|
Post by chumanhdang on Aug 4, 2004 4:16:32 GMT -5
Rừng ngập mặn là tài sản vô giá Kế hoạch hành động bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn
(Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 123, ngày 2/8/2004, tr.13)
Chương trình Môi trường Liên hợp Quốc (UNEP), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) vừa kết hợp với Viện Lâm nghiệp Việt Nam công bố dự thảo Kế hoạch hành động bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn (RNM) Việt Nam đến năm 2010. Nhóm nghiên cứu đến từ 3 cơ quan trên đã cung cấp thông tin chi tiết về hiện trạng RNM Việt Nam và lên tiếng kêu gọi cần hành động ngay lập tức để bảo vệ, khôi phục và phát triển RNM Việt Nam.
Theo các nhà khoa học, rừng ngập mặn (RNM) Việt Nam phân bố và phát triển mạnh ở miền Nam đặc biệt ở bán đảo Cà mau và Đồng bằng Sông Cửu Long. Ở phía Bắc, các quần thể RNM thấp và nhỏ. Hệ sinh thái RNM Việt Nam khá phong phú về đa dạng sinh học với 37 loài cây ngập mặn và khoảng 70 loài cây tham gia. Trong đó, 18 loài có thể cung cấp dịch nhựa cho nước uống, đường, rượu; 30 loài có thể cung cấp gỗ, than, củi; 14 loài cung cấp tannin; 24 loài có thể dùng làm phân xanh; 21 loài có thể dùng làm dược liệu và phục vụ nuôi ong.
Nguồn lợi thuỷ sản vùng RNM rất phong phú, hiện có tới 258 loài cá. Trong đó hàng chục loài có giá trị kinh tế cao. Có cả những cá thể độc đáo như cá Thủ Vàng (sciena sp) có bong bóng dùng làm chỉ khâu dùng trong y tế có giá từ 150-350 triệu đồng/con. Loài này từng được các nhà khoa học phát hiện tại cửa sông Hồng. Ngoài ra, các loài chim, thú, bò sát cũng rất phong phú ở các khu RNM. Theo đánh giá của các nhà khoa học, tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái RNM đã tạo nên giá trị kinh tế to lớn. Hệ sinh thái rừng đã cung cấp nguồn sinh kế quan trọng và dồi dào cho người dân sống cạnh rừng, đặc biệt là người nghèo nếu như họ biết khai thác một cách hiệu quả và bền vững.
|
|
|
Post by chumanhdang on Aug 4, 2004 4:17:02 GMT -5
Bên cạnh đó, RNM còn có thể được khai thác dưới dạng du lịch sinh thái như khi RNM Cần Giờ, vùng RNM mũi Cà Mau, hay lâm ngư trường 184 huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) đang được khai thác khá hiệu quả. Tương lai nhiều khu bảo tồn thiên nhiên khác như Vườn Quốc gia RNM Xuân Thuỷ (Nam Định), Tiền Hải (Thái Bình), Thạch Phú (Bến Tre) cũng có thể trở thành những khu du lịch sinh thái. Hệ sinh thái RNM tất nhiên còn có vai trò quan trọng trong giữ gìn bảo vệ môi trường, như cố định phù sa, lấn biến, chống xói lở bờ biển, hạn chế tác hại của sóng, gió, bão.
Con người đang phá rừng RNM tự nhiên nguyên sinh hầu như không còn. Khoảng 62% là rừng trồng, còn lại là rừng thứ sinh nghèo hoặc rừng mới tái sinh trên bãi bồi. Tỉnh Minh Hải (cũ) nay là Cà Mau có RNM tốt nhất Việt Nam thì từ năm 1983 đến 1988 mỗi năm mất gần 7000 ha, riêng trong năm 1988-1989 mất tới gần 1 vạn ha. Rừng đặc dụng đất mũi Cà Mau cũng bị chặt phá nuôi tôm và trở thành rừng thứ sinh nghèo kiệt.
