|
Post by Oshin on Apr 21, 2004 14:04:33 GMT -5
Mỏ than 210 tỷ tấn dưới lòng Đồng bằng sông Hồng (VietNamNet) - Dưới lòng Đồng bằng sông Hồng, sâu đến - 3500m là một bể than lớn, trữ lượng 210 tỷ tấn. Tổng công ty Than cho biết sau năm 2010 sẽ mở mỏ khai thác với sản lượng 1,5 triệu tấn/năm. Bản đồ khảo sát thăm dò than vùng Đồng bằng sông Hồng (Màu xanh là toàn bộ bể than diện tích 3500km2, màu vàng diện tích 962km2, màu đỏ diện tích 80km2). Vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, các nhà địa chất trong lúc khoan thăm dò dầu khí tại khu vực Đồng bằng sông Hồng đã phát hiện ra nhiều vỉa than có trữ lượng lớn. Thông tin này được các nhà địa chất tâm huyết của Việt Nam rất quan tâm và quyết định phải xem xét cụ thể. Nhiệm vụ được giao cho Viện Địa chất Khoáng sản (Tổng cục Địa chất). Sau khi tập hợp các báo cáo từ khoan thăm dò dầu khí, kết hợp với điều tra, khảo sát, đến 1986 báo cáo về "Tổng kết địa chất và độ chứa than miền võng Hà Nội" đã được hoàn thành. Theo báo cáo này than dưới lòng Đồng bằng sông Hồng nằm trên diện tích 3500km2, trải dài từ Hà Nội - Hưng Yên - Hải Dương - Thái Bình... rồi kéo thẳng ra biển. Có khoảng vài chục vỉa than với tổng trữ lượng dự báo là 210 tỷ tấn. Các vỉa than này có chiều dày lớn, dao động từ 2-3m đến 10-20m, ít lớp kẹp, vỉa nằm thoải, duy trì ổn định, chất lượng tốt... Ngày 25/11/1998 tại Hà Nội, Tổng công ty Than Việt Nam và Tổ chức Phát triển công nghệ công nghiệp và Năng lượng mới Nhật Bản (NEDO) đã ký văn bản cùng tham gia Dự án Thăm dò khảo sát than Đồng bằng sông Hồng Việt Nam, trong thời gian 5 năm. Dự án đã được tiến hành từ 1998 và kết thúc vào năm 2002. Vùng khảo sát của Dự án được thực hiện trên diện tích 962km2, bao gồm các tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, một phần tỉnh Hà Tây và Hà Nội, với 19 lỗ khoan, tổng khối lượng 9.516,80m, đo địa chấn... Bên cạnh đó là khảo sát, nghiên cứu sử dụng 50 lỗ khoan của Việt Nam đã thực hiện trước đó trong quá trình thăm dò dầu khí và than. Theo số liệu khảo sát trên diện tích 962km2, thì trữ lượng than dự báo khoảng 30 tỷ tấn( khảo sát đến độ sâu -1700m). Trong đó tổng diện tích tìm kiếm tại huyện Khoái Châu (80km2) có trữ lượng than trên 1,5 tỷ tấn. Riêng khu vực Bình Minh (Khoái Châu) với diện tích thăm dò 25km2 đạt thăm dò sơ bộ trữ lượng 456 triệu tấn (khảo sát đến độ sâu -600m). Đây là loại than á BitumB, có chất lượng tốt, rất có giá trị cho sản xuất công nghiệp nhất là luyện kim. Hiện nay Tổng công ty Than đang tiếp tục công tác thăm dò chi tiết nơi dự định sẽ mở mỏ đầu tiên tại Bình Minh (Khoái Châu) để chuẩn xác về trữ lượng, chất lượng than, cùng các điều kiện địa chất thuỷ văn, địa chất công trình, môi trường... chuẩn bị cho việc khai thác vào sau 2010. Theo Tổng công ty Than vấn đề phức tạp nhất hiện nay là lựa chọn công nghệ khai thác nào cho phù hợp. Hiện tại ở một số nước trên thế giới đã khai thác than ở độ sâu -1000m, nhưng ở những nơi đó có cấu tạo địa chất rất bền vững. Còn khu vực Đồng bằng sông Hồng