|
News
Jun 10, 2004 22:08:03 GMT -5
Post by nkvtruong on Jun 10, 2004 22:08:03 GMT -5
Chao ba con cua MO 97 va tat ca cac ban quan tam den moi truong !!! Hom nay tui xin ra mat dien dan ve cong nghe moi. Ba con nao co quan tam ve linh vuc cong nghe moi truong thi nhao vo nhe!!! Tui rat hoan nghenh moi dong gop cua quy vi trong van de cap nhat thong tin ve cong nghe xu ly nhat thai, nhat la cac ba con dang hoc o cac nuoc tien tien co nhieu cong nghe chua pho bien o nuoc minh. Chan thanh cam on su dong gop cua quy vi cho dien dan nay. Nao cung ...nhao dzo nhe !!!!!!!!! Sorry vi tui chua tai Vietkey ve!!!
|
|
|
News
Jun 19, 2004 3:05:14 GMT -5
Post by Robot on Jun 19, 2004 3:05:14 GMT -5
Công nghệ mới xử lý dịch hèm - phế thải từ sản xuất cồn Dây chuyền xử lý dịch hèm từ sản xuất cồn tại Công ty mía đường Lam Sơn. Sau 8 năm nghiên cứu, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia đã nghiên cứu và cho ra đời dây chuyền xử lý dịch hèm phế thải - tác nhân gây ô nhiễm và khó xử lý nhất của công nghiệp sản xuất mía đường. Hiện nay, trên thế giới cũng đã có một số công nghệ xử lý dịch hèm. Tuy nhiên, các công nghệ này đa phần đều có nhược điểm và không hiệu quả trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Nhằm khắc phục những hạn chế của các công nghệ ấy, ngay từ năm 1995, các đơn vị nghiên cứu thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia (KHTN & CNQG) đã hợp tác với Công ty đường Lam Sơn nhằm tìm giải pháp công nghệ thích hợp, xử lý dịch hèm chống ô nhiễm môi trường, đồng thời tận dụng bán thành phẩm xử lý để sản xuất phân bón. Đề tài đã tạo ra được giải pháp công nghệ mới xử lý dịch hèm, có tên là "Công nghệ sinh hóa tổng hợp", được các chuyên gia đánh giá cao và kiến nghị ứng dụng vào thực tế. Do tính khả thi ứng dụng, đề tài đã được phát triển từ cấp trung tâm thành dự án cấp Nhà nước. Cuối năm 1999 Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tài trợ cho Dự án sản xuất thử nghiệm mang tên "Xây dựng và hoàn thiện dây chuyền công nghệ xử lý dịch hèm từ sản xuất cồn làm phân bón cho cây mía và các cây trồng khác. Viện Hóa học là cơ quan chủ trì công nghệ và TS Dương Anh Tuấn là Chủ nhiệm dự án, Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn là chủ đầu tư và ứng dụng công nghệ, Công ty thiết kế công nghiệp hóa chất (CECO) thuộc Bộ Công nghiệp là cơ quan chủ trì thiết kế dây chuyền công nghiệp. Công nghệ sinh hóa tổng hợp là gồm các công nghệ lên men vi sinh, có hệ thống hầm ủ với các điều kiện tối ưu, phối liệu được cấp khí cả hai chiều làm cho vi sinh vật phân hủy và chuyển hóa nhanh các chất hữu cơ trong dịch hèm, các chất celluloz, các chất sáp trong bã mía, than bùn. Nhiệt thoát ra do phản ứng sinh hóa làm bay hơi nước của dịch hèm trong thời gian nhanh nhất. Tham gia vào quá trình chuyển hóa các chất thải, ngoài phản ứng sinh học còn có phản ứng của các chất hóa học. Các bên tham gia dự án đã gặp không ít khó khăn vì đây là công nghệ mới đầu tiên ở Việt Nam và trên thế giới, đặc biệt