|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:43:34 GMT -5
Rừng ngập mặn đảo Phú Quốc: Làn mi cong sắp bị vặt trụi! 20:11' 21/03/2004 (GMT+7) (VietNamNet) - 20 năm trước, GS Phạm Hoàng Hộ có mô tả một khu rừng ngập mặn rất phong phú ở cửa rạch Hàm Ninh. Nay, khu rừng ấy chỉ còn lại vài cây đước cây mắm trơ trọi, vết tích của một thời huy hoàng xưa. Tốc độ phát triển kinh tế quá nhanh đặt những hệ sinh thái nhạy cảm như rừng ngập mặn vào tình thế nguy hiểm đến sự tồn tại. Khi nào sẽ đến lượt rạch Tràm, rạch Đầm, rạch Cá, Cửa Cạn, Cửa Lấp? Ghi nhận và báo động từ TS Trần Triết, ĐH Khoa học Tự nhiên TP.HCM. Rạch Tràm Phú Quốc: Vẻ đẹp sinh thái của rừng ngập mặn này bao giờ bị xóa sổ? ... Hơn 30km đường đồi dốc chông chênh xuyên rừng Bắc đảo. Nước ngập sâu, xe gắn máy không thể đi tiếp. Thêm 2km bì bỏm lội qua các trảng cỏ và đầm lầy rừng Tràm, bùn níu chặt lấy chân như không dứt ra được. Cuối cùng thì Tuấn cán bộ kiểm lâm của Vườn Quốc gia Phú Quốc cũng đưa được chúng tôi đến bờ rạch Tràm. Rừng hoang sơ, rạch nước thong dong. Bọn chúng tôi chia nhau tiến hành các khảo sát trong chương trình thực tập tìm hiểu các hệ sinh thái đất ngập nước ở đảo Phú Quốc. Một mẫu cây với lá thuôn nhỏ, cuống đỏ thẫm, thu hút sự chú ý. Tài liệu phân loại nhanh chóng được lật ra. Đúng rồi! Chính là cây Cóc đỏ (Lumnitzera littorea), một loài cây rừng ngập mặn có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, hiếm đến độ số lượng cá thể của chúng trên toàn bộ hơn 40.000 hecta rừng Cần Giờ ở TP.HCM chỉ đếm được vài cây. Niềm vui đến thật bất ngờ, xua tan bao nỗi mệt nhọc. Rạch Tràm là một sông nhỏ, đổ ra biển phía bờ Bắc của đảo. Đoạn gần cửa biển, rừng ngập mặn chiếm một rìa hẹp ven rạch, có khi chưa đến mươi mét. Sau rừng ngập mặn là rừng tràm, rồi đến ngay thềm cao với rừng thường xanh. Đứng trên mỏm đất gần cửa Rạch Tràm, ta có thể thấy cả ba giai đoạn diễn thế thảm thực vật cùng hiện diện chỉ trong một khoảng cách chưa tới trăm mét. Lý thuyết sinh thái hiển hiện ngay trước mắt, đẹp như trong sách! Cây Cóc đỏ (Lumnitzera littorea) nay đã vào Sách Đỏ Việt Nam do đang ở sát mép bờ vực tuyệt chủng. Ngoại trừ rạch Dương Đông và rạch Hàm Ninh là tương đối lớn, các dòng chảy khác trên đảo Phú Quốc đều nhỏ. Trong khu vực bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia ở phía Bắc đảo có nhiều dòng nước nhỏ như vậy. Chúng được bảo vệ từ nguồn cho tới nơi chúng đổ ra biển, làm nên những phòng thí nghiệm thiên nhiên tuyệt vời cho nghiên cứu sinh học thực địa, đặc biệt là sinh thái học. Trên những dòng nước ấy, ở đoạn sông giao hòa với biển, mặn ngọt gặp nhau, chính là nơi rừng ngập mặn hiện diện. Điểm đặc biệt của rừng ngập mặn đảo Phú Quốc là phần lớn chỉ mọc trên nền cát và phân bố thành một dãy rất hẹp dọc hai bên sông. Các yếu tố nầy tạo nên tính đặc sắc nhưng đồng thời cũng làm cho sự tồn tại của rừng ngập mặn ở đảo Phú Quốc rất mong manh. Mong manh vì khi chúng mất đi thì khó mà có thể phục hồi được. Diện tích nhỏ hẹp làm cho việc mất trắng rừng ngập mặn trên một dòng rạch rất dễ xảy ra. Nền cát nghèo dinh dưỡng và sự thay đổi tính chất dòng chảy sau khi rừng mất đi có thể làm cho việc tái sinh cây rừng ngập mặn là một điều vô vọng.
