào, nhưng thường là được thi vị hoá gấp năm, gấp mười lần, đặc biệt qua thi ca còn được thăng hoa gấp trăm, gấp ngàn lần, như bài thơ tứ tuyệt của Thôi Hộ, như bài hát Thiên Thai của Văn Cao v.v…
Nhận xét như vậy, chúng tôi không có ý gì khác hơn là tha thiết mời quí vị vào mỗi mùa hoa đào , khoảng đầu tuần thứ hai trong tháng tư, hãy nán chút thì giờ đi thăm vườn đào, để cả thân tâm mà tận hưởng tất cả các vẻ đẹp của nó. Này nhé, như thoạt nhìn từ xa, ta sẽ thấy mầu hoa, rồi gần hơn, cây hoa, cành hoa, gần hơn nữa, cánh hoa, nhị hoa, và nếu biết nhìn một cách sâu sắc, chúng ta còn có thể thấy, chỉ một cánh hoa cũng đủ hàm chứa cả sự mầu nhiệm của vũ trụ, vì trong đó không những có sự hiện diện của ánh nắng mặt trời, ánh sáng trăng, sao mà còn cả gió, mưa, sương, tuyết, đất, nước, cả người làm vườn và nhất là sự hiện diện của chính chúng ta. Thực thế, nếu chúng ta không có ý thức về cánh hoa đó, thì nó đối với chúng ta như chưa từng hiện hữu, có cũng như không, nói chi đến sự mầu nhiệm kia.
Hoa đào quả là một ân sủng của Thượng Đế ban cho loài người… Vườn đào quả là một Thiên Đường mà chúng ta có thể tới được dễ dàng ngay trong cuộc sống hiện tại. Ít nhất cảnh đẹp tinh khiết, tươi thắm của vườn đào cũng làm cho ta mát mắt, tâm trí thư giãn; ngoài ra nó còn nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng, tươi trẻ của chúng ta, và biết đâu còn gợi cho chúng ta nhiều cảm hứng, thi tứ, trên văn đàn Việt Nam, nhờ đó mà nảy sinh thêm biết bao kỳ hoa dị thảo ? Giáo sư Gia Long Phạm Nhị Nhung
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 6:31:32 GMT -5
Vườn hoa diên vĩ - Tranh Monet (1900) Iris - Tranh Monet (1915-1922) Hoa Diên Vĩ (The Iris) - Vincent van Gogh (1889) Hoa Diên Vĩ (The Iris) - Vincent van Gogh Hoa diên vĩ - Vincent van Gogh (1890) Là hoa hậu các loài hoa Bay bằng đôi cánh lụa là tiên xanh Trao nhau thông điệp tốt lành Hoa Diên Vĩ khẽ nhịp thanh roi vàng Lá xanh phố thị rộn ràng Quen men theo suối dọc ngang núi rừng Vi vu thổi sáo bâng khuâng Mỗi lời ca đẹp như từng lời thơ
Ôi loài hoa của giấc mơ Sông hôn em nụ ngẩn ngơ mặn mà Ôi loài hoa của tình ca Điểm tô thế giới thật thà yêu thương
(Henry Wadsworth Longfellow)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 17, 2004 7:27:07 GMT -5
Hoa Đậu Thơm Niềm vui bất tận Nàng đậu hoa nhón bàn chân Khẽ khàng đôi cánh trắng ngần bay lên Tay thon từng ngón dịu mềm Kết vòng vạn vật về bên lòng mình.