|
Post by Robot on Mar 25, 2004 9:35:08 GMT -5
Bướm dùng chất hóa học để bảo vệ "tình yêu" Thế giới sinh học quả có nhiều điều kỳ diệu. Để bảo vệ "hạnh phúc gia đình", loài bướm Pieris napi cũng biết cách sử dụng "vũ khí sinh hóa" - methyl salicylate - nhằm đánh đuổi tất cả mọi địch thủ. Thế giới này chỉ có đôi ta, em ạ! Đây là lần đầu tiên các nhà khoa học biết đến cơ chế hoạt động của methyl salicylate trong việc từ chối hoạt động tình dục. Nhóm nghiên cứu, do Johan Anderson thuộc Viện Công nghệ Hoàng gia Thụy Điển phụ trách, phát hiện ra cơ chế này khi nghiên cứu loài bướm trắng vân xanh, tên khoa học là Pieris napi. Thay vì trao cho bướm cái một chiếc nhẫn đính hôn để xác nhận rằng "nàng" "đã có nơi có chốn", bướm đực tiết ra một liều methyl salicylate trong tinh dịch. Mùi của chất này khiến tất cả mọi bướm đực xung quanh phải lảng ra xa và tìm đến những bướm cái khác còn chưa bị "dính mùi". Sau một thời gian, mùi hương sẽ bị phai dần và mất đi. Johan Anderson cho biết: "Thông thường, hiệu quả của mùi hương phụ thuộc vào chu kỳ tái giao phối của bướm cái. Điều này có nghĩa là số lần "gặp gỡ" sẽ giảm xuống đáng kể trong khoảng bốn - sáu ngày, sau đó bướm cái sẽ hấp dẫn trở lại và tiếp tục giao phối. Quá trình này sẽ có lợi cho cả bướm đực lẫn bướm cái. Thời gian bốn - sáu ngày đó, bướm cái đẻ trứng. Nhờ có methyl salicylate, bướm cái sẽ đẻ trứng một cách yên ổn, còn bướm đực thì bảo toàn được nguồn gien mà chúng đã "gửi" vào bướm cái. Ngoài ra, ấu trùng bướm cũng được hưởng lợi, bởi vì thời kỳ kiêng khem này sẽ khiến cho bướm cái trở nên cẩn thận hơn khi chọn bạn tình - chúng sẽ chọn những con đực trông đẹp nhất, mạnh khỏe nhất. Methyl salicylate không có tác dụng đối với con người. Vấn đề chất phản tình dục đã được Lawrence Gilbert, giáo sư sinh học tính giao thuộc ĐH Texas (Mỹ ), nêu từ năm 1976. Ông quan sát thấy hiện tượng này trên bướm Heliconius, nhưng không xác định được tên của chất hóa học mà bướm đực sử dụng. Bướm Heliconius đực là loài yêu cực kỳ "say đắm". Bướm cái có rất ít cơ hội lựa chọn - bướm đực thường "ngồi lỳ" bên cạnh bướm cái và đánh đuổi tất cả những "địch thủ" khác. Nếu bị quấy rối quá mức, chúng bèn sử dụng vũ khí bí mật - một mùi hương xông lên, các bướm đực khác trở nên bồn chồn và cuối cùng bay mất. Trong tương lai, kết quả nghiên cứu này sẽ được khai thác để hỗ trợ cho nông dân, người làm vườn và người tiêu dùng chống lại ấu trùng bướm (sâu) ăn hại rau màu. Gilbert nói: "Một khi đã hiểu được cơ chế của tín hiệu hóa học kiểm soát hành vi giao phối của côn trùng, chúng ta sẽ chế tạo được những loại thuốc trừ sâu mới, hiệu quả hơn và ít ảnh hưởng đến sinh thái hơn." Khánh Hà (Theo Discovery)
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 8:59:10 GMT -5
Tạo chất chống nọc độc từ sứa độc TTO - Các nhà khoa học Úc đã thành công trong việc nhân giống loài sứa độc irukandji, mà theo đó có thể mở ra một đột phá trong việc phát triển chất chống lại nọc độc.Sứa độc Irukandji có kích thước nhỏ nhưng vết cắn của chúng có thể gây ra đau đớn và triệu chứng suy nhược (còn gọi là hội chứng suy nhược Irukandji) mà người ta nghi ngờ đã giết chết hai du khách ở Great Barrier Reef. Heather Walling của trường ĐH James Cook cho biết cô đã nuôi nhốt vài con sứa độc irukandji trong một thời gian đủ dài để cho chúng đẻ trứng. Những sinh vật này đã phát triển qua giai đoạn trung gian để trở thành những con polip trước khi chúng thay đổi thành những con sứa nhỏ xíu. Chính việc nhân giống thành công loại sứa irukandji có thể dẫn tới việc tạo ra một chất chống nọc độc. Vì từ trước đến nay, việc phát triển một loại chất chống độc và đưa vào bào chế thành thuốc cần một số lượng lớn các mẫu vật. Nhưng mỗi năm chúng ta bắt được các mẫu vật này không nhiều. Và thiên nhiên cũng không đủ số lượng để cho chúng ta bắt khi cần. Chính việc nhân giống thành công loài này sẽ giúp cho chúng ta biến giấc mơ tìm kiếm chất chống nọc độc trở thành hiện thực. Đ.TÂM (Theo AFP)
|
|
|
Post by Oshin on Apr 13, 2004 8:20:23 GMT -5
Chuột Yoda thọ 136 tuổi TTO - Chú chuột tí hon Yoda vừa ăn mừng sinh nhật lần thứ tư tại Đại Học Michigan. Yoda trở thành chú chuột thọ nhất so với đồng loại và thọ hơn cả tuồi thọ của loài người. Yoda được các nhà nghiên cứu tại Đại Học Michigan tác động đến các gen di truyền, ảnh hưởng đến nội tiết của hai tuyến yên và tuyến giáp, nhằm điều khiển lượng đường sản sinh trong cơ thể. Cũng chính vì vậy, chuột Yoda có kích thước chỉ bằng 1/3 các chú chuột khác và rất nhạy cảm với cái lạnh của môi trường xung quanh. Theo bác sỉ Richard Ạ Miller, một trong những người đứng đầu nghiên cứu tại trung tâm lão khoa của bịnh viện cho biết, tuy đã 136 tuổi, nhưng Yoda rất sinh động và lanh lẹ. Khả năng sinh lý cũng phát triển rất bình