|
Mật ong
Apr 19, 2004 17:08:22 GMT -5
Post by Oshin on Apr 19, 2004 17:08:22 GMT -5
Săn mật ong vách núi: Những thách thức mới Hai năm một lần, hàng đoàn người lại tụ tập dưới chân núi Himalaya thuộc miền trung Nepal, nơi cư ngụ của loài ong mật lớn nhất thế giới, Apis laboriosa. Theo truyền thống lâu đời của người dân địa phương, mùa thu hoạch mật ong trên vách đá Himalaya bắt đầu...Ong vách núi và cuộc sống bản địa Thợ săn phải treo mình trên thang dây cheo leo giữa những vách đá dựng đứng. Trước khi bắt đầu mùa thu hoạch, mọi người đều phải tiến hành nghi lễ vào mùa. Tuỳ theo từng cộng đồng, nghi lễ này có thể thay đổi chút ít, nhưng thường bao gồm một bài tế và lễ dâng hoa tươi, trái cây và gạo. Sau đó, một ngọn lửa sẽ được nhóm lên dưới chân vách đá để tạo khói, xua lũ ong ra khỏi tổ. Từ trên cao, một thợ săn ong bám lấy chiếc thang dây, tụt dần từ trên vách đá xuống. Trong khi những người cùng nhóm giữ lấy chiếc thang và liên tục chuyển đồ nghề cần thiết lên xuống theo yêu cầu, người thợ chính vừa phải chiến đấu với lũ ong vừa nhanh chóng cắt lấy những tảng mật ra khỏi tổ. Đã hàng trăm năm nay, mọi ngón nghề cần thiết cho công việc nguy hiểm này được truyền từ đời này sang đời nọ. Nhưng giờ đây, cả ong lẫn thợ săn ong đều đang dần trở nên khan hiếm. Farooq Ahmad, điều phối viên Dự án Ong mật Himalaya thuộc Trung tâm Phát triển Miền núi Tích hợp Quốc tế (ICIMOD) tại Katmandu (Nepal), cho biết: "Hiện tượng khan hiếm này bắt nguồn từ việc giới săn ong phi truyền thống khai thác mật quá mức, khiến cho ong không thể nào sản xuất kịp. Trong suốt 20 năm nghiên cứu vừa qua, chúng tôi nhận thấy rằng lượng tổ lẫn những vách đá có ong đều đã sụt giảm một cách nghiêm trọng". Vốn đã thích nghi với khí hậu khắc nghiệt của dãy Himalaya, ong mật là đối tượng chính giúp cho hệ sinh thái nơi đây thực hiện công việc thụ phấn. Vì vậy, đàn ong sụt giảm sẽ để lại những hậu quả khôn lường đối với hệ thực vật vùng cao nơi đây, từ trước đến nay vẫn dựa vào ong mật để phát triển. Theo Stephen Buchmann, chuyên gia nghiên cứu ong và côn trùng thuộc ĐH Arizona (Mỹ ), việc giảm số lượng các loài thụ phấn, điển hình là ong vách núi Himalaya, đang góp phần huỷ hoại thảm sinh thái nơi đây. Ong mật thụ phấn cho khoảng 25% thực vật hoang dã trong tầm bay có đường kính 5-14km của chúng. Khi ong mật biến mất, công việc phục vụ cho sự sống của hệ sinh thái cũng biến mất theo, đe dọa nền tảng thực phẩm cho toàn bộ khu vực. Với nguồn hỗ trợ tài chính của chính phủ Australia, Ahmad và nhóm ICIMOD đang thu thập tài liệu về những nguyên nhân và hậu quả gây ra do đàn ong A. laboriosa sụt giảm. Đồng thời, nhóm của ông cũng đang làm việc với giới thợ săn ong truyền thống nhằm tìm cách lưu giữ các kỹ thuật thu hoạch mật ong bền vững. Kể từ năm 2001, dân số đàn ong đã bình ổn trở lại. Giờ đây, Ahmad và nhóm của mình đã có thể hy vọng rằng lượng du khách đến thăm các cộng đồng săn ong truyền thống sẽ giúp thế hệ thợ săn trẻ tìm cách nối bước cha ông mình.