(John Keats) Tên khoa học : Lathyrus Odoratus - Họ : Leguminosae Tên thông dụng : Hoàng hậu của loài cây hàng năm (Queen of Annuals) Tên tiếng Anh : Sweet Pea Hoa của tháng Tư (April''s Flower) Biểu tượng : Niềm vui bất tận, sự khởi đầu, sự duyên dáng, thanh nhã. Thông điệp : Goodbye (?); Thank you for a lovely time; I think of you. Tên ""Sweet Peas"" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ""Lathyros"" có nghĩa là Pea (đậu) và Odoratus là fragant (thơm). Tên ""Sweet Pea"" lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà thơ Keats (1795-1821). Sweet Pea được trồng từ 1722 và trở nên phổ biến suốt giai đoạn cuối thế kỷ 19 vì hương thơm ngọt ngào của nó. Đặc biệt, vào thời vua Eđwar ở Anh, hoa đậu thơm được xem như biểu tượng hoa của người dân lúc đó. Sweet Pea được trang trí trong các buổi dạ tiệc, đám cưới. Người ta còn lấy hoa làm hương liệu khô để làm thơm phòng, tủ v.v Bông hoa thơm nồng nàn và tinh tế này có dáng vẻ tao nhã, khá tự nhiên. Trên một cành, các bông hoa có thể có nhiều đốm màu khác nhau như xanh, tía nhạt, hồng và trắng. Một số quan niệm mê tín cho rằng, các hạt giống đậu thơm được gieo trước khi mặt trời mọc vào ngày lễ thánh Patrick sẽ nở những cánh hoa lớn hơn và thơm hơn. Một số người khác thì tin rằng, kết quả tương tự cũng xảy ra nếu hạt giống được gieo vào khoảng thời gian giữa lễ thánh David & Chad (mùng 1, mùng 2 tháng 3) và lễ thánh Benedid (21 tháng 3).
|
|
|
Post by Oshin on Mar 21, 2004 12:42:10 GMT -5
Ðêm như ngưng ngàn tiếng Gió bỗng bát ngát hương Em đang về hiện diện Một đóa hoa vô thường Nhan sắc Quỳnh hương Trong hết thảy các loài hoa trên mặt đất, có lẽ hoa Quỳnh là một trong hiếm hoi những loài hoa đặc biệt nhất. Cây hoa giản dị, họ nhà xương rồng, ban ngày trông xoàng xĩnh tầm thường, nhưng về đêm là vua của muôn hoa. Hoa Quỳnh rất dễ trồng. Chỉ cần nửa chiếc lá cắm vào đất tơi xốp, vài tháng đã có một khóm Quỳnh nhỏ. Nhiều người hay trồng hoa Quỳnh trong chậu, hoặc ven hiên nhà phía ngoài cửa sổ. Thường những người đã có tuổi hoặc từng trải mới dám trồng hoa Quỳnh. Có người trồng cả đời nhưng Quỳnh không chịu nở hoa. Hoa Quỳnh kén người trồng như kén bạn tâm giao. Ngắm hoa Quỳnh nở hoa là một cái thú vào loại bậc nhất trên đời. Còn gì hơn dưới ánh trăng sáng mờ như lụa bóng, trải chiếc chiếu nhỏ, bày độc ấm trà và thêm một ít mễ tửu, cùng với vài người bạn tốt uống rượu ngắm hoa. Nhân gian bảo hoa Quỳnh nở vào nửa đêm nhưng không phải vậy. Hoa Quỳnh nở sớm hơn rất nhiều. Từ chập tối, nụ hoa đã no tròn chúm chím. Ðài hoa mở dần, những đường gân hoa trắng xanh bung ra từ từ. Cuốn hoa mới buổi ngày còn rất nhỏ, vào đêm thoắt dài ra như một cánh tay con gái xanh xao. Thường vào cứ tám giờ là giờ hoa Quỳnh bắt đầu nở hoa. Nhìn nụ hoa mở lòng trinh bạch, ta nghe tim mình bỗng dưng đập rộn. Gió đêm thoảng nhẹ, cuốn hoa cứ vươn dài ra, những cánh hoa run run e ấp. Từ giữa lòng hoa, một bầy nhuỵ trắng đội mũ vàng trạng nguyên toả sâu vào lòng đêm. Mùi xạ hương bay ra ngất ngây. Hương Quỳnh ôm choàng lấy chút bóng đêm còn sót lại dưới tán cây lớn. Có lẽ không có màu