|
Post by Oshin on Jun 17, 2004 16:16:13 GMT -5
Thế giới cần hành động để chống sa mạc hoá Trong bức thông điệp nhân Ngày Thế giới Chống Sa mạc hoá, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) Kofi Annan kêu gọi: Với khoảng 135 triệu người có nguy cơ bị mất đất do tình trạng sa mạc hoá đang tiếp diễn, thế giới phải tập trung nhiều hơn vào việc đảo ngược xu hướng này. Cát đang lấn dần đất và cuộc sống của con người nơi đây ngày càng đi xuống. Theo ông Annan, chính phủ của các quốc gia thành viên LHQ nên hợp tác với các tổ chức dân sự, kinh tế và quốc tế để thúc đẩy sự phát triển bền vững hơn, làm cho đất đai vẫn có thể canh tác được và không trở thành sa mạc. Ông khuyến cáo: Những nông dân nghèo tại các nước đang phát triển nằm trong diện dễ bị ảnh hưởng nhất. Sa mạc hoá ở một số vùng có thể giảm năng suất 50%, góp phần gây mất ổn định an ninh lương thực, nạn đói và sự nghèo túng. Sa mạc hoá cũng dẫn tới những căng thẳng về kinh tế, chính trị và xã hội. Những căng thẳng đó có thể leo thang thành xung đột, làm đói nghèo cũng như suy thoái đất trở nên trầm trọng hơn. Tình trạng sa mạc hóa, đặc biệt là ở vùng cận Sahara của châu Phi, đang gây ra những làn sóng di cư lớn khi cư dân địa phương - người đã từng canh tác ở các vùng khô cằn - kiếm kế sinh nhai ở nơi khác. Kể từ năm 1990, có khoảng sáu triệu hec-ta đất màu mỡ bị mất mỗi năm trên khắp thế giới do bị suy thoái và ít màu mỡ hơn. Hơn một tỷ người và 1/3 bề mặt Trái đất bị sa mạc hoá đe doạ. 31% diện tích Tây Ban Nha có nguy cơ trở thành sa mạc trong khi 92.100km2 đất (có diện tích bằng Bồ Đào Nha) của Trung Quốc bị sa mạc hoá kể từ những năm 1950. Dự báo tới năm 2025, 2/3 đất canh tác ở châu Phi sẽ biến mất cùng với 1/3 đất canh tác ở châu Á và 1/5 của Nam Mỹ. Các khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là vùng khô cằn nằm cạnh những sa mạc hiện nay, bao gồm nhiều vùng ở cận Sahara (châu Phi) hay sa mạc Gobi ở Trung Quốc, nơi mọi người đang vật lộn để giành một chỗ sinh sống từ đất. Theo Ban thư ký Công ước LHQ về ngăn chặn tình trạng sa mạc hoá, tới năm 2020, 60 triệu người sẽ di cư từ các vùng bị sa mạc hoá ở cận Sahara tới Bắc Phi hoặc châu Âu. Trồng cây trên cát để giành lại đất đai. Ngày Thế giới Chống Tình trạng Sa mạc hóa năm nay có chủ đề "Những tác động của sa mạc hóa, nhập cư và đói nghèo đối với xã hội"; đồng thời đánh dấu lễ kỷ niệm mười năm ngày thông qua Công ước Ngăn chặn Tình trạng Sa mạc hóa (UNCCD) - mộtt kế hoạch nhằm ngăn chặn hiện tượng trên. Tuy nhiên, tốc độ sa mạc hoá đã tăng gấp hai lần kể từ những năm 1970. Theo các chuyên gia, tập quán làm nông nghiệp theo kiểu đốt nương rẫy, công tác bảo tồn lỏng lẻo, sử dụng quá mức nguồn nước và dân số ra tăng là nguyên nhân chính của sa mạc hoá. Tình trạng ấm hoá toàn cầu cũng có tác động đáng kể. Các nhà khoa học cho biết sa mạch hoá đã diễn ra trong nhiều thế kỷ song xu hướng đó đang tăng tốc. Phấn hoa và hạt hoá thạch cùng với các công cụ cổ xưa như đá mài, cho thấy đa phần Trung Đông, Địa Trung hải và Bắc Phi đã từng là những vùng xanh tươi. Bản thân sa mạc Sahara là một thảo nguyên. Các bức tranh trên đá ở giữa vùng sa mạc này cho thấy hươu cao cổ, voi và bò đã từng sinh sống ở đó. Nhận ra nhu cầu cấp thiết giải quyết tình trạng sa mạc hoá, LHQ đã tuyên bố năm 2006 là năm của sa mạc và sa mạc hoá. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Robot on Sept 28, 2004 16:43:01 GMT -5
Việt Nam: Để xảy ra sa mạc hoá rồi mới... chống!