có cấu tạo địa chất không ổn định, lớp đất đá và vách trụ mềm, rất khó khăn cho việc khai thác. Đã có nhiều hội thảo được tổ chức để tìm ra phương án khai thác cho mỏ than này, cũng có nhiều công nghệ được đề cập đến. Nhưng phương án truyền thống là khai thác hầm lò vẫn được quan tâm hơn cả. Theo ông Nguyễn Trọng Khiêm, Trưởng ban Địa chất Trắc địa Tổng công ty Than thì phương án khai thác phải đảm bảo an toàn môi trường, để than lấy lên vẫn có giá trị thương mại, còn nếu chi phí khai thác lại lớn hơn giá bán trên thị trường thì khó thực hiện. Dự báo nhu cầu than Việt Nam sẽ tăng lên trên 30 triệu tấn/năm vào 2020. Ngoài việc khai thác những mỏ than hiện có, Chính phủ cũng đã giao nhiệm vụ cho Tổng công ty Than trong giai đoạn 2003-2010 phải tập trung đẩy mạnh công tác thăm dò đến mức -300m, đồng thời triển khai việc tìm kiếm, điều tra cơ bản dưới mức - 300m bể than Quảng Ninh; từng bước thăm dò bể than Đồng bằng sông Hồng cùng các mỏ than bùn khác để phục vụ cho chiến lược phát triển năng lượng của quốc gia. Việc tiến hành khai thác mỏ than tại Bình Minh (Khoái Châu) nằm trong "Qui hoạch phát triển ngành Than Việt Nam giai đoạn 2003-2010 có xét triển vọng đến năm 2020" đã được Chính phủ phê duyệt. Tổng công ty Than cho biết khi mỏ than này đi vào hoạt động, sẽ đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện tại đây để dùng than phát điện, nhằm tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên và góp phần tăng sản lượng điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Trần Thuỷ
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 13:47:28 GMT -5
Bụi đen đất mỏKhai thác than tại "hồ Moong Đục" TTCN - Than Quảng Ninh chiếm tới 70% trữ lượng và 90% sản lượng than toàn quốc. Với tổng trữ lượng than tính dưới độ sâu 300m khoảng 3,6 tỉ tấn, nếu một năm khai thác khoảng 20 triệu tấn thì cũng phải... 200 năm nữa Quảng Ninh mới hết mỏ. Tuy nhiên, trước đây và ngay bây giờ, việc khai thác nguồn tài nguyên trên đã gây ra những tác động trực tiếp đến cảnh quan môi trường và sức khỏe người dân. Bãi thải Nam Lộ Phong thuộc khu vực than Hòn Gai nằm sát quốc lộ 18A và khu dân cư làng Lộ Phong. Chiều 20-4, khi chúng tôi đến, xe tải hạng nặng chở đất thải oằn mình bò dốc trong bụi than bay tối mặt tối mày. Xe này ra, xe kia đến, đất thải văng từ đầu dốc lên đỉnh. Những người dân ở Lộ Phong than thở: “Bụi bặm, ồn ào, mệt mỏi vì không khí bẩn, ăn cái gì cũng không ngon, ngủ không tròn giấc. Sáng mặc cái áo sạch đến tối cổ đã đen ngòm”. Tại mỏ Hà Tu, hằng năm khoảng 20.000m3 đất đá đã bị trôi vào suối Lộ Phong. Đất đá thải từ bãi thải phía bắc bị cuốn trôi tạo thành hồ đá ở làng Khánh. Vượt qua đèo Bụt hướng về thị xã Móng Cái, đất mỏ Cẩm Phả hiện ra trong màn đen đặc quánh của bụi than và tiếng động cơ xe tải chở than, chở đất thải rầm rập. Đường sá loang lổ màu đen của than và màu trắng của cát bụi. Nhà cửa, cây cối Cẩm Phả, trung tâm thị xã, bám bụi đen kịt. Người dân ra đường không đội mũ bảo hiểm thì cũng đeo kính hoặc khăn bịt mặt. Hiếm