Các chuyên gia của Liên hợp Quốc cho biết RNM Việt Nam mất đi chủ yếu do 3 nguyên nhân: Mỹ rải chất độc hoá học (thời kỳ 1962-1972), chuyển sang làm đất nông nghiệp, chặt phá bừa bãi để nuôi trồng thuỷ sản. Bên cạnh đó, ở miền Bắc, việc quai đê lấn biển, mở rộng thành phố cũng làm mất đi một số diện tích rừng ngập mặn. Khai thác gỗ, củi đốt than thiếu ý thức cũng thường xuyên xảy ra gây hại cho RNM. Nhưng đáng kể nhất vẫn là việc phá RNM để nuôi trồng thuỷ sản, mà phổ biến nhất là nuôi tôm trong những năm gần đây. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, diện tích nuôi tôm trong những năm gần đây. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, diện tích nuôi tôm trong RNM năm 1988 là trên 120.000 ha. Quy hoạch thuỷ sản giai đoạn 2000-2010 đã nhấn mạnh việc nghiêm cấm phá RNM để nuôi trồng thuỷ sản do đó việc mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản trong RNM đã giảm xuống. Tuy nhiên, do sức hút của lợi nhuận việc lén lút phá RNM đã giảm xuống. Tuy nhiên, do sức hút của lợi nhuận việc lén lút phá RNM nuôi tôm vẫn diễn ra ở nhiều tỉnh phía nam.
|
|
|
Post by chumanhdang on Aug 4, 2004 4:17:18 GMT -5
Phá RNM nuôi trồng thuỷ sản trước hết sẽ làm mất đi nguồn đa dạng sinh học phong phú của Hệ sinh thái RNM, đồng thời phá vỡ chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái RNM kéo theo sự suy thoái nhanh chóng của một số loài. Theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản, hậu quả thấy rõ là năng suất tôm trong RNM liên tục giảm. Phá RNM để nuôi tôm ảnh hưởng đối với sinh trưởng và phục hồi RNM, thậm chí một số nơi cây RNM bị chết. Nhiều diện tích RNM bị đào sâu làm vuông nuôi tôm dễ bị nhiễm phèn. Theo nghiên cứu của ông Trần Việt Cường, nuôi tôm bán thâm canh ở khu RNM Tiền Hải, Thái Thuỵ, Thái Bình đã làm giảm mạnh độ pH trong đất, tăng lượng amôn, khí sunphua (H2S) và COD vượt ngưỡng cho phép của Tiêu chuẩn Việt Nam rất nhiều. Ngoài ra, chặt phá RNM làm đầm nuôi tôm còn gây xói lở ở các vùng bờ biển, cửa sông như ở Cửa Hội (Hà Tĩnh), cửa sông Trần Đề (Sóc Trăng) và bờ Đầm Nại (Ninh Thuận).
Hãy cứu rừng khi còn hy vọng Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu bản Kế hoạch trên, việc phá RNM để nuôi trồng thuỷ sản hay cho các mục tiêu khác xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng không thể không nhắc đến sự quản lý lỏng lẻo của địa phương. Vì vậy có một hệ thống quản lý Hệ sinh thái RNM tốt ở địa phương thì việc bảo vệ, khôi phục và sử dụng bền vững hệ sinh thái RNM sẽ đạt những kết quả khả quan. Tổ chức quản lý hệ sinh thái RNM cần hướng tới phương thức đồng quản lý, bao gồm chủ rừng, người dân, cộng đồng và các tổ chức đoàn thể. Về mặt chính sách, cần sớm xây dựng khung phá lý phối hợp giữa các ngành trong việc quản lý đất ngập nước trong đó có hệ sinh thái RNM. Các quy định riêng của địa phương được coi trọng nhưng phải phù hợp với các quy định chung. Đồng thời Nhà nước cần chú trọng nhưng phải phù hợp với các quy định chung. Đồng thời Nhà nước cần chú trọng thể chế hoá các chính sách hưởng lợi phù hợp đối với người dân vùng RNM và chính sách giao đất khoán rừng.
Về vốn cho các hoạt động bảo vệ và phát triển RNM, theo nhóm nghiên cứu, nguồn vốn trong nước rất quan trọng và cần được tăng cường hơn nữa. Điểm quan trọng là phải xây dựng được các luận chứng kinh tế kỹ thuật, lập các dự án đầu tư, đặc biệt ở các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia để trình duyệt. Để tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế thì việc nâng cao năng lực, hiệu quả trong hợp tác cần được chú trọng và có giải pháp từng bước nâng cao trình độ cho các cán bộ đáp ứng đòi hỏi của các đối tác. Bên cạnh đó, phát triển du lịch sinh thái tại các khu bảo tồn cũng là một hướng có thể khai thác thêm nguồn vốn cho các hoạt động bảo vệ và quản lý RNM.
Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng những hiểu biết có hệ thống về hệ sinh thái RNM còn nhiều khoảng trống. Vì vậy cần tăng cường công tác nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước cần sớm phổ cập, chuyển giao và mở rộng. Bên cạnh đó việc lồng ghép trong giáo dục về môi trường ở các vùng ven biển về lợi ích của hệ sinh thái RNM rất có ý nghĩa thực tế. Nhóm nghiên cứu khẳng định phải nâng cao đời sống của người dân vùng RNM và làm được việc xã hội hoá nghề rừng. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất và có tính thực tiễn hơn cả góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ, phục hồi và phát triển RNM.
Hà Ngọc Vũ
|
|
|
Post by Robot on Dec 30, 2004 13:02:08 GMT -5
Nuôi tôm và rừng ngập mặn: Bên nào nặng hơn? 14:01' 22/12/2004 (GMT+7)
Dù là nướng, quay, nấu cà ri, rán, hầm hay xào lăn, tôm vẫn là món ăn khoái khẩu của nhiều người trên thế giới. Riêng ở Mỹ, tôm là món đứng đầu tất cả các loại hải sản. Nhưng cái giá phải trả để có được đĩa tôm trên bàn ăn không phải là nhỏ, các nhà môi trường học cho biết.
Được mùa tôm, mất mùa... rừng ngập mặn
Đĩa tôm trên bàn ăn thật là hấp dẫn... Đầu năm nay, báo cáo của Quỹ Công lý Môi trường (EJF) tại London chỉ rõ ra rằng, người phương Tây càng ưa thích tôm hùm, tình trạng môi trường các nước nghèo nhất trên thế giới càng tồi tệ đi. Các trang trại nuôi tôm đang phá vỡ nhiều khu rừng ngập mặn, làm giảm các đàn cá trong tự nhiên, gây ô nhiễm và tăng nguy cơ dịch bệnh đối với các cộng đồng ven biển.
Báo cáo còn tỏ ra hoài nghi về tính bền vững của ngành nuôi tôm ở Thái Lan, Indonesia, Việt Nam, Philippines, Bangladesh và nhiều quốc gia đang phát triển khác. Steve Trent, Giám đốc EJF, nói: "Bản báo cáo của chúng tôi đã chỉ ra một loạt các tác động có hại cho môi trường, phát sinh từ tư tưởng muốn làm giàu nhanh chóng của nông dân nuôi tôm".
Những tác hại mà bản báo cáo đề cập bao gồm phá hủy rừng ngập mặn ven biển; đe dọa sức khỏe con người và thiên nhiên do kháng sinh, thuốc trừ sâu và nhiều chất hóa học khác; nước thải làm ô nhiễm biển; các đàn cá hoang biến mất do mất môi trường sống và vì nhu cầu làm thức ăn cho tôm. Trent nói thêm: "Đã đến lúc ngành thủy sản và chính phủ bắt tay vào chấm dứt hiện tượng lạm dụng này".
Giá trị của ngành nuôi tôm toàn cầu ở vào khoảng 60 tỷ đôla. Năm 2001, tôm chính thức qua mặt cá ngừ đóng hộp để trở thành hải sản được yêu thích nhất ở Mỹ. Nhật Bản là nước tiêu thụ nhiều tôm nhất trên thế giới, nếu tính bình quân đầu người. Khoảng 99% tôm nuôi có nguồn gốc từ các nước đang phát triển ở vùng nhiệt đới như Đông Nam Á. Hiện nay, các nước này đang có khoảng 110.000 trang trại nuôi tôm nước ấm, với diện tích khoảng 1,3 triệu hecta.
Phần lớn các trang trại nuôi tôm đều nằm tại rừng ngập mặn ven biển, một số khu rừng đang bị đe dọa nghiêm trọng bậc nhất trên thế giới. Trên phạm vi toàn cầu, hơn 1/3 diện tích rừng ngập mặn đã biến mất trong vòng 20 năm qua. Trong số đó, 38% là do sự phát triển của các trang trại nuôi tôm.
