|
Post by Oshin on Jan 3, 2004 2:17:04 GMT -5
Thứ Bảy, 03/01/2004, 06:20 (GMT+7)
Cá lau kính - một loài ngoại lai xâm hại
TT - Cá lau kính có tên tiếng Anh là suckermouth catfish, giới buôn bán cá cảnh gọi chúng là pleco xuất phát từ tên cũ của giống là Plecostomus. Chúng là một loài cá cảnh rất thường gặp ở nhiều nơi trên thế giới và thông qua con đường nhân giống và buôn bán mà chúng đã thoát ra môi trường tự nhiên và được xem là loài xâm hại ở một số quốc gia.
Ở Mỹ chúng đã xâm nhập nhiều tiểu bang, trong đó Florida, Texas và đặc biệt là Hawaii là các bang đã xem cá lau kính là một loài ngoại lai xâm hại. Singapore cũng báo cáo cá lau kính đã xuất hiện trong các vực nước tự nhiên...
Theo số liệu của Cục Tài nguyên sinh học Mỹ, cá lau kính là một loài có biên độ sinh thái rất rộng đối với nhiều yếu tố môi trường. Chúng sinh sống ở nơi nước tĩnh và cả ở các suối có nước chảy nhanh. Chúng có mặt ở các ao cạn và cả ở các hồ sâu, chủ yếu phân bố trong vùng nước ngọt nhưng có thể sống được trong vùng nước lợ ở cửa sông. Chúng có thể chịu đựng được tình trạng nước bị nhiễm bẩn cao có hàm lượng oxy hòa tan thấp và ở những vực nước tù đọng với nhiều khí sulfur hydro.
Cá lau kính còn có biên độ nhiệt khá rộng, là một loài nhiệt đới nhưng cũng có thể ở những nơi có nhiệt độ khá lạnh trong mùa đông. Ở Mỹ cá lau kính hiện diện trong tự nhiên ở cả các bang như Colorado, Connecticut và Pennsylvania. Một số quan sát ghi nhận rằng cá lau kính có thể di chuyển trên cạn ở một khoảng cách nhất định để chuyển từ vực nước này sang vực nước khác. Biên độ sinh thái rộng và khả năng sống mạnh mẽ đã giúp chúng trở thành một loài ngoại lai xâm lấn lý tưởng.
Cá lau kính loài Hypostomus regani - Ảnh: planetcatfish.com Tuy là một loài ăn tạp, nhưng thức ăn chính của cá lau kính là rong tảo bám trên nền đáy hoặc bề mặt thực vật. Cá lau kính chủ yếu hoạt động về đêm, được xem là khá “hiền” đối với các loài cá khác, nhưng đôi khi lại hung hăng đối với đồng loại. Ở môi trường mới, một số loài cá lau kính có thể đạt đến kích thước 70cm trong khi ở nguyên quán chúng lớn nhất chỉ vào khoảng 30cm. Điều này khá thường gặp ở các loài ngoại lai xâm lấn, chẳng hạn như cây mai dương cũng có xuất xứ từ Nam Mỹ. Ở nguyên quán cây mai dương chỉ là cỏ nhỏ 30-40cm, nhưng khi xâm lấn ở môi trường mới chúng có thể mọc thành cây bụi cao 4-5m.
Tác hại về môi trường của cá lau kính hiện chưa được biết rõ. Ở Hawaii đã ghi nhận sự phong phú của cá lau kính dẫn đến việc suy giảm một số loài cá bản địa trên các dòng chảy. Báo Tuổi Trẻ đưa tin ở đồng bằng sông Cửu Long cá lau kính hiện gặp với mật độ cao ở nhiều tỉnh, đặc biệt là ở các ao nuôi, có lẽ do hàm lượng dinh dưỡng cao tạo ra nhiều rong tảo.
Theo Cục Tài nguyên sinh học Mỹ, một khi cá lau kính đã xâm lấn với mật độ cao thì việc kiểm soát chúng rất khó khăn. Ở Hawaii đã thử nghiệm nhiều biện pháp, kể cả dùng sốc điện, nhưng không thành công.
Ở nước ta, đặc biệt lo ngại là việc cá lau kính sẽ phát triển với mật độ cao trong các khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước như Tràm Chim, U Minh Thượng, Láng Sen, Tân Hưng, Lung Ngọc Hoàng, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sự phát triển mạnh mẽ của cá lau kính chắc chắn sẽ dẫn đến nhiều xáo trộn trong hệ sinh thái thủy vực thông qua việc mất cân bằng trong chuỗi thức ăn cũng như sự cạnh tranh trực tiếp đối với các loài cá bản địa có cùng tập tính. Hậu quả cuối cùng có thể là việc giảm thiểu đa dạng sinh học.
Cá lau kính thuộc giống Hypostomus (họ Loricariidae). Giống Hypostomus gồm khoảng 116 loài, có nguồn gốc ở Trung và Nam Mỹ từ Panama đến Uruguay, phần lớn tập trung ở lưu vực sông Amazon. Việc phân loại các loài thuộc Hypostomus hiện nay rất khó khăn và nhiều công trình nghiên cứu đang được tiến hành để hoàn thiện việc phân loại nhóm cá này. Việc kiểm soát cá lau kính có thể được thực hiện khá dễ dàng ở các ao nuôi qua việc tát cạn và làm vệ sinh ao, tuy nhiên phương pháp này khó có thể áp dụng ở các khu bảo tồn thiên nhiên. Một nghiên cứu của Đại học Londrina, Brazil cho thấy cá lau kính Hypostomus regani (một loài thường gặp trong các hồ cá cảnh) có thể bị ấu trùng của loài nhuyễn thể Anodontites trapesialis ký sinh dưới da tạo điều kiện cho sự lây nhiễm các loài nấm ký sinh khác gây chết. Kết quả này gợi ý việc sử dụng tác nhân sinh học để kiểm soát. Tuy nhiên việc sử dụng các tác nhân sinh học đòi hỏi một quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng và tốn kém để bảo đảm độ an toàn.