thường. Yoda được chăm sóc hết sức cẩn thận trong phòng lab cùng với hơn 100 chú chuột khác được dùng trong công cuộc nghiên cứu chống lão hoá. Được biết tuổi thọ trung bình của một chú chuột nuôi trong phòng thí nghiệm là 2 năm. Người bạn “cùng phòng” với Yoda là nàng chuột Princess Leia. Princess Leia có kích thước to lớn hơn Yoda, nhờ vậy hơi ấm của nàng chuột này đã giúp Yoda tránh được cái lạnh đôi lúc khắt nghiệt trong phòng thí nghiệm. Các nhà nghiên cứu hy vọng tìm hiểu về các gen đột biến có thể thay đổi lượng hormone trong cơ thể làm giảm đi tiến trình lão hoá nơi loài chuột, với hy vọng tìm ra phương cách tốt nhất có thể giúp cho loài người sống thọ hơn trong tương lai. BIVI (Theo ABC News)
|
|
|
Post by Robot on Apr 23, 2004 12:37:27 GMT -5
Cây cao tối đa bao nhiêu? vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/04/3B9D1E92/trees1.jpg[/img]Cây gỗ đỏ có thể cao tối đa 130 m. Câu hỏi này có vẻ như không thể tìm được lời giải, nhưng các nhà nghiên cứu làm việc tại cánh rừng gỗ đỏ ở California đã tìm ra giới hạn chiều cao lý thuyết là 130 m - tương đương toà nhà 35 tầng. Các nhà nghiên cứu đã đo đạc những cây cao nhất thế giới ở rừng gỗ đỏ Humboldt ở California, để tìm hiểu cuộc sống như thế nào trên những tầng trên cùng. "Cách duy nhất để làm điều đó là trèo lên cây", George Koch tại Đại học Arizona ở Flagstaff, Mỹ, đứng đầu nghiên cứu, nói. "Đó thực sự là một kinh nghiệm thú vị, mặc dù khá vất vả". Họ phát hiện thấy bất chấp khoảng cách xa so với mặt đất, những lá ở trên ngọn vẫn có thể lấy đủ nước, vì vậy chúng vẫn sống sót qua những đợt hạn hán thường xuyên. Khó khăn trong việc đưa nước lên cao chính là lý do hạn chế chiều cao của loài cây, nhóm Koch nhận định. Với rừng cây gỗ đỏ California, sức hút của lực hấp dẫn và sự ma sát giữa nước và các mạch dẫn có nghĩa rằng dòng chảy sẽ không thể kéo lên cao hơn 122-130 m, các nhà nghiên cứu kết luận. Với điều kiện khí hậu ôn hoà và đất đai màu mỡ ở miền bắc California, nó có thể đại diện cho chiều cao tối đa của bất cứ cây nào trên trái đất. Nhưng có thể những cây cao kỷ lục ở Humboldt vẫn chưa vươn tới được chiều cao tối đa theo lý thuyết. "Chúng tôi không nói rằng chúng sẽ mọc tới chừng đó, mà chúng có thể mọc tới chừng đó", Koch tuyên bố. Thực sự, tại chiều cao 112,7 m, những cây cao nhất thế giới vẫn còn thấp hơn chiều cao giới hạn. Nhưng những cây này đã 2.000 tuổi và những sự kiện trong quá khứ như hạn hán, sét đánh có thể đã ngăn cản sự sinh trưởng của chúng. Ian Woodward, nhà khoa học thực vật tại Đại học Sheffield, Anh, cho biết cuộc sống trên ngọn cây rất khó khăn. Ngoài nguy cơ khan hiếm nước, những thân cây khổng lồ còn phải đối chọi với những cơn gió dữ có thể quật ngã tầng cành cao nhất. Tuy nhiên, hạn hán vẫn là nguyên nhân chính làm hạn chế chiều cao, kích cỡ và hình dáng lá cây gỗ đỏ. Những chiếc lá ở gần mặt đất thì to và rộng, còn những chiếc trên cao thì nhỏ và cằn cỗi. Minh Thi (theo Nature)
|
|
|
Post by Oshin on May 8, 2004 7:22:25 GMT -5
Bí mật trong cái mũi kỳ quặc của nai sừng tấm Cái mũi quá khổ của nai sừng tấm Bắc Mỹ. Những ðôi chân mảnh khảnh và bộ gạc quá khổ là tất cả những gì quyến rũ ở nai sừng tấm Bắc Mỹ. Ngýợc lại, chiếc mũi lớn hình củ hành của nó lại là ðề tài hấp dẫn ðối với các nhà biếm họa. Hai nhà nghiên cứu Mỹ, bị kích thích trí tò mò bởi kích cỡ và hình dáng của cái mũi này, quyết ðịnh tìm hiểu sâu hõn. Công trình của họ ðã cung cấp một phân tích giải phẫu chi tiết ðầu tiên về cái mũi bất thýờng treo lủng lẳng trên môi trên của con vật. Và ðây là một trong số những phát hiện của họ: cấu trúc này cho phép nai sừng tấm ðóng lỗ mũi lại trong khi lần mò thức ãn, là các cây mọc dýới nýớc. Lawrence Witmer, một giáo sý giải phẫu tại Ðại học Ohio, ðã nghiên cứu cõ quan khứu giác của nhiều loài ðộng vật còn sống hoặc tuyệt chúng, từ loài hýõu ðuôi trắng quen thuộc tới những sinh vật tiền sử nhý khủng long mỏ vịt. Ngạc nhiên vì số lýợng ít ỏi các nghiên cứu về nai sừng tấm, ông cùng một cựu sinh viên ðã thực hiện công trình này. "Chúng ta biết quá ít về cái mũi của nai sừng tấm, trong khi chúng là ðộng vật quen thuộc ở bắc bán cầu", Witmer nói. Nai sừng tấm là sinh vật lớn nhất ở các cánh rừng bang Maine (Mỹ ), có trọng lýợng gần 500 kg. Cái mũi, với lỗ mũi rộng ðến 10 cm treo lõ lửng ở môi trýớc, khiến nó trở nên khác biệt hẳn so với hýõu ðuôi trắng và các họ hàng khác. Witmer và cộng sự ðã sử dụng các thiết bị y tế ðể kiểm tra cấu trúc giải phẫu bên trong nhý dây thần kinh, sụn và các thành phần khác của mũi. Phân tích của họ ðã loại bỏ ðýợc ý kiến cho rằng kích cỡ lớn của khoang mũi là nhằm ðiều chỉnh nhiệt của không khí ði vào phổi. Họ cũng tìm hiểu liệu cái lỗ mũi rộng có tạo ýu thế ðặc biệt nào cho sinh vật này hay không, chẳng hạn khả nãng ngửi nhiều chiều. Song Witmer không thể ðýa ra kết luận cuối cùng. Một trong những phát hiện ấn týợng nhất là chiếc mũi có một cõ chế ðặc biệt, giúp ngãn không cho nýớc tràn vào khi con vật lội qua hồ và nhúng miệng xuống nýớc ðể ãn thực vật. "Té ra, nai sừng tấm ðã có một cõ chế khôn ngoan ðể ðóng mũi của mình. Chúng ðã ðánh ðổi một phần vẻ ðẹp của khuôn mặt ðể lấy cõ chế mũi khác thýờng này", Witmer nhận xét. B.H. (theo AP) Con chim ruồi hút mật hoa tại thành phố Mexico. (AFP)
