Post by chumanhdang on Jul 15, 2004 2:56:03 GMT -5
Xử lí nước thải bằng phương pháp tuần hoàn tự nhiên
(Khoa học và công nghệ Hà Nội, 5/2004, tr. 28)
Để giảm lượng ô nhiễm môi trường do nước thải gây ra, các quốc gia trong khu vực như: Thái Lan, Trung Quốc, Phi-líp-pin, Nhật Bản đã ứng dụng thành công phương pháp xử lí bằng hệ thống tuần hoàn tự nhiên (NCSWT). Vừa qua, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Môi trường và an toàn hoá chất (Việt Hoá học công nghệ ) đã thử nghiệm thành công NCSWT tại Hà Nội, mở ra hướng làm sạch nước sông, hồ đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
NCSWT là hệ thống tuần hoàn tự nhiên để làm giảm các chất ô nhiễm hữu cơ, các hợp chất hữu cơ, hợp chất chứa ni-tơ, phốt-pho, chất rắn lơ lửng, màu và mùi trong nước thải. Nguyên tắc của hệ thống dựa trên hoạt động của các vi sinh vật có sẵn trong tự nhiên nhằm phân huỷ các hợp chất hữu cơ. Để tạo điều kiện tốt hơn cho các vi sinh vật này sinh trưởng và phát triển, hệ thống sử dụng nhiều loại vật liệu tự nhiên, được xử lí theo các phương thức khác nhau, tạo nên môi trường sống phù hợp với các chức năng phân huỷ các chất ô nhiễm có trong nước thải. Hệ thống còn có các quá trình làm sạch nước ô nhiễm dựa trên nguyên lí cơ học (lắng, lọc) và quá trình hoá học (ôxy hoá, hấp thụ, hấp phụ ) kết quả là nước ô nhiễm khi chảy lần lượt qua 5 ngăn của hệ thống sẽ được làm sạch với hiệu suất cao.
Tháng 1/2004, với sự hợp tác giữa Viện Hoá học công nghệ, Trung tâm quốc tế Chuyển giao công nghệ môi trường và Công ty Toyo Denka (Nhật Bản) hệ thống NCSWT thử nghiệm được lắp đặt tại Cầu Diễn với công suất tối đa là 60m3/ngày đêm. Theo số liệu phân tích, hiệu quả xử lí trung bình một số chất sau quá trình xử lí tại trạm này như: COD, BOD 5, LAF, coliform, DO, pH. Gần tương đương với hệ thông đang vận hành tại Trung Quốc, Thái Lan và Nhật Bản. Chắc chắn hiệu quả trên sẽ tăng lên theo thời gian khi hệ sinh vật tăng lên tối đa. Thành công lớn nhất do NCSWT đem lại là chí phí thấp hơn so với một số công nghệ xử lí nước thải đang vận hành. Hệ thống xử lí nước thải tại thành phố Việt Trì (Phú Thọ ), Công ty bánh kẹo Tràng An, khu công nghiệp Biên Hoà IIẶ đều có giá thành trên 4.000 đồng/m3. Trong khi đó, với NCSWT, nếu được xây dựng quy mô tương tự các cơ sở trên, giá thành chỉ vào khoảng 1.200-1.400 đồng/m3 và vẫn cho chất lượng nước sau xử lí đạt loại A.
Quá trình áp dụng trong khu vực cho thấy, NCSWT có ưu điểm là được làm từ các vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm như: than củi, vỏ chai nhựa đã qua sử dụng, đá vôi dòng nước thải chảy trong hệ thống theo nguyên lí tự chảy, mức độ tiếp xúc giữa nước thải với vi sinh vật, các môi trường khử chất bẩn lớn, do đó hiệu quả xử lí của hệ thống luôn ổn định, hiệu suất và cường độ phân huỷ các chất ô nhiễm trong nước thải đạt rất cao. NCSWT không sử dụng hoá chất trong quá trình xử lí. Nên quá trình vận hành hệ thống khá đơn giản và giảm chi phí xử lí (chủ yếu là năng lượng cho quá trình thổi khí ). Thời gian thay vật liệu xử lí khá lâu khoảng 10-15 năm.
Từ kết quả thử nghiệm thành công, nhóm các nhà khoa học đã đề xuất phương án áp dụng NCSWT làm sạch nước sông, hồ bị ô nhiễm tại Hà Nội. Trước mắt, Trung tâm Môi trường và An toàn hoá chất đề xuất 3 phương án xử lí nhằm cải thiện chất lượng nước sông Tô Lịch vốn đang bị ô nhiễm trầm trọng.
N.Q