|
Post by chumanhdang on Jul 28, 2004 0:18:35 GMT -5
DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC RÁC TẠI MỘT SỐ ĐÔ THỊ VIỆT NAM GS. TS Trần Hiếu Nhuệ Trung tâm Kỹ thuật Môi trường Đô thị và Khu Công nghiệp Trường Đại học Xây dựng
Trong thập kỷ này vấn đề chất thải rắn đô thị ở Việt Nam đã được Nhà nước ta, các nhà quản lý, các nhà hoạt động khoa học chuyên môn và toàn thể cộng đồng quan tâm, vì chất thải rắn là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường quan trọng, gây nguy hại đến sức khoẻ cộng đồng, làm mất cảnh quan, mỹ quan và sinh thái đô thị,... Từ trước tới năm 1998, chúng ta chưa xây dựng được bãi chôn lấp nào đúng quy cách, hợp vệ sinh. Năm 1996 Bộ Xây dựng đã ban hành quy phạm thiết kế, xây dựng, vận hành và kiểm soát bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Tới năm 1998 - 1999, chúng ta đã có định hướng và chiến lược về quản lý chất thải rắn đô thị, chất thải rắn nguy hại và mới đây năm 1999 Bộ Y tế đã ban hành quy chế quản lý chất thải y tế. Trong mấy năm gần đây hàng loạt dự án về bãi chôn lấp hợp vệ sinh đã, đang được thực hiện tại Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, ... Đó là những bước tiến quan trọng trong việc quản lý chất thải rắn ở nước ta. 1. Vấn đề thu gom rác từ những bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Nước rác hay nước rò rỉ trong bãi thải là loại chất lỏng thấm qua các lớp rác của các ô chôn lấp và kéo theo các chất bẩn dạng lơ lửng, keo và tan từ chất thải rắn vào tầng đất ở dưới đáy bãi chôn lấp. Nước rác hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và bao gồm: nước có sẵn trong rác; nước ngầm dâng lên từ dưới đáy, nước từ ngoài thấm qua thành vách các ô chôn lấp; nước từ khu vực khác chảy tới; nước mưa từ bản thân khu vực chôn lấp và từ khu vực khác chảy tới. Trong đa số trường hợp nước rác bao gồm phần dịch lỏng tạo thành từ quá trình phân huỷ chất thải rắn và phần nước từ bên ngoài thấm vào như nước mặt, nước mưa và nước ngầm. Phần dịch lỏng qua lớp chất thải rắn đang bị phân huỷ bao gồm tất cả những sản phẩm phân huỷ sinh học và hoá học. Những sản phẩm này bị lôi cuốn bởi dòng nước thấm từ ngoài vào. Hệ thống thu gom nước rác thải được thiết kế sao cho có thể thu gom toàn bộ nước rác từ đáy bãi chôn lấp và tập trung, dẫn về khu xử lý trước khi xả ra nguồn tiếp nhận nhưng với lượng nước ít nhất có thể. Nếu nước rác được dẫn ngay ra trạm xử lý thì sẽ không có nước đọng lại trong lớp rác và áp suất tạo ra đối với lớp chống thấm là thấp nhất. Hệ thống thu gom nước rác tại bãi chôn lấp Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội bao gồm: 1) Ống chính tổng thể thu gom, tập trung toàn bộ nước rác từ ống dọc của từng ô. 2) Ống dọc, thu gom nước rác từng ô. Ống này được đặt dọc nền đáy từng ô chôn lấp và nằm trên tầng chống thấm của đáy ô chôn lấp hoặc trên màng tổng hợp chống thấm. 3) Mạng lưới ống nhánh thu nước rác được đặt ở bên trong từng ô để thu gom nước rác trên toàn bộ đáy mỗi ô chôn lấp. Mạng lưới đường ống nhánh có đường kính tối thiểu 150 - 200mm, độ dốc tối thiểu 1%, ống dọc và ống nhánh đều là những ống có khoan lỗ. 4) Các ống đứng được nối với các ống dọc và mạng lưới ống nhánh và sẽ được nối cao dần khi chiều cao lớp rác được đổ dầy thêm. Tổng chiều cao lớp rác giai đoạn 1 của bãi chôn lấp Nam Sơn là 26m. Khi giai đoạn 2 đưa vào vận hành, cột rác của giai đoạn 1 và 2 sẽ tăng tới 36m. Như vậy ống đứng có chức năng là những ống thông khí. Ngoài ra khi chiều cao lớp rác được đổ khá lớn, tuỳ thuộc khả năng thấm nước của các lớp rác và các lớp đất phủ, người ra có thể đặt thêm các ống thu gom nước rác trung gian theo chiều cao. Mạng lưới ống thu gom nước rác này còn có chức năng thông khí cho bãi rác. 5) Lớp vật liệu lọc bằng sỏi bao quanh đường ống thu gom nước rác sao cho nước rác tự chảy nhanh nhất xuống hệ thống ống thu gom. 6) Ngoài ra còn có hồ chứa nước rác và trạm bơm nước rác đến trạm xử lý. Theo không gian và phương thức thu gom người ta phân biệt: Rãnh thoát nước mưa và nước mặt: Có thể là rãnh hở hoặc rãnh kín, được bố trí xung quanh bãi. Chức năng của nó là thu gom nước mưa và nước mặt không cho chảy vào bãi rác đồng thời thu gom nước rác không cho chảy vào nguồn nước mặt hay nước ngầm mạch nông. Những bãi chôn lấp rác đã có hệ thống thu gom nước rác ở đáy, cũng phải có rãnh thoát nước xung quanh. Trong trường hợp bãi chôn lấp rác nổi thì rãnh thoát nước có thể thay thế hay kết hợp với hệ thống thu gom và thoát nước đáy. Bơm nước rác từ giếng lên: Việc thu gom nước rác bằng bơm từ các giếng ở trong hay xung quanh bãi là phương thức khá phổ biến ở những bãi chôn lấp rác hiện đang hoạt động vì ở đó không có hệ thống thu gom nước rác đáy hoặc yêu cầu phải bổ sung thêm. Nhược điểm của phương thức thu gom này là nước ngầm bị ô nhiễm và phải bơm cả hỗn hợp nước rác thấm từ trên các lớp rác với nước ngầm, do đó khối lượng nước phải bơm và xử lý rất lớn. Hệ thống thu gom và thoát nước đáy: Đây là hệ thống có diện tích thu gom khá lớn. Hệ thống này có thể là mương rãnh xây và đậy tấm đan có lỗ hoặc ống khoan lỗ. Đối với bãi chôn lấp Nam Sơn là hệ thống ống khoan lỗ như trên đã mô tả.