Trong khi chờ đợi một biện pháp kiểm soát triệt để, người dân ở các nơi phát hiện thấy cá lau kính có thể giúp bằng cách loại chúng ra khỏi các vực nước càng nhiều càng tốt. Và hi vọng rằng dân nhậu sẽ tiếp tục xem cá lau kính là “mồi bén”. Một lần nữa chúng ta lại chứng kiến một ví dụ điển hình của loài ngoại lai xâm hại.
TS TRẦN TRIẾT (ĐH Khoa học tự nhiên - ĐH Quốc gia TP.HCM)
|
|
|
Post by Oshin on Jun 2, 2004 16:01:24 GMT -5
Đôi điều về rùa tai đỏ - động vật xâm hại Rùa tai đỏ (Trachemys scripta elegans) có lẽ là loài rùa nổi tiếng và dễ nhận dạng nhất. Mai của nó mượt và hơi cong với những sọc vàng ở lưng, một mảng đỏ hoặc thỉnh thoảng là vàng ở ngay đằng sau mắt. Thức ăn và thói quen Mai rùa tai đỏ thường được bao phủ bởi một lớp tảo dày. Rùa tai đỏ là động vật ăn tạp, chủ yếu sống ở dưới nước. Do lưỡi bất động nên chúng không thể nuốt thức ăn trên đất liền, phải kiếm ăn dưới nước. Rùa hiếm khi ra khỏi nước, ngoại trừ để đẻ trứng hoặc di cư tới một vùng nước mới. Rùa con chủ yếu ăn thịt, dành phần lớn thời gian săn đuổi cá, côn trùng, nòng nọc, ếch, tôm, ốc sên... Chúng dần dần chuyển sang ăn thực vật khi lớn tuổi hơn. Rùa tai đỏ cũng ăn xác thối động vật. Rùa trưởng thành sống qua mùa đông trong bùn ở đáy sông hoặc ao nước ngọt. Trong thời kỳ hoạt động, chúng dành thời gian tắm nắng xen kẽ với việc tìm thức ăn dưới nước. Ban đêm, chúng chui xuống đáy hồ. Mọi người thường nhìn thấy rùa tắm nắng trên các khúc gỗ, trên bờ, đá hoặc thảm thực vật bởi chúng là loài máu lạnh. Chúng rất nhút nhát và ngay lập tức bò uống nước từ điểm tắm nắng khi bị kích thích. Rùa tai đỏ thích các vùng nước lặng với nhiều bùn ở đáy và thảm thực vật phong phú. Chúng hiếm khi xuất hiện ở vùng nước động. Mặc dù tỷ lệ chết của các con non rất cao song rùa trưởng thành sống tới 50-70 năm. Rùa tai đỏ sống ở cả vùng nước ngọt và nước lợ. Tuy nhiên, chúng nhạy cảm với nhiệt độ lạnh. Sinh sản Tỏ tình. Trong mùa sinh sản kéo dài từ tháng 3 tới tháng 7, rùa cái có thể bị một "kẻ theo đuổi" dụ dỗ. Con đực cố giành tình cảm của rùa cái bằng cách tham gia vào các hoạt động tán tỉnh, như... bơi lùi trước mặt rùa cái với chân trước duỗi ra. Khi rùa cái sẵn sàng giao phối, nó sẽ dùng móng để vuốt chân trước của rùa đực. Rùa đực leo lên lưng rùa cái từ phía sau và bám chặt bằng vuốt... Rùa cái tai đỏ có thể đẻ tới 3 ổ trứng trong một năm, mỗi ổ có từ 4-23 trứng. Chúng thường lên bờ, đào một hố nông, hình hũ rượu, rộng chừng 8-25cm, sâu 120-140cm rồi đẻ trứng vào đó. Cuối cùng, chúng lấp hố bằng đất và các vật liệu khác để bảo vệ trứng khỏi kẻ săn mồi cũng như các yếu tố thiên nhiên bất lợi khác. Rùa con nở sau đó 60-75 ngày. Tác động tới môi trường Một bể nuôi rùa tai đỏ làm cảnh. Một loài động vật cảnh "dễ thương" sẽ hóa thành loài động vật xâm hại nguy hiểm khi "thoát" ra ngoài bể nuôi! Rùa cái thường lớn hơn rùa đực. Con đực trưởng thành có thể đạt tới chiều dài 90-100mm khi được 2-5 tuổi và kích cỡ tối đa là 28,9mm. Rùa con mới nở dài 2-3,5cm. Quê hương của rùa tai đỏ là Bắc Mỹ, tập trung ở thung lũng sông Mississippi từ miền Bắc IIIinois và Indiana tới phía bắc Vịnh Mexico, Texas và Alabama, và còn có thể rộng hơn nữa. Tuy vậy, rùa cái tai đỏ vẫn được gọi là "rùa Florida". Mặc dù rùa tai đỏ được du nhập tới nhiều nơi trên thế giới làm vật cảnh song chúng lại bị Liên minh Bảo tồn Thế giới (IUCN) liệt vào danh sách 206 loài xâm hại toàn cầu. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Oshin on Jun 2, 2004 16:03:24 GMT -5
Có bao nhiêu rùa tai đỏ... "lấn chiếm" Hồ Gươm? 24/02/2004 (VietNamNet) - Mặc dù rùa tai đỏ (tên khoa học Trachemys scripta) là loài bản địa ở miền Nam nước Mỹ, được bán ở khắp Bắc Mỹ và nhiều nơi trên thế giới làm vật cảnh song chúng lại được của Liên minh Bảo tồn Thế giới (IUCN) liệt kê trong danh sách 206 loài xâm hại toàn cầu. Điều đáng lo ngại là loài rùa này đã được giáo sư Hà Đình Đức phát hiện ở Hồ Gươm! Rùa tai đỏ còn non. Trao đổi với phóng viên VietNamNet, GS Đức cho biết bức ảnh đầu tiên về rùa tai đỏ có từ năm 1997, do ông Vũ Văn Mạnh chụp. Đến năm 2001-2002, người dân bắt được một số con và cũng chụp ảnh. Chính GS Đức cũng đã chụp ảnh và quay phim rùa tai đỏ đang bơi ở hồ vào khoảng năm 2002. Ông nói: ''Tôi đã nói vấn đề này vào năm ngoái song không ai quan tâm''. Theo GS Đức, có thể rùa tai đỏ là do người dân phóng sinh xuống hồ. TS Nguyễn Văn Sáng (Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật) cũng có cùng quan điểm: ''Tôi cho rằng rùa tai đỏ được du