|
Post by Robot on Jun 19, 2004 2:57:15 GMT -5
Hành trình đi tìm... ruồi Có hơn 20.000 loài ruồi phorid khác nhau, trong đó có 50 loài chuyên tấn công kiến lửa. Một số loài ruồi phorid tấn công kiến lửa thuộc họ geminata, bao gồm các loài kiến lửa có nguồn gốc ở miền Nam nước Mỹ, còn một số loài khác lại tấn công kiến lửa thuộc họ saevissima, trong đó có RIFA và các loài xuất xứ từ Nam Mỹ. Theo Feener, hầu hết các loài phorid "ưa" kiến lửa họ này thì lại không "tơ tưởng" gì đến kiến lửa họ kia, và ngược lại. Nhưng trong một họ kiến lửa thì ruồi lại thường không chỉ tấn công một loài. Để minh họa cho việc ruồi phorid chỉ tấn công một họ kiến, Gilbert nói rằng lũ ruồi tấn công kiến họ geminata tại Mỹ đang dần ít đi do lũ kiến bản địa không còn nhiều như trước nữa. Chúng không tấn công, và sẽ không tấn công kiến RIFA, cho dù lũ kiến ngoại lai này đang tràn ngập mặt đất. Gilbert cho biết: "Chúng tôi chắc chắn rằng ruồi phorid dùng tín hiệu hóa học đặc trưng cho các loài kiến để định vị và phân biệt kiến "của mình". Các tín hiệu này mang tính đặc thù rất cao." Các nhà nghiên cứu đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, trong đó có việc tìm kiếm, nhập khẩu và nuôi nấng lũ ruồi phorid "khoái khẩu" kiến lửa RIFA, sau đó lại phải đưa chúng vào môi trường tự nhiên sao cho chúng kiểm soát được dân số RIFA. Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Feener về công trình của nhóm Gilbert là họ đang tiến hành các cuộc thử nghiệm điền dã với ruồi phorid tấn công RIFA tại những vùng nhiều mô đất chứ không phải khi kiến đang đi kiếm ăn. Theo Feener, đây là một vấn đề quan trọng, bởi vì ruồi phorid cần phải "quấy rầy" RIFA tại nơi kiến cạnh tranh trực tiếp với kiến lửa bản địa: kiếm ăn. Ông nói: "Như vậy, dự án của họ chưa rõ về việc ruồi phorid hoạt động như thế nào để kiểm soát dân số RIFA." Mạo hiểm với tương lai? Với hàm răng chắc khỏe và bản tính hiếu chiến, RIFA không có đối thủ tại những nơi nó đến. Feener còn tỏ ra lo ngại về cuộc nghiên cứu mà ông đã thực hiện cùng với Gilbert và Woody Benson thuộc ĐH Campinas tại Brazil. Cuộc nghiên cứu này đã đưa ra những bằng chứng không thực sự thuyết phục về khả năng kiểm soát dân số kiến lửa của ruồi phorid ngay tại quê hương Brazil. Feener cho biết: "Không phải là ruồi phorid không thể giúp chúng ta kiểm soát kiến lửa, nhưng chúng ta chưa thể khẳng định được điều này bởi không có dữ liệu." Tuy vậy, Gilbert lại tin rằng ruồi phorid có thể gián tiếp kiểm soát dân số kiến lửa. Ông hy vọng sẽ nhân bản được ngay trên nước Mỹ các cộng đồng ruồi phorid xuất hiện ở những nơi có kiến lửa tại Nam Mỹ. Ông cho biết, trong số bảy loài ruồi phorid "chuyên dụng", có tới năm loài có nguồn gốc từ Nam Mỹ, mỗi loài có một sở thích khác nhau về kiểu kiến (lớn hay nhỏ ), phong cách tấn công (nơi mấp mô hay dọc đường), và mùa tấn công. Cả Gilbert và Feener đều cho rằng nếu dự án ruồi phorid không thành công, lũ ruồi chưa chắc đã phát triển mạnh về mặt dân số và chuyển sang tấn công kiến lửa địa phương. Feener nói: "Nếu lũ ruồi thả ra ở Mỹ mà không tấn công kiến, tôi sẽ gặp nhiều rắc rối bởi nó sẽ làm tăng thêm quá trình đồng nhất vùng sinh học trên thế giới, và hậu quả như thế nào thì không một ai có thể nói trước được." Khánh Hà (Theo National Geographic)
|
|
|
Post by Oshin on Jun 24, 2004 13:11:24 GMT -5
Động vật nhiệt đới cũng ngủ vùi để tránh nóng Vượn cáo. Gấu và mácmốt lẩn trốn mùa đông giá rét nhờ ngủ lịm trong hang ấm áp. Nhưng không chỉ sinh vật xứ lạnh như chúng mới biết làm điều đó. Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu Đức tìm thấy vượn cáo ở Madagascar (Ấn Độ Dương) cũng náu mình suốt nhiều tháng để tránh mùa đông khô hạn. Những con vượn cáo có kích cỡ chỉ bằng con chuôt đồng cuộn tròn trong các hốc cây và ngủ li bì trong cả 7 tháng mùa đông khô hạn, mặc dù ở xứ sở nhiệt đới Madagascar này, nhiệt độ mùa đông có thể vượt quá 30 độ. Để sống sót, chúng "đốt cháy" năng lượng trong cái đuôi béo tròn của mình. Đây cũng là lần đầu tiên, một loài linh trưởng nhiệt đới được công nhận khả năng "ngủ lịm", vốn chỉ biết đến ở các sinh vật hàn đới và ôn đới. Trước kia, việc loài linh trưởng này biến mất trong mùa đông ở Madagascar trở thành dấu chấm hỏi đối với các nhà khoa học, còn các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm thì không thể buộc chúng phải ngủ lâu ngày. Nhưng nay, Kathrin Dausmann tại Đại học Phillips ở Marburg (Germany) và cộng sự đã quan sát được hành vi đó. "Nghiên cứu đã chứng tỏ ngủ lịm không chỉ là hệ quả của cái lạnh - nó thậm chí có thể xảy ra trong điều kiện nóng nực hoặc ấm áp", Gerhard Heldmaier, thành viên nhóm nghiên cứu, nhận định. Đợt ngủ dài ngày này giúp chúng bảo tồn năng lượng trong mùa khô hạn, khi thức ăn trở nên khan hiếm. Khác với các kiểu ngủ đông thông thường (động vật điều hoà nhiệt độ cơ thể ), thân nhiệt của vượn cáo dao động mạnh, trong khoảng 25 độ C và phụ thuộc vào khả năng cách nhiệt của hốc cây nơi nó trú, tức là vào nhiệt độ trong hốc cây. "Chưa có sinh vật ngủ lịm nào mà thân nhiệt dao động mạnh đến vậy, từ giữa 9 đến 36 độ C", said Heldmaier nói. B.H. (theo Reuters, NewScientist)