|
|
|
Post by Robot on May 14, 2004 15:37:41 GMT -5
Vì sao cá bõn không bị ðông ðá TTO - Theo các nghiên cứu mới ðây thì sở dĩ cá bõn không bị ðông thành ðá là vì chúng có chứa một loại protein “chống ðông” khi chúng sống trong những vùng biển Bắc Cực. Loại protein mới phát hiện này ðýợc ðặt tên là 5a-like và nó có thể giúp cá sống trong nýớc có nhiệt ðộ -2 ðộ C. Trong 30 nãm qua, các nhà khoa học ðã biết rằng vài loại cá có thể sống trong những vùng biển có nhiệt ðộ âm vì trong cõ thể chúng có chứa một loại protein huyết týõng. Tác dụng của loại protein này là ngãn cản không cho những tinh thể nýớc ðá trong máu cá kết lại với nhau tạo thành những cấu trúc lớn hõn làm phá huỷ tế bào. ANH QUÝ (Theo AFP) Tại sao hai mắt cá thờn bõn cùng mọc ở một bên? vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Ban-co-biet/2003/03/3B9C61BF/cabon.jpg[/img]Cá bõn. Thờn bõn có týớng mạo kỳ quái so với các loại cá thông thýờng: mắt của nó không nằm ðối xứng ở hai ðầu, mà mọc ở cùng một phía của cõ thể. Thêm vào ðó thân của nó rất dẹt, hai bên cũng không ðối xứng, do vậy trýớc kia có ngýời ngộ nhận rằng ðây là hai con sống dính chặt vào nhau. Thực ra, cá thờn bõn giống nhý các loại cá khác ðều là sống một mình. Còn hiện týợng hai mắt mọc cùng một bên là kết quả của quá trình thích nghi lâu dài với môi trýờng. Khi trứng thờn bõn nở thành cá nhỏ, hai mắt vẫn mọc ðối xứng ở hai bên ðầu. Lúc ðó nó khá “sôi nổi”, luôn muốn nổi lên mặt nýớc ðể chõi ðùa. Tuy nhiên, sau khoảng 20 ngày, thân dài ðến 1 cm, do các bộ phận cõ thể phát triển không cân bằng, khi bõi cũng dần nghiêng thân sang một bên, vậy là nó bắt ðầu nằm nghiêng và sống hẳn ở ðáy biển. Ðồng thời, với mắt phía dýới, do sợi dây mềm dýới mắt không ngừng cãng lên, làm cho mắt chuyển ðộng về phía trên, qua sống lýng tới vị trí song song với con mắt vốn có ở ðó. Khi ðã ðến chỗ thích hợp, mắt không di chuyển nữa mà cố ðịnh lại. Do thờn bõn sống thời gian dài dýới ðáy biển, hai mắt hoàn toàn ở phía trên, rất có lợi cho nó phát hiện ra kẻ ðịch và bắt mồi. Ngoài ðôi mắt lạ lùng, màu sắc da thờn bõn cũng thay ðổi rất ðặc biệt. Ở phần thân dýới, do hýớng xuống ðáy biển trong thời gian dài nên sắc tố cũng týõng ðối nhạt, còn phần trên có màu nâu, gần với màu của ðất dýới ðáy biển, nên vừa tránh ðýợc tầm mắt của kẻ ðịch, vừa có thể kiếm ðýợc thức ãn một cách thuận tiện. Cá thờn bõn có rất nhiều loại, trong ðó có 4 loại lớn. Hai loại có ðuôi, nếu hai mắt nằm bên trái cõ thể gọi là “cá bình”, nằm bên phải gọi là “cá bõn”. Hai loại khác không có ðuôi. Vây ðuôi và vây lýng liền thành một mảng, bề ngoài giống nhý cái lýỡi. Ở nhóm này, nếu mắt ðều nằm ở bên trái thân gọi là “cá tháp hình lýỡi”, nằm ở bên phải gọi là “cá tháp”. (Theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:15:36 GMT -5
Côn trùng khổng lồ thời tiền sử
Thử tưởng tượng có một con nhện đầy lông lá đang đi dạo trên cuốn tạp chí mà bạn đọc, nó to đến nỗi chân thò ra cả ngoài trang. Con vật nặng 1,5 kg đó đang giương mắt nhìn bạn, sẵn sàng lao tới...
Được phát hiện tại Argentina, đó là mẫu vật to nhất trong các gia đình nhện. Mà nó không phải là duy nhất. Khắp nơi trên hành tinh, các nhà khoa học đã khám phá ra vô số sinh vật khổng lồ. Những con gián to như chuột, loài cuốn chiếu dài 1,8 mét, những con thiêu thân có thể nằm chật đĩa ăn của bạn, nhất là loài chuồn chuồn Meganeura với sải cánh 80 cm... Đó là những con côn trùng lớn nhất ở mọi thời đại.
Nhưng bạn đừng lo sẽ phải gặp những con quái vật đó, bởi chúng có mặt cách đây đã 300 triệu năm, ở thời kỳ mà chúng ta gọi là kỷ Carbon. Hãy hình dung nước Pháp vào thời kỳ ấy: nắng nhiều, ẩm ướt thường xuyên và từ Paris đến Toulouse là rừng rậm ngút ngàn với những dãy núi cao ngất ngưởng cùng một hệ thống đầm lầy, ao hồ bao la, chung quanh là rừng cây cao đến 30 mét.
Trong thiên đàng xanh bát ngát đó, nơi sinh sống của các loài lưỡng cư và bò sát đầu tiên, các giống côn trùng đạt kích thước đáng sợ. Nhưng 50 triệu năm sau đó, đến kỷ Permi, khí hậu địa cầu đã thay đổi. Mưa ngày càng hiếm hơn và hầu hết các khu vực đều trở thành hoang mạc. Gần 1/3 loài động và thực vật ở kỷ Carbon không chịu nổi sự thay đổi đó. Còn côn trùng và các giống không xương sống lại sinh sôi nảy nở ồ ạt, nhưng đồng thời cũng teo nhỏ đi.