trong giai đoạn phát triển từ dự án thử nghiệm lên nhà máy sản xuất có tính chất công nghiệp... Nhờ có sự mạnh dạn đầu tư, đến nay, dự án đã khẳng định được khả năng xử lý 70m3 hèm/ngày bằng dây chuyền công nghiệp, không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và đủ bán thành phẩm để sản xuất 30.000 tấn phân bón sinh hóa tổng hợp mỗi năm. Loại phân bón này giàu chất hữu cơ và dưỡng chất, được các hộ trồng mía ở Lam Sơn rất ưa chuộng. Thành công của dự án mở ra triển vọng mới trong xử lý chất thải rắn và lỏng của ngành công nghệ mía đường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tận dụng chất thải làm phân bón phục vụ tái sản xuất, vì một nền công nghiệp và nông nghiệp sạch và bền vững. (Theo Tia sáng)
|
|
|
News
Jun 19, 2004 3:10:25 GMT -5
Post by Oshin on Jun 19, 2004 3:10:25 GMT -5
Việt Nam sẽ chủ động làm mưa nhân tạo vào năm 2010
Cuối năm 1998 đề tài “Đánh giá khả năng làm mưa nhân tạo ở Tây Nguyên” ra đời, đồng thời dự án thử nghiệm cũng đã được đề xuất, song không được triển khai. Mới đây, Viện Khí tượng thủy văn (Bộ Tài nguyên - Môi trường) đã khởi động trở lại đề án làm mưa nhân tạo. Viện trưởng - PGS Trần Thục - đã trao đổi xung quanh vấn đề này.
- Thưa ông, Việt Nam đã có những kinh nghiệm gì trong việc làm mưa nhân tạo?
- Theo tính toán của Tổ chức Khí tượng thế giới, nếu tiến hành tốt thì hiệu quả kinh tế của việc làm mưa nhân tạo có thể gấp 10 tới 20 lần số kinh phí bỏ ra. Hiện nay trên thế giới đã có 28 nước làm chủ được công nghệ này. Tại Việt Nam, cuối năm 1959, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Trung Quốc, chúng ta đã tiến hành thử nghiệm làm mưa bằng cách dùng máy bay rải các chất tác động lên vùng trời Hải Dương và Hưng Yên. Đã có mưa, tuy nhiên kết quả cuối cùng không được kiểm nghiệm cụ thể.
- Năm 1998, chính Viện Khí tượng thủy văn đã xây dựng đề án làm mưa nhân tạo cho vùng Tây Nguyên với sự giúp đỡ của các chuyên gia Nga. Vì sao đề án đó lại không được tiếp tục triển khai?
- Đề án đó do TS Trần Duy Bình và GS Lê Đình Quang chủ trì. Nó còn một số điểm chưa được làm rõ về cơ sở khoa học, việc lựa chọn công nghệ, cũng như các khâu chuẩn bị về nhân lực và cơ sở hạ tầng chưa thật sẵn sàng, do vậy đã không được tiếp tục triển khai. Đề án của chúng tôi là bước tiếp theo, kế thừa và phát triển thêm đề án này.
- Đâu là điểm khác biệt lớn nhất giữa hai đề án?
- Ngoài việc tiến hành nghiên cứu kỹ hơn về cơ sở khoa học của làm mưa nhân tạo để có thể lựa chọn một công nghệ phù hợp nhất cho Việt Nam, thì địa bàn mà chúng tôi chọn là vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ chứ không phải là Tây Nguyên. Bởi Tây Nguyên luôn cần nước vào mùa khô hạn, mà thời điểm đó, vùng trời ở đây rất ít khả năng có mây, một điều kiện tiên quyết để làm mưa nhân tạo. Với đồng bằng và trung du Bắc Bộ, làm mưa nhân tạo có thể được thực hiện để gây mưa sớm hay kéo dài mùa mưa, nhằm tăng lượng nước dự trữ, đáp ứng đủ nhu cầu tưới tiêu vào mùa hạn.
- Ông có thể cho biết từng bước cụ thể?