|
|
|
Mật ong
Apr 20, 2004 0:25:51 GMT -5
Post by Oshin on Apr 20, 2004 0:25:51 GMT -5
Truyền thống mai một vì... chính sách! Những chú ong nổi tiếng cần cù góp mật cho đời. Theo Ahmad, mối đe dọa cơ bản đối với ong mật vách núi và giới thợ săn mật ong truyền thống của Nepal chính là việc mọi người ngày càng nhận thức rõ hơn về giá trị của mật ong trong các phương thuốc cổ truyền Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Ahmad cho biết: "Mật của một số loài hoa đỗ quyên trên núi cao cho mật ong chất lượng rất cao, có tính năng thư giãn nên hiện nay đang được sử dụng làm thuốc an thần. Ngoài ra, một số thầy thuốc người Hàn Quốc còn dùng mật ong để chữa nghiện ma tuý. Trong thời gian vài thập kỷ vừa qua, nhu cầu về mật ong A. laboriosa tăng cao, nhất là vào mùa xuân khi cây đỗ quyên ra hoa. Trên thị trường, mỗi kg mật ong có giá khoảng 15 USD". Để đáp ứng cho nhu cầu mật ong ngày một tăng cao, Bộ Lâm nghiệp Nepal đã chuyển quyền sở hữu vách đá từ các cộng đồng bản địa sang tay chính phủ, sau đó cấp quyền khai thác mật ong cho các nhà thầu trên cơ sở ai đến trước hưởng trước. Kỹ thuật và nghi lễ săn mật truyền thống nhằm đảm bảo khai thác bền vững và duy trì dân số đàn ong đã phải nhường chỗ cho những kỹ thuật phi truyền thống; và hậu quả là vách núi chứa tổ ong đã bị phá tan tành theo nỗ lực tối đa hóa lợi nhuận của các nhà thầu. Khi rừng nguyên sinh bị dọn sạch và thay bằng những cây trồng thương mại không có nguồn gốc địa phương hoặc cây mọc nhanh không cung cấp mật hoa cho ong, lũ ong mật A. laboriosa mất nguồn thức ăn nên dân số cũng vì thế mà giảm theo. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn vào những năm 1990, khi chính quyền quyết định đưa loài ong mật có nguồn gốc châu Âu Apis mellifera vào khu vực nhằm thụ phấn các loài cây lạ và tăng lượng mật. Ong vách núi bản địa Himalaya giờ đây lại phải cạnh tranh với ong châu Âu để lấy mật hoa. Ngoài ra, ong châu Âu còn mang theo cả loài ký sinh trùng Melissococcus pluton mà ong vách núi Himalaya hầu như không thể đề kháng được! Nhóm ICIMOD cho biết: Để phản ứng với những thay đổi này, thanh niên thuộc các cộng đồng săn ong truyền thống không còn theo đuổi nghề săn mật nữa mà chuyển sang các công việc mang lại thu nhập cao hơn như mang vác và hướng dẫn khách du lịch. Ahmad và cộng sự lo ngại rằng, nếu thế hệ săn ong truyền thống mới sẽ không được hình thành, vốn quý này sẽ bị mất dần theo năm tháng. Thay vào đó là một lớp người không quan tâm gì đến phương pháp thu hoạch bền vững, phá hỏng tổ ong để đổi lấy chút lợi nhuận trước mắt. Để duy trì dân số đàn ong, từ năm 2001, Ahmad và cộng sự đã tiến hành làm việc với thợ săn mật nhằm giữ cho khoảng 20%-50% số tổ ong A. laboriosa được nguyên vẹn trên các vách đá. Công việc trước hết là phải làm sao cho thợ săn mật hiểu được tầm quan trọng của loài ong này và bảo vệ chúng thông qua các kỹ thuật thu hoạch bền vững. Bước tiếp theo, các nhà nghiên cứu ICIMOD xây dựng hệ thống du lịch sinh thái cộng đồng cho địa phương. Họ nhận thấy lượng du khách đến Nepal để xem thợ săn mật treo mình trên vách đá bằng thang dây đang ngày một tăng lên, mang theo một nguồn thu đáng kể cho cộng đồng địa phương. Ahmad cho biết: "Săn ong và du lịch xem ong là hai yếu tố tạo nên nguồn thu cho cộng đồng săn ong, vì thế họ sẽ hiểu được tầm quan trong về mặt kinh tế của ong vách núi Himalaya và tự nguyện bảo vệ chúng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cần phải chú trọng bảo vệ môi trường sống cho ong mật hoang. Nếu không, những nỗ lực khác cũng sẽ trở nên vô nghĩa!". Khánh Hà (Theo National Geographic)
