|
Post by Robot on Mar 16, 2004 14:19:24 GMT -5
PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI CÁC BÀI TOÁN MÔI TRƯỜNG KHÔNG CHUẨN
PTS. Nguyễn Đình Hoè Khoa môi trường- Đại học Quốc gia Hà Nội
I.GIỚI THIỆU CHUNG
Giải quyết các vấn đề môi trường là một lĩnh vực đa dạng, phức tạp và tốn kém. Điều này không chỉ đòi hỏi thời gian, kinh phí cơ sở pháp luật, năng lực cán bộ và tổ chức, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giải quyết vấn đề. Các vấn đề môi trường- còn gọi là các bài toán môi trường, có thể được chia làm hai loại:
-Loại bài toán chuẩn là loại bài toán có phương pháp sẵn để giải. Ví dụ việc phân tích, xác định ô nhiễm môi trường ( bằng các qui trình phân tích, đo đếm hoá học, lý học, sinh học...), xử lý ô nhiễm môi trường ( bằng các qui trình công nghệ và kỹ thuật sử lý), dự báo lan truyền ô nhiễm trong môi trường khí, nước ( bằng các kỹ thuật và chương trình máy tính), một số bài toán quản lý môi trưòng ( bằng các công cụ luật pháp, chính sách, qui hoạch, kiểm toán, kinh tế..) Các phương pháp giải bài toán chuẩn, có thể đã là nhiều và bao gồm một loạt các thao tác chuẩn, cũng có thể là tương đối rõ chỉ cần bổ sung và hoàn chỉnh thêm.
-Loại bài toán không chuẩn. Đây là loại bài toán khá phổ biến trên thực tế, thường gặp trong các lĩnh vực như lồng ghép môi trường vào các chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội, xác định chiến lược và biện pháp quản lý môi trường, ứng sử tai biến, phát triển bền vững một địa phương hoặc một lĩnh vực kinh tế- xã hội ( du lịch, định cư, xoá đói giảm nghèo, di dân, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi, nông lâm nghiệp, nông lâm kết hợp...) Bài toán môi trường không chuẩn là bài toán người giải biết rõ mục tiêu phải đạt được, nhưng chưa biết giải quyết bằng cách gì.
-Thực tế quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt nam những năm qua cho thấy trong khi giải các bài toán môi trường chuẩn đã gặt hái nhiều kết quả, thì những rủi ro chủ yếu lại tập trung vào việc giải quyết các bài toán môi trường không chuẩn.
Các bài toán môi trường không chuẩn vốn không có phương pháp giải nhất định mà chỉ có những định hướng để tìm cách giải cho mỗi vấn đề. Trong những năm qua, việc thực hiện các đề tài nghiên cứu ở nhiều địa phương khác nhau thuộc lĩnh vực môi trường và phát triển (bài toán môi trường không chuẩn) đã cho phép tác giả bước đầu nhận diện được cách định hướng cho việc tìm phương pháp thích hợp để giải quyết một số bài toán không chuẩn cụ thể.
1.Định hướng cơ bản để tìm kiếm phương pháp giải bài toán:
Thông thường, khi nhận được một bài toán không chuẩn, ví dụ: " lồng ghép môi trường vào chiến lược phát triển du lịch bền vững vùng X", người có trách nhiệm thường đi những bước sau đây:
-Sưu tập và phân tích tài liệu.
-Khảo sát thu thập bổ sung tài liệu.
-Tổ chức hội thảo, hội nghị.
-Phân tích tài liệu, đề xuất chương trình hành động.
-Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt chương trình và cấp kinh phí để thực hiện.
-Họp tổng kết rút kinh nghiệm.
Hướng đi như trên gần như là chung cho mọi trường hợp xây dựng và thực hiện một chương trình hay dự án. Tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp, người thực hiện nhiệm vụ vẫn bị lạc hướng trong một khối lượng đồ sộ các tài liệu, ý kiến, giải pháp và không tìm được hướng đi đúng đắn.
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 14:20:12 GMT -5
-Để có hướng đi đúng, cần tuân thủ những qui định sau đây:
1.1Phương pháp giải một bài toán môi trường không chuẩn và cụ thể nằm ngay ở trong cộng đồng địa phương nơi có bài toán đặt ra.