trắng nào sánh được với màu trắng cánh hoa Quỳnh. Là màu hoa Sen nhưng không phải hoa Sen. Là màu Bạch Mã mà không phải là màu Bạch Mã. Dường như có một chút gì đó rất liêu trai trong màu trắng hoa Quỳnh, khiến tôi nghĩ đến màu trắng của những chiếc lông ngỗng mà nàng Mỵ Châu đã đánh dấu sau chân ngựa, trên đường tình trốn giặc năm nào... Một sắc trắng trinh bạch đẹp đến xuyến lòng và dự báo những tai ương khôn lường ở cuộc đời này. Cho nên không lạ khi nhiều người ngắm sắc trắng hoa Quỳnh bỗng nghe trong mùi hương Quỳnh lan nhẹ có tiếng vó ngựa lao xao, tiếng reo hò một thuở, và tiếng bật khóc nức nở của ai đó bên ngoài hiên vắng... Nhưng thương nhất vẫn là những nụ Quỳnh nở vào đêm ba mươi. Hoa nở thắm. Hết mình. Lặng lẽ như chưa từng có mặt trên đời. Có lần ngắm hoa Quỳnh nở trong đêm ba mươi, dưới bóng đêm u huyền, bỗng dưng tôi thấy sắc hoa trắng lay lắt như gương mặt một thiếu nữ nhồi phấn, miệng hoa cười rất tươi, ở một bên khoé môi trễ xuống một nhuỵ hoa nuột nà như chiếc răng khểnh mười sáu. Hoa Quỳnh của đêm ba mươi là hoa Quỳnh của niềm kiêu hãnh, cô đơn và trắng xoá đêm đầy. Ðúng nửa đêm. Hoa Quỳnh nở chín rộ, phô phang trọn vẹn nhan sắc hoa. Ðêm ướt đẫm sương và hương thơm lẩn quất như vừa có một gót sen tiên nữ đi qua. Lúc này, cuốn hoa đã to bằng ngón tay út người lớn, màu hoa chuyển sang trắng ngà và hương thơm ngai ngái phủ phê lòng. Ngày nhỏ ngắm hoa Quỳnh nở bên hiên nhà chỉ thấy hoa đẹp và lạ. Chưa thấy rằng ngụ trong đời sống của hoa là bao nhiêu ý nghĩa thế nhân. Nở rực rỡ và lụi tàn trong một đêm, Quỳnh hoa là ngôi sao băng trên bầu trời của cái đẹp. Một cái đẹp ngắn ngủi như những hạt sương buổi sớm gieo thầm trên lối đi. Nó thổi vào tâm thức ngọn lửa của vô thường. Hoàng Bình Thi Ta mang cho em một đóa quỳnh Quỳnh thơm hay môi em thơm...
|
|
|
Post by Oshin on Mar 21, 2004 12:48:00 GMT -5
VÀI CẢM NGHĨ KHI XEM HOA QUỲNH NỞ(Lương Thư Trung ) Từ thuở nhỏ, tôi đã nghe cha tôi kể về một loại hoa quý hiếm, chỉ nở vào ban đêm, đó là hoa Quỳnh. Vậy mà rồi, đâu có lần nào tôi thấy được một đóa Quỳnh nở. Bởi, như cha tôi chậm rải truyện trò : "Ai may mắn lắm mới được xem hoa Quỳnh đang nở ." Vì hoa Quỳnh nở vào ban đêm với một hương thơm tinh khiết đến ngạt ngào, mà trẻ con như tôi hồi ấy ở nhà quê cứ chạng vạng tối khi gà nhảy lên cây ngủ là mấy đứa trẻ cũng ngủ mất đất từ lúc nào . Rồi dần dà sau này lớn lên, xa cha mẹ già, xa những bụi hoa Quỳnh của cha, nên tôi không còn có dịp nào để hưởng cái may như lời cha tôi căn dặn mỗi lần những chậu hoa của cha có cánh hoa nở vào lúc đêm khuya . Nhớ ngày mẹ tôi còn sanh tiền, mẹ tôi rất thích trồng hoa ngay trước sân nhà, chung quanh bàn thông Thiên, dọc theo lối đi từ trên nhà đến bến sông đủ sắc màu xanh, tím, vàng, hường của những