|
|
|
Mật ong
May 27, 2004 8:28:37 GMT -5
Post by Oshin on May 27, 2004 8:28:37 GMT -5
Mật ong được gây bằng cách nào? Mật ong được tạo thành từ chất ngọt do ong thu thập được trong các bông hoa, nhưng quá trình thu thập gây mật có bao gian khổ thì nhiều người vẫn chưa được biết đến. Mùa xuân và hạ là mùa muôn hoa đua nở, nguồn mật phong phú nhất. Lúc này, những con ong thợ bắt đầu ra ngoài lấy mật nhiều lần. Chúng dừng ở giữa bông hoa, thè chiếc lưỡi tinh xảo như chiếc ống, đầu lưỡi còn có một thìa múc mật, khi lưỡi đưa ra kéo vào, chất ngọt ở phần đáy những tán hoa sẽ theo lưỡi chảy vào trong dạ dày ong. Những con ong thợ hút hết bông này đến bông khác cho đến khi dạ dày ong đựng đầy, bụng căng bóng lên mới thôi. Trong tình trạng bình thường, một ngày một con ong thợ phải ra ngoài lấy mật hơn 40 lần, mỗi lần hút 100 bông hoa, nhưng mật hoa hút được chỉ có thể gây được 0,5 g mật ong. Nếu muốn gây 1.000 g mật ong và khoảng cách giữa buồng ong và nguồn mật là 1.500 m, gần như phải bay một quãng đường 120.000 m. Thu thập mật hoa gian khổ như vậy, gây mật hoa thành mật ong cũng không dễ dàng. Đầu tiên tất cả ong thợ nhả chất ngọt hút được của bông hoa vào trong một lỗ trống của tổ ong, đến tối lại tiến hành điều chế chất ngọt hút được trong dạ dày của chính nó, sau đó nhả ra, rồi lại nuốt vào, cứ nuốt vào nhổ ra luân phiên như vậy, phải tiến hành 100-240 lần cuối cùng mới gây được mật ong thơm ngọt như vậy. Để làm cho mật mau khô, hàng trăm nghìn ong thợ còn phải quạt cánh không ngừng, sau đó cất mật ong đã khô vào kho, đậy nắp nến lên trên để cất giữ lại đến mùa đông dùng làm thức ăn. Theo sách Động vật
|
|
|
Mật ong
Jun 17, 2004 15:27:29 GMT -5
Post by Oshin on Jun 17, 2004 15:27:29 GMT -5
Mật ong: Kháng khuẩn, kháng viêm phi thường Với việc tìm ra penicillin và các loại thuốc kháng sinh khác trong thế kỷ XX, các đặc tính làm lành vết thương của mật ong gần như bị quên lãng. Tuy nhiên, giá trị này của mật ong sẽ được tôn vinh trở lại nhờ một nhà nghiên cứu tại New Zealand. Con người đã biết tới các đặc tính làm lành vết thương của mật ong trong hàng nghìn năm. Người Hy Lạp cổ đại cũng như nhiều dân tộc khác đã sử dụng nó. Thậm chí cho tới Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, mật ong vẫn được sử dụng để điều trị vết thương do có tính kháng khuẩn. Peter Molan đã nghiên cứu 20 năm để tìm ra nhân tố bí ẩn trong mật ong manuka UMF. Làm việc tại Phòng Nghiên cứu Mật ong thuộc ĐH Waikato ở đảo North của New Zealand, giáo sư hoá sinh Peter Molan đã tìm ra một loại mật có những tính năng đặc biệt làm lành vết thương. Ông chỉ ra rằng mật được làm từ hoa của cây bụi manuka bản địa ở đảo quốc này có đặc tính kháng khuẩn cao hơn nhiều so với các loại mật ong khác. Ông nói: ''Các loại mật ong chứa hydro peroxide ở mức khác nhau. Đây là chất được tạo ra từ một enzyme mà ong bổ sung vào mật hoa. Ở mật manuka và họ hàng gần gũi jellybush của nó mọc ở Australia, có một thứ gì khác ngoài hydro peroxide và không có loại mật nào giống như thế được tìm thấy ở những nơi khác trên thế giới''. ''Thứ khác biệt đó'' rất khó có thể xác định. Ngay cả hiện tại, sau hơn 20 năm nghiên cứu, Peter Molan thừa nhận ông vẫn không biết chính xác nó là chất gì. Tuy nhiên, ông đặt cho nó một cái tên: "nhân tố manuka độc nhất vô nhị", hay UMF. Ông đã tìm ra một phương pháp đo hiệu quả kháng khuẩn của mật ong bằng cách so sánh khả năng kháng khuẩn của manuka UMF với một chất khử trùng tiêu chuẩn (carbolic, hoặc