Để phát hiện ra giải pháp, cộng đồng cần được tổ chức đóng góp ý kiến. Những ý kiến đa dạng, nhiều khi mâu thuẫn sau đó cần phải được sắp xếp, phân loại, lựa chọn bởi các chuyên gia có tri thức khoa học- Sự hợp tác, học hỏi, bình đẳng giữa các chuyên gia khoa học và cộng đồng địa phương là điều cốt lõi của việc phát hiện giải pháp.
Giải pháp = Tri thức khoa học + Hiểu biết của cộng đồng
1.2 Tư duy hệ thống và phát hiện, sử dụng các nguồn dự trữ có sẵn trong hệ thống:
Môi trường luôn luôn có cấu trúc hệ thống và hệ htống này luôn luôn có khả năng tự điều chỉnh nhờ sử dụng các nguồn lực có sẵn trong hệ thống. Các nguồn lực này có thể ở dạng năng lượng, vật chất hay thông tin. Khi giải quyết các vấn đề môi trường, cần tiến hành phân tích hệ thống môi trường, phát hiện các yếu tố chủ chốt và các mối quan hệ chủ chốt, đặt biệt là các ngưỡng an toàn của hệ thống.
Luôn luôn tư duy hệ thống và phát triển, sử dụng các nguồn dự trữ có sẵn trong hệ thống, do đó là bước đi hết sức quan trọng để tìm ra sự có mặt của ba phân hệ sau đây:
-Phân hệ sinh thái tự nhiên (Đất, nước, không khí, đa dạng sinh học, các trường vật lý)
- Phân hệ xã hội nhân văn (Đa dạng hoá, thói quen, phong tục, đạo đức, giới, nghèo đói, luật lệ và chính sách, dân số...)
- Phân hệ điều kiện tác động (các hệ thống sản xuất, các chương trình và dự án, các kế hoạch và chiến lược...)
Đối với hệ thống môi trường, không thể giải quyết tách rời từng yếu tố của phân hệ, càng không thể coi môi trường chỉ là đất, nước, không khí và động thực vật; chỉ là "những cái xung quanh chúng ta, cung cấp cho chúng ta nơi ở, nguyên liệu, năng lượng và chứa chất thải". Trong hệ thống môi trường, không có phân hệ nào là "cốt lõi" hơn phân hệ nào, mà quan trọng là sự vận hành của cả hệ thống.
1.3 Xác định trình tự ưu tiên các vấn đề môi trường phải mang đậm tính nhân văn
Trên cơ sở tư duy hệ thống và tôn trọng- cổ vũ sự tham gia của cộng đồng, cần xác định ưu tiên các vấn đề môi trường theo trình tự sau đây (khuyến cáo của UNDP, 1990)
-Những vấn đề gây hại cho sức khoẻ con người và cộng đồng ( ô nhiễm và dịch bệnh..)
-Những vấn đề gây hại cho phát triển kinh tế (Suy thoái hệ tài nguyên)
-Những vấn đề gây hại cho các tiện nghi môi trường ( phá hoại cảnh quan đẹp, địa vật, di sản tự nhiên...)
-Những vấn đề gây hại cho đa dạng văn hoá ( xói mòn các đặc trưng văn hoá địa phương, sự nhất thể văn hoá các cộng đồng trong phát triển dự án gây hại cho văn hoá các cộng đồng hưởng lợi...)
Tính nhân văn của các giải pháp môi trường cho phép trả lời công khai câu hỏi "phát triển vì ai" và vì thế dễ được cộng đồng địa phương chấp nhận và thực hiện một cách tự giác.
1.4 Các tiêu chuẩn đánh giá và các giải pháp phải mang tính công khai, định lượng hoá để dễ so sánh, giám sát.
Việc chọn chiến lược, giải pháp, so sánh các phương án, giám sát các hành động... thực sự trở nên dễ dàng nếu các vấn đề, các tiêu chí được lượng hoá. Việc giải quyết các vấn đề phức tạp được đưa về việc so sánh chúng theo các đại lượng giá trị thể hiện bằng các con số. Có thể thực hiện bước qui định này bằng hệ phương pháp lượng hoá các chỉ thị môi trường.