|
|
|
Post by Robot on Jun 30, 2004 7:10:14 GMT -5
Cá nhảy múa để tránh bị xơi Cá sọc xanh đang làm nhiệm vụ. Cá cọ rửa làm mềm lòng các con cá to hơn bằng những màn khiêu vũ mê hoặc. Loài cá sống ở các rặng san hô này dành cả đời để ăn vật ký sinh và chất thải của các loài cá khác. Đôi khi chúng còn bơi vào trong mồm và mang của những con nguy hiểm hơn như cá mập, để dọn vệ sinh trong đó. Nhưng các nhà khoa học lâu nay vẫn tự hỏi bằng cách nào những con cá này làm nhiệm vụ mà không trở thành mồi ngon cho những khách hàng hung dữ đó. Nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Current Biology cho rằng chúng đã làm được điều này bằng màn khiêu vũ khéo léo. Tác giả nghiên cứu Alexandra Grutter, cùng cộng sự tại Đại học Queensland, đã tìm hiểu loài cá cọ rửa sọc xanh Labroides dimidiatus khi đang phục vụ cá hồi Plectropomus leopardus. Họ tìm thấy cá sọc xanh nhảy nhót nhiều hơn khi khách hàng của chúng đang đói. Đó là điệu nhảy đung đưa lên xuống để cọ rửa cho khách hàng bằng những vây mềm mại. Grutter giải thích đó có thể là một hình thức điều đình với thân chủ nguy hiểm. Nó cũng cho thấy cá cọ rửa biết cách điều chỉnh hành vi của khách hàng bằng sự kích thích cảm giác. "Kết quả cho thấy cá cọ rửa có thể biết được khi nào khách hàng của mình đói và biết cách tránh được rắc rối trước khi nó xảy ra", Grutter nói. Hành vi này cũng giống như ở động vật linh trưởng trong đó có con người - khả năng điều hòa xung đột và duy trì sự hợp tác trong các môi trường xã hội phức tạp. Nhưng khi phạm phải điều gì đó làm khách hàng phật ý, như cắn véo, thay vì nhảy nhót chúng sẽ massage một chút như một lời xin lỗi. Và để tránh tối đa hiểm nguy, mọi màn nhảy nhót đều tránh xa phần đầu và đuôi của thân chủ. Minh Thi (theo ABC Online)
|
|
|
Post by Robot on Jul 1, 2004 7:36:07 GMT -5
Tạo ra bông hồng xanh đầu tiên trên thế giới Những bông hồng xanh đầu tiên có màu tím phớt. Hãng đồ uống lớn của Nhật Bản Suntory hôm qua tuyên bố đã tạo ra những bông hồng xanh thực thụ đầu tiên từ công nghệ chuyển gene. Họ hy vọng trong 4 năm nữa, chúng sẽ có mặt trên các quầy hàng. Suntory có được sản phẩm này sau 14 năm nghiên cứu, bằng cách cấy vào hoa hồng loại gene đã tạo nên sắc tố xanh dương cho hoa păng-xê. Sắc tố có tên gọi Delphinidin, hoàn toàn không tồn tại ở hoa hồng tự nhiên. "Tạo ra hoa hồng xanh một thời được xem là chuyện không tưởng. Nhưng chúng tôi đã kiên trì với công trình của mình để có được nó", Chủ tịch Công ty Suntory, Nobutada Saji, cho biết. Theo ông Saji, công nghệ lai ghép truyền thống có thể tạo ra những bông hồng "phớt xanh", hoặc pha tía, nhưng không phải là xanh dương hoàn toàn. Màu của chúng có được là do sự phối trộn giữa sắc tố đỏ và cam, chứ không phải do Delphinidin. Nhờ công nghệ sinh học, những cánh hoa hồng do Suntory tạo ra chứa gần như 100% sắc tố xanh dương. Tuy nhiên, chúng vẫn có vẻ ngoài tím nhạt của violet, do vậy, các quan chức công ty thừa nhận họ sẽ tiếp tục phải nghiên cứu thêm để tạo ra những đoá hồng thực sự có màu xanh tươi sáng của bầu trời. "Về mặt kỹ thuật, chúng tôi đã thành công tuyệt đối trong việc tạo ra hoa hồng xanh nhờ các sắc tố của nó. Nhưng để tất cả mọi người cùng công nhận đó là màu da trời, thì chúng tôi mới chỉ đi được nửa đường", một chuyên gia của công ty nói. Các quan chức Suntory cũng cho biết sẽ cần ít nhất 2 năm rưỡi nữa để thử nghiệm và điều tra trước khi loài cây chuyển gene này được thừa nhận là an toàn với môi trường. Tiến trình thương mại hóa sẽ bắt đầu vào năm 2007 hoặc 2008. B.H. (theo AFP, Japan Times)
|
|
|
Post by Robot on Jul 1, 2004 7:38:01 GMT -5
Những động vật sống trong đáMột trong những bí ẩn gây nhiều tranh cãi nhất của ngành địa chất học hàng trăm năm qua là chuyện thằn lằn, ếch, cóc hay nhiều loài lưỡng cư khác được tìm thấy trong những khối đá mà vẫn còn sống, và có thể hoạt động bình thường sau khi được giải phóng... Năm 1821, tạp chí Tilloch's Philosophical ghi lại câu chuyện của một người thợ đá tên là David Virtue. Trong khi đang khai thác một khối đá lớn cắm sâu vào lòng đất tới hơn 6 mét, Virtue tình cờ phát hiện ra một con thằn lằn nhỏ bị kẹt bên trong một phiến đá. Con vật nằm cuộn tròn và đá bao khít xung quanh đến mức nó gần như bị đúc khuôn vào trong đá. Đó là một con thằn lằn rất bé, chỉ dài hơn 3 cm, màu vàng nâu với đôi mắt lồi linh hoạt. Lúc đầu Virtue tưởng rằng nó đã chết. Ông đập vỡ phiến đá để đưa con vật ra ngoài. Nhưng chỉ chừng 5 phút sau khi được giải phóng, con thằn lằn bé nhỏ đã bắt đầu cựa quậy và giây lát sau, trong sự kinh ngạc tột độ của những người chứng kiến, nó thoăn thắt bò đi và nhanh chóng biến vào cỏ. Năm 1865, báo Hartlepool Free Press đăng phóng sự đặc biệt về một hiện tượng hy hữu tại địa phương. Một số công nhân mỏ đang khai thác quặng magie tại một địa điểm sâu 7,5 mét dưới lòng đất ngầm Hartlepool (Anh) đã tìm thấy một con cóc sống trong một lỗ hổng trong lòng đá. Lỗ hổng có