|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 5:53:12 GMT -5
Xem topic: ttvnonline.net/ttx/430306.ttvnwww.permacultureinternational.org/backissues.htmwww.permaculture.netwww.permaculture.co.ukwww.permaculture.org.au/ www.thefarm.org/permacultureĐây là 1 mô hình môi trường sinh thái chăn nuôi, trồng trọt và ăn ở làm thế nào phối hợp hài hòa và tích hợp tích cực nhất các yếu tố năng lượng hầu cân bằng các yếu tố như năng lượng tự nhiên sử dụng sức gió, nước và con người . Mục đích là tạo ra 1 hệ thống sinh thái co' chu kỳ trong đó mọi yếu tố cộng tác với nhau hầu đạt tới 1 hiệu quả tối ưu . Mô hình này k0 phải vĩ đại như bạn tưởng mà là 1 mô hình nhỏ cho 1 gia đình nhà nông chẳng hạn. Sau đây là các địa chỉ các trang web hệ thống sinh thái mô hình nhỏ cho 1 gia đình nhà nông : www.humboldt.edu/~farm/studentprojects/fmf1www.home.earthlink.net/~clrwater/RDD/rddtechnologies.htmlusers.lia.net/neweden/images_from_keag.htmwww.ibiblio.org/london/Permaculture không đề cập đặt nặng sự bảo trì bảo tồn nhiều cho các ảnh hưởng đến thế hệ sau và các sự cố có thể xảy ra. Nhưng nó đặt trọng tâm vào việc ứng dụng và xử dụng các kiến thức KHKT phù hợp với thiên nhiên, thay vì đi ngược lại lại với thiên nhiên & môi trường thực tế cụ thể của 1 nhà nông hay 1 nông trường (Farm) chẳng hạn, với khả năng (Nhân, Tài, Vật, Lực) hiện có. Các kiến thức KHKT phải là những kiến thức KHKT phù hợp & trung gian (Appropriate /intermediate Technology) có chọn lọc và hệ thống hoá. Ví dụ cụ thể: Các nhà Nông mình cũng đã ứng đúng v/d nầy những kiến thức KHKT 1 cách cụ thể như là: -Dụng Phân xanh từ bèo hoa dâu hay Phân chuồng, xử dụng lại với Ruộng Nương. -Dẫn thủy nhập điền (bằng nhiều hình thức khác nhau từ đon giãn dến qui mô, Nuôi cá trong ruộng ao hồ các hồ cá nhân tạo: Cá tra, Trê dưới đáy, cá Rô Phi trên mặt nước, Thức ăn cung cấp từ hèm rượu VV... 1 hệ thống sinh thái mô hình nhỏ, cụ thể & đơn giản: www.gburnett.unisonplus.net/Perma/Hoài Long
|
|
|
Post by Robot on Oct 21, 2004 6:26:56 GMT -5
Chào các Bạn
Việt Nam củng có 1 mô hình tương tự như Pemaculture nhưng với ý nghiã hạn hẹp hơn đôi chút: đó là mô hình RVAC /VAC = ( mô hình RVAC là rừng - vườn - ao - chuồng /vườn, ao, chuồng (VAC) )
Sau đây là 1 số thông tin về V/đ này :
VAC là vườn - ao - chuồng, RVAC là rừng - vườn - ao - chuồng.
Thật ra, đây là kinh nghiệm lâu đời của cư dân đồng bằng sông Hồng. Thừa kế tài sông nước và đánh cá của người Lạc Việt, từ mấy nghìn năm trước, họ đã thấy rõ lợi ích của việc nuôi cá "thứ nhất canh trì, thứ nhì canh viên, thứ ba canh điền". Nhất nuôi cá, nhì làm vườn, ba làm ruộng. Hay là, "cơm với cá như mạ với con". Đồng bằng sông Hồng có nhiều ao, có nơi "đào đá" "vượt thổ" để có đất cư trú. Vì vậy, cùng nhà ở, một số nông dân còn cả vườn và ao với cách bố trí "trước cau, sau mít, cá vít chân bèo", cùng với chuồng nuôi gia súc, gia cầm. Theo quan điểm ngày nay, đây là một hệ sinh thái nông nghiệp nhỏ với quan hệ chặt chẽ giữa các thành phần, cho nên giảm hao phí năng lượng, giảm năng lượng vô công trong chuyển hóa năng lượng tất yếu. Phân bón lấy từ chuồng ra dùng bón ruộng, bón vườn. Màu của đất vườn trôi xuống ao, sinh vật phù du dễ phát triển làm thức ăn cho cá. Các loại chất thải đổ xuống bùn ao, bùn ao xúc lên để bón vườn. Bèo cái trên mặt ao là thức ăn của lợn. Nhiều hệ sinh thái nông nghiệp nhỏ ấy, kết hợp với nhau và đồng ruộng quanh làng.