loại hoa ở nhà quê người ta hay trồng nhưng đậm đà hương sắc. Mẹ tôi cũng thích những bụi Quỳnh, nhưng tôi nghe mẹ kể lâu lắm mới có hoa, mà cũng không dễ dầu gì thấy được một lần hoa Quỳnh nở, nó hiếm hoi lắm! Bẵng đi mấy mươi năm, đời sống cùng thời cuộc nhiều lúc làm cho con người không có nhiều thì giờ cùng cơ hội sống theo sở thích của mình. Miếng cơm, manh áo, con cái, gia đình, trăm thứ trăm lo nên việc hưởng chút thư nhàn với chậu hoa, chậu kiểng cũng là điều họa hoằn, "năm thuở mười thì" mới có một lần. Những ngày đầu sống nơi quê người, lòng khách tha hương buồn chán đến cùng cực. Lạ nước, lạ cái và lạ cả tiếng nói cùng trăm thứ lạ khác của xã hội tây phương càng làm cho tôi nhiều lúc không buồn ngắm ánh trăng lưỡi liềm lúc nào cũng dựng đứng, không bao giờ nằm ngang như trăng lưỡi liềm nơi chốn cố hương, không nhìn vì sao Nam Tào hoặc sao Bắc Đẩu mỗi đêm về để định hướng mình đang ở nơi nào trên mặt đất, không buồn nghe các loài chim hót phía sau nhà dù chim sẻ, chim bồ câụ.. Còn bông hoa, cây kiểng ở nơi xa quê này như một món hàng xa xỉ đối với lòng dạ luôn héo úa của những kẻ lạc loài ... Nhưng rồi, thật tình cờ, gia đình tôi được một vị thầy giáo đem lại cho tôi một chiếc lá Quỳnh. Chiếc lá nhỏ ấy màu xanh đậm mà người quen chỉ cho tôi cách gầy giống khá dễ dàng là chỉ cần cắm vào một chậu đất rồi o bế, tưới nước, bón phân là nó sống như một loại lá cây sống đời mà mẹ tôi hay cắm gần lu nước uống ngày xưa của mẹ ở bên nhà. Thắm thoát mà đã sáu năm tôi đến chốn này và cũng đã sáu năm bụi hoa Quỳnh mà tôi trồng vẫn chưa một lần trổ hoa dù những chiếc lá mỗi ngày rất xanh tốt, um tùm. Có lẽ vì cây để trong nhà, bên khung cửa sổ nên thiếu ánh nắng mặt trời, do đó mà bụi hoa Quỳnh không trổ bông được. Tôi luôn an ủi mình như vậy để mà hy vọng. Lại nữa, vượt lên trên mọi sở thích, tôi trồng hoa Quỳnh cùng một vài chậu hoa lài, chậu hạnh với những cánh hoa màu trắng thơm thơm hương hoa cam, hoa bưởi là để tưởng nhớ cha mẹ tôi nhiều hơn, vì song thân tôi dù sống lam lũ ở nhà quê nhưng lại lấy việc trồng hoa, lập vườn như một thú vui tao nhã của tuổi già . Nhớ ngày xưa, mỗi buổi sáng vài bông trang màu đỏ xòe ra với mật ngọt, mấy luống hoa mười giờ cánh mỏng đượm màu tím trên vùng lá non xanh mượt, hoa vạn thọ phảng phất hương thơm nhẹ nhàng, những cánh hoa mai trắng rụng đầy gốc sau những ngày mưa, mai tứ quí dường như bốn mùa hoa vàng chen chúc giữa những cành nhánh lá cây xanh lúc nào cũng có vài cặp vợ chồng loài chim manh manh, chim áo già, chim sâu, chim sẻ cười vui ríu rít trong ấy hoặc đêm đêm hương thơm của hoa dạ lý hương chảy tràn trong không gian vắng lặng của vườn quê, tôi nghe cha mẹ tôi tắm tắt khen từng loại hương thơm, từng màu sắc của mỗi loài hoa vô cùng thích thú...