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 14:21:26 GMT -5
II HỆ PHƯƠNG PHÁP LƯỢNG HOÁ CÁC CHỈ THỊ MÔI TRƯỜNG.
Lượng hoá các chỉ thị môi trường là bước tiến cuối cùng, sau khi phân tích hệ và lựa chọn ưu tiên, nhưng trước khi lựa chọn giải pháp và ra quyết định.Đây là hệ phương pháp hỗ trợ việc lựa chọn giải pháp hoặc chiến lược "can thiệp' môi trường và phát triển, gồm hai phương pháp: phương pháp lượng hoá bộ chỉ thị và phương pháp chỉ số dowjones sinh thái.
II1. Phương pháp lượng hoá bộ chỉ thị;
Chỉ thị (indicator) là thông tin ở dạng hàm súc, cô đọng, phản ánh giá trị của hệ thống. Chỉ thị giống như phần nổi của tảng băng thông tin mà qua đó người ta có thể đánh giá được kích thước, khối lượng phần chìm của tảng băng. Đánh giá môi trường và phát triển thông qua phân tích chỉ thị là hướng đi mới ( lần đầu xuất hiện năm 1978 ở Canada) và ngày càng được triển khai rộng rãi ở hầu khắp các lĩnh vực môi trường và phát triển trên thế giới. Các chỉ thị phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây:
-Khách quan, ai đo kết quả cũng như nhau.
-Dễ xây dựng, dễ sử dụng.
-Sử dụng nhanh và rẻ tiền.
Các chỉ thị gồm loại chỉ thị đơn (indicator) chỉ gồm một tham số, bộ chỉ thị đơn (set of indicators) và chỉ thị tổng hợp (index)
II2. Phương pháp lượng hoá
Gồm các bước sau đây:
Phân tích hệ thống, giá trị chất lượng của mỗi phân hệ được đại diện bằng một chỉ thị tổng hợp hay một nhóm chỉ thị đơn.
-------------------------------------------------------------------------------- Mỗi yếu tố chất lượng môi trường được thể hiện bằng một chỉ thị đơn (chỉ thị i ). Mỗi chỉ thị đơn có một giá trị trọng số (Wi) tính bằng phần trăm (%) trọng số của cả bộ chỉ thị (W=100%). Cả bộ sẽ có n chỉ thị (i=1 n). Mỗi chỉ thị đơn (i) được cụ thể hoá bằng 3 chỉ thị cấp độ (J) mỗi cấp có trọng số cấp độ (IJ) khác nhau. Các cấp độ khác nhau phản ánh tính an toàn của hệ thống giảm dần, ví dụ:
-Cấp độ tốt (I1=1.0)
-Cấp độ trung bình (có vấn đề ) I2=0.5
- Cấp độ xấu (tai biến) (I3 = từ 0,1 đến 0,3).
(4) Giá trị thực tế của chỉ thị i (qi) bao giờ cũng nhỏ hơn giá trị tiêu chuẩn (Wi) của nó, được tính bằng công thức:
3
qi = S (lij. tij. wi).
j = 1
Với tij là tỷ lệ % các phiếu điều tra (hoặc các ý kiến chuyên gia) bình chọn cho tham số i thuộc các cấp độ lj.
Tổng giá trị của cả bộ chỉ thị Q được tính bằng công thức n
Q = S qi
i=1
So sánh Q và W - Q = 0,70 W: Hệ ở trạng thái ổn định, tốt
- 0,70 W > Q> 0,30 W: Hệ có vấn đề
- Q = 0,30 W: Hệ ở trạng thái mất ổn định (trạng thái sự cố ).
II.3. Phương pháp chỉ số Downjones sinh thái (chỉ số D)
Chỉ số Downjones sinh thái (chỉ số D) được đề xuất bởi cơ quan quản lý môi trường Hà lan (1991) và được định nghĩa như sau:
"Chỉ số Downjones sinh thái là hiệu số giữa giá trị thực tế và giá trị kỳ vọng của hệ sinh thái". Các giá trị này được tính bằng cách lượng hoá các chỉ tiêu đánh giá.