hình dạng hệt như hình dạng bên ngoài của con cóc và cũng không lớn hơn thế là mấy. Con vật có đôi mắt long lanh một cách lạ lùng. Khi được phát hiện, có vẻ như nó đang cố hít thở một cách rất khó khăn. Người ta nghe thấy những tiếng rít kỳ lạ phát ra từ lỗ mũi trong khi miệng nó vẫn khép kín. Các vuốt ở chân trước quặp vào, trong khi hai chân sau của nó dài một cách lạ thường so với những con cóc khác. Khi mới được tự do, con vật có màu xám nhạt lẫn với đất đá, nhưng chỉ ít lâu sau, da nó dần sẫm lại, chuyển thành màu nâu ôliu. Sau khi được giao cho ông Horner, Chủ tịch Hội Lịch sử tự nhiên Anh, con cóc còn sống thêm một thời gian khá dài nữa. Hơn một thập niên sau, hiện tượng các con vật có cuộc sống bí ẩn trong các "nhà tù" tự nhiên lại được ghi nhận ở Nam Phi. Theo tờ báo Uitenhage, một công nhân đồn điền đã phát hiện ra cái hốc trong một thân cây lớn mà anh đang xẻ ra thành ván. Cái hốc chứa tới 68 con cóc con có kích thước chỉ bằng trái nho. Lũ cóc có màu nâu nhạt chuyển sang vàng, béo núc và hoàn toàn khỏe mạnh. Chúng nhảy nhót lung tung một cách hào hứng như thể chẳng có gì xảy ra. Điều gây thắc mắc là cái hốc được bao bọc bởi lớp thân gỗ dày, cứng, không có bất cứ dấu vết nào cho thấy lũ cóc đã chui vào trong đó ra sao, chúng đã ở đó bao lâu, chúng sống ra sao khi trong hốc rất chật chội, chẳng có gì để ăn, uống và cũng không có không khí để thở. Cho đến nay, chưa ai đưa ra được một giải thích nào đủ sức thuyết phục về sự tồn tại kỳ lạ của những động vật trong đá. Chúng đều được tìm thấy ở những nơi kín tuyệt đối, không một dấu vết nhỏ nào (kể cả các vết rạn nứt) cho thấy con đường mà các động vật này đi vào trong lòng đá hoặc gỗ. Mặt khác, tất cả các hốc đá đều rất nhỏ, và thường có hình dạng của con vật sống trong đó làm cho người ta có cảm giác rằng dường như đá tạo thành những cái khuôn ôm lấy con vật. Có giả thuyết cho rằng một số trứng ếch, thằn lằn vô tình bị rơi vào các kẽ đá, kẹt ở đó và nở ra thành ếch hoặc thằn lằn con. Kẽ đá quá hẹp khiến con vật tội nghiệp không thể thoát ra. Thời gian đưa cát bụi đến bồi đắp tạo thành lớp vỏ đá bao quanh nó. Tuy nhiên, những người đưa ra giả thuyết này đã không trả lời được những câu hỏi cơ bản để chứng minh tính khoa học của nó. Thứ nhất, nếu những động vật được tìm thấy nở ra từ trứng kẹt trong đá thì chúng lớn lên bằng gì trong điều kiện không thức ăn, nước uống và không khí. Thứ hai, trong điều kiện hoàn toàn không thể cựa quậy được trong đá, những con vật này làm sao có thể phát triển được hệ cơ vận động tới mức chỉ một thời gian rất ngắn sau khi được giải thoát, chúng đã có thể di chuyển hoàn toàn bình thường ở môi trường bên ngoài. Và hơn nữa, các nhà địa chất học cho biết để hình thành được một khối đá đủ để bao kín con vật cần hàng nghìn năm. Vậy tuổi thọ của những con vật này là bao nhiêu?. Phát hiện đáng quan tâm nhất về các loài động vật sống trong đá được ghi nhận vào năm 1856 tại Pháp. Các công nhân đào đường hầm xe lửa khi đang phá một khối núi đá vôi được xác định có niên đại từ kỷ Jura (190 đến 140 triệu năm trước) đã giật mình bởi một con vật to lớn lao ra từ bên trong. Nó vỗ cánh, kêu lên những tiếng kỳ quặc rồi gục xuống chết. Theo mô tả, con vật có sải cánh dài hơn 3 mét, bốn chân có màng, da dày màu đen, ngón chân có móng vuốt và miệng có răng. Theo một số người làm công tác nghiên cứu cổ sinh học tại địa phương, đó là một con thằn lằn ngón cánh, loài bò sát đã tuyệt chủng từ thời tiền sử. Khoa học và Đời sống (theo phenomena paranomal)
|
|
|
Post by Robot on Jul 3, 2004 10:57:50 GMT -5
Phải chăng chỗ nào ruồi cũng... bu? Tại sao ruồi thường bâu vào những món ăn ngon nhất trên bàn? Theo một nghiên cứu mới, ruồi giấm Drosophila melanogaster rất giống con người trong cách chọn lựa thứ gì chúng muốn ăn và thức gì nên tránh. Khứu giác nhạy Ruồi giấm. Ban đầu, ruồi giấm ngửi thức ăn với sự trợ giúp của hệ thống khứu giác cực nhạy. Theo PGS sinh học phân tử Kristin Scott thuộc ĐH Berkeley, điều đó cho phép ruồi tìm thấy miếng chuối ngon trong bữa trưa của một người nào đó. Sau đó, nó nếm một chút và quyết định phần muốn ăn. Giống như con người và hầu hết động vật có vú khác, nếu thức ăn có vị ngọt, ruồi ta sẽ đánh chén. Nếu có vị đắng, ruồi bỏ đi tìm thức ăn khác ngọt hơn. Chúng biết vị đắng có nghĩa là độc và ngọt có nghĩa là nhiều năng lượng cũng như an toàn. Hành vi trên tương tự cách con người quyết định nên ăn loại thực phẩm nào và một lần nữa cho thấy ruồi giấm xấu xí vẫn giống chúng ta mặc dù hai loài đi theo con đường tiến hoá rất khác biệt cách đây hàng triệu triệu năm. Ruồi giấm, cùng với người và giun tròn, là ba loài đầu tiên được giải mã gien hoàn chỉnh. Một số nhà khoa học thắc mắc liệu con người giống ruồi nhiều hơn hay giống giun. Các nhà sinh học tiến hoá Mỹ đã dành nhiều thời gian tìm ra lời giải cho câu hỏi đó. Đó là lý do tại sao ruồi giấm là côn trùng được nghiên cứu rộng rãi nhất trên Trái dất. Sự thay đổi tinh tế trong bộ gien của nó đã dẫn tới những thay đổi lớn về dáng vẻ, sinh lý và hành vi. Ruồi