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:44:46 GMT -5
(t.t)
Nếu ví đảo Phú Quốc như một nàng kiều nữ, thì rừng ngập mặn trên đảo chính là làn mi cong trên khuôn mặt đẹp. Làn mi duyên dáng ấy mà bị vặt trụi thì sắc đẹp sẽ giảm đi nhiều lắm. Tạo hóa có lẽ không tạo ra làn mi chỉ để trang điểm, chúng phải có vai trò trong việc bảo vệ đôi mắt. Rừng ngập mặn trên đảo Phú Quốc cũng vậy. Không chỉ điểm xuyến cho vẽ đẹp của cảnh quan, chúng còn đảm trách những vai trò sinh môi trọng yếu, một mắt xích quan trọng trong chuỗi sinh thái từ nước lên cạn.
Phát triển trái khoáy Thực tế phát triển đang ẩn hiện nhiều trò trái khoáy. Đồ thiệt không biết xài, lại ham xài đồ giả: Hăm hở đốn hạ cây rừng rồi lại xum xoe chăm bón... cây cảnh!
Những hàng phi lao thay cho cây đước, cây mắm ở cửa rạch!
Đầm lầy bản địa lấp đi, thay bằng những bãi cỏ ngoại nhập!
Những khối bê tông thô kệch xé toạt cảnh quan tự nhiên!
Du lịch sinh thái được hiểu như là... nhậu thịt rừng, ăn hải sản tươi sống, tắm hồ bơi ở biển, cỡi ngựa cỡi voi cả ở những chỗ ngựa voi không hề sinh sống! Viếng thăm đảo Phú Quốc lúc nầy, ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng áp lực phát triển kinh tế đang bắt đầu đè nặng lên thiên nhiên của đảo. Các khu nghỉ mát to lớn đang mọc lên, giá đất tăng từng ngày, đường sá thênh thang, sân bay mở rộng, máy bay tăng chuyến, tàu cao tốc vào ra nườm nượp. Nàng kiều nữ giật mình trở dậy, ngỡ ngàng trước bao sự chộn rộn.
Tốc độ phát triển quá nhanh đặt những hệ sinh thái nhạy cảm như rừng ngập mặn vào tình thế nguy hiểm đến sự tồn tại. Rạch Cửa Lấp hiện còn một đầm nước lợ (lagoon) với rừng ngập mặn rất đẹp mặc dù không nằm trong phạm vi của Vườn Quốc gia. Một công ty lớn ở TP.HCM đã giành được quyền khai thác du lịch trên vùng bãi biển ở hai bên cửa rạch. Một công viên nước sẽ được dựng lên và nghe nói có cả kế hoạch xây cầu cảng bằng bê tông ngay cửa rạch để tàu du lịch có thể cặp bến. Hình ảnh nàng kiều nữ với làn mi bị vặt trụi hiện rõ trong chúng tôi hơn bao giờ hết!
20 năm trước, GS Phạm Hoàng Hộ có mô tả một khu rừng ngập mặn rất phong phú ở cửa rạch Hàm Ninh. Nay, khu rừng ấy chỉ còn lại vài cây đước cây mắm trơ trọi, vết tích của một thời huy hoàng xưa. Khi nào sẽ đến lượt rạch Tràm, rạch Đầm, rạch Cá, Cửa Cạn, Cửa Lấp?
Tiềm năng phong phú của đảo Phú Quốc cần được huy động, vẻ đẹp của đảo cần được giới thiệu và chiêm ngưỡng. Thử thách lớn nhất đối với chính quyền địa phương chính là việc có được bản lĩnh và nghệ thuật quản lý sao cho sự phát triển được lèo lái theo cách không làm tổn hại đến thiên nhiên.