|
|
|
Post by Oshin on Mar 21, 2004 12:49:11 GMT -5
Dường như, khi niềm hy vọng về một mơ ước nào tưởng chừng nguội lạnh, điều mơ ước ấy thường lại đến thật bất ngờ như một buổi tương phùng của những tâm hồn đồng điệu mà không hẹn trước... Lúc hạnh ngộ như vậy trong lòng của mỗi người vui biết bao nhiêu ! Và tôi đã nhận được niềm vui ấy vào mấy hôm rồi khi nụ hoa Quỳnh vừa nhú ra từ chiếc lá già xanh biếc . Thế là tôi bắt đầu nhìn ngắm nụ hoa Quỳnh theo từng ngày qua từng ngày thật háo hức, đợi chờ ...Lúc đầu, như một hạt lúa móng chim màu xanh trong ngần, nụ hoa lớn dần cùng với cuống hoa bằng chiếc tăm... Đến ngày thứ mười bốn, kể từ ngày lá Quỳnh nhú nụ, cuống hoa lớn bằng ngón tay út và nụ hoa căng đầy như trái hồng chín đỏ . Và rồi, nụ hoa bắt đầu chuyển mình khi tiết trời bên ngoài lành lạnh... Đúng chín giờ đêm, không gian tỉnh lặng, nụ hoa bắt đầu nở. Những đài hoa rung rinh như vặn mình và vươn ra từ từ mà mắt thường chúng tôi cũng trông thấy được ... Gia đình tôi, mọi người cùng ngồi bên nụ hoa Quỳnh đang nở . Những cánh hoa thật mỏng màu trắng ngà chuyển dịch thành một ngôi sao nhiều cánh đan kết liền mí vào nhau thành một vòng tròn từ từ lớn dần như hoa đang thở, đang cười làm cho cuống hoa chập chờn ... Nhà tôi nấu nước sôi và chăm bình nước trà ướp hoa lài từ bên Việt Nam mà có người gửi biếu mấy hôm trước. Con tôi, chúng nó lăng xăng, đứa thắp nhang đèn trên bàn thờ ông bà, đứa mang trà rót vào các tách nhỏ van vái Trời Phật, tổ tiên. Tôi có mời thêm một người bạn trẻ ở gần bên nhà rất say mê hoa Quỳnh đến xem hoa nở vào tối hôm ấy . Chúng tôi ngồi quây quần bên nhau uống trà kể chuyện về loài hoa quí này . Anh bạn trẻ này nghĩ ngợi hoa Quỳnh như một người bạn hiền đến thăm bạn sau những giờ làm lụng vất vả ban ngày, rồi chuyện trò, hàn huyên, sau đó khách lại ra về mà những lời chuyện trò như một chút dư hương còn lại mãi ... Tôi thì kể cho các con tôi nghe về cái thú xem hoa nở của ông bà nội các cháu, nhất là hoa Quỳnh, theo lời cha tôi ngày xưa . Trong lòng tôi, tôi nghĩ như cha mẹ tôi đang về thăm con cháu qua đóa Quỳnh vừa mới chuyển mình. Những cánh hoa linh động vô cùng như có bước chân nhẹ, có hơi thở từ búp măng dần dần mở ra theo thứ tự thật dịu dàng... Và sau hai giờ khai hoa nở nhụy, cánh hoa Quỳnh đã khoe sắc, khoe hương một cách sắc xảo, tài tình, hoàn hão ... Những nhụy hoa vàng hướng về bên trên, thay vì như nhụy của nhiều loài hoa cứ vươn thẳng về phía trước, uốn con thành hình một vương miện hoặc như chiếc mui của một chiếc thuyền rồng với mũi thuyền là những sợi nhỏ như tơ óng ánh, kỳ ảo . Đóa Quỳnh tỏa hương thơm bát ngát khắp căn phòng khách. Hương thơm chan hòa trong hơi thở, trong tiếng