Phải khăng đó là do khí hậu? Không hẳn. Bởi vì trong 250 triệu năm tiến hóa tiếp theo đó, khí hậu không ngừng thay đổi và mãi cho đến ngày nay, côn trùng chưa hề to lớn trở lại. Tại sao thế? Vào đầu thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết bởi vì bầu khí quyển hiện nay không đủ ôxy để côn trùng hô hấp tốt hơn. Thật vậy, bộ máy hô hấp của côn trùng không giống như của chúng ta: không khí không đi qua miệng hay mũi mà qua hàng chục lỗ nhỏ ở bụng và ức, rồi tiếp tục đi sâu vào cơ thể, đến từng tế bào qua mạng lưới ống li ti.
Vấn đề là để không khí lưu thông trong mạng ống đó, côn trùng không có hệ thống bơm giống như các cơ hô hấp làm căng phồng 2 lá phổi của chúng ta; côn trùng cũng không có phương tiện chuyển tải như máu của động vật có xương sống, đưa không khí đến các tế bào nhờ sức ép của tim. Ở côn trùng, oxi được phân phối một cách tự do, tựa như được hút từ môi trường đậm đặc (khí quyển) sang môi trường loãng (bên trong tế bào).
Với các loài côn trùng bé nhỏ hiện nay, hệ thống đó hoạt động rất tốt. Nhưng với tổ tiên to lớn của chúng, có mạng ống hô hấp dài hơn, các nhà khoa học cho rằng cơ chế hẳn phải phức tạp hơn. Thật vậy, sức hút tạo ra do sự chênh lệch áp suất oxy bên trong tế bào và môi trường bên ngoài phải rất mạnh để có thể đưa không khí đến đầu ống. Mà sức hút này tỷ lệ với nồng độ oxy trong không khí. Do vậy, người ta suy luận nếu các giống côn trùng khổng lồ không còn hiện hữu, có lẽ vì thành phần không khí hiện nay không còn thích hợp với chúng. Có thể ở kỷ Carbon, bầu khí quyển giàu oxy hơn.
Ý tưởng này đã được khẳng định bởi nhà cổ khí hậu học Robert Berner ở Đại học Yale. Khi phân tích thành phần hóa học của đất, ông định lượng được nồng độ oxy trong khí quyển vào kỷ Carbon là 35% (hiện nay chỉ là 21%) và giảm còn 15% vào kỷ Permi - thời kỳ mà côn trùng khổng lồ biến mất.
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:17:58 GMT -5
Phải chăng nồng độ oxy cao đã làm xuất hiện các giống côn trùng khổng lồ? Để kiểm chứng điều đó, nhà sinh lý học Robert Dudley ở Đại học Texas đã nuôi nhiều loài côn trùng khác nhau trong môi trường giàu oxy. Đa số không tăng thêm 1 g nào. Nhưng loài ruồi giấm lại lợi dụng được cơ hội này. Khi tăng dần nồng độ oxy trong không khí lên gần 35%, Robert Dudley đã làm tăng kích thước của ruồi giấm (2,5mm) lên 15% sau 5 thế hệ. Con số vài phần nhỏ của milimét có vẻ nhỏ nhoi, nhưng nên nhớ rằng một thế hệ ruồi giấm chỉ từ 3 đến 5 tuần lễ, nếu tính theo sự tiến hóa hàng triệu năm thì không hề nhỏ chút nào.
Như vậy, nồng độ oxy cao là nguyên nhân của kích thước quá khổ? "Nếu thế, tất cả mọi loài côn trùng ở thời kỳ đó đều phải to lớn. Nhưng thực tế không phải vậy. Từ lâu người ta cho rằng côn trùng khổng lồ là quy tắc chung ở kỷ Carbon, bởi vì người ta chỉ có các hóa thạch khổng lồ. Không phải vì chúng nhiều, mà bởi vì chúng dễ bị phát hiện hơn và cho đến đầu thế kỷ 20, những kẻ săn lùng hóa thạch để bán luôn thích chọn loại to để có giá hơn. Sau đó, những cuộc khai quật đã cho thấy kích thước to tướng là ngoại lệ, còn thì hầu hết côn trùng vẫn giống như ngày nay", chuyên gia Jean-Charles Massabuau ở Đại học Bordeaux giải thích.
Hơn nữa, nồng độ oxy cao không biến côn trùng nhỏ bé thành khổng lồ, mà nồng độ thấp cũng không làm phiền các giống to lớn. Một nhà cổ sinh học trong nhóm André Nel ở Bảo tàng Tự nhiên học Paris đã tìm thấy hóa thạch của loài chuồn chuồn Meganeura có sải cánh 80 cm cách đây 250 triệu năm, vào thời kỳ mà nồng độ oxy trong khí quyển rất thấp. "Vì thế cần gì phải quan tâm đến oxy!", André Nel nói.
Ông cũng giải thích thêm rằng "chúng ta biết rất ít về điều kiện sống vào thời kỳ đó nên mọi giả thuyết đều có thể. Sự xuất hiện tính trạng khổng lồ có thể đơn giản chỉ là kết quả của sự chạy đua giành sự sống giữa con mồi và kẻ thù. Có thể sự tiến hóa đã ưu tiên cho giống ăn cỏ vào một lúc nào đó và chúng trở nên to lớn hơn kẻ thù ăn thịt. Sau đó đến lượt những con ăn thịt thay đổi kích cỡ để lấn lướt côn trùng và cứ như thế. Khi khí hậu thay đổi, nhiều giống loài mới sinh sôi nảy nở. Chẳng hạn như loài bọ cánh cứng có thể cạnh tranh với chuồn chuồn để săn bắt những con mồi biết bay. Trong cuộc chạy đua đó, có thể loài Meganeura đã chỉnh lại kích thước đôi cánh vốn khó điều khiển, nhất là khi phải bay quanh quẹo để đuổi theo con mồi. Cuối cùng, vào thời đó, các loài bò sát trên đất liền, mà một số rất thích ăn côn trùng, đã phát triển. Và những giống côn trùng khó bị phát hiện tất nhiên là những con bé nhỏ. Từ đó chúng vẫn giữ nguyên kích thước dễ thương này".
Tuy nhiên dù nhỏ nhưng chúng vẫn sinh sôi tràn lan, chiếm lĩnh mọi ngóc ngách của hành tinh. Hai triệu, rồi 100 triệu loài. Hiện nay không ai biết chính xác số lượng của chúng bao nhiêu, nhưng rất có thể một ngày nào đó chúng sẽ là chúa tể của thế giới.