|
|
|
Post by chumanhdang on Jul 28, 2004 0:19:10 GMT -5
2. Thành phần tính chất nước rác.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới thành phần và tính chất nước rác như bản chất của rác hay chất thải rắn; điều kiện môi trường bao quanh như khí hậu, độ ẩm, thời gian, độ pha loãng với nước mặt, nước ngầm, nước mưa,... Bảng 1 là thành phần nước rác theo quy định thiết kế, xây dựng, vận hành và kiểm soát bãi chôn lấp phế thải sinh hoạt đô thị TC 9423.
Bảng 1: Thành phần nước rác từ bãi chôn lấp rác sinh hoạt (mg/l trừ pH) /1/
Bảng 2: Thành phần nước rác từ bãi chôn lấp Tây Mỗ
Trung tâm Nghiên cứu Đào tạo và Tư vấn Môi trường (CERECE), Viện Cơ học đã tiến hành phân tích thành phần nước rác ở Bãi chôn lấp rác Tây Mỗ vào tháng 7 và 8 năm 1998 /2/ được thể hiện ở bảng 2. Kết quả cho thấy: COD dao động trong khoảng 2.000 - 30.000 mg/l, hàm lượng cặn lơ lửng trong khoảng: 200 - 1.000 mg/l, N-NH4 trong khoảng 1 - 800 mg/l. Các nghiên cứu khác của thành phố Hồ Chí Minh cũng cho những kết quả tương tự.
3. Công nghệ xử lý nước rác.
Các số liệu nghiên cứu cho thấy, nước rác rò rỉ chứa nhiều chất ô nhiễm khác nhau. Mỗi loại nước rác, theo đặc điểm thành phần, tính chất của nó, đòi hỏi phải có các phương pháp xử lý khác nhau. Theo bản chất của mình, các phương pháp xử lý được chia ra:
- Phương pháp xử lý cơ học: Các lực trọng trường, lực ly tâm được áp dụng để tách các chất không hoà tan ra khỏi nước thải. Phương pháp xử lý cơ học thường đơn giản, rẻ tiền, có hiệu quả xử lý chất lơ lửng cao. Các công trình, thiết bị xử lý cơ học thường dùng như song chắn, lưới chắn rác, lưới lọc, bể lặng, bể lọc với vật liệu lọc là cát thạch anh,... Nhiều khi để tách các chất lơ lửng không tan và dầu mỡ người ra còn dùng bể tuyển nổi.
- Phương pháp xử lý hoá học: Sử dụng các phản ứng hoá học để xử lý nước thải. Các công trình xử lý hoá học thường kết hợp với công trình xử lý cơ học. Mặc dù có hiệu quả cao, nhưng phương pháp xử lý hoá học thường đắt tiền và đặc biệt thường tạo thành các loại sản phẩm phụ độc hại.
- Phương pháp xử lý sinh học: Với việc phân tích và kiểm soát môi trường thích hợp, hầu hết các loại nước thải đều có thể được xử lý bằng phương pháp sinh học. Mục đích của phương pháp này là keo tụ và tách các hạt keo không lắng và ổn định (phân huỷ) các chất hữu cơ nhờ sự hoạt động của vi sinh vật hiếu khí hoặc kỵ khí nhằm giảm nồng độ các chất hữu cơ, giảm chất dinh dưỡng như nitơ và phôtpho. Có 5 nhóm chính: quá trình hiếu khí, quá trình anoxic, quá trình kỵ khí, quá trình hiếu khí - anoxic - kỵ khí kết hợp, quá trình hồ sinh vật. Ưu điểm của phương pháp này là rẻ tiền và có khả năng tận dụng các sản phẩm phụ làm phân bón (bùn hoạt hoá) hoặc tái sinh năng lượng (khí mêtan).
4. Nguyên tắc lựa chọn công nghệ xử lý nước rác.
Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam, việc lựa chọn công nghệ xử lý nước rác phải theo các nguyên tắc sau:
- Công nghệ xử lý phải đảm bảo chất lượng nước sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn xả vào nguồn. Nước sau khi xử lý có thể xả vào sông hoặc hồ gần nhất,
ngoài ra có thể dùng cho trồng trọt.
- Công nghệ xử lý phải đảm bảo mức độ an toàn cao trong trường hợp có sự thay đổi lớn về lưu lượng và nồng độ nước rò rỉ giữa mùa khô và mùa mưa.
- Công nghệ xử lý phải đơn giản, dễ vận hành, có tính ổn định cao, vốn đầu tư và chi phí quản lý phải là thấp nhất.
- Công nghệ xử lý phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, nhưng phải mang tính hiện đại và có khả năng sử dụng trong một thời gian dài.
- Việc lựa chọn công nghệ xử lý nước rác dựa trên các yếu tố sau:
+ Lưu lượng và thành phần nước rác.
+ Tiêu chuẩn thải nước rác sau khi xử lý vào nguồn.
+ Điều kiện thực tế về quy hoạch, xây dựng và vận hành của bãi chôn lấp.
+ Điều kiện về địa chất công trình và địa chất thuỷ văn.
+ Điều kiện về kỹ thuật (xây dựng, lắp ráp và vận hành).
+ Khả năng về vốn đầu tư.
- Công nghệ xử lý phải có khả năng thay đổi dễ dàng khi áp dụng các quá trình xử lý mới có hiệu quả cao.