ai chạy ngoài đường mặc áo màu sáng. Anh Hải, chủ cửa hàng Internet mới mở được một tuần, lấy cái khăn ướt lau yên xe máy cho khách ra về. Chiếc khăn cháo lòng ngả ngay sang màu tối mặc dù người khách mới vào gửi được một lá thư điện tử. Hai băngrôn quảng cáo mới treo dọc cửa hàng cũng đã bám bụi đen. Trong cửa hàng, mấy học sinh mới vào lấy cặp sách đập bèn bẹt lên bàn ghế cho bớt bụi mới ngồi xuống. Mỗi lúc có ôtô chạy qua họ lại phải bưng tay che mặt. Một vài tiếng khịt mũi, ho khan. Anh Hải nói: “Kinh doanh trong ngõ thì không có khách, ngoài đường thì bụi bặm, ồn ào. Định lắp cửa kính máy lạnh cho lịch sự nhưng chưa có tiền”. Đường lên bãi than Núi Béo là những con dốc vòng cua gấp gáp, một bên là núi, một bên là vực sâu. Hàng trăm quả núi bị xẻ toạc lộ ra màu vàng và đỏ quạch. Xe “bò ma” hạng nặng gầm rít chở đất thải lên đỉnh núi. Nhìn lên cao, đất chất ngợp trời. Nhìn xuống dưới, hàng đoàn xe tải than nối đuôi từ dưới hầm lò oằn mình lên dốc. Xe lên, xe xuống bò ngổn ngang như kiến. Một chiếc xe tải chở nước chạy liên tục để tưới đường cho bớt bụi. Than đen quyện với nước thành dòng đặc quánh rỉ xuống dưới. Người dân phường Hà Khánh sống lẫn trong than tại mỏ ở Hòn Gai Tại “hồ Moong Đục”, người dân đang chặn dòng nước để hút quặng than bị rửa trôi. Tại “hồ Cavico”, cây cối xung quanh ngả màu úa vàng, không thấy bóng dáng một con tôm, con cá. Công nhân công trường Núi Béo lấm lem trong bộ quần áo bảo hộ. Móng tay móng chân đen sì. Mặt mũi bụi bặm, nước da thâm tái. Những ánh mắt vằn lên vạch máu vì thiếu ngủ và nhiễm bụi. Nạn trôi lấp đất đá thải còn diễn ra mạnh ở các bãi thải, các khu vực có độ chia cắt địa hình mạnh tại mỏ Cọc Sáu, Đèo Nai... Vật liệu rửa trôi đã làm mất 200ha ruộng vườn, gây lụt lội các khu vực xung quanh. Tại đây, biến động đường bờ biển cũng diễn ra dữ dội: đoạn đường bờ ở khu vực thị xã Cẩm Phả đã lấn ra biển 300-400m, gần Cọc Sáu có nơi là 700m. Tại vùng này, quá trình bồi tụ do các dòng bùn đá đã tạo ra lưỡi bồi tụ rộng lớn, tiến dần đến đảo Khỉ. Hệ lụy xung quanh công trường khai thác than không chỉ có thế: cả khu vực khai thác hầm lò bị ô nhiễm nặng khí thải CO và NO2. Trên toàn vùng khai thác than bị ô nhiễm khí thải CO, NO2, SO2. Nước trong các vùng lạch trên bãi thải chứa nồng độ các nguyên tố phóng xạ cao hơn nơi khác. Các hoạt động sản xuất than đã làm ô nhiễm môi trường trên toàn vùng than, từ Đông Triều đến Mông Dương. Tại khu vực than Cẩm Phả, nhà máy tuyển than Cửa Ông, các cảng tiêu thụ than nhỏ lẻ nằm dọc bờ vịnh Bái Tử Long và quốc lộ 18A - với những kho than ngoài trời, các bãi đổ xít thải và nước rửa trôi bề mặt - đã làm ô nhiễm nước biển. Tại thị xã Uông Bí, các cảng tiêu thụ than Điền Công, Bến Cân và rất nhiều bến nhỏ lẻ nằm bên sông Uông, trung tâm thị xã Uông Bí là nguồn tạo bụi lớn. Các nhà máy cơ khí vùng Đông Triều - Uông Bí gây tiếng ồn ảnh hưởng tới dân cư xung quanh. Từ đây, bụi do quá trình vận chuyển than bằng đường sắt và ôtô ra cảng đã gây ô nhiễm khu trung tâm thành phố Hạ Long.