nhập vào Việt Nam bằng con đường không chính thức. Do nó có những sọc vàng trên mai và mảng màu đỏ tươi ngay đằng sau mắt nên nhiều người thích. Tuy nhiên, nhiều người Việt Nam kiêng nuôi rùa trong nhà nên sau khi mua về, họ đã thả chúng xuống hồ''. GS Đức cho biết cụ rùa to, ba ba và rùa cổ sọc là những cư dân chính của hồ. Còn theo những thông báo về rùa mà mọi người nói với ông thì số loài rùa ở Hồ Gươm hiện nay lên tới 11 loài. Người dân phóng sinh cả đồi mồi, vích và thậm chí là rùa núi xuống hồ. Được hỏi ngoài Hồ Gươm, liệu rùa tai đỏ còn được phát hiện ở những nơi nào khác ở Việt Nam hay không, GS Đức nói: ''Không có ai quan tâm nên hiện vẫn chưa phát hiện rùa tai đỏ ở những nơi khác song tôi tin là có''. Rùa tai đỏ là động vật ăn tạp với thức ăn là côn trùng, tôm, giun, ốc sên, động vật lưỡng cư, cá nhỏ cũng như thực vật dưới nước. Việc rùa tai đỏ (còn gọi là rùa Florida), với 14 tiểu loài, được coi là động vật xâm hại là chuyện đã rõ mười mươi, theo đúc kết và cảnh báo của IUCN. Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu và đưa ra tài liệu chứng minh mức độ xâm hại của nó đối với các loài thuỷ sinh bản địa để tránh lặp lại câu chuyện của ốc bươu vàng và hải ly ở Việt Nam. Đó là quan điểm của cả GS Đức và TS Nguyễn Văn Sáng. Lần tìm thông tin trên mạng, chúng tôi được biết đã có bằng chứng khoa học chứng minh rùa tai đỏ cạnh tranh thức ăn và nơi làm tổ với rùa bản địa, gây hại cho hệ thực vật dưới nước ở nhiều quốc gia. Ngoài ra, rùa tai đỏ còn mang Salmonella - vi khuẩn gây làm thức ăn trở nên độc hại đối với con người. Bản thân rùa không bị ảnh hưởng song vi khuẩn này lây nhiễm cho trẻ em hoặc người nuôi. Chính vì lý do trên mà Đài Loan hiện đã cấm nhập khẩu rùa tai đỏ. Chỉ tính riêng từ năm 1994 tới 1998, đã có ít nhất 182.000 rùa tai đỏ từ Mỹ được nhập vào Đài Lan từ năm 1994 tới 1998 để làm vật cảnh. 1.832.400 rùa tai đỏ từ Mỹ được nhập vào Trung Quốc năm 1997. Những con rùa nước ngọt này đã được nhập vào châu Âu kể từ những năm 1970. Kể từ tháng 2/1990, việc nhập khẩu và bán rùa tai đỏ đã bị cấm tại châu Âu. Pháp là một ví dụ điển hình. Trong suốt những năm 1970, hơn 3 triệu rùa tai đỏ được bán tại Pháp mỗi năm với giá 5 USD/con nhỏ. Chúng cần ao rộng, ăn nhiều và nhiều người đã thả chúng vào ao hồ tự nhiên, sông, cống rãnh và thậm chí là bờ biển. Ước tính có tới hơn 500.000 con đã được thả ở Pháp trong vòng vài năm. Do số lượng nhiều nên rùa tai đỏ cạnh tranh với rùa ao châu Âu, Emys orbicularis. Chúng ăn các loài cá nhỏ, ấu trùng, động vật lưỡng cư nhỏ, nòng nọc, do đó làm hại tới hệ động vật tự nhiên của ao hoặc sông hồ. Các chuyên gia coi chúng là Loài Xâm hại Sinh thái nghiêm trọng. Kể từ năm 1990, nhiều tổ chức đã hợp tác để hạn chế loài động vật này cũng như ngăn chặn việc thả chúng vào môi trường. Một số nhà khoa học gợi ý nên giết rùa tai đỏ ở Pháp. Sẽ tốt hơn nhiều nếu đưa chúng trở lại quê hương bản quán ở Mỹ song các quy định y tế ngặt nghèo tại Mỹ đã ngăn cản việc làm đó. Trở lại với câu chuyện rùa tai đỏ ở Hồ Gươm, vấn đề hiện nay là cơ quan quản lý hồ cần phối hợp với các nhà khoa học để nghiên cứu tác động của loài ngoại lai này. Minh Sơn
|
|
|
Post by Oshin on Jun 3, 2004 14:41:18 GMT -5
Cá cảnh trốn thoát đe doạ hệ sinh thái biển Nhiều tổ chức, trong đó có LHQ, thúc đẩy hoạt động bắt cá cảnh để xuất khẩu, coi đó là biện pháp quản lý bền vững các hệ sinh thái biển cũng như tăng thu nhập cho một số vùng nghèo đói trên thế giới. Tuy nhiên, mặt trái là ngành này đe doạ tới hệ sinh thái ở những nơi khác nếu cá cảnh được phóng thích vào môi trường tự nhiên. Batfish. Doanh thu của ngành cá cảnh trên toàn thế giới ở vào khoảng 25 tỷ USD mỗi năm và đang tăng trưởng 14%/năm. Đa phần số tiền này chảy tới các nước đang phát triển nơi sinh sống của những loài sinh vật biển nhiệt đới được mọi mọi người ưa thích chẳng hạn như cá vây hoàng đế. Các quốc gia chẳng hạn như Australia, New Zealand và Mỹ mới chỉ bắt đầu nhận ra việc cá cảnh thoát vào môi trường tự nhiên là một vấn đề quan trọng. Đầu năm nay, một cuộc khảo sát cho thấy 16 loài cá nhiệt đới, không phải là bản địa, được tìm thấy tại 32 địa điểm dọc bờ biển Đông Nam của Florida. Nguyên nhân chủ yếu là do con người thả cá cảnh từ bể nuôi vào đại dương. Cá chuối. Nhà sinh học bảo tồn Dianna Padilla thuộc ĐH New York cho biết: ''Việc buôn bán sinh vật biển làm cảnh được khuyến khích phát triển như một ngành công nghiệp xanh, một giải pháp để cứu chúng và phương tiện tăng thu nhập