- Công nghệ xử lý phải có khả năng tái sử dụng các nguồn chất thải (năng lượng, phân bón...).
|
|
|
Post by chumanhdang on Jul 28, 2004 0:20:30 GMT -5
5. Lựa chọn công nghệ xử lý cho bãi chôn lấp Nam Sơn Hà Nội, Thành phố Hạ Long và thành phố Đà Nẵng.
Ở Hà Nội, trên cơ sở nguyên tắc lựa chọn công nghệ, thành phần và lưu lượng nước rác, điều kiện địa phương (khí hậu, kinh tế và kỹ thuật...) hai sơ đồ công nghệ xử lý đã được lựa chọn để xử lý nước rác cho bãi chôn lấp Nam Sơn giai đoạn 1. Sơ đồ công nghệ truyền thống (Hình 1). Đó là quá trình xử lý cơ học kết hợp xử lý sinh học hiếu khí trong bể aêrôten với bùn hoạt hoá. Ưu điểm của sơ đồ này là hiệu quả xử lý cao, dễ dàng vận hành vì là công nghệ truyền thống, cổ điển, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm ở các nước; nước sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn loại B theo TCVN 5945 - 1995. Tuy nhiên sơ đồ này có những nhược điểm là tiêu tốn nhiều năng lượng; tạo nhiều bùn loãng, vốn đầu tư và chi phí quản lý và vận hành lớn; phải vận hành liên tục cả lúc không có nước đến; khả năng vận hành kém và cho hiệu quả xử lý thấp lúc vượt tải. Sơ đồ công nghệ (Hình 2) là sơ đồ công nghệ sử dụng bể tuyển nổi áp lực, kết hợp xử lý sinh học kỵ khí với lớp bùn lơ lửng, dòng nước hướng lên (bể UASB) và xử lý sinh học hiếu khí trong bể aêrôten với bùn hoạt hoá. Nước rác được tập trung vào bể thu và nhờ bơm đưa nước vào bể tuyển nổi áp lực. Hiệu suất tách cặn lơ lửng ở bể tuyển nổi đạt cao hơn so với bể lắng, tạo điều kiện tốt cho bể UASB hoạt động. COD của nước sau khi qua bể UASB giảm từ 4.000 - 6.000 mg/l xuống khoảng 300 - 500 mg/l đảm bảo tốt cho quá trình sinh học hiếu khí trong bể aêrôten. Nước sau xử lý cũng thoả mãn yêu cầu xả ra nguồn theo tiêu chuẩn loại B. Ưu điểm của sơ đồ này là tính ổn định cao, hiệu suất xử lý cao hơn, ít tiêu tốn năng lượng đồng thời lại tạo khí tái sinh năng lượng, lượng bùn tạo ra ít hơn, linh hoạt hơn khi tải lượng thay đổi theo hướng vượt tải, về mùa mưa khi nồng độ chất hữu cơ trong nước rác thấp chỉ cần vận hành bể UASB, có khả năng thay đổi công nghệ và ứng dụng các quá trình xử lý hiện đại khi cần thiết cải tạo. Tuy nhiên vì bể UASB là loại công nghệ mới và việc vận hành khởi động đưa công trình vào hoạt động đòi hỏi thời gian lâu và tay nghề vận hành cao. Trên cơ sở xem xét hai sơ đồ công nghệ trên, để xử lý nước rác ở bãi chôn lấp Nam Sơn đã chọn sơ đồ 2 để áp dụng cho giai đoạn 1. Trên cơ sở kinh nghiệm vận hành của giai đoạn 1, hướng cho giai đoạn 2 cũng sẽ lựa chọn sơ đồ công nghệ này.
|
|
|
Post by Robot on Nov 7, 2004 8:03:27 GMT -5
CÁC NGUYÊN TẮC LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ XỬ LÍ RÁC CHO VÙNG ĐBSCL VÀ AN GIANGwww.angiang.gov.vn/KHKT/xulirac.htm Công nghệ xử lý rác trước tiên phải đảm bảo khả thi về mặt môi trường: Tính khả thi về mặt môi trường đối với công nghệ xử lý rác thải được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: - Không được phát sinh ra các chất thải thứ cấp có khả năng gây ô nhiễm và tác động đến môi trường. Điều này ám chỉ rằng, công nghệ xử lý rác thải phải bao hàm tất cả giải pháp kỹ thuật và công nghệ hỗ trợ nhằm xử lý triệt và thỏa mãn các quy định hiện hành về bảo vệ môi trường đối với các chất thải thứ cấp sinh ra trong suốt các quá trình vận chuyển, tập kết, phân loại và xử lý rác như: + Nước rác + Khí thải + Mùi hôi + Cặn bùn từ hệ thống xử lý nước rỉ rác và các loại nước thải khác + Tro từ các lò đốt rác + Bụi thu hồi từ các hệ thống lọc bụi (khi dùng công nghệ đốt) + Các thành phần trơ trọi còn lại được tách riêng khỏi phân rác (khi dùng công nghệ ủ rác làm phân). - Không được để cho nước rác thấm xuống đất gây ô nhiễm các tầng nước ngầm. - Hạn chế đến mức thấp nhất có thể chấp nhận được sự phát sinh các loài gặm nhấm, ruồi nhặng, côn trùng, vi trùng và các vectơ truyền bệnh. - Không gây ra các tác hại lâu dài về mặt gen và di truyền học. Công nghệ xử lý được chọn phải đảm bảo tính khả thi về mặt kỹ thuật: Tính khả thi về mặt kỹ thuật đối với công nghệ xử lý rác thải được đánh giá qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: - Công nghệ xử lý được chọn (kể cả các công nghệ phụ trợ kèm theo) phải đảm bảo tính thích hợp và chắc chắn với diễn biến thành phần và tính chất rác thải khu Nam Bình Dương trong bất kỳ điều kiện khí hậu, thời tiết hay các chế độ thủy văn nào của khu vực xử lý rác. - Điều kiện cơ sở hạ tầng (mặt bằng, cấp điện, cấp nước, tiêu thoát nước, giao thông, thông tin liên lạc, phòng cháy chữa cháy ...) phải đáp ứng các yêu cầu liên quan đến việc thi công và vận hành khu xử lý rác. - Các yêu cầu về mặt kỹ thuật