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 13:48:18 GMT -5
Kiến nghị khẩn
Kiến nghị của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Quảng Ninh:
Xem xét điều chỉnh hoạt động sản xuất than theo hướng giảm sản lượng, tăng cường phát triển nhiều loại hình sản xuất dịch vụ có hiệu quả kinh tế cao, ít gây ô nhiễm môi trường.
Sớm di chuyển các hoạt động sản xuất than gây ô nhiễm nghiêm trọng ra xa các khu vực nhạy cảm như di sản thế giới vịnh Hạ Long, các đô thị, khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên, di tích văn hóa lịch sử, các lưu vực hồ chứa nước và các khu vực có yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong môi trường trong lành.
Tăng cường đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại ít gây ô nhiễm môi trường vào sản xuất than.
Sớm có phương án đầu tư xây dựng các tuyến đường chuyên dụng kiên cố như bêtông ngầm, đường sắt, băng tải kín thay cho đường ôtô, tránh vận chuyển than qua các khu dân cư. Không phải không biết và cũng không phải đến bây giờ tình trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất than mới được các cấp ngành tại Quảng Ninh quan tâm. Mới đây, ngày 3-4-2004, UBND tỉnh đã họp với UBND thị xã Uông Bí về tình trạng này. Mặc dù từ 6-4-2002, UBND thị xã cùng các đơn vị tham gia sản xuất, chế biến, vận chuyển than đã cùng ký cam kết “thực hiện trách nhiệm xử lý ô nhiễm tại thị xã Uông Bí”, nhưng đến nay trên địa bàn vẫn tồn tại tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng.
Nguyên nhân: không nộp báo cáo đánh giá tác động tới môi trường, không xây dựng các hệ thống xử lý nước thải, khí thải (Nhà máy nhiệt điện Uông Bí), không chấm dứt việc vận chuyển than bằng ôtô qua khu vực nội thị, không sửa chữa nâng cấp đường vận chuyển, rãnh dọc thoát nước làm rơi vãi bụi than (Công ty than Uông Bí), không che chắn phương tiện khi vận chuyển xỉ, không thu gom xỉ rơi vãi trên đường (HTX 19 - 5, đơn vị khai thác xỉ than của Nhà máy điện Uông Bí) …
Bài học ô nhiễm môi trường tại Uông Bí gần như “phổ biến” với các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất và kinh doanh than tại Quảng Ninh. Không chỉ có thế, để chạy theo lợi nhuận và sản lượng, việc khai thác than lộ thiên (thậm chí cả than thổ phỉ ) cũng đã và đang diễn ra không kiểm soát được. Hậu quả là con người và môi trường bị “khủng bố” nặng nề.