Mô hình VAC đã được hưởng ứng ở vùng châu thổ, và RVAC được hưởng ứng ở các nơi có đồi núi. Tỉnh Hưng Yên đất hẹp người đông ở đồng bằng sông Hồng, đến tháng 10-1998 đã có 78 nông trại gia đình từ VAC phát triển lên, có tính hàng hóa cao hơn. Cũng đã có nông trại gia đình ở Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hà Tây... Riêng ở Hà Tây, một nông trại trồng hoa và sản xuất cây giống bán kết hợp nuôi lợn quy mô nhỏ (chỉ 600m2) ở gần thị xã Hà Đông (xã La Khê) đã có thu nhập mấy chục triệu đồng/năm. Còn RVAC đã phát triển rộng khắp ở các tỉnh có đồi núi từ bắc vào nam qua các tỉnh Trung Bộ... Có những cơ sở đã thu nhập hằng năm ba bốn triệu đồng, vài ba chục triệu đồng, có nơi hàng trăm triệu đồng và cả tỷ đồng. Có cơ sở đã đấu thầu 10 ha ruộng trũng ở Chương Mỹ (Phú Xuyên, Hà Tây) trồng sen lấy hạt, kết hợp nuôi cá, nuôi trai lấy vỏ với trồng lúa, trồng bạch đàn rồi nhãn ở bờ được đắp to, đã thu nhập 600 triệu đồng (năm 1993); 920 triệu đồng (năm 1997), và dự kiến hơn một tỷ đồng (năm 1998), thành tỷ phú đồng chiêm.
Lại có cơ sở nuôi tôm sú ở thị trấn Ba Ngòi (Khánh Hòa) chỉ với hai ha nuôi tôm và một bể sản xuất tôm giống đến tháng 10-1998 đã thu nhập một tỷ 66 triệu đồng, saukhi trừ mọi chi phí (công lao động, tiền mua thức ăn và thuốc phòng bệnh cho tôm...). Cả huyện Cam Ranh có 491 trại tôm giống sản xuất một tỷ con có giá trị 34 tỷ đồng. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 1) (Khóa VIII) ban hành ngày 10-11-1998 ghi rõ: Ơở nông thôn hiện nay đang phát triển mô hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hóa với quy mô lớn hơn. Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển hình thức trang trại gia đình như các loại hình sản xuất khác của kinh tế hộ gia đình (báo Nhân dân ngày 23-11-1998).