Như vậy:
D = | Q - W |
Trạng thái trung bình của hệ sinh thái biểu diễn qua chỉ số D (Giả sử hệ đang xem xét có Q = 20 và D = | Q - W | = | 20 - 100 | = 80) như sau:
D = 80 (1)
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 14:22:22 GMT -5
II.4. Xác định chiến lược/ giải pháp để can thiệp/ quản lý môi trường và phát triển.- Có thể áp dụng chỉ số D để xác định chiến lược can thiệp/quản lý môi trường và phát triển. - Xác định được chiến lược/ giải pháp can thiệp hệ thống môi trường - chính là phương hướng giải bài toán môi trường không chuẩn đã đặt ra. Ở hình vẽ trên chúng ta gặp mấy điểm quan trọng sau đây: - D = 0, Trạng thái của hệ thống môi trường đang xét có giá trị đạt giá trị kỳ vọng của hệ. Môi trường hoàn toàn tốt, không cần có giải pháp can thiệp. - D = 30. Trong hệ thống bắt đầu xuất hiện các "vấn đề" môi trường (ô nhiễm, suy thoái, tai biến phát triển....). - D= 70. Ngưỡng tai biến của hệ. Các "vấn đề" môi trường khi vượt qua ngưỡng này sẽ bùng phát sự cố, hệ bát đầu bị phá huỷ. - D = 100. Hệ bị phá huỷ hoàn toàn. ở vị trí đang xét, D = 80, hệ ở trạng thái nguy hiểm (có sự cố ). Từ đây có thể có 3 chiến lược. Chiến lược I: Can thiệp khẩn cấp, theo trình tự ưu tiên ở mục 3, đề ra kế hoạch can thiệp khẩn cấp nhằm hạ D xuống 10 điểm, chấm dứt trạng thái sự cố của hệ thống môi trường (chú ý đây là " trạng thái sự cố" của cả hệ thống chứ không phải là các sự cố môi trường cụ thể như lũ quét hay trượt đất...). Chiến lược II: Can thiệp có chọn lọc, chọn các chỉ thị trong bộ chỉ thị để lập kế hoạch hành động nhằm giảm D xuống moọt vị trí nào đó cách xa ngưỡng tai biến (d=70), cần chọn lọc các hành động có tính khả thi và ưu tiên sử dụng được các nguồn dự trữ có sẵn trong hệ (ví dụ nguồn lực cộng đồng, tài nguyên có sẵn...). Chiến lược III: Can thiệp tổng hợp - Tác động vào các yếu tố ưu tiên trong bộ chỉ thị để giảm D đến vị trí D =30 (không còn "vấn đề' môi trường trong hệ thống). Trong phương pháp xác định chiến lược can thiệp bằng chỉ số D, có thể thấy rõ việc xác định đúng đắn các chỉ thị đẻ lượng giá chất lượng môi trường là cực kỳ quan trọng, vì chính các chỉ thị đó sẽ được dùng làm cơ sở quyết định các hành động can thiệp III/ VÍ DỤ MINH HOẠKết luận: Các bài toán môi trường không chuẩn không bao giờ có phương pháp giải sẵn ,mà đòi hỏi tính năng động, sáng tạo của nhà quản lý môi trường. Tư duy hệ thống, sử dụng nguồn lực có sẵn trong hệ thống, phát huy sáng kiến cộng đồng, giải pháp can thiệp mang đậm tính nhân văn, lựa chọn ưu tiên hợp lý, sử dụng tối đa phương pháp lượng hoá chỉ thị và chỉ số Downjones sinh thái là những biện pháp tư duy nhằm tìm ra các giải phù hợp. Tài liệu tham khảo: Đánh giá nhanh môi trường và dự án - Nguyễn Đình Hoè, Nguyễn Thị Loan, Sở KHCN&MT - Ninh thuận 1998 In search of indicators of sustainable development. Onno. K, (Ed) Kuwer academic Publ, London, UK.
|
|