của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, cho tới nay, chi phí môi trường của những sinh vật trốn thoát vẫn chưa được tính tới''. Các loài cá du nhập có thể gây hại cho các hệ sinh thái theo một số cách. Chúng có thể cạnh tranh thức ăn và đẩy các loài bản địa tới bờ vực tuyệt chủng. Ngoài ra, cá du nhập có thể biến đổi các môi trường sống theo những cách thức có hại đối với cá bản địa. Chẳng hạn như cá catfish phá vỡ hệ thực vật và biến đổi bờ biển, làm cho các loại cá khác không thể cư ngụ được. Cá nhập cư cũng có thể mang các căn bệnh lạ hoặc có thể là động vật săn mồi hiếu chiến, đe doạ trực tiếp tới cá bản địa. Cá chuối phàm ăn của Trung Quốc, dài tới 1m (snakehead, tên khoa học là Channa argus), đã săn bắt cá và động vật lưỡng cư bản địa tại một số bang ở Mỹ, trong đó có Maryland và hiện giờ là Virginia. Ngành nuôi cá cảnh được coi là nguồn gốc của các loài nước ngọt xâm hại chẳng hạn như cá chuối. Một số loài chẳng hạn như cá sư tử (Pterois volitans), hiện được tìm thấy ở ngoài khơi bờ biển Đông Nam của Mỹ, có gai độc và thậm chí là mối đe doạ đối với con người. Cá sư tử. Nhà sinh học biển Brice Semmens thuộc ĐH Washington cho biết: ''Phóng thích các loài cá phi bản địa giống như chơi bài roulette của Nga với các hệ sinh thái biển nhiệt đới''. Semmens là trưởng nhóm của dự án khảo sát gần đây mà phát hiện 16 loài phi bản địa ở ngoài khơi bờ biển Florida. Thực vật biển nhập cư cũng là mối đe doạ lớn. Tảo biển Caulerpa taxifolia sinh trưởng nhanh, còn được gọi là tảo huỷ diệt, là một loài thực vật cảnh phổ biến. Kể từ những năm 1980 nó đã xâm lược nhiều vùng bờ biển Địa Trung Hải và phải tiêu tốn hàng chục triệu USD mới diệt trừ được chúng khỏi vùng biển California. Mặc dù có tiềm năng đe doạ tới hệ sinh thái song các nhà chức trách cũng như chuyên gia ít quan tâm và không coi ngành kinh doanh sinh vật cảnh là nguồn gốc của loài động thực vật biển xâm hại. Cho tới nay, họ quan tâm nhiều hơn tới nước dằn của ngành vận tải biển, coi đó là nguồn chủ yếu du nhập sinh vật xâm hại. Nước dằn được chứa trong khoang tàu thuỷ để tăng sự ổn định. Một con tàu có thể hút nước dằn (cùng với vố số sinh vật biển) tại một vùng rồi xả nước đó ở một vùng khác. Cuộc khảo sát do Semmens tiến hành cung cấp thêm bằng chứng rằng sinh vật biển du nhập có nguồn gốc từ ngành kinh doanh sinh vật biển làm cảnh. Nhóm của ông không tìm thấy mối liên hệ nào giữa nguồn gốc của cá biển phi bản địa ở Florida kể từ năm 1999 với các tuyến vận tải biển tới vùng này. Cá tang vàng. Nhóm nghiên cứu phát hiện những loài phi bản địa phổ biến, như cá vây hoàng đế, cá tang vàng và cá batfish là những sinh vật biển được người nuôi ưa thích. Vấn đề này thực sự nghiêm trọng. 1/3 tổng số các loài thuỷ sinh trong danh sách 100 động, thực vật xâm hại nguy hiểm nhất là với thuỷ sinh cảnh hoặc thực vật ở ao hồ. Theo Padilla, bước đi đầu tiên nhằm làm chậm tốc độ lây lan của động, thực vật cảnh là giáo dục mọi người về nguy cơ cũng như những vấn đề liên quan tới việc du nhập các loài không được mong muốn. Bước tiếp theo là phát triển hệ thống cấp giấy chứng nhận để làm rõ loài nào có nguy cơ xâm hại thấp. Công chúng đóng vai trò quan trong việc ngăn chặn sự xâm hại của các loài lạ bằng cách không phóng sinh chúng từ bể nuôi vào môi trường nước tự nhiên. Nếu họ không muốn nuôi nữa, họ có thể trả chúng về cho một số cửa hàng kinh doanh sinh vật cảnh hoặc giết chúng bằng cách... đông lạnh. Ngành kinh doanh sinh vật cảnh có thể trợ giúp bằng cách dán nhãn cảnh báo về nguy cơ trốn thoát vào môi trường tự nhiên của sinh vật. Minh Sơn (Theo National Geographic)
|
|
|
Post by Oshin on Jun 3, 2004 14:57:35 GMT -5
Nước dằn và cuộc xâm lăng của sinh vật xâm hại Con tàu không gian trở về Trái đất, vô tình mang theo một dạng sống ngoài vũ trụ. Tàu hạ cánh, và sinh vật lạ được "sổ lồng". Trái đất hóa ra lại là một nơi định cư hết sức lý tưởng - nó ổn định cuộc sống, ăn thực vật và muông thú xung quanh rồi sinh sản rất nhanh. Không thể nào giết chết hoặc cạnh tranh được "vị khách không mời" này, các cư dân Trái đất bắt đầu chết dần... Phải chăng đây là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng? Không, chuyện hoàn toàn có thật. Nhưng những sinh vật lạ xâm lược Trái đất không đến từ không gian mà là từ các vùng khác nhau trên hành tinh xanh của chúng ta, và phương tiện di chuyển của chúng cũng không phải là tàu không gian, mà là... tàu biển. Cuộc xâm lăng của sinh vật biển Xả nước dằn = xả theo hàng triệu sinh vật