Thực tế phát triển đang ẩn hiện nhiều trò trái khoáy. Đồ thiệt không biết xài, lại ham xài đồ giả! Hăm hở đốn hạ cây rừng rồi lại xum xoe chăm bón... cây cảnh! Những hàng phi lao thay cho cây đước, cây mắm ở cửa rạch! Đầm lầy bản địa lấp đi, thay bằng những bãi cỏ ngoại nhập! Những khối bê tông thô kệch xé toạt cảnh quan tự nhiên! Du lịch sinh thái được hiểu như là... nhậu thịt rừng, ăn hải sản tươi sống, tắm hồ bơi ở biển, cỡi ngựa cỡi voi cả ở những chỗ ngựa voi không hề sinh sống!
Chính quyền cần có sự sáng suốt và dũng khí để uốn nắn những ấu trĩ đó!
Du khách cũng cần chăm chút cho thị hiếu thưởng ngoạn của mình.
Cầu mong cho thiên nhiên của đảo được bình yên!
TS Trần Triết (Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 10:08:35 GMT -5
Các loài tre kêu cứu Một tin cực xấu, không chỉ với gấu trúc: Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc (LHQ), 50% trong tổng số 1.200 loài tre trên thế giới có nguy cơ tuyệt chủng. Con người cần hành động khẩn cấp để bảo vệ loại thực vật này cũng như các sinh vật phụ thuộc vào chúng. Linh dương núi phụ thuộc vào tre để lấy thức ăn và nơi cư ngụ. Nạn phá rừng đang cướp đi môi trường sống bản địa của nhiều loài tre. Tuy nhiên, giới khoa học vẫn chưa hiểu rõ tác động này đối với sự phân bố của chúng vì nhiều khu vực nơi tre mọc ở rất xa. Để tìm hiểu bao nhiêu tre còn lại trong tự nhiên, các nhà nghiên cứu thuộc Mạng lưới Mây Tre quốc tế và Trung tâm Giám sát Bảo tồn thế giới thuộc UNEP đã kết hợp hàng trăm báo cáo khoa học về sự phân bố của các loài tre khác nhau với bản đồ toàn cầu về độ che phủ rừng và tạo ra một lược đồ về các điểm nóng của tre. Họ phát hiện khoảng 600 loài tre đang có nguy cơ tuyệt chủng và môi trường sống bản địa của chúng rộng chưa đầy 20.000km2. Khoảng 250 loài tre còn chưa tới 2.000km2 đất (bằng kích cỡ của London) để sinh trưởng. Nhà sinh thái học Valerie Kapos, người giúp soạn thảo báo cáo, cho biết: ''Một vài loài tre không còn chỗ để mọc''. Một trong những lý do tre bị ảnh hưởng mạnh tới như vậy là bởi chu kỳ ra hoa và chết hàng loạt đặc trưng của chúng. Các cá thể trong một loài có xu hướng ra hoa cùng nhau, khoảng 10-100 năm/lần và sau đó tàn lụi. Nếu một khu rừng bị phát quang vào thời điểm này, tre sẽ không mọc trở lại. www.vnn.vn/dataimages/normal/images173110_gautruc110505.jpg [/img] Lá tre, món khoái khẩu của gấu trúc. Tre tuyệt chủng sẽ kéo theo nhiều loài cùng "ngã" với nó. Đó là những loài phụ thuộc hoàn toàn vào tre để kiếm thức ăn và cư ngụ, như vượn cáo, gấu trúc lớn, khỉ đột gorillas. Tre tuyệt chủng cũng là tin xấu đối với con người. Hàng triệu người dựa vào tre để kiếm thức ăn, nguyên liệu làm vật dụng và vật liệu xây dựng. Trên toàn thế giới có hơn 2,5 tỷ người buôn bán và sử dụng tre. Thị trường buôn bán các sản phẩm tre quốc tế trị giá hơn hai tỷ USD mỗi năm, ngang bằng doanh số ngành thịt bò của Mỹ. Có nhiều loài tre khác nhau bao gồm tre gỗ, tre trèo và tre cỏ. Tre gỗ được tìm thấy ở châu Á, rừng