phenol). Kết quả thật đáng ngạc nhiên: Phạm vi hoạt động của mật ong manuka rất rộng, tiêu diệt cả vi khuẩn, nấm và động vật nguyên sinh. Molan cho biết: ''Mật manuka tiêu diệt mọi sinh vật gây nhiễm trùng''. Hoa manuka. Trên thực tế, mật manuka UMF có thể tiêu diệt cả những loại vi khuẩn kháng kháng sinh - một vấn đề mà các bệnh viện trên toàn thế giới phải đối mặt! Chẳng hạn, staphylococcus aureas là loại vi khuẩn nhiễm trùng vết thương phổ biến nhất và chúng nhạy cảm nhất với mật ong. Điều tương tự cũng xảy ra đối với vi khuẩn MRSA kháng kháng sinh. Các cuộc thử nghiệm lâm sàng tại Bệnh viện Waitako cho thấy ngay cả ở ngoài phòng thí nghiệm, mật manuka UMF có tính chất làm lành vết thương đáng kinh ngạc. Bác sĩ Julie Betts đã sử dụng mật ong điều trị thành công các vết loét ở chân và loét điểm tì do nằm liệt giường. Julie cho biết mật ong giúp làm lành vết thương sau phẫu thuật, đặc biệt là đối với bệnh nhân tiểu đường. Bà nói: ''Mật ong còn có tác dụng kháng viêm. Vì vậy, nếu tôi muốn làm nhiều điều khác ngoài việc kiểm soát vi khuẩn trong vết thương đó, tôi sẽ sử dụng mật ong''. TS Glenys Round, chuyên gia ung thư, cũng phát hiện mật ong là một phương thuốc điều trị hiệu quả. Bà nói: ''Chúng tôi đang sử dụng mật ong để điều trị vết thương nơi ung thư xâm nhập qua da. Kết quả thật tuyệt vời''. Gần đây hơn, bà đã thành công trong sử dụng gạc mật ong đắp lên vết thương hoặc vết loét do liệu pháp xạ trị gây ra. Trong quá khứ, phần lớn những bệnh nhân này đã thử nhiều phương pháp điều trị thông thường mà không có hiệu quả. Đó chính là lý do tại sao bác sĩ thử nghiệm mật ong. Phần lớn bệnh nhân rất hạnh phúc khi được điều trị bằng mật ong. Một người nuôi ong lấy mật manuka UMF tại New Zealand. Theo Julie Betts, các bệnh nhân không gặp phải bất kỳ vấn đề nào khi được điều trị bằng mật ong. Bà cho biết: ''Tôi nghĩ rằng con người thường thích các phương thuốc tự nhiên. Do vậy, họ rất hạnh phúc khi sử dụng nó. Vấn đề chúng ta gặp phải là mọi người không hiểu cơ chế hoạt động của mật ong. Họ nghĩ rằng mọi loại mật ong đều cho kết quả tương tự song điều đó không luôn đúng''. Nhà nuôi ong Bill Bennett ở cách bệnh viện vài kilomet cũng có chung quan điểm. Ông và vợ đã điều hành Công ty Summerglow Apiaries, một trong vài công ty cung cấp mật ong manuka UMF có đăng ký tại New Zealand. Họ sản xuất 8-12 tấn mật manuka mỗi năm và xuất khẩu tới nhiều quốc gia. Loại mật ong này được kiểm tra kỹ lưỡng ba lần trong suốt quy trình sản xuất để khẳng định sự tồn tại của nhân tố UMF. Chỉ sau đó, nó mới được dán nhãn ''mật manuka UMF''. Bill Bennett cho biết: ''Dường như manuka từ một vài vùng ở New Zealand tạo ra một loại mật hoa có tính chất đặc biệt này. Trên thị trường có nhiều loại mật ong mauka không mang tính chất đặc biệt đó". Comvita, một công ty chuyên sản xuất dược phẩm tự nhiên của New Zealand, hiện đưa mật manuka UMF tiến thêm một bước nữa. Comvita đã thành lập một đơn vị dược phẩm mới để đưa loại gạc mật ong công nghệ cao ra thị trường quốc tế. Loại gạc này giống như một miếng cao su, có thể chạm vào mà không bị dính. Ray Lewis thuộc Comvita cho biết: ''Nhiều loại vết thương không thể điều trị trước kia hiện được làm lành bằng mật ong. Nhu cầu của thế giới về chăm sóc vết thương mang lại doanh thu 2-6 tỷ USD. Vì vậy nếu chúng tôi nắm được một phần nhỏ của nhu cầu đó, chúng tôi sẽ thu được lợi nhuận''. Minh Sơn (Theo Guardian)
|
|
|
Mật ong
Jun 25, 2004 21:45:09 GMT -5
Post by Oshin on Jun 25, 2004 21:45:09 GMT -5
Ong mật điều hoà nhiệt độ trong tổ như thế nào?