nói, trên nụ cười, trên bức rèm the mỏng treo nơi bệ cửa sổ, trên sách vở, trong làn hương khói nơi bàn thờ cha mẹ tôi ... Những nhụy vàng của hoa bắt đầu rắc đều trên tờ giấy trắng mỏng hứng bên dưới đóa Quỳnh như chiếc khăn dệt bằng loại tơ tằm vàng óng, tròn xoe ... Những đài hoa từ từ xếp lại, những cánh hoa mỏng cũng e ấp đậy lại nhụy hoa thật nhẹ nhàng như hoa buồn đi ngủ muộn... Đêm càng về khuya, từng chập, từng chập, những ngọn gió từ biển rít ngoài trời tối mờ mờ ánh đèn đường, lướt thướt kéo mình qua tàng cây phong đứng ngủ qua đêm... Trong phòng khách thật yên vắng, đóa Quỳnh cũng khép mình thật kín đáo như hồi lúc chín giờ hoa còn búp nụ . Chúng tôi tiếp tục uống những giọt trà muộn màn để xem hoa khép cánh, hoa tàn. Nhụy hoa tiếp tục rớt đầy trên trang giấy trắng làm cho chiếc khăn vàng càng dày thêm lên màu vàng đầy hương thơm sắc thắm... Cuống hoa như mềm ra, rũ xuống và giữ lấy đóa hoa lớn bằng bàn tay đứa bé có khuôn mặt khôi ngô xòe ra mà giờ nó đang thu mình lại thật gọn gàng, quý phái ... Thế là hoa Quỳnh đi ngủ ngay trong đêm và những cánh hoa không còn cựa mình dậy nổi nữa ! Và rồi hoa cứ ở vị thế ngủ vùi có đến cả tuần lễ sau hoa mới thật sự héo khô . Những cánh hoa bám chặt cuống hoa gầy guộc buông thòng xuống, rã rời ... Những cánh hoa khô vẫn giữ màu trắng ngà ngà ... Các đài hoa khô như những chiếc rễ tre nhăn nheo vẫn không rời cuống. Hoa Quỳnh tàn, nhưng hoa không rữa nát như những kiếp hoa tàn úa khác mà thế nhân vẫn thường hay bắt gặp nơi những loài hoa trong trời đất, tạo vật.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 21, 2004 12:51:10 GMT -5
Hoa Quỳnh quả thật là một loài hoa quý hiếm vô cùng! Trong thơ ca các văn nhân thi sĩ thường ngợi ca hoa Quỳnh. Ngày tiễn biệt thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, cụ Huỳnh Thúc Kháng có viết hai câu đối, theo cụ Quách Tấn nhận xét hai câu đối này xuất sắc nhất, trong đó có nhắc đến "hoa Quỳnh" như một nét đẹp của cụ Tản Đà, nguyên văn như sau: "Không sắc nhất Quỳnh hoa, tiếu khứ hân nhiêm, thiên thượng quần tiên đa quyến thuộc; Túy ngâm song bạch nhãn, hứng lai huy bút, nhân gian thiên thủ ngạo công hầu." Cụ Huỳnh Thúc Kháng tự dịch : "Không sắc một hoa Quỳnh, về vuốt râu chơi, tiên bạn lắm người nên quyến thuộc; Say ngâm hai mắt trắng, hứng thơ bút múa, giá thi mấy lớp xấp công hầu ." Và cụ Quách Tấn đã viết về hai câu đối điếu này như sau :" Cụ Huỳnh cùng tiên sinh vốn không hay lui tới, cũng không có thư từ qua lại . Nhưng xem câu đối điếu thì biết Huỳnh chí sĩ kính yêu tiên sinh biết dường nào ! Niềm kính yêu giấu kín trong lòng mãi đến khi kẻ mất người còn mới thổ lộ . Mối tình thật là cao quý, thật là đẹp đẽ ! Tình đã cao đẹp, văn lại hàm súc. Chỉ có ba mươi hai chữ mà nói rõ khí tượng và tài năng của người quá cố. Không cần đọc tiểu sử, chỉ đọc câu đối điếu cũng đủ thấy được phẩm giá của Tản Đà tiên sinh, cũng biết qua được sự nghiệp văn chương của Tản Đà tiên sinh."