Amazone, dãy núi Andes, và thậm chí là một số sa mạc châu Phi. Tại châu Á, tre gỗ là nguồn thức ăn đối với gấu trúc lớn và gấu trúc đỏ. Theo ước tính, có khoảng 1.000 gấu trúc lớn trong thiên nhiên, mỗi cá thể ăn chừng 38kg lá tre mỗi ngày. Nhà bảo tồn Andrew Laurie thuộc Cơ quan Môi trường Toàn cầu cho biết: ''Không nghi ngờ gì nữa, gấu trúc sẽ không tồn tại nếu vắng bóng tre''. Phá rừng cũng làm phân tán môi trường sống của loài này, dẫn tới những nhóm gấu trúc nhỏ, bị cô lập. Các nhóm bị cô lập có thể lai cùng dòng và chắc chắn bị tuyệt chủng. Gorilla đang ăn búp tre. Loài dơi nhỏ nhất thế giới (Tylonycteris pachypus) cũng phụ thuộc vào tre. Loài động vật châu Á có kích cỡ bằng con tem thư này đậu giữa những mấu tre trưởng thành cũng như chui vào những lỗ trên thân tre do bọ cánh cứng tạo ra. Tại châu Phi, loài khỉ đột gorilla (Gorilla gorilla beringei) và bongo núi (một loại linh dương) phụ thuộc vào tre để lấy thức ăn và nơi ở. Tại Madagascar, vượn cáo, ếch tre và loài rùa hiếm nhất thế giới (Geochelone yniphora) cũng gặp những nguy cơ tương tự khi tre trên bờ vực tuyệt chủng. Rừng tre. Tại rừng Amazone, các diện tích rừng lớn hoàn toàn bị tre bao phủ. Gấu có vòng quanh mắt (Tremarctos ornatus) và heo vòi (Tapirus pinchaque) ăn một lượng lớn lá tre và có tới 5% tổng số loài chim trong khu vực này phụ thuộc vào tre. Kapos cho biết: ''Tuy nhiên, vẫn chưa quá muộn để cứu tre''. Bà hy vọng Liên minh Bảo tồn Thế giới, tổ chức liệt kê các loài có nguy cơ tuyệt chủng, sẽ sử dụng kết quả khảo sát trên để hoạch định các chính sách bảo tồn tre trong tương lai. Minh Sơn (Theo Nature)
|
|
|
Post by Robot on Jul 15, 2004 4:00:08 GMT -5
Đà Nẵng: Rừng có nguy cơ chết trụi vì dây leo
Hàng ngàn héc-ta rừng trồng đang chết dần từng ngày nhưng ngành kiểm lâm và các hộ trồng rừng ở Đà Nẵng đều bất lực. Nhiều đoàn nghiên cứu đến rồi đi vẫn chưa giúp được ngành kiểm lâm giải pháp "trị" loại dây leo này... Đây là một trong những nội dung về môi trường trên các báo xuất bản trong hôm nay.
Kỳ họp thứ 2 HĐND TP.HCM khoá VII: Tập trung xoá ngập nước nội thị...
Phó chủ tịch thường trực UBND TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân cho biết: Sắp tới, Thành phố sẽ tập trung giải quyết nhiều vấn đề tồn đọng, nhất là những vấn đề đầu tư xây dựng cơ bản, liên quan sát sườn đến đời sống người dân. Đó là tập trung xoá ngập nước nội thị, cấp nước sạch và xử lý chất thải. Tập trung các dự án về cầu đường, khu đô thị mới, khu tái định cư, các khu chung cư cho người thu nhập thấp, cho công nhân các Khu Công nghiệp (KCN) tập trung.
Cụ thể, sẽ khởi công một số dự án lớn để tạo sự chuyển động trong xây dựng cơ bản như đại lộ Đông - Tây và hầm qua Thủ Thiêm, cầu Thủ Thiêm, cầu đường Nguyễn Văn Cừ, đường Trường Chinh nối đường Cộng Hoà với tuyến đường Xuyên Á, nhà máy nước sông Sài Gòn giai đoạn II, mạng đường ống phía Đông, KCN Tân Phú Trung, cụm công nghiệp cơ khí ô-tô ở Củ Chi; các bệnh viện, trung tâm y tế cửa ngõ Thành phố.