(Theo Science et Vie Junior)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 16:19:43 GMT -5
Dương thịnh âm suy đã xóa sổ khủng long vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/04/3B9D1E22/khunglong.jpg[/img] Tảng đá trời khủng bố trái đất 65 triệu năm trước không chỉ làm biến đổi khí hậu và tạo ra đêm trường nhiều năm ròng. Nó còn khiến đa số khủng long con ra đời là đực, gây mất cân bằng giới nghiêm trọng và cuối cùng loài biến mất. Nếu khủng long giống như những loài bò sát hiện đại ngày nay - cá sấu chẳng hạn - chúng sẽ thay đổi giới tính theo nhiệt độ môi trường, David Miller thuộc Đại học Leeds ở Anh và cộng sự ghi nhận. Và khi đó, chỉ một sự mất cân nhỏ về giới tính trong quần thể sẽ dẫn loài đến bờ tuyệt chủng. Hầu hết các chuyên gia đồng ý rằng một hoặc nhiều thiên thạch có thể đã kích hoạt một chuỗi những biến đổi khí hậu trên toàn cầu, tiêu diệt khủng long và nhiều loài khác trên trái đất. Chúng có thể làm bốc lên những đám mây bụi khổng lồ che ánh mắt trời, khiến hành tinh lạnh đi, hoặc khơi mào cho hoạt động núi lửa khiến tro bụi văng lên nhiều hơn. Không ai thực sự biết rõ liệu khủng long giống như bò sát, hay ở đâu đó gần với thú hơn. Bò sát trao đổi chất theo cơ chế khác xa so với thú, và cũng có những cách riêng để xác lập giới tính của con non. Ở thú (động vật có vú), nếu con non nhận được 1 nhiễm sắc thể X và 1 nhiễm sắc thể Y, nó sẽ là con đực, và nếu nhận cả hai X, số phận định đoạt nó là cái, với rất ít ngoại lệ. Cơ chế này đúng với cả chim, rắn và một vài loài bò sát như thằn lằn. Nhưng ở cá sấu, rùa và một vài loài cá, nhiệt độ ấp trứng có thể chi phối đến giới tính của bào thai. Nhóm của Miller đã thực hiện một phân tích cho thấy, về lý thuyết, nhiệt độ thay đổi kéo theo sự chiếm ưu thế của giống đực. Trong khi đó, các nghiên cứu khác chỉ ra rằng, khi quần thể chỉ còn vài con cái, quần thể ấy sớm muộn cũng diệt vong. "Trái đất ở vào thời kỳ 65 triệu năm trước không quá độc đến mức vùi dập hết sự sống, nhiệt độ chỉ thay đổi chút xíu thôi. Song những sinh vật khổng lồ này đã không tiến hóa nổi một cơ chế di truyền phù hợp với điều kiện mới", tiến sĩ Sherman Silber, một chuyên gia về sinh sản tại Đại học St. Louis, thành viên nhóm nghiên cứu cho biết. Nhưng cá sấu và rùa đã vượt qua "cửa tử" 65 triệu năm trước, chúng làm thế nào để sống sót? "Những động vật này sống ở môi trường nửa nước nửa cạn, trong các vùng đầm lầy cửa sông, nơi chúng được bảo vệ trước những thay đổi khắc nghiệt của môi trường, và vì thế, chúng có thêm thời gian để thích nghi", nhóm nghiên cứu giải thích. Bích Hanh (theo Reuters)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:00:44 GMT -5
Vì sao máu của động vật bậc thấp không có màu đỏ? Máu của tôm và nhiều động vật bậc thấp khác không có màu đỏ. Quan niệm rằng cứ máu là đỏ đã ăn sâu vào chúng ta đến mức, ta không nhận ra rằng còn có những loài máu trong như nước, nhờ nhờ vàng hoặc hơi xanh. Nhưng nếu để ý, bạn sẽ thấy chỉ có động vật bậc thấp mới có màu máu kỳ lạ như vậy thôi. Đó là vì máu người và động vật bậc cao đều có hồng cầu, chứa huyết sắc tố, còn động vật bậc thấp thì không. Nếu đưa máu người và động vật bậc cao vào máy ly tâm rồi cho quay thật nhanh, nó sẽ tách thành 3 phần rõ rệt. Tầng trên cùng có màu vàng, khá trong, được gọi là huyết tương (chiếm khoảng 55% thể tích chung của máu). Tầng giữa là một lớp mỏng, màu trắng, gồm các tế bào bạch cầu và một số thành phần khác của máu. Dưới cùng là các tế bào hồng cầu có màu đỏ tươi (chiếm khoảng 40-50%). Hồng cầu sở dĩ có màu đỏ là vì trong thành phần của nó có chứa sắt, được gọi là huyết sắc tố. Đối với động vật bậc thấp như tôm, cua, chuồn chuồn, nhện… thì khác. Máu của chúng chỉ có các tế bào trông giống như bạch cầu ở động vật bậc cao, chứ không chứa các tế bào hồng cầu. Vì thế, máu không có màu đỏ. Một số loài động vật bậc thấp khác (như giun đất, tằm cát…) cũng có máu đỏ, nhưng là do trong huyết tương của chúng có chứa huyết sắc tố (chứ không phải do có hồng cầu). Một số loài côn trùng khác lại có máu màu vàng hoặc màu xanh lục. Đó là bởi trong huyết tương của chúng có chứa một loại huyết tố có chứa kim loại đồng. Đa số các loài động vật bậc thấp có máu không màu và trong suốt. Các nhà khoa học không gọi đó là máu, mà chỉ coi là một dịch thể. (Theo 10 vạn câu hỏi vì sao)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:11:26 GMT -5