giấm cũng sinh sản nhanh. Do vậy, nhiều thế hệ có thể được nghiên cứu trong một thời gian ngắn. Đối với những người như Scott, nó là một lợi thế nữa. Bà nói: ''Ruồi giấm có bộ não khá đơn giản. Do vậy, nếu các nhà khoa học có thể xác định cách não ruồi giúp chúng phân biệt thức ăn ngon, họ cũng xác định được cách não người xử lý một lượng lớn dữ liệu phức tạp trong thời gian cực ngắn''. Hai loại tế bào thần kinh vị giácĐó chính là lý do nhóm nghiên cứu của Scott và một nhóm khác tại ĐH Duke bị hấp dẫn trước tiến trình chọn lựa thức ăn của ruồi. Nhóm nghiên cứu ở Duke do PGS di truyền Hubert Amrein đã tìm thấy bằng chứng rằng ruồi có thể giỏi hơn con người trong việc phân biệt vị đắng và vị ngọt. Không giống động vật có vú, các dây thần kinh nhạy cảm với vị đắng giúp ruồi lựa chọn thức ăn hoàn toàn khác và phức tạp hơn dây thần kinh phân biệt vị ngọt. Amrein cho rằng nghiên cứu này có thể giúp các nhà khoa học chế tạo các loại thuốc đuổi côn trùng mới. Các nhà nghiên cứu có thể xác định phần nào của não ruồi bị kích hoạt bởi nhiều tác nhân kích thích. Do vậy, hiện họ biết ruồi xử lý thông tin về vị đắng trong một vùng não khác biệt với vùng xử lý vị ngọt. Không giống con người, ruồi giấm có tế bào thần kinh vị giác ở cánh, chân và miệng. Scott muốn biết liệu chúng có ''bản đồ cơ thể'' trong bộ não tí hon hay không. Nếu có, khi một tế bào thần kinh trên chân tìm thấy một thứ gì đó ngọt ngào, ruồi sẽ biết chính xác vị ngọt đó ở đâu và sử dụng miệng để đánh chén. Nhóm của Scott đã dính keo đôi cánh của ruồi giấm để kiểm tra điều gì sẽ xảy ra nếu chân chúng chạm vào thức ăn ngọt hoặc đắng. Khi họ nhúng chân ruồi vào đường, miệng của nó há ra. Điều đó cho thấy ruồi ngay lập tức biết vị trí của đường. Khi họ nhúng chân của chúng vào đường song nước đường có lẫn một chất đắng, miệng của ruồi vẫn khép chặt. Do vậy, các tế bào thần kinh vị giác của ruồi còn có chức năng là tế bào định vị. Tuy nhiên, Scott muốn nghiên cứu sâu hơn nữa. Ruồi có hai bộ tế bào vị giác và họ muốn chứng minh một bộ được sử dụng để dò vị đắng và bộ còn lại dò vị ngọt. Họ làm liệt tế bào thần kinh xác định để xem tế bào còn lại làm gì. Kết quả là miệng ruồi không há ra khi chân được nhúng vào nước đường. Như vậy, ruồi không còn biết đường có vị ngọt. Vị giác - tiếng nói cuối cùngCuối cùng, các nhà nghiên cứu xác định các thụ thể vị giác của ruồi tương tự như thụ thể ở thú có vú. Phần lớn các thụ thể này được sử dụng để dò vị đắng chứ không phải vị ngọt do tự nhiên cung cấp nhiều hợp chất đắng hơn. Điều đó quan trọng đối với ruồi bởi vị đắng cũng báo hiệu sự hiện diện của chất độc. Tất cả những nghiên cứu trên đã hé mở về cách ruồi kiếm sống. Theo Scott, ruồi sử dụng mùi để dò thức ăn và hành vi đó cũng tương tự con người. Ruồi có thể bay rất xa tới chỗ có chuối bởi chúng có thể ngửi thấy mùi thơm. Tuy nhiên, điều gì xảy ra nếu chúng tới đó và chuối bị nhiễm độc? Làm sao chúng tìm thấy một thứ gì đó đáng để ăn trong một thùng rác? Nhiệm vụ này thuộc về các tế bào thần kinh vị giác. Hệ thống vị giác là trạm kiểm tra cuối cùng và chỉ làm việc khi ruồi đã đậu lên thức ăn. Nó giúp ruồi đưa ra quyết định nên ăn hay không. Con người cũng vậy thôi. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Robot on Jul 3, 2004 10:58:23 GMT -5
Đỉa... kiểu Úc: Những "ông bố, bà mẹ" tận tâm Dù là loài lưỡng tính và là động vật không xương sống, một số loài đỉa ở Úc lại sống theo bầy như chim và động vật có vú, mang theo các đỉa con mới sinh và nuôi dưỡng chúng. Fred Govedich, nhà nghiên cứu về sinh vật học tiến hóa tại Đại học Monash (Úc), cho biết: Helobdella papillornata – một loài đỉa tại Úc, là điển hình của động vật không xương sống lần đầu tiên được biết đến có thể chăm sóc con của chúng cho đến lúc trưởng thành. Một phát hiện thú vị, đúng là... đỉa kiểu Úc! Nghiên cứu của Đại học Monash về loài đỉa này của Úc đã phát hiện: Sau khi sinh ra, các con đỉa tiếp tục mang theo những đứa con mới sinh non nớt của chúng cho đến khi con chúng được sáu tuần tuổi, tìm thức ăn cho con và bảo vệ con khỏi các “dã thú” khác. Chu đáo hơn, chúng còn chuyển con của chúng đến các khu vực mới an toàn và dễ kiếm ăn hơn trước khi rời khỏi nơi đó. Loài đỉa Helobdella papillornata sống tập hợp thành bầy lên đến 50 con và chúng cung cấp thực phẩm cho tất cả đỉa con trong bầy, bất kể "bố mẹ" chúng là ai. Các kết quả tìm được cho thấy một góc độ mới hết sức thú vị, giúp cho ngành sinh vật học tiến hoá lưu tâm xem xét khi cố gắng giải thích sự chăm sóc của cha mẹ đã tiến triển như thế nào. Thật hấp dẫn khi một loài động vật không xương sống lại có thể thể hiện việc nuôi nấng con cái như động vật có xương sống. Thêm một khía cạnh khác không kém phần thú vị: các “ông bố, bà mẹ” đỉa đều là động vật lưỡng tính nhưng chúng lại thể hiện các cách nuôi con cái giống như các loài có giới tính riêng biệt. Trên khắp thế giới có khoảng 700 đến 1.000 loài đỉa. Trần Anh (theo CNN)
|
|
|
Post by Robot on Jul 6, 2004 23:11:10 GMT -5