của công nghệ xử lý rác (ví dụ tiêu chuẩn lớp lót chống thấm dưới đáy bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh) phải được đáp ứng đầy đủ trong suốt quá trình thi công, xây dựng và vận hành khu xử lý rác. - Công nghệ xử lý phải đảm bảo khả năng cung cấp, bảo dưỡng và sửa chữa các trang thiết bị kèm theo. CB-CNV quản lý và vận hành khu xử lý rác phải làm chủ được công nghệ. - Các sản phẩm đầu ra của công nghệ xử lý nếu có (như phân compost, khí đốt ...) phải đảm bảo một số chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản và không gây tác hại đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng trong quá trình sử dụng chúng. - Phải có đầy đủ các giải pháp kỹ thuật và công nghệ thay thế khi cần thiết (để đối phó với những tình huống bất trắc có thể xảy ra, đặc biệt là đối với các khía cạnh môi trường liên quan đến khu xử lý rác). Công nghệ xử lý được chọn phải đảm bảo tính khả thi về mặt kinh tế: Tính khả thi phải được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: - Chi phí đầu tư ở mức có thể chấp nhận được. Đối với phần lớn các công nghệ xử lý rác, suất đầu tư tính bình quân trên một đơn vị khối lượng rác thường giảm dần theo quy mô đầu tư (tức quy mô càng lớn thì suất đầu tư đơn vị càng thấp). Tuy nhiên, một số công nghệ xử lý chỉ có hiệu quả kinh tế khi khối lượng rác thải phải đạt đến một mức độ tối thiểu nào đó. - Chi phí vận hành toàn bộ hệ thống xử lý rác (bao gồm các chi phí vận hành các công trình phụ trợ ) không quá đắt để đảm bảo thời hạn hoàn vốn chậm nhất cũng không vượt quá thời gian sống của dự án trong điều kiện mức phí dịch vụ thu gom xử lý rác được cộng đồng chấp nhận. Công nghệ xử lý được chọn phải đảm bảo tính khả thi về mặt xã hội học Tính khả thi phải được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: - Không tạo ra các sức ép nặng nề về mặt tâm lý của dân chúng địa phương và của các cơ quan ban ngành hữu quan. Điều này đòi hỏi công nghệ xử lý được chọn phải chứng tỏ được các giải pháp hữu hiệu đối với các vấn đề môi trường thứ cấp nảy sinh trong quá trình xử lý rác. - Công nghệ xử lý phải đảm bảo tính an toàn và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro, tác hại đối với sức khỏe của những người trực tiếp vận hành hệ thống xử lý. - Những yêu cầu kèm theo của công nghệ xử lý (ví dụ các quy định tuân thủ về phân loại rác tại nguồn) phải đơn giản và không vượt quá khả năng của đại bộ phận dân cư trong vùng dự án.
|
|
|
Post by Robot on Nov 7, 2004 8:04:35 GMT -5
Các phương án công nghệ xử lý rác có nhiều triển vọng áp dụng
Mặc dù có khá nhiều giải pháp công nghệ và kỹ thuật được đưa ra cho vấn đề rác thải đô thị, song do tính chất cơ bản là nhằm giải quyết vấn đề vệ sinh môi trường đô thị, cho nên bất kỳ một giải pháp công nghệ xử lý nào có nhiều vấn đề môi trường tiềm ẩn (như đổ đống tự nhiên ở bãi rác, đốt rác tự nhiên ...) đều được loại bỏ ngay từ đầu.
Phân tích các điều kiện ở An Giang các phương án công nghệ sau đây được coi là có nhiều khả thi và triển vọng:
- Chế biến rác thải thành phân hữu cơ và chôn lấp những phần còn thừa lại.
- Sản xuất điện năng từ rác thải và chôn lấp những phần thừa còn lại.
- Đốt rác thải và chôn lấp những phần thừa còn lại.
- Chôn lấp rác thải ở các ô chôn lấp hợp vệ sinh.
Tất cả 4 phương án công nghệ trên đều có chung một công đoạn là công đoạn phân loại thứ cấp (tạm dùng thuật ngữ này để phân biệt với phân loại rác tại nguồn thường được coi là phân loại sơ cấp) rácthải trước khi tiến hành xử lý. Do đó, để đơn giản cho việc đánh giá lựa chọn công nghệ xử lý, tạm thời không đề cập đến chi tiết này ở đây.
Mỗi phương án công nghệ xử lý rác đưa ra ở trên đều có những ưu khuyết điểm riêng của chúng.
|
|
|
Post by Robot on Nov 7, 2004 8:13:35 GMT -5
Chế biến phân rác.
Tận dụng được nguồn rác thải để sản xuất ra phân bón phục vụ nông nghiệp, tiết kiệm đất đai cho việc chôn cất chất thải về lâu dài.
Đòi hỏi phải phân loại rác triệt để, chi phí đầu tư ban đầu và vận hành khá cao, yêu cầu kỹ thuật phức tạp.
Phù hợp với nguồn rác thải có nhiều thành phần hữu cơ, cho phép kết hợp xử lý cả phân hầm cầu và một số loại bùn cặn từ các hệ thống thoát nước đô thị.
Sản xuất điện từ rác
Tận dụng được nguồn rác thải để sản xuất ra điện năng phục vụ sản xuất và sinh hoạt, tiết kiệm đất đai cho việc chọn chất thải về lâu dài. Chi phí đầu tư và vận hành rất cao, yêu cầu kỹ thuật cao.
Phù hợp với nguồn rác có nhiệt trị riêng lớn.
Đốt rác
Hạn chế đến mức thấp nhất các vấn đề môi trường liên quan đến nước rác, cho phép xử lý đồng thời nhiều loại rác thải có nguồn gốc khác nhau, tiết kiệm đất đai cho việc chôn chất thải về lâu dài.