Bí quyết giúp dơi bắt mồi lúc nửa đêm Dơi có thể tóm trúng một con côn trùng nhỏ xíu trong đêm tối như mực, trong khi thị lực của nó không hơn gì một người mù dở. Nó dùng cách gì để phân biệt phương hướng và đoán đúng vị trí đối tượng? Hơn 260 năm trước, nhà khoa học Italy Sphanlantrani lần đầu tiên đã nghiên cứu đặc điểm này của dơi. Ông làm mù một mắt của nó, rồi đặt con vật vào trong một gian phòng kính cao rộng, có đan nhiều sợi thép. Điều khiến người ta ngạc nhiên là con dơi này vẫn có thể nhanh nhẹn lách qua sợi thép, bắt được côn trùng một cách chính xác. Có lẽ là khứu giác của dơi đang phát huy tác dụng, Sphanlantrani nghĩ vậy. Tiếp theo, ông lại làm hỏng chức năng khứu giác của dơi nhưng dơi vẫn bay được tốt như thường, giống như chẳng có gì thay đổi vậy. Sau đó ông lại dùng sơn bôi đầy lên mình dơi. Kết quả vẫn như cũ. Chẳng lẽ lại là thính giác của chúng đang phát huy tác dụng sao? Khi Sphanlantrani nút chặt tai của một con dơi rồi thả cho nó bay, cuối cùng ông thấy nó bay kém hẳn. Nó bay tán loạn hết chỗ này đến chỗ khác, va đập khắp nơi, đến cả côn trùng nhỏ cũng không bắt được. Điều này cho thấy âm thanh đã giúp cho dơi phân biệt được phương hướng và tìm được mồi. Song rốt cuộc đây là loại âm thanh gì, Sphanlantrani vẫn chưa tìm ra. Các nhà khoa học sau này qua nghiên cứu đã vén được bức màn bí mật đó. Hoá ra, cổ họng của dơi có thể phát sóng siêu âm rất mạnh, thoát ra ngoài thông qua miệng và lỗ mũi của nó. Khi gặp phải vật thể, sóng siêu âm liền phản xạ trở lại, tai của dơi nghe được âm thanh phản hồi, nên có thể phán đoán được khoảng cách và kích cỡ to nhỏ của vật thể. Các nhà khoa học gọi phương thức căn cứ vào âm thanh phản hồi để tìm vật thể là “hồi thanh định vị”. Điều khiến họ kinh ngạc là loài thú nhỏ này trong một giây có thể nhận và phân biệt được 250 cụm âm thanh phản hồi, từ côn trùng, cây cối, mặt đất, chướng ngại vật... Ngoài ra, khả năng chống nhiễu của hệ thống định vị âm thanh phản hồi của nó cũng rất mạnh. Cho dù dơi bị nhiễu nhân tạo, mạnh gấp 100 lần so với sóng siêu âm do con vật phát ra, thì nó vẫn có thể làm việc hiệu quả. Chính nhờ bản lĩnh độc đáo này mà khi bắt côn trùng trong đêm tối, dơi có thể nhanh nhẹn và đạt độ chính xác đáng kinh ngạc như vậy. Loài dơi còn được mệnh danh là radar sống. Theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao
|
|
|
Post by Robot on May 31, 2004 8:40:11 GMT -5
Chỉ một cây nấm là đủ cho tất cả chúng ta Ai mà ngờ rằng những cây “nấm mật ong” màu vàng lại có thể phát triển và xâm lấn rộng đến mức gây ra cái chết của các lùm cây thân mộc to lớn trong một khu rừng! Khi cưa một thân cây bị chết, những nhân viên kiểm lâm phát hiện có rải rác những sợi nhỏ màu trắng gọi là sợi nấm. Các sợi nấm này hút nước và hydrat-carbon từ những thân cây lớn mà chúng bám vào để nuôi sống nấm. Các nhà nghiên cứu đã thu thập rất nhiều mẫu nấm trong một khu vực rộng lớn để phân tích DNA. Thật không thể tin được khi thấy tất cả các mẫu mà họ thu thập đều được phát sinh từ... một tổ chức nấm duy nhất! Từ các sợi nấm của nấm khổng lồ... Tổ chức sống lớn nhất được tìm thấy và biết đến ở thời điểm tháng 8/2000 là một cây nấm cùng chủng với loài nấm kể trên (Armillaria ostoyae), được tìm thấy ở bang Washington khi nó đã phát triển và bao phủ 1.500 mẫu Anh (tương đương 600 héc-ta). Nhưng sau đó, các chuyên gia về nấm ước đoán rằng nếu một cây nấm Armillaria lớn như vậy có thể tìm thấy được ở bang Washington thì có lẽ phải có một cây nấm còn lớn hơn nữa mới có thể gây nên những cái chết cho các cây đại thụ ở Rừng quốc gia Malheur tại Blue Mountains của phía Đông Oregon. Thật vậy, những nhà nghiên cứu đã phải kinh ngạc về độ lớn của cây nấm được tìm thấy tại Oregon. Cây nấm mới được tìm thấy này ước tính bao phủ trên 2.200 mẫu Anh (tương đương 890 héc-ta) và đã sống ít nhất 2.400 năm hay lâu hơn nữa. ... đến nấm mật ong - "đại sứ" của tổ chức nấm khổng lồ dưới mặt đất. Vào khu rừng nơi tổ chức nấm khổng lồ này chọn làm nhà để mọc, bạn sẽ khó mà nhìn thấy loài nấm này và cũng sẽ chẳng thấy tai nấm khổng lồ nào đang nở. Armillaria phát triển và lan rộng chủ yếu dưới mặt đất, còn phần thân của loài này nằm trên mặt đất làm người ta khó quan sát thấy. Đôi khi, vào mùa thu, nó sẽ gửi lên trên những cây “nấm mật ong” màu vàng như là bằng chứng biểu hiện cho sự tồn tại của một tổ chức khổng lồ nằm ngay bên dưới. Các nhà khoa học vẫn chưa tiến hành việc tính toán trọng lượng của mẫu vật Armillaria này. Làm sao mà một cá thể nấm lại có thể lớn đến như vậy? Những nhà khoa học nghiên cứu về loài nấm này cho rằng kích thước to lớn đó có thể là một phần do khí hậu hanh khô tại vùng phía Đông của Oregon. Các bào tử mới gặp nhiều khó khăn để tạo nên những tổ chức nấm mới nên đành làm thành chỗ dựa cho những tổ chức nấm đã có trước đó tiếp tục phát triển. Không có sự cạnh tranh nào từ những loài khác, mẫu vật Armillaria khổng lồ này có thể phát triển và lan rộng mà không gặp sự cản trở nào. Trần Anh (theo ExtremeScience)
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 9:28:05 GMT -5