Một phó chủ tịch khác - ông Nguyễn Văn Đua báo cáo trước HĐND TP.HCM về phương án thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn. Theo đó, tất cả các hộ gia đình, đơn vị tổ chức không phân biệt nguồn nước sử dụng đều phải chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt ngoại trừ các hộ ở Cần Giờ, một phần huyện Nhà Bè và những nơi chưa có hệ thống cấp nước sạch được kiểm soát chất lượng. Ông Đua đề nghị có hai mức thu phí là 250đ/m3 nước sử dụng đối với hộ sử dụng nước sinh hoạt trong định mức 4m3/người/tháng, và 400đ/m3 đối với các trường hợp còn lại. Mức thu phí này được áp dụng cho sáu tháng cuối năm 2004 và năm 2005. (Theo Tiền Phong)
|
|
|
Post by Robot on Jul 15, 2004 4:00:46 GMT -5
Hàng ngàn hécta rừng ở Đà Nẵng: Nguy cơ chết trụi vì dây leo Nạn dây leo xâm thực rừng không phải là chuyện lạ, nhưng với tốc độ lây lan nhanh, độ che phủ lớn của dây leo lạ trên các khu rừng đặc dụng ở Đà Nẵng đã đến hồi báo động khẩn thiết. Hàng ngàn héc-ta rừng trồng đang chết dần từng ngày nhưng ngành kiểm lâm và các hộ trồng rừng đều bất lực. Nhiều đoàn nghiên cứu đến rồi đi vẫn chưa giúp được Kiểm lâm Đà Nẵng giải pháp "trị" loại dây leo này... Phá rừng hơn lâm tặc
Chẳng ai để ý và không người nào nhớ loài dây leo lạ này du nhập đến Đà Nẵng từ khi nào. Đến khi chúng thực sự gây chú ý là lúc xuất hiện những vạt hoa vàng nở rộ đẹp mắt trên những mảng lá xanh pha màu bạc ánh kim, trải dài trên những tán thông Ca-ri-bê ở phía Nam đèo Hải Vân. Cũng chính lúc đó, ngành kiểm lâm Đà Nẵng hốt hoảng vì sự xâm thực táo bạo của loài dây leo lạ này.
Ông Trần Huy Độ, trưởng Ban quản lý Rừng đặc dụng Nam Hải Vân cho biết: Từ năm 1999, dây lạ (người dân thường gọi là "dây lan rừng" hay lá bợt - mô tả màu bạc ánh kim) bắt đầu phát triển mạnh. Từ các khe, suối, bìa rừng, loài cây lạ này xông lên, leo đè luôn cánh rừng thông, rừng keo lá tràm và lan toả với tốc độ nhanh. Nguy hại hơn là những tán lá rộng và dày đặc đã che kín không gian của các loại cây khác làm rừng và cả thảm thực vật bên dưới chết dần vì thiếu ánh sáng. "Dây lan rừng" này phát triển nhanh là vì chúng có thể phát tán bằng hạt, chồi, thân hoặc rễ. Dây bò đến đâu, rễ bén đến đó và phát triển thành gốc mới. Thân dây có đường kính 15-20cm thậm chí to hơn, tuỳ theo vùng đất chúng bám trụ.
Trước tình hình như vậy, Ban quản lý Rừng đặc dụng Nam Hải Vân đã làm tờ trình gửi Chi cục Kiểm lâm, Sở Thuỷ Sản Nông Lâm Thành phố. Các cơ quan chức năng đã vào cuộc, cán bộ kỹ thuật của Sở cũng đã lấy mẫu nghiên cứu nhưng vẫn chưa chính thức khẳng định loại cây gì, xuất xứ ở đâu và du nhập vào Việt Nam từ khi nào.
Chính vì thế mà không tìm được một loại hoá chất hoặc vi sinh gì để tiệt trừ sự xâm thực của loại cây này. Trong hai năm 2000 và 2001, UBND Thành phố đã trích kinh phí để tận diệt nó bằng biện pháp thủ công: rứt dây, đào gốc, băm vụn thân, lá và phơi khô để đốt. Tuy nhiên, với khoản tiền 300.000 đồng cho 1ha là quá lớn khi diện tích xâm thực đã lên đến hơn 1.000ha trên tổng số hơn 5.000ha rừng trồng. Sau khi diệt được 40ha, hết... kinh phí, ngành kiểm lâm và các hộ nông dân trồng rừng đành khoanh tay nhìn sự tái lấn chiếm của "dây lan rừng" và sự chết dần của những cánh rừng trồng.