Chi phí đầu tư và ận hành cao, hạn cế trong việc kểm soát khí thải có chứa dioxin.
Phù hợp với rác công nghiệp, rác y ế có nhiều thành pần nguy hại.
Chôn lấp hợp vệ sinh
Chi phí đầu tư và vận hành thấp.
Đòi hỏi diện tích mặt bằng lớn, khó kiểm soát vấn đề rò rỉ nước rác gây ô nhiễm nước ngầm.
Phù hợp với những khu vực có mặt bằng đủ rộng, mực nước ngầm thấp, khả năng tài chính hạn hẹp.
|
|
|
Post by Robot on Nov 7, 2004 8:25:49 GMT -5
Nếu chỉ dựa vào bảng so sánh trên thì chắc chắn khó có thể đưa ra quyết định lựa chọn phương án công nghệ xử lý nào cho thích hợp. Đi kèm theo các công nghệ này là hàng loạt các vấn đề liên quan khác. Vì vậy, các phương án công nghệ đề xuất được đưa ra xem xét chi tiết hơn để làm căn cứ cho việc lựa chọn sau này. Bao gồm các căn cứ sau: Xét theo khả năng tận dụng lại chất thải: Khả năng tận dụng lại chất thải đã qua phân loại thứ cấp khi tiến hành xử lý Chỉ số đánh giá (Xem các bảng trong trang web) www.angiang.gov.vn/KHKT/xulirac.htm Xét theo mức độ an toàn đối với môi trường: Các phương pháp xử lý rác thải thường không tránh khỏi các vấn đề môi trường thứ cấp và trong một số trường hợp, các vấn đề môi trường thứ cấp nhiều khi lại nguy hiểm và nan giải hơn chính bản thân rác thải (ví dụ như: nước rỉ rác, phát thải dioxin từ các lò đốt rác). Vì vậy, trong hầu hết các trường hợp, việc xử lý các chất thải thứ cấp là một yêu cầu không thể thiếu trong hệ thống công nghệ xử lý rác thải. Nhận thức rõ điều này, nhiều công nghệ xử lý rácthải hiện nay đã chú trọng đến việc phát triển các giải pháp kỹ thuật và công nghệ thích hợp để nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tác động môi trường từ các chất thải thứ cấp. Nếu được đầu tư đúng mức và quản lý vận hành tốt, các chất thải thứ cấp không còn là vấn đề của công nghệ xử lý rác. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không loại trừ khả năng gây ô nhiễm và tác động đến môi trường của các hệ thống xử lý trong một số tình huống nhất định. Vì vậy, để làm căn cứ xét chọn công nghệ thích hợp cho xử lý rác thải, các chỉ số đánh giá về mặt môi trường thường được xem xét ở tình huống xấu nhất. Trên cơ sở mô tả và phân tích định lượng sơ bộ các ưu khuyết điểm của 4 phương án công nghệ xử lý rác thải như trình bày ở trên, kết hợp với điều kiện tư nhiên, tình hình KT-XH, hiện trạng và dự báo thành phần và tính chất rác thải ở An Giang. Nhận thấy rằng phương án công nghệ Chế biến rác thải thành phân hữu cơ kết hợp với việc chôn lấp những phần thừa còn lại được xem là tốt nhất và khả thi nhất Tuy nhiên, những nhận định trên chỉ mới đánh giá cho các hạng mục công nghệ chính yếu, chưa xem xét đến kỹ thuật và công nghệ phụ trợ. Khi triển khai vào thực tế, tùy theo khối lượng, thành phần và tính chất rác thải mà phương án công nghệ có thể được áp dụng kết hợp nhiều phương pháp xử lý đồng thời. KS.Trần Anh Thư
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 7:21:45 GMT -5
Cách đây 5 năm, vào mấy ngày cuối tháng 9, do có một vài sự cố ở khu đổ rác đô thị nên một số đường phố Hà Nội đã bị tắc nghẽn do các xe rác phải phủ bạt chờ đi đổ.
Số lượng rác thải sinh hoạt của Hà Nội khoảng
1700tấn/ngày(3000m3) Thành phần rác thải: Chất hữu cơ:41.98% Giấy: 7.19% Gạch đất: 6.98% Vải: 1.75% Xương vỏ:1.27% Kim loại:0.59% Thuỷ tinh: 1.42% Chất dẻo va các chất khó phân huỷ: 33.67% Độ ẩm: 40,1% Tỷ trọng 384kg/m3
Hoạt động tái chế và thu gom phế liệu do những người nhặt rác, đồng nát...góp phàn làm giảm khoảng 12% sồ lượng rác thải
Rác thải Hà nội cũng như nhiều nơi ở Vn có thành phần hữu cơ tương đối cao, mình nghĩ nếu như phân loại được rác hữu cơ riêng ra các loại rác khác thì sẽ giảm bớt các vấn đề khối lượng vận chuyển, ô nhiễm môi trường không khí,ô nhiễm nước ngầm ở bãi chôn lấp...( nghe nói bãi rác thải Nam Son cách HN 50km có hệ thống xử lý nước rác nhưng khi phân tích mẫu nước đã qua xử lý và thải ra môi trường thì vẫn còn nhiều điều phải nói) và các vấn đề sức khoẻ của những người tham gia nhặt rác...
Mình đọc trong báo cáo 2003 của Đặng Dương Bình, trưởng phòng Quản lý môi trường -Sở khoa học cong nghệ và Môi trường Hà Nội.