Hiện tượng chuyển giới tính ở động vậtĐàn bà không thể tự biến thành đàn ông trong 30 giây, nhưng với loài cá thì đó là chuyện nhỏ. Một con cá sấu con nằm trong trứng sẽ là "trai" hay "gái" tùy vào nhiệt độ của cát. Nhiều loài sên biển khi cần tránh những cuộc xung đột đã tự nguyện ép mình từ "nam nhi" thành kẻ chân yếu tay mềm cho yên chuyện. Nhiều người thường chú ý đến giới tính của những con cá mà họ nuôi. Cá vẹt cái có màu đỏ rực, trong khi cá vẹt đực có màu xanh biếc. Một hôm, chúng ta bỗng thấy trong bể kính là một con cái đỏ và một con đực xanh, trong khi trước đó rõ ràng là hai con cái. Vậy con đực ở đâu ra? Hiện tượng tự chuyển giới tính trong loài cá và nhiều loài động vật khác từng làm các nhà khoa học đau đầu không ít. Động vật nguyên sinh đơn bào, loài giáp xác hay cá mui đều có những cuộc chuyển đổi ngoạn mục như vậy. Cá hề hai sọc. Một trong những loài cá gây phiền toái nhất cho khoa học là cá hề hai sọc Amphiprion bicinctus. Chúng thường sống ở biển Đỏ. Khi hai con đực gặp nhau, một trận thư hùng sẽ diễn ra, hay chí ít là một sự "phùng mang trợn má" đe dọa đối thủ? Xin thưa là không, vì một trong hai con lập tức biến thành "quý cô" hấp dẫn, mời gọi con kia giao hoan! Chỉ trong tích tắc, sự thay đổi kỳ lạ này đã biến một trận thư hùng thành chuyện tình vui vẻ. Nhưng con nào sẽ lột xác? Câu trả lời còn rất mù mờ. Loài cá này rất thủy chung, sống với nhau cho đến khi một trong hai con chết đi. Khi đó, con còn lại có thể chuyển giới tính lần nữa và "tái giá" hay "tục huyền" là tùy thuộc giới tính mà nó giữ! Rận nước. Con rận nước (Daphnia) cũng có phép màu tương tự. Đó là một loài giáp xác nước ngọt, di chuyển nhờ những vây nhỏ quạt lia lịa như chiếc quạt giấy. Khi ao hồ đầy ắp nước và đủ thức ăn, tất cả đều là con cái. Nhưng khi thức ăn hiếm hoi và quân số quá đông đúc (khoảng không cho mỗi cá thể trở nên chật hẹp), những con đực xuất hiện và giao phối với con cái. Con cái ấp trứng và lại chuyển thành đực nếu không gian càng giới hạn hơn. Nếu môi trường thoáng đãng hơn, những con cái chăm chỉ lại chiếm 100% quân số, vì những con đực đã biến mất, hay nói đúng hơn là lại chuyển thành cái. Ngay thảm cỏ trong vườn nhà cũng chơi trò hai mặt như thế. Khi cỏ xanh tốt thì tất cả đều vô tính, nhưng nếu con người dùng máy xén cỏ tỉa tót thì những hoa cỏ mang giới tính sẽ xuất hiện và phát tán phấn hay hạt lung lung để duy trì nòi giống. Thay đổi giới tính trong 30 giâyKhác với con người, nhiễm sắc thể X hay Y không là gì cả trong thế giới động thực vật bao la. Chuyện "khó xác định giới tính" diễn ra liên tục và thay đổi đôi khi chỉ trong vòng 30 giây! Khi đẻ trứng, nhiều loài bò sát (trong đó có cá sấu và rùa Chrysenys picta) không biết lứa con của mình sẽ là "âm" hay "dương", đơn giản vì nhiệt độ của cát nơi vùi trứng sẽ quyết định giới tính của lũ con. Nếu cát ấm hay nóng rực, trứng sẽ nở ra toàn đực, còn nếu lạnh hay ẩm hơn thì sẽ là con cái. Chính vì vậy, có thể tại nhiều nơi, khí hậu thay đổi sẽ làm gia tăng số lượng con đực và những nơi ẩm ướt hay lạnh lẽo sẽ dẫn đến chuyện "âm thịnh dương suy". Các sinh vật ngành chân khớp (côn trùng, giáp xác và nhện) lại kỳ cục hơn: con của chúng có khi bị quyết định giới tính tùy thuộc vào những loại ký sinh trùng bám trên đó. Hiện tượng "hi-fi" trong thế giới sinh vật có lúc diễn ra trong tình trạng rất khó tin, khiến khoa học không sao hiểu nổi. Chẳng hạn, hiện tượng "dương trước âm sau" của loài thỏ biển Aplysia dactylomela. Đây là một loại thân mềm không vỏ, nhưng phía trước thân là con đực, trong khi phía sau lại là của con cái. Quái trạng này giúp nó thoải mái "giao tiếp" với bất cứ đồng loại nào. Cũng chính kiểu cấu tạo cơ thể lạ đời đó đã giúp chúng lao vào những cuộc giao phối tập thể theo kiểu vòng tròn khép kín, với sự tham gia của cả chục, thậm chí cả trăm cá thể cùng lúc. Kiểu duy trì nòi giống đặc biệt này giúp chúng tiết kiệm thời gian, giảm thiểu khả năng "hư thai". Còn nữa Thế Giới Mới (theo Courrier International)
|
|
|
Post by Robot on Jul 9, 2004 22:11:08 GMT -5
Hiện tượng chuyển giới tính ở động vật (phần cuối)Một số loài sên biển hay đỉa biển sặc sỡ lại chơi chò cút bắt độc đáo hơn: khi bơi, chúng là đực và khi bám vào một tảng đá hay vật cố định nào đó, chúng lại là con cái. Chính kiểu thay đổi chớp nhoáng này khiến mọi cuộc tranh giành người đẹp bị loại bỏ tuyệt đối. Con đực đến sau sẽ tự biến thành cái để đáp ứng nhu cầu của con đực khác. Nếu ba con đực và chỉ có một con cái thì một con đực sẽ chuyển ngay thành phái yếu để mọi chuyện diễn ra êm thấm! Loài cá nhỏ san hô Hypoplectrus. Loài cá nhỏ san hô Hypoplectrus cũng vậy, chúng tránh được mọi cuộc xung đột do tranh giành kẻ phối ngẫu chỉ vì biết tự thay đổi giới tính trong vài cái chớp mắt. Có lẽ nó đang giữ kỷ lục về tốc độ chuyển giới tính trong thế giới sinh vật với thời gian 30 giây (Nhưng theo tạp chí Nature, khoảng 4 loài cá sống ở Ấn Độ Dương có thời gian thay đổi giới tính trong vòng 20 giây). Cá san hô đẻ trứng khoảng 14 lần trong ngày do nhiều lần thay đổi giới tính cho phù hợp. Loại cá hàng chài (Labroides dimidiatus) lại thích nghi với môi trường một cách đáng kinh ngạc. Các nhà khoa học đã thử nhốt 1 con cá đực và 6 con cá cái vào một bể kính. Mọi chuyện diễn ra bình thường, cho đến khi con đực bị nhốt riêng ngay trước mùa sinh sản. Chỉ còn 6 con cái với nhau, biết làm sao đây? Con cái to nhất đàn đã biến thành con đực, ve vãn những nàng còn lại và tiến hành gieo tinh dịch cho tất cả. Chỉ trong vòng 24 giờ, cơ quan sản xuất trứng của nó đã biến mất, thay vào đó là cơ quan sinh dục đực. Màu sắc cơ thể con vật cũng thay đổi theo, giống hệt những chàng khác. Thông thường, trong vòng 1 tuần, nó sẽ cho ra thứ tinh dịch khoẻ mạnh, đảm bảo duy trì nòi giống. Nhiều nhà sinh vật biển đã nhận thấy những hiện tượng hoà hoãn cực kỳ khôn khéo ở cá, mà con người chắc chắn không bao giờ làm được. Khi hai con cá đực cùng tranh giành lãnh thổ hoặc đối tượng phối ngẫu, phải có kẻ mạnh và kẻ yếu. Nếu cảm thấy mình không nên đọ sức với cao thủ, con đực yếu thế sẽ tự động chuyển thành con cái cho yên chuyện! Khi đó, lãnh thổ không thành vấn đề và kẻ biến hình sẽ tự nguyện dâng hiến cho "dũng sĩ" với tư cách mỹ nhân thật sự. Loài hoa linh lan trắng (hoa chuông). Ở thực vật, hiện tượng lưỡng tính cũng đa dạng không kém, nghĩa là trên cùng một cây, hiện tượng thụ phấn và duy trì nòi giống diễn ra đơn độc, không cần ong bướm giúp đỡ. Loài hoa linh lan trắng (hoa chuông), tên khoa học là Convallaria Majalis, có cả cơ quan sinh dục đực và cái cùng lúc. Hoa chuông có một bộ phận rất kỳ quặc: không phải cây, không phải nấm, cũng không ra hình thù gì, trông như một đám trứng lổn nhổn. Các nhà thực vật gọi nó là nấm nhầy, một cơ quan quái dị chứa 29 gene kiểm soát 18 tế bào giới tính khác nhau. Những loại cây có nấm nhầy như vậy đôi khi có đến hơn 500 loại tế bào giới tính khác nhau, sẵn sàng ứng chiến trong mọi điều kiện thời tiết hay địa hình. Con người có khả năng chuyển giới hay không?Với các nhà ngư học, thay đổi giới tính ở loài cá thật ra chỉ là thay đổi cái túi trong cơ thể, vì cả "tinh hoàn" hay bọc trứng cũng chỉ là một loại túi. Với thú có vú, sự thay đổi là không thể, vì cơ quan sinh dục của con đực khác xa con cái. Sự khác biệt này được chỉ huy và kiểm soát bởi nhiều gene khác nhau, nghĩa là phức tạp hơn nhiều. Khi thay đổi giới tính như vậy, một con sư tử đực sẽ phải tự thay đổi cả cái bờm, khung xương, não bộ và nhiều "vật dụng" khác. Một con voi cái cần có ngà nếu muốn chuyển thành voi đực, hay một con công đực sẽ phải mất đi cái đuôi nếu muốn trở thành con mái, trong khi cơ chế vận hành cho sự thay đổi như vậy là rất phức tạp và bất khả. Ở người cũng vậy, một phụ nữ muốn trở thành đàn ông trong tíc tắc phải mất đi đôi gò bồng đảo và cơ quan sinh dục, chưa kể những cấu trúc phức tạp bên trong. Khung xương chậu to bè của phụ nữ - thích hợp cho mang thai và sinh nở - sẽ phải thu gọn lại, râu mọc ra, tiếng nói ồm hơn, não thay đổi hẳn, kể cả hai bán cầu. Một số hoóc môn tiêu biểu cho phái đẹp cũng biến đi, nhường chỗ cho hoóc môn của đàn ông. Những thay đổi quá cơ bản và quan trọng như vậy không thể tự diễn ra được. Những cuộc phẫu thuật giới tính dù có tỷ lệ thành công bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ là sự can thiệp bên ngoài. Thế Giới Mới (theo Courrier International)
|
|
|
Post by Robot on Jul 9, 2004 22:15:59 GMT -5
Bắt được con cá nhỏ nhất thế giớiwww.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/07/3B9D4500/fish.jpg[/img] Con cá chỉ như một mẩu chỉ. Các nhà khoa học Australia vừa tuyên bố bắt được con cá nhỏ và nhẹ nhất trái đất. Nó bé đến mức phải cần đến hàng triệu con thì mới có thể đạt được 1 kg. Các nhà nghiên cứu tại Bảo tàng Australia ở Sydney cho biết con cá Stout Infantfish được phát hiện vào năm 1979 nhưng chỉ đến hôm qua, nó mới chính thức được công nhận thuộc loài Schindleria brevipinguis. Con đực chỉ dài 7 mm, trong khi con cái dài 8,4 mm. Con vật có xương sống nhỏ nhất thế giới hiện nay là cá bống còi. Con đực đài 8,6 mm và con cái 8,9 mm. Cá Stout Infantfish giống một đoạn chỉ ngoằn ngoèo như giun, với đôi mắt khá to so với cơ thể và không có răng, vảy, hay sắc tố da. Nó được tìm thấy tại một hòn đảo bên bờ biển phía đông Australia. Các nhà khoa học đang chuẩn bị để công nhận nó là động vật có xương sống nhỏ và nhẹ nhất thế giới. Minh Thi (theo AP) Cá ấu trùng: Động vật xương sống vô địch... bé Các nhà hải dương học Australia vừa tìm ra động vật có xương sống bé nhất thế giới: loài cá ấu trùng tí hon sống ở vùng phá san hô thuộc rạn Great Barrier. Khoa học đã bắt được loài cá này cách đây 25 năm, nhưng phải đến tận bây giờ giới nghiên cứu mới xác định được rằng đây là một loài mới với vóc dáng cực kỳ khiêm tốn: dài 7-8mm. Từ lúc "lọt lòng" đến khi "khuất núi", vẫn chỉ trung thành với một hình dáng. Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Bảo tàng Australia đã phối hợp với các nhà khoa học Mỹ để "truy tìm lai lịch" loài cá mới có tên khoa học là Schindleria brevipinguis và cùng công bố kết quả trên tờ tạp chí của bảo tàng. Theo TS Tom Trnski, chuyên gia cá ấu trùng thuộc Viện Bảo tàng Australia, mặc dù loài cá này đã được phát hiện vào năm 1979 nhưng nhóm của ông chỉ mới bắt đầu nghiên cứu về chúng cách đây tám năm, một phần là do họ phải nghiên cứu quá nhiều loài cá (khoảng nửa triệu). Trong quá trình nghiên cứu, cộng sự của Trnski là TS Jeff Leis đã xác định được sáu mẫu cá ấu trùng là một loài mới. Điều này có nghĩa là cho đến nay đã có ba loài cá ấu trùng thuộc họ Schindleria. Tuy nhiên, hai loài còn lại có kích thước lớn gấp đôi loài mới này. Cá đẫy ấu trùng cái lớn hơn cá đực một chút - mẫu cá cái lớn nhất đến nay dài tận... 8,4mm (vị trí "quán quân" trước đây thuộc về loài cá bống lùn). Cá đẫy ấu trùng còn đoạt thêm chức vô địch về loài động vật xương sống nhẹ nhất với trọng lượng cơ thể khoảng 1mg. Cá có tên gọi là ấu trùng, bởi khi trưởng thành vẫn mang đặc điểm của ấu trùng mà không hề có một đặc điểm nào của "người lớn" như răng, vảy, sắc tố và vây khung xương. Điều này cho phép chúng có thể sinh sản với tốc độ cực nhanh, do có thể rút ngắn thời gian cần thiết để đạt tới tuổi trưởng thành. Việc thiếu sắc tố và vảy khiến cho cá ấu trùng trông giống như con nòng nọc không vây (trừ vây đuôi). Vì thiếu màu, cộng với kích thước quá khiêm tốn và thiếu phương pháp đánh bắt dành riêng cho chúng, chưa ai nhìn thấy được loài cá này sống trong môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn biết rằng chúng tồn tại rất nhiều trong môi trường sống của riêng chúng. Khánh Hà (Theo ABC)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 7:56:30 GMT -5
Tại sao lá cây chuyển màu vào mùa thu? Trong chúng ta, hiếm có ai không đôi lần cảm thấy xao lòng khi nhìn thấy tán là vàng rực của mùa thu. Nhưng xét trên khía cạnh khoa học, sự thay đổi màu lá có lợi gì cho cây? John Shane, chủ nhiệm chương trình lâm nghiệp ĐH Vermont, lưu ý rằng bóng tối ở bắc bán cầu gia tăng tại thời điểm này đã "thông báo cho cây cối biết rằng mùa thu đang đến. Vì vậy, nó bắt đầu bù đắp lại phần vật chất từ những chiếc lá rụng". Cây thường xanh bảo vệ tán lá kim của chúng khỏi bị đông cứng bằng lớp vỏ bọc giống sáp và các "chất chống đông" tự nhiên. Nhưng các loài cây lá rộng như thích đường, bulô, cây sơn lại không có hình thức bảo vệ như thế, vì vậy chúng phải trút lá. Tuy nhiên, trước khi trút lá, chúng cố gắng thu hồi các chất dinh dưỡng quan trọng như nitro và phospho. Quá trình này mang lại cho người yêu thiên nhiên một buổi trình diễn về màu sắc, khi lá xanh chuyển sang màu vàng, cam, vàng kim và đỏ. Chuyện màu lá www.vnn.vn/dataimages/original/images368483_lado2111004.jpg[/img] Cả thành phố như khoác lên mình một tấm áo mới khi mùa thu tới. Trong mùa tăng trưởng, lá cây có màu xanh là nhờ chất chlorophyll. Hợp chất này rất cần thiết cho quá trình quang hợp nhằm chuyển ánh sáng mặt rời thành carbon hydrat. Bên cạnh đấy, lá còn chứa carotenoid, chất tạo màu vàng, cam, nâu trong thực vật, từ cây mao lương hoa vàng cho tới cà rốt. Màu sắc của carotenoid có thể dễ dàng nhận biết bằng chlorophyll màu xanh, ít nhất là cho đến khi ánh sáng ban ngày ít hẳn đi và trong không khí xuất hiện dấu hiệu mùa thu. Tại thời điểm đấy, cây lá rộng giảm tốc độ và cuối cùng dừng hẳn việc sản xuất chlorophyll, khiến cho lá cây mang màu sắc của carotenoid như vàng kim, da cam và vàng. Do ánh sáng mặt trời chiếu ở mỗi mùa thu không đổi, các yếu tố khác như độ ẩm và thời tiết sẽ đảm bảo sao cho hai mùa thu không hề giống nhau. Những ngày nắng ấm xen lẫn với những đêm mát mẻ, trên độ 0 sẽ khiến cho lá có màu đỏ rực vào độ giữa thu. Shane tin rằng, những người thích ngắm lá rơi sẽ quyết định một mùa thu là "đẹp" hay "không đẹp" dựa vào tỉ lệ lá đỏ - lá đỏ càng nhiều, mùa thu càng đẹp. Vậy điều gì đang diễn ra trong những chiếc lá đỏ này? Không giống như carotenoid vốn luôn hiện diện trong lá cây, một số loài cây còn chứa chất anthocyanin có màu đỏ, giúp biến cây mâm xôi thành màu đỏ còn cây việt quất thành màu xanh. Anthocyanin thường được tìm thấy trong lá cây vào mùa thu. Không ai biết đích xác tại sao điều này lại xảy ra, nhưng các nhà khoa học biết rằng bất cứ sự thay đổi nào của thiên nhiên cũng đều có một mục đích cả. Paul Schaberg là nhà nghiên cứu thực vật thuộc Phòng Lâm nghiệp Mỹ. Ông cho biết: "Khi sản sinh ra anthocyanin, cây sẽ giữ lại rất nhiều đường và dưỡng chất như nitro mà chúng muốn "để dành". Vì vậy đây là một vấn đề nan giải: Tại sao lại làm thế trong khi lá đằng nào cũng rụng? Và tại sao có loài làm thế, còn loài khác lại không?". Tại sao lá cây chuyển màu? ''Rừng phong thu cũng nhuốm màu quan san". Nhà nghiên cứu thực vật William Hoch thuộc ĐH Wisconsin (Mỹ ) đã tiến hành một cuộc nghiên cứu sâu về chức năng chống nắng của sắc tố đỏ. Sử dụng đột biến gien đơn, ông đã tạo ra một loài cây thử nghiệm từ cây bình thường vẫn sản sinh ra anthocyanin. Kết quả: cây không hề tạo ra chút hợp chất anthocyanin nào. Loài cây thử nghiệm này được đem so sánh với những họ hàng của chúng trong tự nhiên có khả năng tạo ra sắc tố đỏ cũng như các loài cây không có