Không thể khoanh tay nhìn mãi
Đó là quyết tâm của ngành kiểm lâm Đà Nẵng, nhưng ngăn chặn sự xâm thực của lan rừng này bằng giải pháp gì thì đến nay vẫn chưa tìm được. Kỹ sư Hồ Ngọc Lượng, phó Ban Quản lý Rừng đặc dụng Nam Hải Vân - một trong những "chuyên gia" đối đầu với giống dây leo lạ từ nhiều năm nay bức xúc: Không những rừng Nam Hải Vân mà hiện nay "lan rừng" đã phát tán sang Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà và bắt đầu "tấn công" rừng Bà Nà (các vùng rừng liền kề ).
Theo ông Lượng, "vấn nạn" này đã thành nguy cơ cần báo động khẩn thiết: "Ngoài việc trông nhờ sự trợ giúp của các nhà khoa học, chúng tôi sẽ lập một dự án triệt trừ "lan rừng" bằng phương pháp thủ công, kinh phí hơi khó khăn nhưng không thể để chúng phát triển tự nhiên mãi được. Ít nhất phải phát ranh để cô lập từng khu vực không cho chúng lây lan"!
Được biết, loại lan này là thức ăn ưa thích của heo, thỏ nhưng chúng bò trên những tán cây cao hàng chục mét như thế, con người cũng không leo hái nổi.
Qua khảo sát sơ bộ tại Rừng đặc dụng Nam Hải Vân và Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà, Chi cục Kiểm lâm Đà Nẵng bước đầu tạm xác nhận "dây lan rừng" này là loại bìm bìm có tên khoa học là Bois (Merremia boisiana) và bìm Eberhardt (Ipomoea Eberhardtii). Theo nhận định chung của giới chuyên môn thì ngoài việc "cướp" ánh sáng, loài thực vật này còn tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng do khả năng tích luỹ khối lượng vật liệu cháy lớn (lá khô, cành khô, bản lá to và nhiều). Thậm chí khả năng bắt lửa rất nhanh kể cả lá, nhánh còn xanh.
Ông Nguyễn Mạnh Tiến, trưởng Phòng Quản lý Bảo vệ Rừng, Chi cục Kiểm lâm Đà Nẵng cho biết: "Từ đầu năm tới nay, đã có chín vụ cháy rừng, trong đó phần lớn các vụ cháy xảy ra nơi có bìm bìm. Mới đây, ngày 11/7, vụ cháy 0,5ha rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà có nguyên nhân từ dây bìm bìm".
Trong lúc ngành kiểm lâm và người trồng rừng chờ chủ trương, chờ các biện pháp tiệt trừ khoa học, hữu hiệu thì loài "lan rừng" đang mặc sức phát triển tự nhiên với tốc độ lây lan nhanh đáng lo ngại. Do vậy, việc nhanh chóng tìm ra các biện pháp để hạn chế, tiêu diệt dây lan này là cấp thiết. Nếu chần chừ, chỉ trong thời gian ngắn, diện tích rừng bị xâm thực sẽ lớn khủng khiếp và việc tiêu diệt sẽ khó khăn hơn. (Theo Lao Động)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 19, 2004 6:16:31 GMT -5
10 năm, khi rừng tăng gấp rưỡi
Vì sự nghiệp mười năm trồng cây; vì sự nghiệp trăm năm trồng người. Những chu kỳ “trồng” đó đủ để đưa ra những đánh giá cần thiết mà không bị coi là vội vàng về hai sự nghiệp này.
Trong sự nghiệp trồng cây của Việt Nam thì rừng luôn luôn là đối tượng hàng đầu bởi địa bàn của rừng chiếm tới 1/3 tổng diện tích tự nhiên của quốc gia. Nếu năm 1943, cả nước có 14 triệu ha rừng thì sau 5 chu kỳ mười năm, đến năm 1992 diện tích rừng chỉ còn lại 7,3 triệu ha, tức là giảm mất 48%. Không ai có thể cho rằng đó là 5 chu kỳ thành công và sự nghiệp trồng cây của Việt Nam.
Tại chu kỳ mười năm từ 1994 đến 2003, diện tích rừng đã tăng liên tục từ 7,7 triệu ha lên 11,7 triệu ha, tức là tăng lên gấp rưỡi. Với số tăng này, rừng Việt Nam đã bù đắp được (tuy chất lượng còn thấp) 4 triệu ha trong tổng số 6,7 triệu ha đã bị phá hủy trong 5 chu kỳ trước. Không ai có thể cho rằng mười năm 1994-2003 là chu kỳ không thành công của Việt Nam về sự nghiệp trồng cây. Với thành tựu này, màu xanh trên lãnh thổ Việt Nam đã được cải thiện tốt hơn; môi trường tự nhiên của quốc gia bớt đi được đôi phần ô nhiễm từ quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa thiếu cẩn trọng tại một số trung tâm gây ra; lũ lụt và hạn hán bớt đi sự gay gắt tại một số miền, vùng...
Rừng tăng gấp rưỡi trong mười năm qua đã đem lại những lợi ích chung không thể bác bỏ, tuy nhiên không thể không bàn luận đôi điều về lợi ích riêng của người dân miệt rừng. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê về thu nhập tính theo đầu người thì năm 1994, người dân vùng đông bắc, tây bắc và Tây Nguyên đạt bình quân 165 nghìn đồng/tháng, trong khi vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ đạt 207 nghìn đồng/tháng. Theo đó có thể thấy thu nhập của người dân miệt đồng bằng và thành phố cao gấp 1,25 lần so với miệt rừng; năm 2003, các chỉ số trên lần lượt là 234 nghìn đồng/tháng, 450 nghìn đồng/tháng và 1,92. Như vậy, khoảng cách của hai loại thu nhập này trong mười năm 1994-2003 đã tăng lên gấp 1,5 lần (1,92/1,25).
Rừng tăng 1,5 lần, khoảng cách thu nhập giữa người dân miệt rừng so với miệt đồng bằng và thành phố cũng tăng lên 1,5 lần. Phải chăng càng làm cho rừng tốt lên thì thu nhập của người dân miệt rừng càng thấp xa hơn so với miệt đồng bằng và thành phố ? Thực tế của chu kỳ mười năm 1994-2003 đã là như vậy, nhưng những chu kỳ tiếp theo, thực trạng này sẽ được cải thiện nếu người chăm sóc, bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng được trả công xứng đáng hơn hiện nay từ chính thu nhập do loại rừng này tạo ra. và nếu toàn bộ rừng sản xuất (chiếm khoảng 50% tổng diện tích rừng) đều được vận hành theo cơ chế thị trường và sự điều tiết có hiệu quả của Nhà nước thì khoảng cách thu nhập của người dân miệt rừng so với thu nhập của người dân miệt đồng bằng và thành phố sẽ thu hẹp lại, không doãng ra theo những gì đã thấy tại chu kỳ mười năm 1994-2003.
TS Đinh Đức Sinh
|
|
|
Post by Oshin on Nov 12, 2004 13:48:41 GMT -5
ASEAN chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác bảo vệ rừng (Vnexpress, 10/11/004)
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về khói mù (AMMH) lần thứ 11 hôm nay (10/11) tại Hà Nội thảo luận về biện pháp và kêu gọi tăng cường hợp tác, giải quyết toàn diện các vấn đề liên quan đến khói mù do cháy đất và rừng trong khu vực.
Bộ trưởng Môi trường các nước ASEAN trong Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về khói mù lần thứ 11 (Ảnh: N.Đoàn) Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm cho rằng việc các nước ASEAN cùng chia sẻ trách nhiệm giải quyết ô nhiễm khói mù xuyên biên giới và những vấn đề môi trường khác trong khu vực là hết sức quan trọng và cần thiết. Với sự hợp tác này, các nước ASEAN sẽ tăng cường khả năng phòng ngừa cháy đất, cháy rừng, giảm đến mức thấp nhất thiệt hại do lửa và khói gây ra.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực cũng cho rằng, Việt Nam nhận thức hết sức sâu sắc tầm quan trọng của việc phối hợp phòng chống ô nhiễm khói mù giữa các nước trong khu vực.
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về khói mù (AMMH) lần thứ 11 nhận định, nạn cháy rừng ở hầu hết các nước trong khu vực chủ yếu là do tình trạng du canh du cư, đốt rừng làm rẫy và một số nguyên nhân khác như tình trạng thu thập những sản phẩm phi gỗ (đốt đuốc tìm mật ong). Cháy rừng đôi khu xảy ra còn do chính khách du lịch vứt bừa bãi rác thải và các chất dễ cháy tại các khu du lịch...