xâm hại tại cảng. Mỗi ngày, gần như chuyến tàu đi biển hay đi hồ nào cũng mang theo hàng triệu "khách trốn vé", xâm nhập khi thuỷ thủ lấy thêm nước dằn vào vỏ để giữ ổn định thân tàu. Bằng cách này, ước tính ngày nào cũng có khoảng 4.000 loài đi du lịch vòng quanh thế giới, trong đó có phù du, tảo, cá, sứa và những động vật không xương sống khác. Andreas Tveteraas, chuyên gia tàu biển của Quỹ Thiên nhiên Hoang dã WWF, cho biết: "Hoạt động "đi nhờ tàu" này có quy mô rất lớn. Mỗi giờ, chỉ riêng ở Mỹ đã có khoảng 7,5 triệu lít nước dằn được xả ra các vùng biển nước này. Tổng cộng, mỗi năm có khoảng 10.000 tỉ lít nước dằn được chuyên chở đi khắp thế giới, và tất nhiên là mang theo rất nhiều sinh vật và mầm bệnh." Khi tàu thuyền đến đích (có thể cách nơi xuất phát đến hàng ngàn kilomet), những kẻ "đi nhờ tàu" được thả ra ngoài theo nước dằn. Một số không tồn tại được trong môi trường mới, nhưng một số không những sống được mà còn sống rất "đàng hoàng". Các sinh vật lạ này có thể trở thành những kẻ xâm hại, nhanh chóng đánh bật động thực vật địa phương, gây hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái, kinh tế và thậm chí sức khỏe của con người. Tveteraas nói: "Các loài xâm hại là một trong những mối đe doạ nghiêm trọng đến đa dạng sinh học toàn cầu, và chúng đã trở thành mối quan ngại hàng đầu của nhiều khu vực biển." Những "sát thủ máu lạnh"Một trong những ví dụ điển hình nhất là Biển Đen. Một loài sứa mào phàm ăn (Mnemiopsis leidyi) có nguồn gốc từ Bắc Mỹ đã quét sạch các đàn cá, huỷ hoại nền ngư nghiệp thương mại và làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ sinh thái biển nơi đây. Qua một chuyến "đi nhờ" tàu từ bờ biển Đại Tây dương của nước Mỹ năm 1982, loài sứa mào đã ăn cả động vật phù du, thức ăn của các loài cá có giá trị thương mại cao ở Biển Đen, lẫn trứng và ấu trùng của cá. Không hề gặp một "đối thủ đáng gờm" nào tại nơi ở mới, lũ sứa sinh sôi nảy nở với tốc độ nhanh đến mức báo động. Đến giữa những năm 1990, chúng đã chiếm đến 90% toàn thể cư dân Biển Đen, nơi có lượng tôm cá nhiều hơn cả toàn bộ số hải sản đánh bắt được hàng năm trên toàn thế giới. Và sau đó, lũ sứa đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ sang tận vùng biển Azov láng giềng. Cuộc xâm lược của loài sứa mào đã khiến cho ngành hải sản thương mại Biển Đen gần kiệt quệ trong mấy năm liền. Ngành hải sản một thời thịnh vượng đã thiệt hại khoảng một tỉ đô la kể từ ngày lũ sứa xuất hiện. Và ngành cá tại vùng biển Azov, vốn đã phải chịu sức ép của ô nhiễm và đánh bắt tràn lan, đã sụp đổ hoàn toàn. Số phận các loài lớn hơn cũng không khá khẩm gì hơn: Số lượng cá heo cũng giảm mạnh vì nguồn thức ăn chính của chúng là cá đã không còn nữa. Toàn bộ hệ sinh thái bị phá vỡ, bởi sứa mào cũng chính là nguyên nhân làm giảm lượng ô-xy tại Biển Đen. Giờ đây, chúng đã tràn vào vùng biển Caspia và gây ra mức tàn phá tương tự. TS Erkki Leppakoski, chuyên gia sinh vật lạ thế giới thuộc ĐH Abo Akademi (Phần Lan), cho biết: "Thảm họa này là lời cảnh báo cho cộng đồng tàu biển quốc tế về nguy cơ hoạt động thải nước dằn ở vùng biển nước ngoài gây ra." Thực vật lạ cũng có khả năng tàn phá không kém cạnh so với động vật xâm hại. Tại Australia, tảo bẹ châu Á (Undaria pinnatifida) - loài tảo biển màu nâu có lá rộng - đang nhanh chóng xâm chiếm các khu vực mới và thay thế dần những cộng đồng cỏ biển địa phương, vốn là nền tảng nuôi dưỡng và cung cấp thức ăn cho nhiều loài giáp xác và cá có giá trị thương mại cao. Ngoài ra, sự xuất hiện của các loài lạ còn có thể ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người. Tại Philippines, tảo lạ đã từng "bùng nổ" vài lần, gây nên hiện tượng thuỷ triều đỏ. Loài tảo này và những chất mang độc tính cao mà chúng tạo ra trong quá trình phát triển được hấp thụ vào cơ thể của các loài ngao sò ốc hến. Khi ăn phải hải sản bị nhiễm độc, chất độc có thể khiến cho con người bị liệt, thậm chí tử vong. Khi các loài xâm hại biển lọt vào một hệ sinh thái mới, hậu quả mà chúng gây ra thường không thể cứu vãn được. Vì thế, việc vận chuyển nước dằn và các loài xâm hại ở biển dường như đã trở thành thách thức lớn nhất đối với môi trường mà ngành vận tải biển toàn cầu đang phải đối mặt. Tveteraas giải thích: "Ngành vận tải biển phải tham gia cuộc đấu tranh vì một tương lai bền vững. Và để làm được điều này, chúng ta phải nhanh chóng xóa bỏ nguy cơ thảm họa môi trường gây ra do không xử lý nước dằn đúng mức. Giải pháp tốt nhất là cấm xả nước dằn chưa được xử lý."