Theo báo cáo Công ty Môi trường đô thị chỉ thu gom được khoảng 70% rác thải hàng ngày của Hà Nôi, khoảng 10-12% được thu gom do những người nhặt rác ( khoảng 6000 người)
Thu Lan
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 7:26:02 GMT -5
Thứ nhất bạn octieu muốn thiết kế "Tự động hóa dây chuyền xử lý rác thải " có nghĩa là bạn sẽ thực hiện cả 2 công việc : Lập trình cho hệ thống điều khiển tự động và thiết kế thiết bị cho dây chuyền phải hôn vậy?. Theo hiểu biết nhỏ riêng của mình thì 2 phần này đều đã được các nước tiên tiến trên thế giới thực hiện cách đây vài thập kỷ và họ đã từng bước hoàn thiện để đạt được hiệu quả và công suất xử lý theo yêu cầu. Bên cạnh đó họ cũng kết hợp với mảng quản lý để đưa ra các chính sách, phương cách thu gom, phân loại tại nguồn sao cho tương thích với hệ thống xử lý. Còn vần đề của bạn octieu nêu lên ở đây là trong phạm vi Đồ án tốt nghiệp hay là Đề án thực tế?....
Nếu chỉ là Đồ án môn học hoặc tốt nghiệp thì theo mình bạn nên đưa vào những điều kiện giả thiết tương thích từ nguồn vào cho hệ thống của bạn thì tốt hơn vì bạn không nhất thiết phải xử dụng thực tiễn trong vấn đề rác thải hiện nay của VN để làm đồ án này đâu (Mình đảm bảo các thầy của bạn sẽ hiểu vì sao). Nếu mình là phản biện của bạn mình sẽ có một số câu hỏi như sau :
1- Công suất maximum mà các thiết bị của bạn đạt được (sàng, lọc, phân loại......)vì lượng rác hỗn hợp hàng ngày ở các đô thị VN thực tế hiện nay rất lớn (mình ko biết chính xác bao nhiêu....xin lỗi).
2- Năng lượng để hoàn thành các công đoạn là bao nhiêu.
3- Chất thải phát sinh từ các công đoạn phân loại (nước thải, hoá chất......)
4- Tuổi thọ vận hành của các thiết bị.
5- Giá thành cụ thể để xử lý mỗi tấn rác sẽ là bao nhiêu cho tất cả các khâu trong dây chuyền.
6- Tác động ảnh hưởng đến công ăn việc làm của đội ngũ lao động ở các bãi rác như thế nào.
....Còn một số câu hỏi nữa, nhưng mà mình chưa kịp nghĩ chính xác, chỉ nêu một số câu để cho bạn thấy rõ sự bất lợi của việc thiết kế hệ thống điều khiển tự động cho tình hình chất thải rắn (không kể đến chất thải công nghiệp) hiện nay ở VN sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Theo mình vấn đề này chỉ có một con đường mà tất cả các quốc gia khác đã bắt buộc phải đi theo đó là kết hợp với các nhà Quản lý Môi Trường đưa ra các chính sách, phương cách phân loại rác thải ngay tại nguồn hợp lý nhất. Có thể một số ý kiến sẽ cho rằng ý thức người dân hiện nay khó có thể thực hiện được......Ếch xin thưa rằng đó không phải là vấn đề lớn, chúng ta cần có những chính sách hợp lý cho vài chục hoặc vài thế kỷ sau....ngay từ bây giờ và phải kiên trì dù cho mọi người phản đối thế nào hay tiếp thu ra sao thì đến một lúc nào đó chúng ta cũng sẽ thu được kết quả như ý muốn dù trong quá trình thực hiện có thể bằng những phương cách ngớ ngẩn, thủ công hoặc đại loại bất kể phương cách gì miễn sao đạt được mục đích đề ra ......Vì dụ chuyện "Dừng xe ở trước vạch vôi trắng tại giao lộ có các bạn trẻ tự nguyên ra đứng nhắc nhỏ mọi người nghiêm túc chấp hành (một số người cho đó là chyện tầm phào, nhưng theo mình rất có ít và rất hay), khoảng thời gian đó mọi mọi người đã đi đứng đúng luật hơn rất nhiều.....Nhưng sau khi chiến dịch kết thúc thì đâu lại vào đấy......rõ chán...." Vì thế chúng ta nhất thiết phải đưa ra và kiên trì thực hiện các chính sách cho đến khi chúng trở thành một thói quen của người dân, có thể 1,2 năm hay 3,5 năm thậm chí là 10 năm chúng ta cũng nên làm, hãy nhìn vì sao những nước khác họ làm được?
Còn nếu đây là Đề án thực tế thì mình chỉ dám chúc bạn may mắn và khuyên bạn hãy dùng lương tâm nghề nghiệp để làm Đề án này........Vì sau khi bạn hoàn thành có thể 6 tháng, có thể 1 năm......tất cả cũng sẽ trở thành ......chất thải rắn.......Môi trường xanh hay bất kỳ công ty MT nào ở VN hiện nay đều muốn vượt lên đi đầu trong vấn đề nay (vì còn dễ ăn), nhưng rất khó có kết quả tốt được khi chúng ta chỉ tập trung xử lý ở cuối nguồn..........Mời các bác Quản Lý Môi Trường góp ý với mọi người về phương cách xử lý đầu nguồn nhé.
Ếch
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 7:28:11 GMT -5
CTR đô thị của Việt Nam hiện nay đang ngày càng gia tăng theo tốc độ phát triển kinh tế và đô thị hoá, kèm theo với nó là tính chất độc hại của CTR đô thị cũng tăng cao. Kết quả khảo sát về CTR sinh hoạt (SH) của Hà Nội trong 2 tháng cuối cùng của năm 2001 cho thấy thành phần nilon và chất dẻo ước đạt 8,64 % thì chỉ trong hai tháng đầu năm 2002, con số này đã tăng lên 12,09 %. (Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2002 - Cục Môi trường).
Tổng lượng CTR phát sinh năm 2001 của TP Hà Nội (chỉ tính các quận nội thành): 636.583 tấn.