Ông Trần Đình Thụ, giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường tỉnh Quảng Ninh, nói: “Chúng tôi đã gửi kiến nghị cho đại biểu Quốc hội, yêu cầu Quốc hội và chính phủ giúp đỡ Quảng Ninh khắc phục những hậu quả ô nhiễm do khai thác than, đồng thời chỉ sản xuất than theo tổng sơ đồ phát triển đã được Chính phủ phê duyệt từ trước - chỉ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế trong nước, không quá chú trọng xuất khẩu mà xuất khẩu chỉ để phục vụ đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đề nghị ngành than nâng kinh phí bảo vệ môi trường từ 1% lên 2% so với doanh thu bán than. Họ cũng phải qui hoạch lại việc khai thác và đưa vào sử dụng các công nghệ hiện đại để bảo vệ môi trường. Hạn chế tối đa việc khai thác than lộ vỉa mà chỉ khai thác than hầm lò.
Trước mắt, chúng tôi kiến nghị hạn chế tối đa việc khai thác than tại TP Hạ Long để tránh ô nhiễm và tập trung phát triển kinh tế trọng điểm du lịch. Với môi trường, phải khẩn trương nạo vét sông, chống bồi lắng và trồng cây xanh. Phải xây dựng hệ thống băng chuyền chuyển than ra cảng, không thể dùng phương tiện ôtô hay tàu hỏa bởi đây là phương tiện gây ô nhiễm nặng”.
NGUYỄN LÊ NGUYÊN
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 11:43:57 GMT -5
8-7-2004
Lại phát hiện dầu tại thềm lục ðịa phía Nam Công ty liên doanh ðiều hành chung Lam Sõn vừa tiến hành khoan thành công giếng thãm dò ðầu tiên tại Cấu tạo Thãng Long, lô 02/97, cách mỏ dầu Ruby 27 km về phía ðông nam, cách Vũng Tàu 160 km về phía ðông.
Giếng khoan ðýợc khởi công ngày 27/5/2004, ðạt chiều sâu 2.817m. Nhiều dấu hiệu dầu khí tốt ðýợc phát hiện trong suốt phần lát cắt từ 1.800m ðến ðáy giếng, thuộc cả 3 ðối týợng thãm dò chính của bể Cửu Long. Kết quả này mở ra tiềm nãng mới, quan trọng về dầu khí. Ðýợc biết, hợp ðồng dầu khí các lô 01/97&02/97 ðýợc ký kết ngày 7/1/2003 giữa Petrovietnam/PVEP (Việt Nam) và Công ty Petronas Carigali Overseas Sdn. Bhd. (Malaysia), mỗi bên tham gia góp vốn 50%.
|
|
|
Post by Robot on Jul 21, 2004 11:01:58 GMT -5
Bình Ðịnh: Khai thác titan, coi chừng... ''tan'' rừng Một trong những mỏ khai thác titan ðang hoạt ðộng ở Mỹ Thành Hõn một nãm nay, hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát (Bình Ðịnh) luôn ầm ào xe máy với những hố hầm dày ðặc do khai thác titan. Những cánh rừng dýõng chắn cát lần lýợt gục ngã. Ðua nhau khai thác titan Phó chủ tịch UBND huyện Phù Mỹ Võ Vãn Hòa thống kê sõ bộ: "Phù Mỹ có 32km bờ biển, trữ lýợng titan lớn nhất nằm ở xã Mỹ Thành. Từ tháng 4/2002, UBND tỉnh Bình Ðịnh ðã cấp phép cho Công ty Ban Mai khai thác trên diện tích 3ha; ðến ngày 5/7/2004, ðã có thêm bốn công ty nữa "nhảy" vào khai thác với tổng diện tích lên ðến 115ha". Theo thỏa thuận, sau khi khai thác xong, doanh nghiệp ðó phải trả lại nguyên trạng mặt bằng cho các chủ ðất, ðồng thời phải trồng lại toàn bộ số diện tích rừng bị chặt phá. Nhýng ngýời dân có rừng ven biển vẫn liên tục khiếu nại... Coi chừng "tan" rừng! Cũng nhý nhiều xã ven biển dọc miền Trung, Mỹ Thành ðã có một lớp rừng dýõng chắn cát khá vững chắc, ðýợc ngýời dân trồng từ hõn 20 nãm nay. Chính những cánh rừng này ðã góp phần chấm dứt nạn "cát bay" ðã từng xảy ra ở Mỹ Thành từ nhiều ðời nay. "Lá phổi" cho hàng ngàn gia ðình vùng biển này vẫn không có gì thay ðổi nếu nhý ngýời ta không phát hiện ra lýợng titan khổng lồ nằm bên dýới. Anh Nguyễn Bình ở thôn Hýng Lạc, xã Mỹ Thành ðýa chúng tôi lên ðộng cát cao nhất trong khu vực khai thác titan và nói: "Toàn bộ diện tích rừng trýớc mặt ðều bị triệt hạ kể từ khi các doanh nghiệp "áp giá" xong với dân". Chúng tôi ðặt câu hỏi: "Anh ðã ký vào biên bản thỏa thuận với doanh nghiệp về mức ðền bù, lại còn nhận toàn bộ số cây bị chặt ðể ðốt than làm củi, sao còn khiếu kiện?". Anh Bình khẳng ðịnh: "Không nhận tiền ðền bù thì mất luôn thôi. Tỉnh - huyện - xã gì cũng ðã "quyết" hết rồi, mình không nhận thì thiệt. Với mức ðền bù 300.000ð/sào cứ týởng nhiều nhýng nhận từng ấy tiền là mất ðất vĩnh viễn. Rừng phòng hộ cũng tiêu luôn!". Theo ông phó chủ tịch huyện Phù Mỹ thì "hiện nay chúng tôi chýa thống kê hết toàn bộ diện tích rừng bị chặt ðể khai thác titan". Tuy vậy, theo quan sát của chúng tôi, chỉ riêng một doanh nghiệp ðang khai thác tại thôn Hýng Lạc cũng ðã "triệt" vài héc-ta rừng rồi, dù là rừng thýa. Vậy mà các doanh nghiệp còn xin mở rộng diện tích khai thác và thêm thời hạn. Không biết bao nhiêu rừng sẽ bị triệt hạ một khi bên dýới những cánh rừng này vẫn còn các mỏ titan ðầy hấp dẫn? (Theo Lao Ðộng)
|
|
|
Post by Robot on Jul 27, 2004 11:13:06 GMT -5
Một trong những tin đáng chú ý về môi trường trên các báo xuất bản hôm 26/7: Nạn khai thác các quặng sắt, crômít trái phép tại các khu vực mỏ thuộc bốn huyện Nông Cống, Triệu Sơn, Ngọc Lặc và Như Thanh ở Thanh Hoá đang có nguy cơ tái phát. Thanh Hoá: Nguy cơ tái phát nạn khai thác quặng trái phép Hiện trường bãi khai thác quặng sắt trái phép. Trong hai tháng 5 và 6/2004, Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Thanh Hoá đã phối hợp cùng ngành chức năng tiến hành giải toả nạn khai thác quặng sắt và quặng crômít trái phép tại các khu vực mỏ thuộc bốn huyện Nông Cống, Triệu Sơn, Ngọc Lặc, Như Thanh. Tuy nhiên, đến thời điểm này chính quyền địa phương đang gặp rất nhiều khó khăn trước nguy cơ tái phát nạn khai thác quặng trái phép. Giải toả các khu vực mỏ Đầu năm 2004, tình trạng khai thác quặng sắt và quặng crômít trái phép diễn ra rầm rộ. Hậu quả: Có ít nhất sáu lao động trực tiếp đã thiệt mạng, đường sá hư hỏng do phương tiện quá khổ, quá tải lưu thông suốt ngày đêm. Ngày 13/4/2004, UBND tỉnh Thanh Hoá đã ban hành Chỉ thị số 10 về quản lý khai thác, xuất khẩu quặng sắt, crômít trên địa bàn. Theo Chỉ thị này, tỉnh giao