Thực tiễn của phong trào VAC, RVAC phong phú, đa dạng trong cả nước cho một số nhận xét đầu tiên: Tính hàng hóa ở đây rõ. Đó không còn là cách làm ăn để tự túc, hay để có thêm chất dinh dưỡng, mà chủ yếu là để thoát nghèo, để làm giàu, và thực tế đã hình thành nhiều vùng có nông sản để bán: vùng mận tam hoa Bắc Hà (Lào Cai), vùng cam, quýt Bắc Sơn (Lạng Sơn), vùng vải thiều Lục Ngạn và nhiều huyện khác (Bắc Giang), vùng nho Phan Rang (Ninh Thuận), vùng thanh long Hàm Thuận (Bình Thuận), một số vùng cây ăn trái nổi tiếng ở miệt vườn Nam Bộ cùng với các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển. Vùng chăn nuôi bò, dê, cừu (Ninh Thuận), vùng cây công nghiệp lâu năm và bò thịt (Tây Nguyên) VAC và RVAC là một cơ cấu nông nghiệp hợp lý, phù hợp điều kiện sinh thái vàkinh tế xã hội từng nơi. Xã Mễ Sở (Châu Giang, Hưng Yên), trước đây thiếu đói, nay với việc chuyển ruộng xấu ngoài đồng thành vườn trồng táo, dược liệu, quất cảnh để thu nhập mỗi năm hàng tỷ đồng với xe tải về ăn hàng thường kỳ. Cũng như vậy, xã Bách Thuận (Vũ Thư, Thái Bình) với các vườn táo cảnh, hoa ngâu, hoa hòe, cây cảnh và dâu tằm đã cho thu nhập mỗi năm tới 30 tỷ đồng, với 50% số hộ trong xã trở thành giàu có. Xã Mê Linh (Mê Linh, Vĩnh Phúc) chuyển từ 40 mẫu hoa hồng Đà Lạt (năm 1994) thành 400 mẫu đã thu nhập hơn ba chục tỷ đồng năm 1997.
|
|
|
Post by Robot on Oct 21, 2004 6:29:32 GMT -5
Nước ta nói chung có 2 loại đất. Đất sa bồi châu thổ đã được sử dụng tốt từ lâu, nay là những vùng nông sản nông nghiệp trù phú, đất hình thành tại chỗ, đất cao, đất dốc miền đồi núi, sử dụng kém hơn, nay là vùng đất trồng đồi núi trọc mênh mang. Nông trại kiểu RVAC đã bắt đầu sử dụng loại đất này tốt và có xu thế đi vào bền vững. Hai lần Vĩnh Phú (cũ) lên đồi thất bại, nay với những RVAC từ 2 đến 3 ha, đến vài ba chục ha, Vĩnh Phúc, Phú Thọ đã trụ lại được.
Các mô hình VAC, RVAC cho những nhận xét khoa học mới. Vùng vải thiều Lục Ngạn và nhiều huyện khác (Bắc Giang) đã phủ định nhận định cũ về đất đồi bạc màu, cho là "không thể đảo ngược". Cũng như vậy, vùng thanh long Bình Thuận với đất cát khô nóng ven biển cực nam Trung Bộ; và trang trại ở Lệ Thủy (Quảng Bình) cho thấy khả năng sử dụng các loại cồn cát di động này VAC và RVAC, chứng minh cho tư tưởng phương Đông: "Đất không nói dối, nó trả lại sòng phẳng những gì đã đầu tư vào nó". Chúng còn phù hợp khoa học phương Tây trước đây là quan điểm của nhà thổ nhưỡng học Xô-viết (Liên Xô cũ) Vi-li-am (1930): "Không có đất xấu, chỉ có phương pháp canh tác chưa tốt". Hay gần đây với quan điểm "nông nghiệp sinh thái học thích hợp" của nhà nông học Đức B. Neuge-bauer (1995): Nông nghiệp bao gồm cả lâm nghiệp, phải bảo vệ cả nước và đất, phải phù hợp điều kiện sinh thái địa phương, không sản xuất lương thực với bất cứ giá nào. Sử dụng nhiều lao động, dùng ít đầu vào từ bên ngoài. Từ VAC, RVAC mà tiến dần lên nông trại gia đình nhiều tính hàng hóa.
Nhà văn Đức Gớt (Goeth), có câu viết nổi tiếng: "Lý thuyết màu xám, cây đời mãi mãi xanh tươi".
Đối với VAC và RVAC cũng vậy. Do mãi mãi xanh tươi mà phong trào này còn cho nhiều kinh nghiệm tốt, nhiều bài học hay, chưa hề có trong sách vở.