CTR SH: 561.149 tấn/năm. CTH NH từ nguồn khác (chủ yếu công nghiệp): 12.100 tấn/năm. CTR Y tế NH: 417 tấn/năm. TP CTR ở Hà Nội 2001 (số liệu có làm tròn): Chất hữu cơ: 53,0 % Cao su, nhựa: 9,7 % Giấy, carton, giẻ vụn, v.v.: 1,1 % Kim loại: 5 % Thuỷ tinh, sứ, gốm: 3,3 % Đất, đá, phế thải xây dựng nói chung: 27,9 % Độ ẩm trung bình: 40,47 % Độ tro: 12,96 % Tỷ trọng: 0,41 tấn/m3 (*). (*)Tỷ trọng của chất thải rắn dao động trong khoảng 0,4 – 0,42 tấn/m3
Số liệu thống kê của Cty MTĐT Hà Nội năm 2002 cho thấy tổng lượng CTR trong khu vực nội thành tăng lên đến 691.109 tấn, lượng CTR trung bình ngày đã tăng từ 1.300 tấn/ngày năm 2000 lên 1.500 tấn/ngày năm 2001 và 1.800 tấn/ngày năm 2002, trong đó chỉ 1.200 tấn/ngày được thu gom về 2 bãi rác chính của TP là Lâm Du (chôn lấp phế thải xây dựng) và Nam Sơn (chôn lấp và xử lý CTR SH và CN), ngoài ra còn kể đến nhà máy xử lý rác thải Cầu Diễn chủ yếu làm phân vi sinh (bãi Tây Mỗ đã đóng cửa) (Báo cáo hiện trạng môi trường VN năm 2003 - Bộ TN và MT).
Theo các số liệu tổng kết của Cty MTĐT Hà Nội năm 2003, thành phần CTR SH của Hà Nội như sau:
Chất hữu cơ: 51,9 % Giấy: 2,7 % Nhựa: 3 % Da, cao su, gỗ: 1,3 % Vải vụn, giẻ: 1,6 % Thuỷ tinh: 0,5 % Đá, đất sét, sứ: 6,1 % Kim loại: 1 % Vật liệu xây dựng, phế thải khác: 31,9 % Tỷ trọng trung bình 0,416 tấn/m3
Tuy nhiên, từ các nguồn khác nhau cho thấy số liệu này chỉ mang tính tương đối, khập khiễng, đặc biệt là chỉ có thể xác định lượng rác thải đã qua thu gom (do có trạm cân xe ở mỗi bãi rác), số liệu còn lại chỉ là ước tính. Các kết quả điều tra chưa đảm bảo đúng về số lượng và giá trị điều tra. Số liệu thay đổi do tần suất, đối tượng và vị trí điều tra.
Anyway thì đành phải sử dụng thôi, ít ra thì đây cũng là số liệu chính thống cơ mà. Có điều nên sử dụng số liệu mới và chỉ một loại thôi thì okie. Dùng đến 2 nguồn là số liệu đá nhau chan chát rồi, lỡ có làm luận văn hay đề tài KH thì out cho đẹp.
KGH
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 7:29:32 GMT -5
Không nhớ rõ vì mình chỉ làm Đồ án có một lần còn các lần sau đều chỉ làm Đề án thực tiễn nên lý thuyết xa nhau lắm..Chỉ có thể góp chút ít có gì các bác khác thêm vào nhé :
1- Thu thập số liệu : Lượng rác trung bình năm, lượng rác ngày, lượng rác khu vực khảo sát.
2- Bản đồ khu vực khảo sát và đường đi đến bãi chôn lấp
3- Tính toán quãng đường trung bình để bố trí các điểm thu gom, nhớ chú ý lưu lượng giao thông trong ngày để chọn giờ thu gom thích hợp
4- Bãi tập kết xe, giờ xuất phát, giờ tập kết (cả xe thu gom khu vực và xe tải vận chuyển đến hố chôn)
5- Thiết kế hố chôn : cấu tạo, mặt cắt dọc, ngang, ống thu khí, thu nước thải rò rỉ............
6- Các bản vẽ tổng quan khu vực chôn lấp, cụ thể chi tiết từng thiết bị, ngay cả máy bơm hoặc hố ga thu nước thải rò rỉ.
7- Thiết kế các hệ thống xử lý nước thải rò rỉ, thu gom nước mưa (bản vẽ )..........
Chú ý là khi thiết kế hố chôn phải nhất thiết có đường ra vào cho xe dổ rác nhé....quan trọng đấy..
Ech
Xin góp thêm vào phần của Ếch ngồi đáy giếng. Thật ra với yêu cầu chỉ là xây dựng một bãi chôn lấp chất thải rắn thì không cần thiết phải đưa vào phần 3 (Tính quãng đường trung bình) và phần 4 (bãi tập kết xe).
Đồ án sẽ có kết cấu chặt chẽ thành các phần sau: Phần 1 (nếu là luận văn tốt nghiệp thì sẽ là chương): Tổng quan về CTR/CTRĐT hay SH
Phần này trình bày các khái niệm chung như định nghĩa, nguồn gốc, phân loại CTR, tình hình quản lý CTR trên thế giới, các phương pháp xử lý CTR, v.v.
Phần 2: Hiện trạng CTR và tình hình quản lý CTR tại Đồng Nai
Phần này phải vạch sơ về các điều kiện tự nhiên (đặc biệt quan trọng có lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ ), điều kiện kinh tế xã hội, hiện trạng CTR và tình hình quản lý CTR tại địa phương.
Phần 3: Cơ sở lý thuyết của phương pháp chôn lấp
Phần này trình bày kỹ về các tiêu chuẩn và kết cấu của 1 bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó bao gồm:
Yêu cầu chọn địa điểm Cấu tạo ô chôn lấp Các lớp lót Hệ thống thu khí bãi rác và quản lý khí bãi rác Hệ thống thu nước rác và xử lý nước rác, quản lý nước mưa và nước ngầm Vận hành bãi chôn lấp
Phần 4: Tính toán bãi chôn lấp rác
Nêu các thông số điều tra, lựa chọn hoặc tính toán cho bãi chôn lấp rác, bao gồm: - Địa chất, thuỷ văn khu vực - Địa điểm - Thời gian hoạt động - Công suất - Lượng và thành phần rác thải
Cần tính toán:
- Lượng rác phát sinh theo thời gian (khối lượng và thể tích) để xác định tổng công suất bãi, thường phụ thuộc vào tốc độ gia tăng dân số và tỷ lệ gia tăng của rác thải trên đầu người. Lượng rác này phải được tính cụ thể cho từng năm vận hành, kèm theo đó là thành phần của nó, thành phần này cũng thay đổi liên tục cần tính toán.