Dù trời nóng bức hay lạnh giá, ong mật vẫn duy trì nhiệt độ trong tổ ở một khoảng nhất định, thuận lợi cho việc trứng ấp. Chúng làm điều đó nhờ vào một hệ thống phân công phức tạp, được quyết định bởi tính đa dạng sinh học của đàn.
Nhận định này được nhà sinh học Julia Jones và cộng sự, thuộc Đại học Sydney (Australia) vừa đưa ra trên tạp chí Science. Theo Julia, đa dạng sinh học trong tổ ong - kết quả của cuộc hôn phối giữa nữ chúa với nhiều con đực - có vai trò quan trọng trong việc chỉ định công việc cho các thành viên trong đàn, như lấy mật và tìm phấn hoa.
Chẳng hạn, những con ong thợ có cùng một kiểu gene sẽ chỉ đi tìm phấn hoa chừng nào số lượng chúng đạt đến một ngưỡng nhất định.
Nhưng đến nay, người ta vẫn chưa rõ vai trò của đa dạng sinh học đối với khả năng điều hòa nhiệt độ hoàn hảo của ong mật, nhất là trong mùa xuân và hạ, khi trứng cần ấp.
“Khi chúng ấp trứng, nhiệt độ trong tổ được giữ nghiêm ngặt ở mức 32-36 độ C”, Jones nói. Đó là nhờ một loạt các biện pháp đối phó với thời tiết nóng hoặc lạnh. Khi trời nóng, chúng vỗ cánh để quạt khí nóng đi, thả nước lên tổ để bốc hơi làm mát và thậm chí di cư nếu trời quá nóng. Còn khi trời lạnh, chúng co cụm lại xung quanh những quả trứng theo hình cầu, ép ngực xuống và thậm chí còn sản ra nhiệt từ các cơ bay (mặc dù không di chuyển cánh).
Tuy nhiên, Jones tin rằng để làm được điều đó, ong mật hẳn phải phát triển một hệ thống kiểm soát nhiệt phức tạp, bởi không phải cả đàn đều làm mát hoặc làm ấm tổ cùng lúc.
“Nó giống như việc bạn không thể đun sôi nước trên một cái chảo chỉ bằng hai núm “on” và “off”. Bạn cần một núm điều chỉnh từ từ nữa”.
Jones và cộng sự đã theo dõi nhiệt độ tại 8 tổ ong trong hơn 1 tuần. Ở 4 tổ, nữ chúa giao phối với nhiều con đực, và do vậy đàn có đa dạng sinh học cao. 4 tổ còn lại con chúa được thụ tinh nhân tạo, và vì thế cả đàn ong thợ đều có một kiểu gene đồng nhất.
Nhóm nghiên cứu phát hiện những đàn ong có kiểu gene đa dạng thì giữ nhiệt ổn định hơn so với bầy ong có gene “đồng phục”. Khi một vài tổ được hơ nóng lên 40 độ C, kết quả cũng tương tự.
Trong thí nghiệm thứ 3, Jones giả thuyết rằng những con ong có bố khác nhau cũng có "bộ điều nhiệt" khác nhau, vận hành ở mức nhiệt tương ứng với nó. Bà đã hơ nóng các tổ ong, và ở mỗi mức nhiệt độ lấy mẫu những con ong đang quạt mát tổ của nó ở cửa ra vào, sau đó phân tích bộ gene của chúng. Đúng như dự đoán, những con ong sai khác về di truyền sẽ thi hành nhiệm vụ quạt mát tổ ở các mức nhiệt riêng biệt.
Công trình này đã chứng tỏ khả năng điều nhiệt của ong mật là do gene quyết định. Và đa dạng gene trong đàn càng cao, phạm vi điều chỉnh càng lớn, giúp cho đàn càng thích nghi tốt với môi trường.
B.H. (theo ABConline)
|
|