|
|
|
Post by Oshin on Jun 3, 2004 14:58:15 GMT -5
Trách nhiệm của ngành vận tải biểnCó rất nhiều phương pháp diệt sinh vật trong nước dằn, chẳng hạn chiếu tia cực tím, khử ô-xy và lọc. Thiết bị xử lý nước dằn hiện đã được sử dụng trên các tàu nhỏ như tàu chở khách. Tuy vậy, đối với một lượng nước dằn khổng lồ trên tàu chở hàng thì cho đến nay vẫn chưa có cách gì xử lý nổi trong một quãng thời gian hạn hẹp cả. Thuỷ triều đỏ, "sát thủ" có sự hậu thuẫn của tảo bẹ châu Á. Có một cách khác: Xả nước dằn tại vùng biển sâu rồi lại lấy nước tại đây, nơi có ít sinh vật hơn so với nước tại vùng duyên hải. Một số nước, trong đó có Mỹ, Canada, Australia và New Zealand đã chấp nhận sử dụng biện pháp này để giảm thiểu số lượng sinh vật lạ lọt vào cảng nước mình. Các nước này còn đưa ra khuyến cáo là không nên lấy nước dằn tại những vùng có khả năng chứa nhiều sinh vật, chẳng hạn như vùng biển nông, và không nên xả nước ra những khu vực nhạy cảm. Tuy nhiên, vì vấn đề này có tính chất toàn cầu nên cần phải có một công ước nhằm kiểm soát việc lấy và xả nước dằn. Cuối cùng thì hồi tháng 2 vừa qua, Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) - cơ quan Liêp Hợp Quốc chịu trách nhiệm về vận tải biển quốc tế - cũng đã chấp nhận một công ước như thế. Một khi đã được phê chuẩn và áp dụng, Công ước này sẽ buộc tất cả mọi tàu thuyền phải thực hiện Kế hoạch Quản lý Nước dằn: Từ sau năm 2009, tàu thuyền mới phải được trang bị thiết bị xử lý nước dằn. Từ năm 2016 trở đi, quy định này sẽ được áp dụng cho tất cả mọi tàu thuyền. Đồng thời, tàu thuyền phải thay đổi nước dằn cách bờ 200 hải lý trước khi vào cảng. Andreas Tveteraas cho biết: "Công ước mới này là một bước đi hoàn toàn đúng đắn. Nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng cho các quốc gia và thuyền trưởng vô nguyên tắc lợi dụng. WWF sẽ cố gắng để đảm bảo cho Công ước này được nhanh chóng đưa vào thực tế và nghiêm chỉnh thực hiện nhằm giải quyết tốt vấn đề. Chúng tôi cũng sẽ cố gắng thuyết phục các chủ tàu hoặc người thuê tàu có trách nhiệm xử lý nước dằn càng sớm càng tốt." Dù sao, vào lúc này, sinh vật xâm hại vẫn tiếp tục những chuyến chu du của chúng vòng quanh thế giới. Ai mà biết được chúng sẽ tìm được môi trường sống mới vào lúc nào và ở đâu! Khánh Hà (Tổng hợp) Hoạt động của WWF về xử lý nước dằn Trong vài năm qua, WWF đã hợp tác với IMO để cơ quan này có thể chấp nhận Công ước quốc tế liên quan đến vấn đề xử lý nước dằn. Vấn đề này đã được IMO lên lịch trình 15 năm nay, nhưng chỉ mới được chấp nhận tại Hội nghị Quốc tế IMO về Nước dằn Tàu biển, diễn ra từ ngày 9 đến ngày 13 tháng 2 năm nay tại London, Anh. WWF sẽ phấn đấu sao cho Công ước nhanh chóng được phê chuẩn và có hiệu lực càng sớm càng tốt. Bên cạnh đấy, WWF cũng sẽ cố gắng sao cho ngành vận tải biển có trách nhiệm thực hiện các điều sau:
• Thiết bị xử lý nước dằn phải được lắp trên các tàu hiện có càng sớm càng tốt theo khả năng của công nghệ hiện nay.
• Tiêu chuẩn tối ưu cho thiết bị xử lý nước dằn để những tiến bộ công nghệ phải được phản ánh qua mức "tẩy trùng" ngày càng cao trong nước dằn.
• Bảo vệ những khu vực dễ bị tổn thương của các vùng biển cao (70% đại dương nằm ngoài quyền hạn pháp lý quốc gia), bởi vì vùng biển cao đang trở thành bãi thải nước dằn có nguồn gốc từ bờ biển.
• Luật lệ chặt chẽ đối với việc cấp phép đặc biệt cho việc không phải xử lý nước dằn, bởi vì vấn đề này sẽ trở thành lỗ hổng trong Công ước, khiến cho Công ước trở nên vô tác dụng.