Bùi Huy Đáp, Giáo sư nông học, (Nhân Dân - 31/12/1998)
|
|
|
Post by Robot on Oct 21, 2004 6:31:14 GMT -5
PHáT TRIểN Hệ SINH THáI VAC GIA ĐìNH Để Có NHIềU THựC PHẩM ĐA DạNG CảI THIệN BữA ǍN & PHòNG CHốNG SUY DINH DuỡNG
I. Hệ SINH THáI VAC Và kHOA HọC TáI SINH NǍNG LƯợNG
Trong vòng 10 nǎm gần đây, VAC một danh từ được đùng nhiều trong hoạt động thúc đẩy sản xuất lương thực và thực phẩm, ý tưởng của tác giả đưa ra từ này là tóm tắt hệ sinh thái có từ lâu đời ở các gia đình nông thôn Việt Nam: Vườn rau, Ao cá, Chuồng chǎn nuôi.
Tuy nhiên cần đặt hệ sinh thái truyền thống này. trên một cơ sở khoa học, đó là khoa học tái sinh nǎng lượng mặt trời qua quang hợp của cây trồng và tái sinh các vật thải bằng cách tận dụng các thứ con người thải ra và các chất thải từ hệ thống VAC của mình (Tái sinh=Renew/ Renouveler). V đã không còn chỉ có nghĩa Vườn đơn thuần mà được mở rộng ra tất cả các loại cây trồng ở vườn ở ruộng, ở rừng, ở nương, ở rẫy... (V= Vegetation). A không chỉ riêng cái Ao cạnh nhà mà là kí hiệu chung chỉ các hoạt động nuôi trồng thủy sản ở nước ngọt, nước lợ, nước mặn ven biển (A = Aquaculture ). Nếu V ký hiệu các loại cây trồng thì A còn ký hiệu một yếu tố không thể thiếu cho phát triển cây trồng là Nước.
C không chỉ riêng chuồng chǎn nuôi gia súc trâu, bò, gia cầm, gà, vịt, ngan, ngỗng mà cả nuôi chim, nuôi ong... (C = Cage ), C không chỉ ký hiệu các sản phẩm thịt, trứng, sữa dùng nuôi con người mà còn ký hiệu các vật thải của chǎn nuôi, hết sức cần cho sự phát triển của cây trồng là phân gia súc, gia cầm.
Như vậy, VAC vừa là ký hiệu của hệ sinh thái quen thuộc ở quanh nhà nông thôn Việt Nam: Vườn, ao, chuồng chǎn nuôi, mà là ký hiệu của một tư tưởng phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững tái sinh nǎng lượng mặt trời và tái sinh các vật thải. VAC cũng khẳng định cho một mối quan hệ hữu cơ cho sự phát triển của hê sinh thái, ''''''''tận dụng các vật thải. Khái niệm mở rộng của hệ sinh thái VAC (Cây trồng- Nước - Phân) đã đưa hệ sinh thái VAC ở phạm vi quanh nhà ra một phạm vi rộng hơn, các trang trại lớn để sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Chính sự mở rộng này tránh được sự bó hẹp coi hệ sinh chát VAC chỉ đơn thuần là cái vườn, ao, chuồng chǎn nuôi cụ thể, mà then chốt là sử dụng cơ chế linh hoạt, tiết kiệm và hiệu quả sinh học cao tạo ra giá trị thực phẩm phù hợp với điều kiện đất đai, khoảng không gian trên mặt đất, khoảng không gian ở dưới nước, cũng như vật thải của quá trình sản xuất Chính với tinh thần này, đại hội nghị chuyên gia FAO khu vực châu á Thái Bình Dương ở Bǎng cốc tháng 7-1991 đã khuyến khích các nước phát triển vườn với việc tận dụng ánh sáng mặt trời, vườn có nhiều lớp cây theo mô hình rừng nhiệt đới nhiều- tầng, tận đụng các .vật thải, chú ý tới hai yếu tố nước và phán, đồng thời ở những nơi có điều kiện kết hợp trồng với chǎn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản. Như vậy chúng ta sẽ làm ra nhiều sản phẩm dả dạng từ nguồn thực -vật và cả động vật, đáp ứng nhu cầu thực tế ǎn uống của con người. ở hội nghị Montreal (Canada) bàn về biện pháp phòng chống thiếu vi châu vitamin A, Iot) cũng khuyến nghị cần cải thiện bữa ǎn đa dạng dựa vào sự phát triển các vườn theo khái niệm VAC vì từ đó các nguồn thực phẩm sẽ đa dạng, phong phú với các toại rau quả từ vườn, các thức ǎn động vật qua chǎn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản.