- Dự án sẽ được triển khai thành ba bước: Giai đoạn chuẩn bị dự kiến hai năm (2005 - 2006) với nội dung là nghiên cứu cơ sở khoa học, lựa chọn công nghệ làm mưa phù hợp, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học và chuẩn bị cơ sở hạ tầng kỹ thuật để tiến hành thử nghiệm. Giai đoạn thử nghiệm (2007-2010) với công việc chính là thí nghiệm làm mưa nhân tạo ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, đánh giá hiệu quả và chuyển giao công nghệ để Việt Nam có thể tự tiến hành. Giai đoạn làm mưa nhân tạo nghiệp vụ (từ 2011) để phục vụ các nhu cầu kinh tế xã hội không chỉ ở vùng Bắc bộ mà còn ở những vùng lãnh thổ khác.
Theo chúng tôi tính toán, khi được phê duyệt thành dự án khả thi, kinh phí để thực hiện vào khoảng 50-60 tỷ đồng. Đây là số tiền lớn, vì vậy chúng tôi phải thận trọng từng bước, bảo đảm chắc chắn thành công. Mặc dù nhu cầu làm mưa nhân tạo hiện nay là rất bức xúc, nhất là đối với những vùng thường xuyên bị hạn hán, nhưng không thể vội vàng được. Thái Lan cũng phải mất gần 20 năm mới làm chủ được công nghệ này.
- Đâu là điểm khó khăn nhất trong việc triển khai dự án này?
- Cái khó khăn nhất là chúng ta vẫn chưa xác định được công nghệ làm mưa nào là tối ưu và phù hợp với Việt Nam. Hiện nay gần như mỗi nước áp dụng một công nghệ khác nhau. Tháng 7 tới, chúng tôi sẽ cử một đoàn cán bộ sang nghiên cứu và học tập công nghệ ở Nga, tiếp theo là Trung Quốc, Thái Lan và có thể Mỹ nữa. Sau đó mới có kết luận là áp dụng công nghệ của nước nào.
- Có thể làm mưa nhân tạo để chữa cháy rừng không?
- Làm mưa nhân tạo để chữa cháy rừng là rất khó, vì lúc xảy ra cháy rừng thường là lúc khô hạn nhất, bầu trời không có mây. Mục đích chính của làm mưa mà chúng tôi đề ra là để tăng lượng mưa khi có những loại mây thích hợp mà không có mưa hoặc chỉ có mưa nhỏ, nhằm chống hạn hán, hoặc tăng lượng nước dự trữ. Xa hơn nữa là tác động tích cực đến thời tiết để phá sương muối, sương mù, phá mây không cho gây mưa, làm tan áp thấp nhiệt đới trước khi phát triển thành bão.
(Theo Sài Gòn giải phóng)
|
|
|
News
Sept 29, 2004 10:07:57 GMT -5
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:07:57 GMT -5
Ứng dụng công nghệ Nano trong xử lý nước
Ngày 24/9, tại Hà Nội, Hội Thông tin KHKT thành phố, Công ty Vivna phối hợp với Tập đoàn Biocera (Hàn Quốc) tổ chức hội thảo về ứng dụng công nghệ Nano sản xuất các thiết bị xử lý và lọc nước.
Các nhà khoa học Hàn Quốc đã thành công trong việc sử dụng công nghệ Nano chế tạo hạt Ceramic dùng để xử lý nước. Từ các dạng hạt này, Tập đoàn Biocera đã sản xuất ra các thiết bị xử lý và lọc nước dùng trong sinh hoạt. Những sản phẩm sử dụng hạt Ceramic đã được Bộ Y tế và cơ quan an toàn thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) chứng nhận chất lượng.
Đây là lần đầu tiên các sản phẩm này có mặt trên thị trường Việt Nam qua các đại lý phân phối của Công ty Vivina Hà Nội. Các thiết bị lọc và xử lý nước do Biocera cung cấp đã được ứng dụng rộng rãi ở Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Anh, Singapore, Malaysia… (Theo Hà Nội Mới)
|
|