(VietNamNet) - Mất rừng ở Việt Nam là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hoang mạc hoá, gây suy thoái môi trường, lũ lụt và hạn hán. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Hứa Đức Nhị cho biết như vậy tại Hội thảo thực hiện Công ước chống sa mạc hoá (UNCCD) khai mạc sáng nay (8/9) tại Hà Nội.
Thứ trưởng Hứa Đức Nhị: Mất rừng ở Việt Nam là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hoang mạc hoá. Theo Thứ trưởng Hứa Đức Nhị, mặc dù một loạt chương trình như Chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi trọc, và Dự án trồng mới năm triệu hecta rừng đã nâng độ che phủ lên 36% song việc phục hồi rừng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đời sống kinh tế-xã hội của nhân dân địa phương, yêu cầu phòng hộ và chưa hạn chế tích cực quá trình hoang mạc hoá.
Sa mạc hoá có nghĩa là sự suy thoái của đất đai tại các vùng khô hạn, bán khô hạn, vùng ẩm nửa khô hạn, do các nguyên nhân khác nhau như thay đổi khí hậu và hoạt động của con người. Quá trình sa mạc hoá và thoái hoá đất ở Việt Nam là kết quả của xói mòn đất, đá ong hoá, hạn hán, cát bay/cát chảy, đất nhiễm mặn, nhiễm phèn. Việt Nam có sa mạc cục bộ. Trong tổng số khoảng 9,34 triệu hecta đất hoang hoá, 7.550.000ha đang chịu tác động mạnh bởi sa mạc hoá. Ước tính quá trình sa mạc hoá mỗi năm làm mất khoảng 20ha đất nông nghiệp do nạn cát bay, cát chảy và hàng trăm nghìn hecta đất tiếp tục bị thoái hoá. Tại Quảng Trị, 20-30ha đất ruộng vườn và cây ăn quả bị cát phủ dày thêm 2m mỗi năm.
Chống sa mạc hoá: Thiếu đồng bộ!
Việc chống sa mạc hoá ở Việt Nam đã được tiến hành trước khi tham gia UNCCD năm 1998, chẳng hạn thông qua việc kết hợp xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Ngọc Bình - cục trưởng Cục Lâm nghiệp, còn nhiều kết quả nghiên cứu chống sa mạc hoá chưa được áp dụng trong thực tiễn vì nghiên cứu chưa đi liền với chuyển giao công nghệ, thiếu truyền bá kiến thức và thông tin, hoặc không gắn với yêu cầu đời sống xã hội. Hiện tại còn tình trạng thiếu sự liên kết giữa cơ quan ban hành chính sách và người thực hiện ở địa phương. Sự phối hợp giữa các ngành, cơ quan nhà nước các cấp và chương trình dự án cũng chưa chặt chẽ.
Đất khô hạn theo mùa hoặc vĩnh viễn 300.000 Nam Trung bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận và Khánh Hoà) Hiện chúng ta để sa mạc hoá xảy ra rồi mới... chống. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách phải hạn chế và ngăn chặn trước, không để hiện tượng này xảy ra. Đây là vấn đề do ông Sâm thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp nêu lên và được nhiều đại biểu quan tâm. Ông nói: ''Trước đây, khi cà phê lên giá, chúng ta chặt nhiều khu rừng tốt ở Tây Nguyên để mở rộng diện tích. Hậu quả hiện giờ là hạn hán nghiêm trọng. Phá rừng ngập mặn nuôi tôm diễn ra trong nhiều năm tại miền Nam và hiện tượng này vẫn còn tiếp diễn ở miền Bắc. Như vậy, chúng ta chỉ chống mà không phòng''.
|
|
|
Post by Robot on Sept 28, 2004 16:43:42 GMT -5
Ông Pak Sum Low, đại diện Uỷ ban Kinh tế-Xã hội LHQ tại châu Á (UNESCAP), hoàn toàn đồng ý với ý kiến trên: ''Chúng ta đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm và thấy được tầm quan trọng của quy hoạch kinh tế. Khi lập quy hoạch kinh tế, chúng ta phải đánh giá tác động của nó, chẳng hạn xem xét lợi ích của việc mở rộng diện tích cà phê có bù đắp được hậu quả nó gây ra hay không. Tôi cho rằng vấn đề ở đây là cần có phương thức tiếp cận tổng hợp để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội đi đối với bảo vệ môi trường.''