• Có yêu cầu đặc biệt trong những khu vực nhạy cảm, do các nước ven biển có liên quan đặt ra.
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 9:46:22 GMT -5
Ô nhiễm sinh vật xâm hại tại Mỹ: Trăn Mianmar - phần nổi của tảng băng chìm Có loài động vật nào mạnh hơn cá sấu và dám giao chiến giành giật lãnh thổ với chúng? Có chứ... đó là loài trăn Mianmar - kẻ xâm hại tại Vườn Quốc gia Everglades của Florida. Nguyên nhân vì đâu? Skip Snow đang đo một con trăn dài 3m bị bắt tại đường vào Vườn Quốc gia Everglades. Trăn Mianmar - một trong những loài rắn lớn nhất thế giới, có thể dài tới 6m trong môi trường tự nhiên của chúng ở Đông Nam Á - hiện đang tàn phá Everglades. Chúng chỉ là một trong hàng nghìn động thực vật phi bản địa đã xâm lược nước Mỹ trong những thập kỷ qua. Trong khi Florida tràn ngập những sinh vật lạ thì các vùng khác cũng gặp phải vấn đề của riêng họ, chẳng hạn cá chuối đang phá hoại sông Potomac gần Washington D.C. Theo nghiên cứu của ĐH Cornell, thiệt hại kinh tế do sinh vật xâm hại gây ra và chi phí kiểm soát chúng lên tới 137 tỷ USD mỗi năm. Ngoài ra, chúng còn là nguyên nhân hàng đầu gây nguy hiểm và tuyệt chủng cho nhiều loài ở Mỹ cũng như trên toàn thế giới, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các hệ sinh thái. Gần 50% các loài trong danh sách có nguy cơ tuyệt chủng tại Mỹ bị các loài động thực vật du nhập đe doạ một phần hoặc toàn bộ. Steven A.Williams, giám đốc Cục Động vật Hoang dã và Cá của Mỹ, gọi các loài xâm hại là "mối đe doạ môi trường số một" đối với nước Mỹ. Một số loài xâm hại có thể là sinh vật ''lậu vé'', tới Mỹ bên trong các vật liệu bao gói hoặc nước dằn của các con tàu. Tuy nhiên, nhiều động thực vật xâm nhập vào nước này thông qua ngành buôn bán sinh vật cảnh hoặc thực phẩm đang phát triển mạnh. Trăn Mianmar là rắn cảnh phổ biến và hợp pháp. Trong năm năm qua, Mỹ đã nhập khẩu hơn 144.000 con trăn loại này. Giá một con trăn mới nở là 20 USD. Tuy nhiên, ngay khi những con trăn nhỏ, đáng yêu đó sinh trưởng tới độ dài 5m, một số người sở hữu quyết định loại bỏ bằng cách đem thả chúng vào rừng. Cỏ cheatgrass. Nhà sinh vật Skip Snow tại Vườn Quốc gia Everglades cho biết: ''Tất cả trăn Mianmar mà chúng tôi nhìn thấy tại Vườn này là sản phẩm của hoạt động buôn bán sinh vật cảnh quốc tế''. Số người gọi điện thoại qua đường dây nóng tới văn phòng của Snow để thông báo nhìn thấy trăn tăng gấp đôi. Kể từ giữa những năm 1990, kiểm lâm của Vườn Quốc gia đã bắt hoặc giết 68 con trăn Mianmar. Trăn hiện sinh sản nhiều nhất tại Everglades. Chúng ăn thịt sóc xám, thú có túi ô-pốt, chuột đen và chim hồng tước. Đáng lo ngại hơn là trăn còn xơi cả sóc cáo và cò rừng bản địa. Chúng có thể cạnh tranh con mồi và không gian với rắn Indigo miền Đông - loài động vật được Cục Động vật Hoang dã và Cá liệt vào danh sách bị đe doạ. Hành động chậm trễFlorida tràn ngập các loài sinh vật phi bản địa khác, từ thằn lằn châu Phi cho tới khỉ vervet. Nhà nghiên cứu bò sát Kenneth Krysko thuộc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Florida cho biết: ''Môi trường đa dạng và khí hậu thích hợp của Florida đã tạo điều kiện cho các loài ngoại lai thiết lập chỗ đứng và mở rộng lãnh thổ của chúng''. Các chuyên gia cho rằng thuỷ sinh cảnh có lẽ gây thiệt hại lớn nhất trong số các loài động thực vật xâm hại. Kết quả khảo sát được tiến hành vào đầu năm nay phát hiện 16 loài cá nhiệt đới phi bản địa ở 32 điểm dọc bờ biển Đông Nam Florida. Chũng xuất hiện khi được người chơi cá cảnh thả xuống biển. Ếch có vuốt châu Phi. Tuy nhiên, cho tới nay, Florida hầu như không đơn độc trong cuộc chiến chống các loài xâm hại. Sâu bore màu lục lần đầu tiên tới một cảng của vùng Hồ Lớn trong vật liệu bao gói bằng gỗ trên tàu chở hàng của Hàn Quốc hoặc Trung Quốc cách đây vài năm. Kể từ đó, loài bọ cánh cứng châu Á này đã phá huỷ sáu triệu cây tại Michigan. Vịnh San Francisco hiện là nơi cư ngụ của chừng 260 loài phi bản địa. Trong khi đó, ếch có vuốt châu Phi kiểm soát Vườn Quốc gia Cổng Vàng. Là loài bản địa ở Kenya, loài ếch trên ăn hầu hết mọi thứ và sinh sản cực nhanh. Chúng biến đổi các hệ sinh thái bằng cách ăn côn trùng, cá và thậm chí là chim. Cách duy nhất ngăn chúng lây lan là tiêu diệt song biện pháp đó sẽ làm California tiêu tốn hàng triệu USD. Nhiều chuyên gia cho rằng Mỹ hành động quá chậm chạp và hiện đang phải trả giá. Ken Burton, người phát ngôn của Cục Động vật Hoang dã và Cá, cho biết: ''Ngay khi các loài xâm hại này có được chỗ đứng, con người hầu như không thể diệt trừ chúng. Trong hầu hết mọi trường hợp, chúng ta chỉ có thể hy vọng kiểm soát được chúng''. Dean Wilkinson, điều phối viên kiểm soát các loài xâm hại tại Cục Khí quyển và Đại dương quốc gia, nói: ''Trong quá khứ, chúng ta đã coi đây là những vấn đề riêng lẻ. Chỉ gần đây, chúng ta mới nhận ra rằng sinh vật xâm hại là vấn đề lớn về kinh tế và môi trường. Nếu chúng ta nhìn xa trông rộng, kịp thời chi tiền để tiêu diệt chúng, có lẽ chúng ta không phải tốn nhiều triệu đô-la để giải quyết vấn đề quá muộn này''.