|
|
|
Post by Robot on Oct 21, 2004 6:31:29 GMT -5
II. HIệU QUả CủA Hệ SINH THáI VAC Với Sự PHáT TRIểN NÔNG THÔN BềN VữNG Phát triển hệ sinh thái VAC dựa trên hai tính chất dân tộc và khoa học, không những thế còn khuyến khích mòi người dân ở cộng đồng vào việc giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm. ở mọi nơi mỗi gia đình đều có thể làm VAC và các lứa tuổi đều có thể tham gia vào công việc này như học sinh, người già... Chính vì vậy phong trào phát triển VAC đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi với khái niệm tái sinh, tận dụng nǎng lượng mặt trời và các vật thải đã đem lại các hiệu quả sau: 1. Về mặt kinh tế. Cùng một diện tích đất làm VAC đã đem lại hiệu quả ít nhất từ 3 đến 5 lần so với đem trồng lúa, dù nǎng suất lúa đã đạt nǎng suất cao 10tấn/ha/nǎm. 2. Về mặt đời sống và phát triển. Làm VAC sẽ có nhiều thực phẩm đa dạng trước hết người dân không phải, bỏ tiền ra mua mà còn có thể bán một phần ra thị trường để tǎng thu nhập gia đình, giúp tạo thêm tiện nghi cho dời sống. Các sản phẩm dư thừa cũng có thể dùng để chế biến, để bảo quản và lưu thông phân phối sang các địa phương khác hoặc xuất khẩu. 3. Về mặt môi trường. Hệ sinh thái VAC đã cải thiện điều kiện môi trường với cây xanh và hoa quả với sự điều tiết nhiệt độ môi trường của ao. Không những thế với việc tận dụng các vật thái môi trường xung quanh sẽ trở nên sạch sẽ hơn. Phát triển hệ sinh thái VAC tạo điều kiện tǎng việc làm, tǎng thu nhập đưa đến sự cải thiện môi trường xã hội lành mạnh. 4. Về mặt dinh dưỡng. Các gia đình làm VAC có nhiều thực phẩm đa dạng làm cho bữa ǎn được phong phú cân đối. Do nguồn thức ǎn động vật từ VAC cung cấp đã làm giảm lượng gạo sử dụng và tǎng lượng protein và lipit trong khẩu phần. Đồng thời với nguồn rau quả từ vườn đảm bảo cho bữa ǎn đủ vitamin nhất là vitamin C, và Caroten, không những thế rau quả từ vườn nhà giữ nguyên được giá trị và ít hao hụt, không bị đe dọa lượng thuốc trừ sâu cao hoặc nhiễm giun sán. Hiệu quả của hệ thống VAC tới dinh dưỡng là một trong những biện pháp duy trì sự bền vừng cũng như loại trừ nguyên nhân cơ bản của thiếu các yếu tố vi chất dinh dưỡng. 5. Về mặt sức khỏe. Cùng một lúc hệ sinh thái VAC tác động vào nhiều khía cạnh của việc làm tǎng sức khỏe. Trước hết tạo điều kiện tǎng mức sống của gia đình, làm thay đổi yếu tố vi khí hậu nhà ở với cây xanh, bóng mát, không khí trong lành. VAC làm thay đổi cơ cấu của khẩu phần ǎn, tạo điều kiện cho người dân có được đủ thực phẩm và các chất dinh dưỡng cần thiết. VAC tạo điều kiện có thêm việc làm vừa sức với người già và những người có bệnh mạn tính, tạo điều kiện cho việc cải thiện tình trạng bệnh tật. 6. VAC với việc ổn định và bền vững của cuộc sống nông thôn. Chính việc tǎng thêm cáe việc làm của hệ sinh