cho chủ tịch UBND các huyện và yêu cầu phối hợp cùng các ngành chức năng kiên quyết giải toả, ngăn chặn việc khai thác, thu mua quặng trái phép. Sau một khoảng thời gian ngắn, chính quyền bốn huyện trên đã kịp thời giải toả được các vùng mỏ. Phía tỉnh đã lập đoàn kiểm tra liên ngành do Sở Tài nguyên - Môi trường (TN-MT) chủ trì, tiến hành kiểm tra từng huyện một và đã có kết luận: ''100% các doanh nghiệp khai thác quặng sắt gốc và crômít đều vi phạm Luật Khoáng sản''. Riêng Công ty Kim loại màu Thái Nguyên vi phạm một số quy định như ''không tổ chức khai thác theo phương án đã duyệt, không thực hiện các quy định về báo cáo đánh giá tác động môi trường làm ô nhiễm nguồn nước'. Công ty được cấp giấy phép quản lý khu vực mở rộng 16,6km2, nhưng chỉ quản lý được 1km2''. Nguy cơ bùng phát Chỉ tính riêng khu vực mỏ quặng crômít nằm trên địa bàn ba xã Vân Sơn, Thái Hoà, Tân Ninh - huyện Triệu Sơn đã có khoảng 1.500 giàn máy làm quặng, mỗi giàn máy tạo việc làm cho chín-mười lao động. Như vậy, có khoảng 15.000 lao động mất việc làm trong thời gian tỉnh Thanh Hoá tạm cấm khai thác quặng dưới mọi hình thức. Do vậy, vì miếng cơm manh áo, nếu một số người dân có tiếp tục khai thác bất chấp mọi ngăn cản của chính quyền địa phương cũng là điều dễ hiểu. Ông Vũ Đình Sinh, phó giám đốc Sở TN-MT nói: ''Thanh Hoá được đánh giá là địa phương không có tiềm năng về quặng sắt. Tài liệu địa chất cho thấy chỉ có một số điểm quặng phong hoá chủ yếu để làm phụ gia xi-măng. Riêng với quặng crômít, đây là mỏ duy nhất ở Việt Nam và là mỏ lớn nhất Đông Nam Á, với trữ lượng 22-25 triệu tấn''. Trước năm 2003, Bộ Công nghiệp đã cấp phép khai thác cho hai đơn vị là Công ty Kim loại màu Thái Nguyên 33km2, sau điều chỉnh xuống còn 16km2, và Công ty Xuất khẩu Khoáng sản Thanh Hoá 140ha. Thế nhưng hai đơn vị này đã không tổ chức khai thác theo đúng quy trình và không quản lý được diện tích khu mỏ đã được cấp phép, nên đầu nậu và một số người dân tự phát khai thác một cách ồ ạt, dẫn đến tình trạng lộn xộn, chính quyền sở tại không kiểm soát được. Trong tháng 7 này, Sở TN-MT sẽ hoàn thành đề án ''Sắp xếp lại quy hoạch khai thác, phân định rõ chỗ nào dự trữ quốc gia, chỗ nào khai thác quy mô công nghiệp, chỗ nào cho nhân dân khai thác tận thu nhưng chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, đảm bảo nguyên tắc khai thác hiệu quả, tiết kiệm, ổn định về trật tự an ninh, an toàn trong lao động và bảo vệ môi trường sinh thái''. Tuy nhiên, mới đây lại có thông tin trên địa bàn huyện Triệu Sơn đã xuất hiện một số đầu nậu vận chuyển máy móc vào khu vực mỏ để tiến hành khai thác. Nguy cơ tái phát nạn khai thác trái phép tài nguyên đang tới gần. Nếu UBND tỉnh Thanh Hoá không sớm có những quyết sách cụ thể thì những gì Sở TN-MT và chính quyền bốn huyện đã làm được trong thời gian qua sẽ trở thành vô nghĩa. (Theo Lao Động)
|
|