Các hoạt động về khói mù được khởi xướng sau thảm hoạ khói mù lớn nhất trong lịch sử ASEAN xảy ra vào năm 1997 gây hậu quả nghiêm trọng trong khu vực, đặc biệt là Indonesia, Malaisia và Singapore.
Các nước ASEAN đã hành động tập thể một cách mau lẹ: Từ tháng 6/1995 các Bộ trưởng đã thống nhất xây dựng Kế hoạch Hợp tác ASEAN về ô nhiễm xuyên biên giới, sau đó là Kế hoạch hành động khu vực về khói mù), Hiệp định ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên biên giới (có hiệu lực từ tháng 11/2003). Hiện các nước ASEAN đã triển khai nhiều biện pháp tích cực để phòng chống cháy rừng, như giảm canh tác du canh du cư, cấp đất cho người dân ổn định cuộc sống, phân rừng cho người bảo vệ rừng ở Việt Nam. Ở Lào, đã thực hiện kế hoạch quản lý và chuyển đổi về sinh kế cho người dân địa phương với cam kết hạn chế tối đa việc chặt cây phá rừng. Mianma với 50% đất rừng và 700.000 ha rừng, hơn 100 điểm nóng khác nhau với 630 vụ cháy năm 2003 cũng đã thực hiện biện pháp định cư ổn định cho dân, phòng chống khai thác gỗ, xây dựng các đội cứu hỏa, từng người dân giám sát rừng và thông báo cho trạm phòng cháy...
Đặc biệt, công tác tuyên truyền, giúp toàn dân nhận thức sự nguy hại của hiểm hoạ cháy rừng đều đã được triển khai ở các nước ASEAN. Philippin đã thực hiện 3 biện pháp liên quan đến văn hoá (ngăn ngừa, chuẩn bị và giảm thiểu); cán bộ kiểm lâm trao đổi với dân từng thôn bản, đến tận trường học hướng dẫn cho học sinh, tăng cường đào tạo đội ngũ cứu hoả, sử dụng phương tiện thông tin đại chúng (nhất là radio) tuyên truyền bảo vệ rừng. Chính phủ Campuchia thì có một hệ thống theo dõi cháy rừng, bảo vệ rừng quý và phát huy lợi thế của các kiểm lâm viên trong việc bảo vệ rừng. Indonesia tích cực thực hiện 3 biện pháp hàng động - nỗ lực - ngăn ngừa trong việc xây dựng hệ thống cảnh báo cháy rừng, thành lập hệ thống tự động cảnh báo cháy rừng ở 5 địa phương dễ cháy rừng và tăng cường sự tham gia tự nguyện của dân địa phương trong việc bảo vệ rừng.
Một số nước có nguy cơ cháy rừng cao đã xây dựng được hệ thống phòng chống và bảo vệ rừng quy mô, như Thái Lan có tới 1.362 trạm quan sát, 52 trung tâm phối hợp hoạt động về phòng chống cháy rừng, 164 trạm theo dõi cháy rừng trên toàn quốc, 64 đội cứu hoả chuyên trách. Việt Namđã thành lập Ban Phòng chống cháy rừng từ trung ương đến địa phương với hơn 20.000 nhóm bảo vệ rừng cộng đồng, 4.000 kiểm lâm viên hỗ trợ các địa phương, đưa ra 5 mức dự báo cháy rừng, 11.000 trạm theo dõi. Chính vì vậy, các nước này đã có biện pháp giám sát chất lượng không khí kiên tục để hỗ trợ cho công tác cảnh báo; dự báo sớm và sẵn sàng đối phó với nạn cháy rừng.
Trong Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về khói mù lần thứ 11, Nhóm đặc nhiệm Kỹ thuật của ASEAN về khói mù cũng báo cáo về tình hình thời tiết, dự báo cháy rừng, tình hình khói mù trong khu vực; hướng dẫn các quy trình, quy chuẩn trong việc cấm hoàn toàn đốt rừng ở các nước; triển khai hệ thống cảnh báo sớm toàn diện của khu vực để hỗ trợ thực hiện công việc chống khói mù...
Hội nghị cũng bàn một số vấn đề triển khai Hội nghị thứ nhất các bên tham gia Hiệp định ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên biên giới (COP 1) sẽ diễn ra vào ngày mai (11/11).
Kiều Minh
|
|