|
Post by Robot on Nov 7, 2004 8:35:48 GMT -5
Công nghệ sản xuất gạch ngói hiện nay tại An Giang và vấn đề giảm thiểu ô nhiễm môi trường cộng đồng
I) TÌNH HÌNH SẢN XUẤT GẠCH NUNG Ở AN GIANG:
Gạch nung là vật liệu xây dựng truyền thống, chiếm vị trí quan trọng trong 8 loại vật liệu xây dựng quan trọng của An Giang. Kinh tế An Giang đang tăng trưởng với tốc độ cao do đó nhu cầu về gạch nung cũng tăng lên. Đặc biệt các chương trình về xây dựng cơ bản, và phát triển khu dân cư vùng lũ cũng cần một lượng lớn gạch nung.
Theo báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước, tổng công suất các lò gạch của An Giang chiếm khoảng 300 tr viên/ năm, trong đó 2 lò gạch tuynel có năng suất khoảng 35 triệu viên ( chiếm khoảng 12%), lượng còn lại là do các lò gạch thủ công sản xuất khoảng 265 tr. viên /năm ( chiếm khoảng 88%).
Ở An Giang có khoảng 450 lò gạch thủ công, tập trung ở ba huyện Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới.
Về mặt công nghệ, lò gạch thủ công của An Giang có công nghệ sản xuất lạc hậu , sản xuất gián đoạn và chất lượng sản phẩm không đồng nhất. Tuy vốn đầu tư ban đầu thấp nhưng chi phí sản xuất khá cao, do tỷ lệ phế phẩm cao, tốn nhiều chất đốt và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo các báo cáo của các nhà khoa học gần đây, khi sản xuất 12 triệu viên gạch lò thủ công đã thải ra môi trường một nghìn tấn khí nhà kính ( trên 36 tấn SO2 1,3 nghìn tấn CO2 ) ảnh hưởng tới sản xuất và sức khoẻ của người dân xung quanh.
Về môi trường; do hầu hết các lò gạch thủ công ở An Giang nằm xen lẫn trong khu dân cư, và ven trục lộ giao thông nên ảnh hưởng nhiều đến đời sống cộng đồng; Đây cũng là nguyên nhân xảy ra nhiều tranh chấp nhất hiện nay gữa các hộ dân và các lò gạch thủ công.
Tác động đến môi trường sống của các lò gạch thủ công chủ yếu là do:
- Bụi trấu: trong quá trình vận chuyển từ bờ sông lên kho chứa và từ kho chứa đến lò đốt.
- Bụi tro: Do chất đốt là trấu nên lượng tro từ các lò gạch là rất lớn. Bụi tro phát sinh khi chuyển từ cửa lò đốt đến bãi chứa và bãi chứa phần lớn đều lộ thiên nên dể phát tán bụi ra môi trường xung quanh nhất là vào mùa khô, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân, hoặc theo nước mưa chảy vào làm ô nhiễm nước sinh hoạt.
- Khói thải: Khói thải xuất phát từ cửa lò đốt và từ ống khói thải.
+ Vào mùa mưa độ ẩm không khí cao nên khói thải từ cửa lò đốt khó khuếch tán vào môi trường không khí nên ảnh hưởng đến sinh hoạt và sức khoẻ của người dân lân cận.
+ Khói thải từ ống khói lò có nhiều thành phần. Ngoài bụi tro, khói thải còn có các chất như CO, CO2, NOx, HF là những thành phần gây ô nhiễm môi trường không khí. Khói thải có nhiệt độ cao (>200oC) nên có ảnh hưởng đến các loạI thực vật xung quanh như dừa, xoài . Với chiều cao của ống khói lò chỉ từ 7-10m thì không thể khuếch tán khói ô nhiễm ra khỏi khu vực xung quanh.
Với những tác động ô nhiễm môi trường của lò gạch thủ công như đã nêu trên, cần có giải pháp hữu hiệu để hạn chế thấp nhất sự ảnh hưởng đến cộng đồng và đảm bảo phát triển bền vững.
|
|
|
Post by Robot on Nov 7, 2004 8:36:06 GMT -5
II) NHỮNG GIẢI PHÁP:
Những giải pháp thực hiện những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn phát triển hiện nay của địa phương theo chúng tôi là:
1) Về mặt công nghệ:
Cần cải tiến quy trình kỹ thuật trong lò gạch thủ công để nâng cao hiệu quả, giảm tiêu hao năng lượng và phát thải ô nhiễm.
Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tìm kiếm những quy trình nung gạch mới. Về giải pháp này, theo chúng tôi, xây dựng lò gạch nung liên tục là đổi mới công nghệ có hiệu quả nhất. Lò nung liên tục sẽ làm tăng năng suất, giảm giá thành, giảm lượng chất đốt trên cùng một đơn vị sản phẩm so với lò thủ công gián đoạn từ đó sẽ giảm phát thải chất gây ô nhiễm môi trường. Thực tế hiện nay ở Việt Nam có 2 loạI lò xem xét áp dụng là:
+ Lò Tuynel: là kiểu lò nung liên tục, trong đó gạch sẽ di chuyển theo phương ngang. Đây là mô hình lò tiên tiến có thể tự động hoá. Tuy nhiên vốn đầu tư khá cao khoảng 5 tỷ đồng/ lò 10 triệu viên /năm. Kiểu lò này ít hao tốn nhiên liệu và không cần nhiều lao động trong vận hành.
+ Lò gạch nung đứng: đây là kiểu lò gạch nung liên tục nhưng khác với lò Tuynel, gạch sẽ di chuyển từ trên xuống theo phương đứng. Đây là mô hình được xây dựng từ dự án VIE/00/004 Lò gạch liên tục kiểu đứng hiệu suất cao do Quỹ môi trường toàn cầu của Liên hiệp quốc tài trợ triển khai tại các tỉnh phía Bắc. Mô hình lò gạch đứng theo đánh giá qua thử nghiệm có những ưu điểm sau:
. Giá đầu tư thấp, với quy mô lò kép có công suất 4 triệu viên/năm chi phí đầu tư khoảng 200 triệu đồng.
. Có thể mở rộng quy mô của lò khi cần thiết.
. Lượng phát thải khí ô nhiễm sẽ ít hơn vì cấu trúc lò giúp tận dụng được nhiệt thải ra nên lượng chất đốt sẽ sử dụng ít hơn. Tuy nhiên hiện nay vẫn có nhiều tranh luận về mô hình lò gạch đứng vì còn trong quá trình thử nghiệm và chưa có kết luận cụ thể.
2) Về môi trường để giảm thiểu ô nhiễm, và tránh ảnh hưởng đến sinh hoạt khu dân cư cần thực hiện:
- Quy hoạch các khu công nghiệp sản xuất gạch tập trung, đây là biện pháp chiến lược cơ bản phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Các địa phương nên chú ý giải pháp này để quy hoạch phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của địa phương trong tương lai. Các huyện có lợi thế và kinh nghiệm trong việc sản xuất gạch nung cần thực hiện các dự án xây dựng các các khu tiểu thủ công nghiệp tập trung. Đây cũng là một trong những giai đoạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá huyện nhà; Mặc dù khi thực hiện dự án đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về vốn và thời gian, nhưng, muốn đổi mới và chuyển đổi cơ cấu phát triển bền vững thì các địa phương phải mạnh dạn lập quy hoạch và xây dựng dự án khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Xử lý phát thải ô nhiễm ngay tại nguồn: các chủ lò gạch phải chủ động thực hiện đầy đủ các biện pháp ngăn ngừa phát thải ô nhiễm theo các biện pháp được thể hiện trong báo cáo đánh giá tác động môi trường như: xây tường che chắn cách ly cơ sở sản xuất với nhà dân. Kho trữ tro trấu, chất đốt phải được che chắn kín đáo, công nhân vận hành phảI được bảo hộ lao động đầy đủ.
Tóm lại công nghệ sản xuất gạch ngói hiện nay của An giang cần phải được đổi mới theo hướng quy hoạch tập trung và cần có nhiều công nghệ với quy mô thích hợp khác nhau. Nhu vậy sẽ phù hợp cho nhiều thành phần kinh tế đầu tư đổi mới công nghệ theo các hướng chúng tôi đã trình bày ở trên. Mục tiêu đổi mới đặt ra cho các nhà quản lý và các doanh nghiệp là hướng đến hiệu quả sản xuất và bảo vệ môi trường. Bài toán đã được đặt ra cho chúng ta, các giải pháp phải được quan tâm đúng mức và được các ngành có liên quan giải quyết đồng bộ thì mới có kết quả như chúng ta mong muốn được.
Trần Thanh Tâm
|
|
|
Post by mrdavidna on Mar 11, 2013 4:29:41 GMT -5
|
|