- Từ đó, tính toán và lựa chọn quy mô bãi chôn lấp rác, kích thước của bãi và của từng ô chôn lấp, tính toán các lớp lót và phủ, lựa chọn vật liệu chống thấm, xác định khối lượng đất đào đắp.
- Tính toán lượng khí rác sinh ra theo thời gian - Tính toán lượng nước rác sinh ra theo thời gian - Tính toán hệ thống thu gom khí bãi rác - Tính toán hệ thống thu gom nước rác, nước mưa - Lựa chọn và tính toán sơ bộ hệ thống xử lý nước rác - Chi phí xây dựng và vận hành, trong đó có tính đến lợi ích thu được từ việc sử dụng khí bãi rác phát điện.
Bố trí:
- Tổng thể mặt bằng, bao gồm khu chôn lấp, khu xử lý, khu nhà điều hành, trạm cân xe, trạm rửa xe, yêu cầu cây xanh (đặc biệt quan trọng) và tuyến đường. - Thời gian vận hành - Thiết bị chính - Nhu cầu nhân lực - Nhu cầu năng lượng, nước, kinh tế
Phần 5: Kết luận
Phụ lục và tài liệu tham khảo
Khach Giang Ho
|
|
|
Post by ntdoantrang on Nov 13, 2004 7:47:43 GMT -5
Xin hỏi hiện nay ở Việt Nam thật sự đã có bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh chưa? (sanitary landfill). Nói đến việc thiết kế sanitary landfill thì những công thức tính toán thiết kế phải tìm ở đâu? Hiện nay Trang đang thực hiện đồ án môn học QLCTR là thiết kế landfill nhưng cho đến nay vẫn chưa biết một công thức tính toán thiết kế nào cả (nguy quá !?) Tài liệu về mảng thiết kế landfill hình như không được phong phú cho lắm thì phải. Ngay cả TCVN về yêu cầu thiết kế cũng chỉ đưa những nhận định và yêu cầu rất chung chung... Còn nhiều câu hỏi nữa đặc biệt liên quan đến mảng tính toán thiết kế. Mong là diễn đàn giúp cho nhiều ý kiến để sau khi bảo vệ đồ án môn học xong Đoan Trang có cơ hội để nói câu "Làm đồ án xong mới thấy trước đây mình chưa biết gì" chứ không phải câu "Đồ án xong rồi mà thấy chẳng có gì mới cả, CTR vẫn là CTR và ta vẫn là ta, chẳng có gì liên quan nhau..."
|
|
|
Post by Robot on Nov 13, 2004 12:54:23 GMT -5
|
|
|
Post by Robot on Dec 10, 2004 17:12:12 GMT -5
|
|
|
Post by Robot on Dec 30, 2004 12:22:43 GMT -5
Lò đốt rác thải y tế hiệu suất cao
Tiết kiệm nhiên liệu, xử lý triệt để các khí thải độc hại có thể phát sinh là ưu điểm nổi bật của lò đốt rác y tế VHI- 18B, do các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ Môi trường (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) chế tạo.
Lò đốt rác thải VHI - 18B. Kỹ sư Mai Trọng Chính, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết lò đốt chất thải rắn y tế VHI - 18B áp dụng nguyên lý đốt đa vùng (nguyên lý đang được sử dụng ở các nước tiên tiến trên thế giới) đáp ứng yêu cầu nhiệt độ cao nên hiệu suất đốt cháy rác, thiêu huỷ Dioxin và Furan lớn. Đây là những loại khí rất độc, có thể gây ra một số bệnh ở người, đặc biệt là ung thư. Với đặc điểm mới, VHI - 18B đã khắc phục được điểm yếu thường gặp của các lò đốt rác y tế, là sinh ra các sản phẩm cháy không hoàn toàn chứa Dioxin và Furan.
Điểm nổi bật nhất của của lò VHI- 18B là hệ thống xử lý khí thải kết hợp với trao đổi nhiệt. Chính nhờ quá trình trao đổi nhiệt mà lò có khả năng loại trừ triệt để bụi, kim loại nặng và các khí độc hại như NOx, SOx, HCl, HF, đồng thời làm lạnh nhanh khí thải xuống 200 độ C nên tránh được tình trạng tái sinh dioxin.
Vận dụng nguyên tắc “lấy nó nuôi nó”, quá trình trao đổi nhiệt còn tạo điều kiện tái tạo nhiên liệu, nhất là sức nóng của không khí. Không khí khi được sấy ở 100 độ C sẽ được cung cấp trở lại cho các buồng đốt sơ cấp và thứ cấp, do đó đã tận dụng triệt để nguồn nhiên liệu, từ đó hạ được giá thành xử lý trên một kg rác thải.
Một ưu điểm nữa của lò đốt rác thải rắn y tế VHI- 18B là nó có thể điểu khiển tự động chu kỳ đốt, nhiệt độ, chế độ cấp khí và các thiết bị kèm theo.
TS. Mai Trọng Chính còn cho biết, lò đốt VHI- 18B không chỉ xử lý được rác thải rắn y tế mà còn xử lý được chất thải rắn của các trung tâm nghiên cứu và điều trị thú y, rác thải công nghiệp.
Kết quả kiểm định cho thấy, khói thải sau xử lý không màu, không mùi, không gây ô nhiễm môi trường, đạt một cách ổn định theo tiêu chuẩn TCVN 6560-1999. Do lò được thiết kế và sản xuất hoàn toàn trong nước nên giá bán thiết bị thấp hơn so với thiết bị cùng loại nhập ngoại. Những sản phẩm đầu tiên đã có mặt tại một số tỉnh, như Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận, Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Kạn, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Nguyên, Trung tâm Y tế huyện Lương Tài và huyện Quế Võ (tỉnh Bắc Ninh).
Quỳnh Anh
|
|