thái VAC và phát triển các ngành nghề thủ công, tǎng thu nhập, đồng thời giải quyết việc làm lúc nông nhàn, hạn chê'''''''' số người ra thành phố kiếm sống. Chính tác động này cũng làm giảm cả những bệnh dịch xã hội, ngay cả đại dịch thế kỉ là AIDS cũng lấy lũy tre xanh làm hàng rào bảo vệ ngǎn cản sự lan truyền của nó. Chính những lợi ích của VAC với những hiệu quả nhiều mặt của nó, ngay ở thành phố việc tận dụng nguồn nǎng lượng mặt trời, vật thải mà người dân ở thành phố vẫn có thể làm VAC được. Nhiều gia đình đã dùng chậu trồng rau trồng gia vị, trồng hoa, giàn nho, trồng mướp, trồng bầu, đậu ván, đậu rồng... nuôi gà, nuôi chim, ong và sinh vật cảnh. Những công việc đó vừa đem lại lợi ích thiết thực, tạo điều kiện cho người dân thành phố lao động chân tay, thư giãn, cũng như gần gũi với thiên nhiên, và có cuộc sống tâm linh khỏe mạnh. Hệ sinh thái VAC với khái niệm rộng và uyển chuyển của nó đã có những tác dụng to lớn, và là biện pháp tổng hợp:có hiệu quả giúp giải quyết nạn đói và suy dinh dưỡng. ___ Sau đây là Địa Chĩ 1 vài trang &1 số thông tin (tieng Anh) về Permaculture & VAC : - www.fao.org/DOCREP/005/Y1187E/y1187e10.htm do co quan FAO - VAC And Permaculture In Viet Nam Nguyen Van Man (Viet Nam) www.rosneath.com.au/ipc6/ch06/vanman/index.html____ Hoai Long
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 7:14:42 GMT -5
|
|
|
Post by Robot on Jan 10, 2005 14:50:41 GMT -5
|
|
|
Post by Robot on Jan 10, 2005 15:38:13 GMT -5
|
|
|
Post by Robot on Jan 10, 2005 16:46:33 GMT -5
Restorer Technology Constructed Wetlands Ecological Design Ecological Agriculture Inquiries & Purchasing www.oceanarks.org/natural/Twelve Principles for the Design of Ecologically Engineered Systems www.oceanarks.org/ecodesign/eesystemsAbstract This article elucidates the emerging principles required for the design of task-oriented mesocosms. Twelve key factors are discussed including mineral diversity, nutrient reservoirs, steep gradients, high exchange rates, periodic and random pulses, cellular design and mesocosm structure, sub-ecosystems, microbial communities, photosynthetic bases, animal diversity biological exchanges beyond the mesocosm, and mesocosm/macrocosm relationships. The fields of ecological design and engineering are developing efficient living technologies for environmental repair, waste treatment, food production and infrastructure integration. Keywords: Aquaculture; Ecological design; Environmental repair; Mesocosm; Sediments; Nitrogen and phosphorus control; Metals; Waste treatment. Resources, Articles and Publications www.oceanarks.org/education/resources
|
|
|
Post by Robot on Jan 23, 2005 11:58:03 GMT -5
ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM: Bạn sẽ làm gì với 100.000 USD ở Việt Nam?
