|
Post by Robot on Jun 22, 2004 3:59:20 GMT -5
Các thành phố sẽ ngày càng oi bức Phân tích của Cục Khí tượng Anh cho thấy tác động của nạn ấm hoá toàn cầu sẽ trở nên trầm trọng hơn tại khu vực đô thị - nơi xe cộ và các toà nhà hâm nóng không khí trong khi nhựa đường và bê-tông giữ nhiệt vào ban đêm. Hậu quả là các đêm mùa hè sẽ trở nên oi bức hơn. Tha hồ... toát mồ hôi Khi các thành phố tăng về quy mô, hiệu ứng đảo nhiệt cũng tăng theo. Chẳng hạn, nhiệt độ trung bình tại Atlanta (Mỹ ) đã tăng 0,3 độ C mỗi thập kỷ kể từ những năm 1950. Không khí ở đô thị thường nóng hơn không khí ở miền quê, nơi những cánh đồng và rừng hấp thụ ít nhiệt hơn vào ban ngày song lại thải nhiều nhiệt hơn vào ban đêm. Tuy vậy, Richard Betts ở Trung tâm Dự báo Thời tiết thuộc Cục Khí tượng Anh cho biết hiệu ứng ''đảo nhiệt đô thị'' sẽ mạnh lên gấp ba lần do lượng CO2 trong khí quyển tăng gấp đôi. Các thành phố hiện thải trung bình 20 watt nhiệt trên 1m2 và trong tương lai sẽ thải thêm 60 watt nữa. Kết quả: Người dân đô thị nói chung và dân London nói riêng có thể phải chịu nhiều đêm nóng bức hơn. Trong 30 năm qua, chỉ có 20 đêm khi nhiệt độ tối thiểu tại London giảm xuống dưới 20 độ C, tất nhiên là trong mùa hè. Mức CO2 tăng gấp đôi sẽ làm số đêm nóng bức tăng gấp bốn lần. Tuy nhiên, hiệu ứng đảo nhiệt đô thị sẽ làm nhiệt độ trong các thành phố tăng lên sáu lần, ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ con người. Còn nhớ đợt nóng năm ngoái tại châu Âu đã làm ít nhất 20.000 người tử vong. Kết quả phân tích trên trùng hợp với nghiên cứu tác động ấm hoá của các thành phố tại Trung Quốc. Liming Zhou thuộc Viện Công nghệ Georgia ở Atlanta (Mỹ ) thông báo rằng vùng Đông Nam Trung Quốc, có tốc độ đô thị hoá cao, đang ấm lên nhanh hơn so với các vùng nông thôn 0,05 độ C trong mỗi thập kỷ .
|
|
|
Post by Robot on Jun 22, 2004 4:00:48 GMT -5
Đại đô thị và hiệu ứng đảo nhiệt
Hai điều lớn nhất đã xảy ra trong 10.000 năm qua là sự ra đời của nông nghiệp (dẫn tới sự gia tăng mật độ dân số ) và sự xuất hiện của các thành phố - nơi tiêu thụ nông phẩm từ vùng quê lân cận. Việc con người di chuyển tới sống ở các thành phố ban đầu diễn ra dần dần rồi đột ngột tăng tốc trong 150 năm qua. Theo các tiêu chuẩn ngày nay, mọi thành phố đều nhỏ và chật chội cho tới cách đây chừng 200 năm. Ngày nay, chúng ta có những thành phố với quy mô hàng triệu người và các thành phố lớn ngày càng phát triển nhanh hơn bao giờ hết tại những nước đang phát triển.
Nhiều quốc gia có những thành phố chừng 20 triệu dân và số đại đô thị này tiếp tục tăng khi dân số tăng ở các nước đang phát triển, cùng với hiện tượng ngày càng nhiều người rời bỏ miền quê kiếm tìm một cuộc sống sung túc hơn ở thành phố. Thường thì ranh giới truyền thống của một thành phố cổ hơn có ít ý nghĩa bởi nó được bao quanh bởi những khu đô thị mới. Một số nguồn cho rằng Tokyo-Yokohama là thành phố lớn nhất thế giới với 28,5 triệu người, trong khi theo các nguồn khác thì thành phố này chỉ đứng thứ ba - với 24,5 triệu người. Sự khác biệt như vậy phần nào liên quan tới cách xác định ranh giới của thành phố, bao gồm cả thành phố vệ tinh.
Các đại đô thị ở Bắc Mỹ không có số lượng người lớn như vậy song do sự phát triển, chúng cũng đạt tới một quy mô khổng lổ. Nhiều thành phố và các cụm thành phố có đường kính lớn hơn 100km, trải dài từ đường chân trời này tới đường chân trời khác. Một ví dụ là Chicagoland - Chicago và các vùng ngoại ô khổng lồ bao quanh. Một ví dụ nữa là cụm đô thị Bắc California trải dải từ San Francisco tới San Jose và cụm đô thị Los Angeles. Các nhà du hành vũ trụ có thể dễ dàng nhìn thấy ánh sáng của chúng từ không gian bằng mắt thường.