Liên quan tới vấn đề này, bà Lê Bích Thắng thuộc Cục Bảo vệ Môi trường cho rằng chống sa mạc hoá cần sự phối hợp đồng bộ của nhiều ngành. Sẽ chẳng có hiệu quả nếu một ngành cứ chống sa mạc hoá trong khi ngành khác cứ tiếp tục thu hẹp diện tích rừng để nuôi tôm hoặc trồng cà phê. Phòng ngừa có ý nghĩa quan trọng. Một trong các biện pháp chống sa mạc hoá là quy hoạch hợp lý việc sử dụng tài nguyên đất và rừng. Nếu không có rừng, sẽ không giữ được nước cũng như chắn cát.
Thách thức và cơ hội
Tham gia UNCCD là một cơ hội để Việt Nam liên kết chặt chẽ với các quốc gia thành viên, tổ chức quốc tế nhằm chia sẻ kinh nghiệm, các giống cây chịu hạn tốt cũng như thu hút được nguồn tài trợ để thực hiện các dự án chống sa mạc hoá.
Việt Nam để sa mạc hoá xảy ra rồi mới... chống! Bà Nguyễn Ngọc Lý, trưởng Phòng Phát triển Bền vững thuộc Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) tại Việt Nam, lưu ý rằng xây dựng những dự án xin tài trợ như vậy hoàn toàn khác dự án ODA, đòi hỏi Việt Nam phải hiểu và đáp ứng các yêu cầu khắt khe của nhà tài trợ, cụ thể là Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) - một trong những cơ chế tài chính quốc tế chính của UNCCD. Bà nói: ''Việt Nam đi chậm hơn so với các nước khác trong việc đưa ra cơ chế khung để huy động nguồn tài chính quốc tế, so với Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ. Do vậy, ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị năng lực trình bày cũng như dự án thuyết phục với dữ liệu chính xác để cạnh tranh''.
Cũng theo bà Lý, thông tin kỹ thuật của chúng ta thì nhiều song không chính xác, gây khó khăn cho việc huy động vốn và để các nước khác cạnh tranh mất. Do vậy, Ban điều phối quốc gia thực hiện UNCCD nên hợp tác với Ban điều phối quốc gia GEF để tìm hiểu rõ quy định của các nhà tài trợ trong việc xây dựng dự án chống sa mạc hoá. Ngoài ra, các cơ quan nghiên cứu cũng nên tập trung vào những nghiên cứu mang tính phát triển, không nên thiên quá về kỹ thuật. Hiện có nhiều nghiên cứu song chưa đi sâu vào vấn đề tại sao lại xảy ra sa mạc hoá ngay trong những vùng đất màu mỡ.
Một thách thức nữa trong công tác phòng và chống sa mạc hoá ở Việt Nam là nâng cao năng lực quản lý tài nguyên bền vững của các cơ quan cấp tỉnh, huyện, xã. Trình độ nhận thức của cả cấp Trung ương và địa phương về vai trò của quản lý bền vững tài nguyên trong bảo vệ môi trường và giảm nghèo còn hạn chế. Sa mạc hoá diễn ra bởi còn tồn tại nạn chặt phá rừng trái phép, canh tác không bền vững, di cư bất hợp pháp, cháy rừng, khai thác quá mức tài nguyên nước...
Nhận thức và trình độ dân trí thấp cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn tới thoái hoá đất. Vì thiếu nhận thức, hiểu biết nên người dân địa phương còn phá rừng bừa bãi, canh tác không hợp lý, tham gia thiếu nhiệt tình các hoạt động quản lý tài nguyên, chỉ quan tâm tới lợi ích trước mắt, quên mất mục tiêu lâu dài. Đó không chỉ là nguyên nhân dẫn tới suy thoái môi trường mà còn dẫn tới đói nghèo.
Theo bà Lý, Việt Nam cần tổ chức các hội thảo quốc gia về chống sa mạc hoá để tổng kết những việc đã làm và tìm cách giải quyết các tồn tại cũng như thách thức trong tương lai.
Minh Sơn
|
|