lá đỏ. Hoch cho biết: "Chúng tôi nhận thấy rằng, sắc tố được sản sinh ra nhằm bảo vệ lá cây khỏi lượng ánh sáng thừa thải trong suốt mùa thu. Hệ thống quang hợp của cây đột biến gien bị ánh sáng làm tổn hại nhiều, vì thế chúng không thể nào bù đắp được chỗ dưỡng chất đã mất trong lá". Đối với những cây nói trên, chức năng chống nắng trong mùa thu có thể còn quan trọng hơn cả trong những ngày nắng chói chang của mùa hè. Hoch nhận thấy, mặc dù ánh nắng tháng sáu gay gắt hơn nhưng cây lá rụng vẫn dễ bị tổn thương hơn vào mùa thu, khi hệ thống tự nhiên của lá đã bị phá vỡ. Ông nói: "Lá có thể đối phó với ánh sáng mạnh khi chúng vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng nếu bị tổn thương, chúng sẽ trở nên bất ổn định". Tuy nhiên, nhiều loài cây không bao giờ có lá đỏ. Cây dương có màu vàng kim, còn một số loài cây khác thì chỉ thay đổi chút xíu trước khi lá cây khô lại, chết đi và rụng. Khi thử nghiệm các loài cây như cây bulô giấy có màu vàng tươi vào mùa thu, Hoch thấy rằng, chúng thu hồi dưỡng chất không kém gì các loài cây lá đỏ. Ông cho biết: "Điều này chứng tỏ rằng thiên nhiên có rất nhiều cách giải quyết cho cùng một vấn đề, chẳng hạn như việc thụ phấn của hoa: có thể là nhờ ong, chim, hoặc gió". Bên cạnh đấy, một cuộc nghiên cứu của Schaberg còn mang lại lời giải thích khác: "Sắc tố đỏ là dấu hiệu cho thấy cây đang căng thẳng trước bất cứ yếu tố nào như mặt trời, lạnh, côn trùng hay nấm tấn công. Nếu nắm vững được điều này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về sức khỏe thực vật, từ đấy thúc đẩy sự phát triển của ngành lâm nghiệp". Khánh Hà (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Oshin on Nov 15, 2004 7:42:12 GMT -5
Tìm ra bí mật tạo gai của nhím biểnwww.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/11/3B9D882D/seaurchin.jpg [/img] Nhím biển. Các nhà khoa học từng ghen tị với khả năng tạo gai từ các tinh thể lớn, đơn nhất của nhím biển. Giờ đây, họ đã tìm ra bí mật của loài động vật có gai này. Phát hiện có thể dẫn tới đột phá trong kỹ thuật trồng răng giả và ghép mô xương. Mỗi chiếc gai của nhím biển được tạo thành từ một tinh thể calcite, một loại khoáng chất có thành phần chủ yếu là calcium carbonate, và có thể đạt được độ dài tới vài centimetre. Các tinh thể calcite tạo thành gai nhím là một cấu trúc phức tạp được bao bọc bởi những mặt cong nhẵn. Nó hoàn toàn khác với tinh thể calcite được tạo ra trong phòng thí nghiệm, vốn có dạng hình khối với 6 mặt phẳng, hay còn gọi là hình hộp mặt thoi. Để tìm hiểu xem nhím biển "tạo khuôn" những tinh thể ngoại lai (lấy từ ngoài môi trường) đó như thế nào, các nhà nghiên cứu tại Viện Khoa học Weizmann (Rehovot, Israel) đã theo dõi xem điều gì sẽ xảy ra khi loài sinh vật này tái tạo lại các gai bị gãy. Gai của chúng được hình thành qua một quá trình gồm 2 giai đoạn và có sự tham gia của một chất trung gian không bền là amorphous calcium carbonate. Nhím biển bọc hợp chất này trong một màng bao được tạo nên từ các tế bào sống trước khi hợp chất kết tinh. "Amorphous calcium carbonate không sắp xếp theo một trật tự nào cả, nó có thể tạo thành những hình dạng bất kỳ", trưởng nhóm nghiên cứu, Lia Addadi, giải thích. Khi đã sắp xếp thành hình dạng chính xác của một chiếc gai, hợp chất biến thành một tinh thể ổn định, mặc dù các chuyên gia không biết chính xác phản ứng đó xảy ra như thế nào. Quá trình gồm 2 giai đoạn tạo khuôn và sắp xếp này giải thích tại sao nhím biển có thể phát triển những tinh thể lớn đến vậy, các nhà khoa học cho biết. Những tinh thể calcium carbonate mà các nhà nghiên cứu tạo ra trong phòng thí nghiệm được tạo thành trực tiếp từ dung dịch mà không có giai đoạn tham gia của chất trung gian amorphous calcium carbonate, do đó chúng chỉ có dạng hình hộp mặt thoi. Nhiều loài động vật có thể đã sử dụng thủ thuật tương tự, nhóm chuyên gia cho biết. Người ta đã biết rằng ấu trùng của nhím biển sử dụng amorphous calcium carbonate trong quá trình phát triển. Việc nhím biển trưởng thành vẫn áp dụng kỹ năng này để phục hồi tổn thương ở gai cho thấy kỹ thuật đó có thể rất phổ biến ở các động vật biển khác như san hô và bọt biển. Nhiều nhà khoa học vật liệu đã áp dụng kỹ thuật tạo khuôn để tạo ra các tinh thể đơn giản, mặc dù họ chưa theo kịp kỹ năng tạo sản phẩm cong và phức tạp của nhím biển. "Chúng ta có thể đúc nhiều vật liệu sinh học thành các hình dạng phức tạp nhờ chất trung gian amorphous", Laurie Gower, một chuyên gia về vật liệu sinh học tại Đại học Florida ở Gainesville, Mỹ, cho biết. Calcium carbonate có thể được dùng để chế tạo răng giả hoặc mô xương. Nhưng nhiều ứng dụng sẽ trở nên khả thi nếu chúng ta có thể áp dụng kỹ thuật của nhím biển với các loại vật liệu khác, Gower nhận định. "Mục đích thực sự của kỹ thuật mô phỏng sinh học là học cách bắt chước tự nhiên. Nếu bạn có thể tạo ra được một loại vật liệu bất kỳ và biết cách đúc hay tạo hình vật liệu đó theo ý muốn, bạn có thể kiểm soát nhiều hơn các đặc tính quang học, điện tử hoặc cơ khí của nó". Việt Linh (theo Nature)
|
|