BÙI KIẾN THÀNH "Anh hãy dùng số tiền này đầu tư vào những gì anh thấy lợi ích nhất cho nhân dân và đất nước Việt Nam" Tối hôm qua tôi mơ thấy một vị Tiên Ông đến giao cho tôi một gói tiền và bảo tôi rằng: “Anh hãy dùng số tiền này đầu tư vào những gì anh thấy lợi ích nhất cho nhân dân và đất nước Việt Nam”. Nói xong vị Tiên Ông để lại một gói giấy vàng, tôi mở ra xem thì thấy trong gói đựng đúng một trăm nghìn đôla Mỹ. Tôi bắt đầu suy nghĩ lựa chọn, vì từ trước đến nay tôi vẫn có nhiều dự án nhưng thiếu người tài trợ. Mục tiêu của tôi là hiệu quả kinh tế và lợi ích lâu dài: thứ nhất, cho càng nhiều người càng tốt, thứ hai là có tính chất cộng đồng. "Ý nghĩ đầu tiên của tôi là phát triển một “Ngân hàng cho người nghèo" Ý nghĩ đầu tiên của tôi là phát triển một “Ngân hàng cho người nghèo”. Hiện nay trong nước đã có những tổ chức cho người nghèo vay từ 1 triệu đến 10 triệu đồng để phát triển kinh tế gia đình. Có những tổ chức của chính phủ chủ trương và quản lý, cũng như có những tổ chức của tư nhân. Ví dụ mà tôi tâm đắc nhất là trường hợp một cựu chiến binh đem “Sổ đỏ” nhà của mình làm bảo đảm thế chấp để vay tiền của ngân hàng rồi cho đồng bào trong thôn xóm của mình vay lại, với lãi suất thấp. Việc quản lý cho vay do ngân hàng đảm nhiệm, người cựu chiến binh chỉ quyết định lựa chọn đối tượng được vay, và mỗi tháng thu tiền vốn và lăi từ các đối tượng vay để hoàn trả lại ngân hàng. Trong kinh nghiệm này, chưa có một trường hợp nào người vay nợ không thanh toán đúng hạn và đầy đủ. Nói chung hệ thống “Ngân hàng cho người nghèo” đã giúp cho đông đảo bà con, tính ra đến hàng trăm nghìn người trên khắp mọi miền đất nước phát triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm nghèo, có rất nhiều người thành đạt trở nên giàu có và trở lại giúp đỡ những người khác đồng chung cảnh ngộ với mình trước kia. Với 100.000 USD “Ngân Hàng Tiên Ông” có thể cấp vốn cho 1.000 đến 1.500 gia đình trong năm đầu và nếu cứ tiếp tục tái đầu tư cả vốn lẫn lời thì số gia đình được tài trợ sẽ tăng tốc nhanh trong những năm tiếp theo. "Tên làng là “Làng Chuông” vì từ xa xưa trước cổng làng có một cái chuông rất lớn..." (Ảnh minh họa) Dự án thứ hai của tôi là hỗ trợ phát triển cho một làng nghề. Tôi có cơ hội đi thăm “Làng Chuông” ở thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây. Tên làng là “Làng Chuông” vì từ xa xưa trước cổng làng có một cái chuông rất lớn, tên là làng chuông nhưng hầu hết trong làng gia đình nào cũng làm nón lá. Cái nón thân thương với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trên cánh đồng quê từ Nam chí Bắc, và mới rồi đây đã xuất hiện trên thị trường thủ công mỹ nghệ xuất khẩu qua nhiều nước. Đồng bào phải đi mua lá từ trong Thanh Hoá, Hà Tĩnh, chở về phơi khô trên các sân vườn, rào giậu. Sau đó, cả nhà, ông bà, cha mẹ, cháu con cùng nhau tách lá, may lên khung. Mỗi cái nón cũng phải đến hàng nghìn mũi kim may. Non nớt hay tinh vi tùy theo tay nghề và kinh nghiệm của người may nón. May xong đem ra chợ bán, hoặc được các lái buôn thu mua đưa ra Hà Nội hoặc xuất khẩu. Mỗi ngày một người may giỏi thì được 4 - 5 cái nón, may chậm thì được 2 - 3 cái. Cả tiền mua lá từ xứ Thanh và công lao động đến thành phẩm, mổi cái nón bán được 2.000 – 3.000 đồng, tuỳ theo thời giá và thị trường. Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, ngành nghề này có nguy cơ bị “tuyệt chủng”. Thanh niên, thiếu nữ sẽ bỏ làng ra đi, lang thang trên hè phố các đô thị để tìm việc làm, với tất cả những rủi ro của xã hội. Rồi làng xóm sẽ vắng bóng đầu xanh, mà sẽ điêu tàn với một tương lai chưa có lối thoát. Ngành làm nón của Làng Chuông với truyền thống mấy trăm năm có nguy cơ bị “xoá sổ”. Một truyền thống kinh tế - văn hoá của Việt Nam sẽ chỉ được người sau biết đến qua sử sách một thời. Với 100.000 USD đầu tư vào việc tổ chức sản xuất, kinh doanh, khai thác lợi thế tay nghề lao động, sáng chế mẫu mã mới để cung cấp cho cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài, Làng Chuông có khả năng phát triển thành một điểm sản xuất cung cấp nón lá đủ loại, mẫu mã phong phú cho toàn thế giới. Cái nón lá đi đôi với cái áo dài Việt Nam, một biểu tượng đất nước con người Việt Nam, sẽ đem lại phồn vinh cho một làng nghề văn hoá xuyên qua lịch sử từ Lý Trần, là một bảo vật của dân tộc Việt Nam cần phải được nâng niu và phát huy đến điểm cao nhất có thể trong thời đại hội nhập quốc tế. Và Làng Chuông một di sản quốc gia với bề dày lịch sử, sẽ có khả năng trở thành một di sản văn hoá quốc tế được khách du lịch bốn phương quan tâm đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam lên một đỉnh cao mới.