Nghìn lẻ một cách dùng lưỡi của động vậtLưỡi của chim gõ kiến xanh dài gấp 5 lần chiều dài đầu của nó, đến mức phải cuộn tròn lại bên trong miệng khi co vào. Do chiếc lưỡi dày này được hình thành bởi những cơ rất mạnh nên khó có con côn trùng nào thoát được cho dù trốn sâu trong thân cây... Nổi tiếng trong lĩnh vực săn mồi bằng lưỡi là tắc kè hoa. Nhanh tựa tia chớp, nhờ một động tác trải ra cực mạnh, nó vụt le chiếc lưỡi dài lấm tấm hình những viên bi tròn có thể dán cứng con mồi như giấy bẫy ruồi, muỗi. Và khi nó rụt lại thì con mồi đã nằm gọn trong miệng. Nhưng tắc kè hoa không phải là loài duy nhất được tạo hoá ban cho một hệ thống bắt mồi bằng lưỡi cực kỳ hoàn hảo. Tương tự như thế, lưỡi của loài nhái cũng chứa một chất lỏng dính như keo khiến con mồi hết hy vọng chạy thoát. Còn tamanoir, con vật 4 chân chuyên ăn mối có chiếc lưỡi dài đến 60 cm trong một cơ thể chỉ có chiều dài 1,5 mét. Điều kỳ diệu là chiếc lưỡi này - được bao bọc bởi những chiếc gai cực nhỏ nghiêng về phía sau và được bôi trơn bởi một chất nhầy tựa như keo dán - có thể phóng vào tổ mối và rụt lại đến 150 lần/phút để bắt đến 30.000 con mối mỗi ngày. vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/06/3B9D32CB/huou.jpg[/img]Hươu cao cổ có thể phóng lưỡi ra rồi rụt lại để vươn tới những gai nhọn của cây acacia. Trong khi đó chiếc lưỡi của loài gấu Mã Lai lại có thể co dãn theo chiều dài nhằm giúp chúng liếm mật hay các con nhộng bên trong những bọng cây hay vách đá. Tương tự gấu Mã Lai, lưỡi của hươu cao cổ có thể rụt lại rồi phóng dài thêm 40 cm để vươn tới những ngọn cây cao hoặc luồn qua những chiếc gai nhọn của cây acacia để tước những chiếc lá non. Ngoài ra, lưỡi cũng dễ dàng chuyển thành màu tím hay đen để chống chọi với ánh nắng mặt trời gay gắt ở châu Phi trước khi được lè ra. Lưỡi của loài vật còn có thể trở thành một chiếc hộp đựng đầy dụng cụ săn bắt mồi. Chẳng hạn như lưỡi của loài chuột túi chuyên ăn mật ở Australia khi rụt lại sẽ biến thành một chiếc lọ để ăn bụi phấn và nhuỵ hoa. Còn chiếc lưỡi đầy gai nhọn của loài chim cánh cụt hoàng đế có thể giúp chúng giữ chặt con mồi dưới biển sâu. Đôi khi lưỡi của một số loài vật lại có... răng. Chiếc lưỡi nhám đầy răng nhỏ li ti của loài cá pantodon hay arapaima dài đến 4,5 mét ở vùng Amazone có chức năng vừa bắt và xé xác con mồi. Ở một số loài khác, cơ quan này giúp chúng uống nước khi rụt lại. Tắc kè gecko có chân hình chân vịt sống trên sa mạc Namib có thể phóng chiếc lưỡi dài để liếm những giọt sương đêm còn đọng trên mắt chúng. Ở những loài tắc kè gecko khác, lưỡi còn giúp chúng lau chùi những con mắt không mí được bao bọc bởi một lớp vảy trong suốt luôn bị dơ bẩn. Nếu như lưỡi của một số loài vật có chức năng chăm sóc và bảo vệ cơ thể thì ở một số loài vật khác cơ quan này lại trở thành cái bẫy để đánh lừa và giúp chúng săn bắt mồi. Hãy kể đến chiếc lưỡi diệu kỳ của loài rùa ăn thịt nước ngọt lớn nhất thế giới. Nằm im một chỗ dưới đáy ao, hồ, loài rùa này thu hút sự quan tâm của cá nhờ chiếc lưỡi uốn cong lóng lánh nổi lưng chừng mặt nước như hình con sâu. Bị thu hút bởi con sâu giả này, các loài cá khác vội lao đến đớp mồi mà không ngờ đã rơi vào chiếc bẫy giăng sẵn. Thế là khi rùa rụt lưỡi thì con cá cũng rơi vào miệng chúng. Không thể không kể đến tác dụng quạt mát của lưỡi ở loài chó khi nó liếm xoành xoạch quanh miệng. Với loài cá sấu, lưỡi lại có chức năng làm kẹp mũi. Khi con vật lặn xuống, chiếc lưỡi của nó biến thành một chiếc nút khổng lồ để chặn nước không tràn vào đường hô hấp giúp nó không chết chìm. Ở một số loài vật khác, lưỡi có chức năng nhận biết. Loài nhuyễn thể có tên gọi chiton chuyên bám vào các hố đá mỗi khi thuỷ triều xuống thì dùng lưỡi để di chuyển theo từ trường trái đất, nhờ chất oxit sắt magnetit bao bọc quanh cái lưỡi này. Các nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Brigitte Frybourg của Pháp đang tìm hiểu chức năng định vị qua lưỡi của chúng. Họ hy vọng có thể ứng dụng vào việc giúp người mù nhận biết phương hướng nhờ gài một con bọ điện tử vào lưỡi. Còn các nhà quân sự học Mỹ lại nghiên cứu chức năng nhận biết mùi qua lưỡi của loài ong để sử dụng chúng vào việc rà mìn. Khoa học và Đời sống (theo Réponse à tout)
|
|
|
Post by Oshin on Jun 17, 2004 16:10:40 GMT -5
Sóc đất đối phó với rắn chuông như thế nào?Trước một con rắn chuông điên cuồng, người dũng cảm nhất cũng phải lạnh gáy vì sợ. Song các chú sóc đất California coi thường điều đó: chúng giương cái đuôi đang nóng rực lên để "dằn mặt" kẻ săn mồi rằng cuộc tấn công sẽ không dễ dàng. www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/06/3B9D3A56/soc.jpg[/img]Đây là lần đầu tiên các nhà khoa học quan sát thấy động vật gửi tín hiệu cảnh báo bằng bức xạ hồng ngoại. Aaron Rundus thuộc Đại học Davis, bang California (Mỹ) - tác giả của nghiên cứu - đã trình bày công trình tại cuộc họp thường niên của Hiệp hội hành vi động vật đang diễn ra ở Oaxaca, Mexico. Rắn chuông thực hiện phần lớn các cuộc đi săn nhờ khả năng tầm nhiệt của một cấu trúc nhạy cảm trên mặt nó, có tên gọi là hốc nhiệt. Phát hiện trên đã chứng tỏ sóc đất biết lợi dụng cơ quan này của đối phương để phát ra thứ tín hiệu mà rắn có thể hiểu được. Thông thường, rắn chuông chỉ nhắm vào sóc non. Bản năng bảo vệ đã đẩy mâu thuẫn thành sự thù địch