"Lá chắn" rừng ngập mặn
... Nhưng cái giá phải trả thì không hề nhỏ. Ảnh: Một khu rừng ngập mặn bị phá hủy ở Việt Nam. Bên cạnh việc cung cấp đa dạng sinh học các loài động vật, thực vật, rừng ngập mặn còn có nhiều chức năng quan trọng: chống xói mòn bờ biển, chắn bão nhiệt đới, điều hòa độ mặn của đất, làm nơi trú ngụ và sinh sản cho nhiều loài cá, tôm, cua... Chúng ta có thể hình dung được điều gì sẽ xảy ra khi rừng ngập mặn bị phá hủy.
Sự phát triển của các trang trại nuôi tôm còn gây tổn hại đến các môi trường sống ven biển khác, chẳng hạn như đầm nước ngập mặn, đầm lầy nước ngọt v.v... Báo cáo của EJF cho biết, chất thải từ các trang trại nuôi tôm đã làm chết các rạn san hô và thảm cỏ biển. Chỉ riêng ở Thái Lan, mỗi năm các trang trại nuôi tôm thải ra 1,3 tỷ m3 chất rác bẩn.
Trong khi đó, để tối đa hóa lợi nhuận và chống lại dịch bệnh, người nuôi tôm còn sử dụng rất nhiều loại kháng sinh, thuốc chống nhiễm khuẩn, phân bón, thuốc trừ sâu v.v... Annabelle Aish, nhà nghiên cứu thủy sinh thuộc EJF, cho biết: "Phân bón có thể gây nên hiện tượng quá giàu chất dinh dưỡng khiến thực vật thủy sinh sinh sản mạnh, làm giảm mức ôxy trong nước, trong khi thuốc trừ sâu lại đầu độc sinh vật, dẫn tới hiện tượng tích lũy sinh học trong chuỗi thức ăn. Thuốc kháng sinh, thường được dùng không đúng cách và quá liều vì sợ bệnh tật, làm ảnh hưởng đến các hoạt động vi khuẩn tự nhiên, tạo điều kiện cho các mầm bệnh kháng thuốc phát triển. Các tác động này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi mất đi rừng ngập mặn và đầm lầy, vốn có chức năng lọc ô nhiễm".
Riêng đối với thuốc kháng sinh oxytetracycline được sử dụng khá phổ biến, các nhà nghiên cứu cho biết khoảng 95% không phát huy tác dụng với tôm mà lọt ra ngoài môi trường. Theo báo cáo của Hội Vi sinh học Mỹ năm 1995, sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản là nguyên nhân hàng đầu gây nên hiện tượng tiến hóa vi khuẩn kháng thuốc ở người. Theo một cuộc nghiên cứu mới đây ở Thái Lan, 77% vi khuẩn ở trang trại nuôi tôm có khả năng kháng ít nhất là một loại kháng sinh.
Báo cáo của EJF còn nhấn mạnh rằng, nhu cầu tôm nước ấm ngày càng tăng ở phương Tây đã dẫn tới phong cách nuôi trồng thủy sản "chặt và đốt", bởi vì hệ thống ao hồ lớn tự đào sẽ bị bỏ hoang sau 5 - 6 năm vì lý do bệnh tật và chất lượng nước xuống cấp. Chỉ riêng ở vùng thượng Vịnh Thái Lan, 40.000 hecta trang trại đã bị bỏ hoang trong năm 2000, với 90% người nuôi tôm bỏ nghề.
EJF cho biết, thay cho các hệ thống thâm canh, nông dân nên áp dụng các phương pháp nuôi tôm bền vững hơn, chẳng hạn như đa canh. "Đa canh" là phương pháp canh tác truyền thống ở châu Á, nuôi trồng một số loài cùng nhau trên một diện tích nước, giúp hạn chế nguy cơ dịch bệnh và đối phó với điều kiện thị trường thay đổi. Bên cạnh đó, nên xây dựng mô hình "trang trại hữu cơ" - chủ trang trại phải cam kết sử dụng các loại hợp chất không độc hại, thay cho thuốc trừ sâu, phân bón hóa học và kháng sinh, đồng thời giảm thức ăn làm từ cá".
Khánh Hà (Tổng hợp)
|
|