|
|
|
Post by Robot on Jan 23, 2005 11:58:21 GMT -5
"Dự án thứ ba của tôi là hỗ trợ cho đồng bào nông thôn trong chính sách VAC - Vườn Ao Chuồng..."
Dự án thứ ba của tôi là hỗ trợ cho đồng bào nông thôn trong chính sách VAC - Vườn Ao Chuồng – Đây là một mô hình phát triển kinh tế nông thôn đã thu lượm được nhiều kết quả tốt. Phần lớn đồng bào đã có vườn và đào ao thả cá, nhưng còn khâu chuồng thì phải đầu tư vốn. Hiện nay việc tìm kiếm vốn cho khâu chuồng là không đơn giản vì người nông dân thường không có tài sản để thế chấp bảo đảm vay các ngân hàng, mặc dù có chính sách của nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi. Chuồng đây có thể là nuôi lợn, hoặc nuôi bò, lấy phân nuôi cá hoặc bón ruộng vườn. Đơn vị đầu tư của chúng ta, tạm gọi là “Quỹ đầu tư Tiên Ông” sẽ cung cấp cho mỗi gia đình tham gia một hay hai con lợn giống làm vốn ban đầu. Số góp vốn có thể được hoàn trả bằng số lợn con, lãi suất có thể thanh toán bằng tiền hoặc chia lãi trên số lợn con bán được, hay một phương thức nào khác phù hợp với khả năng của gia đình vay vốn. Hoặc có thể góp vốn bằng một con bò giống. Khi bò đẻ con đầu tiên sẽ coi như hoàn trả vốn lại cho quỹ đầu tư. Tiếp theo với sự phát triển đàn bò, hai bên thoả thuận sẽ chia lợi nhuận theo một tỷ lệ được hai bên nhất trí. Từ một con bò giống được tài trợ, gia đình sẽ dần dần tiến lên phát triển một đàn bò, và đồng thời khép kín khâu “Chuồng” trong mô hình VAC. Với giá một con lợn giống từ 100 đến 200 USD, và một con bò giống từ 200 đến 500 USD, tùy theo tuổi, với 100.000 USD quỹ đầu tư có thể cung cấp từ 500 đến 1.000 con lợn giống, hoặc 200 đến 500 con bò giống. Với tốc độ sinh đẻ và phát triển của đàn lợn và đàn bò, năm đầu sẽ hỗ trợ vốn cho 500 đến 1.000 gia đình, năm sau lấy số lãi tiếp tục tài trợ cho những gia đình khác. Nếu cứ tiếp tục mãi tái đầu tư vừa vốn vừa lãi, số gia đình được tài trợ sẽ tăng lên theo số nhân. Và như vậy với vốn ban đầu 100.000 USD chẳng mấy chốc mà giúp đỡ cho hàng vạn gia đình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, và có phương tiện nuôi con đi học. Tôi tin rằng tác động văn hoá xã hội sẽ làm hài lòng vị Tiên Ông có lòng tốt gửi gắm vốn đầu tư.
Tôi mong được các bạn gần xa, trong nước cũng như nước ngoài góp ý. Hay là bạn có những sáng kiến nào khác?
Thân mến chúc các bạn một năm 2005 vui vẻ, mạnh khoẻ, hạnh phúc, mọi sứ tốt lành, thành công thịnh đạt.
B.K.T
|
|