Dù sao, sự tăng trưởng lớn nhất của các thành phố trong tương lai chắc chắn sẽ diễn ra ở... Trung Quốc. Với dân số hơn một tỷ người và phần lớn mọi người vẫn sống ở miền quê, sự di chuyển từ nông thôn tới thành thị sẽ là sự di chuyển người lớn nhất từng xảy ra trên thế giới. Tình trạng tương tự cũng có đang diễn ra ở nhiều nơi khác tại các nước đang phát triển.
Do ít cây xanh và nhiều bê-tông cùng nhựa đường, khí hậu tại các đô thị khác biệt nhiều so với miền quê xung quanh, chẳng hạn như nhiệt độ cao hơn quanh năm. Một số thành phố có nhiều mưa đá và bão sấm hơn, tốc độ gió thấp hơn ở mặt đất, độ ẩm thấp hơn, nhiều mưa, mây hơn, khả năng khuếch tán mặt trời yếu hơn. Tại New York, Chicago, v.v... các toà nhà lớn nhất tạo ra khí hậu cục bộ của chính chúng. Thỉnh thoảng, mọi người có thể nhìn thấy mây hình thành xuôi chiều gió của một toà nhà lớn với một chút mưa bụi.
Từ lâu con người đã biết đô thị hoá ảnh hưởng tới nhiệt độ trung bình. Nhiệt độ tại các khu vực trung tâm của thành phố trên một triệu người thường cao hơn ít nhất là vài độ so với miền quê xung quanh. Sự ấm hoá này được gọi là ''hiệu ứng đảo nhiệt'' và càng mạnh ở những thành phố lớn hơn. Thành phố Melbourne ở Australia có ba triệu người và thỉnh thoảng không khí tại đây ấm hơn 7 độ C so với vùng miền quê xung quanh. Cường độ của hiệu ứng đảo nhiệt thay đổi trong ngày hoặc hàng ngày.
Các thành phố ở Bắc Mỹ có hiệu ứng đảo nhiệt mạnh hơn so với châu Âu và Australia. Nguyên nhân là chúng được bố trí sao cho mỗi người có được nhiều đất hơn với các công trình kiến trúc cũng như bề mặt có xu hướng bẫy nhiệt, nhiều toà nhà lớn, cao tầng, nhiều đường xá và bãi đậu xe hơn làm bằng nhựa đường hấp thụ nhiệt. Tại Los Angeles, hiệu ứng đảo nhiệt đang tăng 0,5 độ C trong mỗi thập kỷ. Atlanta sẽ nóng lên với tốc độ nhanh hơn hiện nay. Theo một số cuộc khảo sát, các thành phố lớn của Mỹ ấm hơn 12 độ C so với miền quê lân cận vào một số ngày. Do mùa hè tại đa phần nước Mỹ luôn luôn nóng nên hiệu ứng đảo nhiệt càng làm cho tình hình tồi tệ hơn. Khi các thành phố tại các nước đang phát triển mở rộng, nhiệt độ cũng tăng theo, gần như là không chịu nổi.
|
|
|
Post by Robot on Jun 22, 2004 4:03:20 GMT -5
Tại sao lại có hiệu ứng đảo nhiệt?
Có nhiều máy móc hơn trong thành phố: Lượng nhiệt toả ra tại các thành phố rất cao. Chúng có nguồn gốc từ máy điều hoà nhiệt độ, đốt nhiên liệu, hệ thống sưởi ấm và xe cộ. Tất cả đều được thải ra các khu phố. Tác động của những loại máy móc này cùng với việc sưởi ấm các toà nhà có tác động lớn hơn nhiều tới nhiệt độ vào mùa đông. Nhiệt toả ra từ toà nhà có thể chiếm tới 10% hiệu ứng đảo nhiệt. Tại các thành phố lớn ở Canada và bán đảo Scandinavean với mùa đông rất lạnh, nhiệt toả ra từ những nguồn trên trong suốt thời kỳ mùa đông tối rất lớn, ngang bằng 30% năng lượng tới được thành phố từ ánh sáng mặt trời.
Các bề mặt tối: Thường có các bề mặt tối, chủ yếu là nhựa đường trên mái nhà, mặt đường và bãi đỗ xe, hấp thụ nhiều ánh sáng mặt trời hơn chứ không phải bức xạ chúng trở lại không gian.
Hiệu ứng hẽm núi: Các toà nhà đối mặt với nhau và bức xạ theo chiều ngang. Do vậy, nếu đứng trên phố, chúng ta sẽ hấp thụ nhiệt từ các toà nhà đó. Hiệu ứng này là lớn nhất vào ban đêm.
Ít nhiệt ngầm hơn: Khi nước được hút khỏi đất và bốc hơi khỏi lá cây, nhiều năng lượng được hấp thụ dưới dạng nhiệt bốc hơi ngầm. Tại các thành phố, có ít nhiệt ngầm được hấp thụ do có ít cây cối, đặc biệt là tại khu vực trung tâm.
Có ít gió hơn: Thường thì trong các thành phố có ít gió hơn do các toà nhà chắn gió. Toà nhà làm cho nhiệt do thành phố tạo ra không bị cuốn đi.
Minh Sơn (Theo NewScientist, Climates)
|
|