giữa rắn và sóc trưởng thành, do đó khi gặp kẻ thù, sóc sẽ hất cát túi bụi vào mặt rắn, đồng thời dựng đứng đuôi lên nhằm buộc kẻ săn mồi phải rút lui. Rundus thí nghiệm bằng cách đặt những con sóc đất tự nhiên vào một cái lồng có sẵn một con rắn chuông và ghi hình sự việc xảy ra qua camera hồng ngoại. Khi con sóc quất tới quất lui cái đuôi đe dọa của nó, cơ quan này trở nên nóng lên. Chúng làm được điều đó bằng cách dựng đứng lông đuôi, để cho lớp da bộc lộ nhiều hơn, và bơm đầy máu vào các mạch ở dưới da. Tác giả cho rằng tín hiệu hồng ngoại này có thể nhằm chuyển sự chú ý của rắn khỏi những con sóc non yếu ớt, hoặc đơn giản là một thông điệp báo cho kẻ thù biết sóc con đã có cha mẹ ở bên. Tuy nhiên, loài vật gặm nhấm này không mặn mà lắm với cử chỉ nghĩa hiệp, mặc dầu rắn chuông hiếm khi ăn thịt con trưởng thành, bởi một cuộc kịch chiến có thể dẫn đến cái chết hoặc những vết thương nghiêm trọng. Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy đuôi của sóc không tỏa nhiệt khi trong lồng là con rắn đất - một kẻ săn mồi thiếu cơ quan cảm thụ nhiệt. Điều đó chứng tỏ sóc có thể phân biệt những kẻ thù khác nhau và có cách đối phó thích hợp. "Điều này rất thú vị. Tôi chưa từng tưởng tượng rằng chúng có khả năng đó", Jim Hare, chuyên gia về sóc đất tại Đại học Manitoba ở Winnipeg, Canada nhận xét. Ông cũng bổ sung thêm rằng sóc đất biết cách ứng biến với nhiều loại kẻ thù khi gửi thông tin cảnh báo đến đồng loại của mình. Rundus dự định sẽ tìm hiểu liệu rắn có cách đối phó kiểu khác trước những con sóc không tỏa nhiệt hay không. B.H. (theo Nature)
|
|
|
Post by Robot on Jun 19, 2004 2:55:04 GMT -5
Dùng ruồi phorid trị kiến lửa: Mượn gió bẻ măng Có thể cảnh đưa ngoại bang về để đánh đuổi ngoại bang xâm lược sẽ làm bạn nhớ tới một kịch bản phim khoa học viễn tưởng, nhưng theo các nhà khoa học, đây lại là cách tốt nhất để trừ khử lũ... kiến lửa Brazil đang hoành hành khắp miền Nam nước Mỹ. Kẻ huỷ diệt màu đỏ Kiến lửa nhập khẩu (RIFA), tên khoa học là Solenopsis invicta, lần đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ cách đây 60 năm, khi chúng bám theo những chuyến tàu hàng đến từ Nam Mỹ. Kể từ đấy đến nay, chúng đã phát triển rộng ra khắp miền Nam, đánh bật lũ kiến lửa bản địa trên đường "tiến quân". Larry Gilbert, nhà sinh thái học thuộc ĐH Texas tại Austin (Mỹ ), cho biết: "RIFA sống với mật độ dày đặc như chính các loài kiến địa phương khác. Có thể chúng đã tránh được hầu hết các kẻ thù tự nhiên khác, chẳng hạn như mầm bệnh và ký sinh trùng." Vì không còn kẻ thù nào ở miền Nam nước Mỹ, RIFA đang hoành hành dữ dội tại dải đất này. Chúng đốt đến chết những động vật non sinh ra trên đồng cỏ, trở thành mối đe doạ cho sức khỏe con người, làm tổ trong những hộp điện ngầm dưới mặt đất, gây nên chập điện và cháy nổ. Theo các nhà nghiên cứu thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ, mỗi năm lũ kiến "xâm lăng" này gây nên thiệt hại khoảng 1,2 tỷ đô la cho Texas, nơi chúng hoành hành đặc biệt dữ dội. Chính vì vậy, Gilbert đang tìm mọi cách để tiêu diệt lũ kiến lửa đáng ghét này, và một trong những phương pháp tỏ ra hữu hiệu nhất chính là nhập khẩu "khắc tinh" của chúng - loài ruồi ký sinh phorid "đồng hương" Brazil giết chết kiến lửa bằng cách... đẻ trứng lên mình kiến. Tiêu diệt kiến lửa Ruồi phorid, "khắc tinh" của kiến lửa RIFA. Ruồi phorid cái sẽ lượn lờ trên đầu lũ kiến hoặc bay theo lũ kiến trên đường kiếm ăn để chọn lấy mục tiêu cho riêng mình. Sau đó, nó thực hiện động tác "bổ nhào" rồi chớp nhoáng đẻ trứng vào cơ thể con mồi, sau đó chuồn thẳng. Trong vòng mười ngày, quả trứng sẽ nở ra trong... cổ họng kiến và giết chết con vật. Ấu trùng phorid sẽ di chuyển lên cái đầu kiến, lúc ấy đã rụng ra khỏi thân rồi. Tại đấy, ấu trùng sẽ phát triển thành con nhộng, trông giống với ruồi phorid trưởng thành. Khoảng 40 ngày sau, ruồi phorid sẽ chính thức đặt chân vào cuộc sống, bỏ lại sau lưng một xác kiến chết. Mặc dù bằng cách này, ruồi phorid chỉ giết chết một bộ phận nhỏ kiến, nhưng lũ kiến vẫn sợ ruồi phorid đến mức chỉ cần nhìn thấy ruồi xuất hiện là hành vi kiếm ăn của kiến lập tức rối loạn. Điều này sẽ khiến cho tốc độ hình thành đàn RIFA chậm lại rất nhiều. Theo Gilberl, quá trình này cũng giống như lúc lũ sâu bướm ăn lá sồi - mặc dù sâu bướm không giết chết cây sồi nhưng hiện tượng mất lá sẽ khiến cho cây tạo ra ít quả sồi hơn. Như vậy, dần dần cùng với thời gian, số lượng cây sồi non mới mọc sẽ ít hơn so với các loài cây cạnh tranh khác. Donald Feener, một nhà sinh thái học thuộc ĐH Utah ở thành phố Salt Lake, chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa ruồi ký sinh và kiến, cho rằng phương pháp nghiên cứu của Gilbert và cộng sự là "một ý tưởng vĩ đại." Ông nói: "Về mặt sinh thái học, ruồi phorid đóng vai trò tác động gián tiếp đến cộng đồng kiến, bởi vì chúng làm thay đổi cách tương tác của kiến, đặc biệt là khi kiến cạnh tranh với nhau."
|
|