(+) Mới đây, trong bài thơ Ánh Trăng của một thi sĩ đã làm thơ hơn bốn mươi năm, nhưng mới có đứa con đầu lòng vừa chào đời vài tháng trước, thi phẩm "Tôi Cùng Gió Mùa" của thi sĩ Nguyễn Xuân Thiệp, cũng có nhắc đến cái quý đẹp của hoa Quỳnh: "Trong khuya nghe một bông quỳnh nở Phiến lá ngời . Vàng óng búp trăng Hương biếc chạm vào trang sách quý Mở ra thôi . Ước cũ hàng hàng." (Ánh Trăng - Nguyễn Xuân Thiệp, Văn Học tháng 4-98) Rồi những nhà thơ trẻ trên tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng cũng mượn cái đẹp, cái quý của hoa Quỳnh mà diễn tả tấm lòng của mình, nhưng có lẽ vì chưa thấy tường tận những đóa Quỳnh nở cùng thời khắc ngắn ngủi của kiếp hoa chóng tàn này, mà nhiều ý thơ bị lệch lạc đi nhiềụ Vì lý do tôn trọng các tác giả, nên tôi xin được miễn trích thơ ra đây và với bài viết này, người viết chỉ có ước mơ nhỏ ghi lại diễn tiến một đóa Quỳnh đang nở cũng như thời khắc hoa tàn mà tôi đã có may mắn chờ hoa từ đầu đến cuối giữa đêm Thu nơi gác trọ của xứ người ... Mong lắm thay! Trời đất ban cho con người những loài hoa như một ân sủng của tạo hóa và mỗi loài hoa đều có nét đẹp riêng, không loài hoa nào giống loài hoa nào ... Mỗi loại hoa như một kiếp người, có hoa lâu tàn, có hoa nở trong vài giờ rồi khép cánh nhận kiếp hoa tàn, khô héo ... Dù bền bĩ hay chóng tàn phai, thế rồi cũng kết thú c một đời hoa ! Nhưng có lẽ hoa Quỳnh cũng thuộc loài hoa tàn nhanh nhưng lại quý không kém loại hoa nào qua hương, qua sắc cùng sức mạnh mẻ, linh động của nụ hoa đang lúc khai hoa nở nhụy giữa đêm khuya... Ngồi xem lại gần ba mươi tấm ảnh chụp từ lúc nụ hoa Quỳnh mới nhú, rồi hoa nở, hoa khép cánh ngủ vùi êm ả, nhụy hoa vàng rơi trên trang giấy trắng tinh xếp thành vòng tròn, nghe như đâu đây mùi hương của hoa còn phảng phất, nhớ quá một đêm chờ hoa nở thú vị biết dường nào! Và có lẽ, cái còn lại trong lòng đứa con đã mất cha mẹ từ hơn hai mươi ba năm trong đêm xem hoa Quỳnh nở là cái lòng tràn ngập nỗi nhớ thương song thân như đứa trẻ mong mẹ cha đi xa về, dù tóc tôi nay đã bạc đi nhiều, không còn trẻ nữa... " Nửa đêm hoa Quỳnh nở. Làn gió nhẹ hương đưa Cha tôi về theo gió, Mẹ tôi về theo hương.
Thương cha xem Quỳnh nở, Nhớ mẹ già vườn xưa, Nhụy hoa vàng thơm ngát Mẹ thương hoài con thơ ..." Lương Thư Trung Hoa Kỳ, ngày 27-9-98 -------------------------- (*) Trích bài viết "Kỷ Niệm về Tản Đà" của cụ Quách Tấn, đăng trên tạp chí Văn, xuất bản tại Sài Gòn năm 1971.
|
|