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 9:46:43 GMT -5
Ô nhiễm sinh họcKhông chỉ có động vật xâm hại, vì thực vật ngoại lai cũng xâm hại. Theo Bộ Nội vụ Mỹ, có tới 40 triệu ha đất tại nước này bị thực vật xâm hại tàn phá. GS sinh học Daniel Simberloff thuộc ĐH Tennessee cho biết: ''Các loài xâm hại gây tác động lớn nhất về sinh thái và kinh tế là những loài biến đổi môi trường sống. Phần lớn những loài đó là thực vật, như melaleuca và ớt Brazil tại Nam Florida hoặc cỏ cheatgrass ở miền Tây''. Trăn Mianmar. Sự gia tăng du lịch và thương mại toàn cầu đã làm cho vấn đề ô nhiễm sinh học trở nên tồi tệ hơn. Buôn bán động vật lạ làm cảnh là con đường giúp các loài xâm hại nhập cư vào Mỹ. Sân bay quốc tế Miami của Mỹ nhận 70 chuyến hàng nước ngoài mỗi ngày, một số lô hàng này chứa hàng nghìn động vật như nhện đen Nam Âu tarantula, thằn lằn và rắn. Nhiều loài trong số này được nhập khẩu bất hợp pháp. Chỉ 1-2% container hàng được mở và kiểm tra. Tuy nhiên, nhiều động vật ngoại lai đó lại được phép nhập khẩu hợp pháp vào Mỹ. Chẳng hạn công dân Mỹ có thể sở hữu hợp pháp tới 22 trong số 24 loài trăn trên thế giới. Burton nói: ''Khi thương mại mở rộng, vấn đề sinh vật xâm hại sẽ trở nên tồi tệ hơn. Nhà sinh học Snow thuộc Vườn Quốc gia Everglades kêu gọi người sở hữu vật cảnh khi đã... chán ngán những động vật ngoại lại của họ thì... ''Xin đừng thả chúng vào thiên nhiên''! Minh Sơn (Theo National Geographic)
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 9:50:41 GMT -5
Trung Quốc và hậu quả của sinh vật xâm hại Động thực vật được nhập khẩu vào Trung Quốc khiến nước này thiệt hại gần 14,5 tỷ USD mỗi năm. Nhằm giải quyết vấn đề trên, Cục Bảo vệ Môi trường Quốc gia và Bộ Khoa học -Công nghệ Trung Quốc đã bắt tay vào soạn thảo một dự luật an toàn sinh học. Không chỉ gây thảm hoạ về sinh thái tại Trung Quốc, bèo tây còn huỷ hoại nguồn cá ở hồ Victoria tại châu Phi khiến hàng triệu người đối mặt với nạn đói. Được gọi là các loài xâm hại, chúng được đưa vào từ nước ngoài song cuối cùng gây hại cho các hệ sinh thái địa phương, đe doạ các loài bản địa và làm mất tính đa dạng sinh học. Theo Tô Hải Cân, giám đốc phân ban đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên thuộc Viện Khoa học Môi trường Nam Kinh, một ví dụ điển hình là bèo tây được du nhập từ Nam Mỹ vào những năm 1950 để làm thức ăn cho lợn. Sau đó, khi mọi người bắt đầu sử dụng các loại thức ăn khác, họ ngừng cho lợn ăn bèo tây. Tuy nhiên, loài thực vật này sinh sản nhanh và lây lan tại các tỉnh như Quảng Đông (miền Nam), Giang Tô và Phúc Kiến (miền Đông). Bèo tây bao phủ mặt nước, đánh bại các loài thuỷ sinh khác và gây thiệt hại cho hệ sinh thái địa phương. Các chính quyền địa phương đã chi nhiều tiền để tiêu diệt bèo tây song mọi nỗ lực của họ đều thất bại. Một cuộc khảo sát toàn Trung Quốc được tiến hành vào các năm 2001 và 2003 cho thấy có 283 loài xâm hại lạ tại nước này, từ thực vật cạn, bò sát cho tới các vi sinh vật. Gần 40% trong số này được coi là có ích và được du nhập có cân nhắc song cuối cùng chúng lại gây thảm hoạ cho các loài bản địa và hệ sinh thái địa phương. Khoảng 49% được du nhập tình cờ do lẫn hoặc bám vào các sản phẩm buôn bán quốc tế. Sau đó, chúng phát triển nhanh. Theo cuộc khảo sát do ông Tô và các chuyên gia từ Cục Bảo vệ Môi trường, Bộ Nông nghiệp, Cục Lâm nghiệp tiến hành, các loài xâm hại gây tổn thất trực tiếp về kinh tế gần 2,4 tỷ USD mỗi năm. Tổn thất trực tiếp về kinh tế nằm trong các khu vực nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp. Trong khi đó, tổn thất gián tiếp đối với hệ sinh thái và tài nguyên lên tới 12 tỷ USD mỗi năm. Ông Tô cho biết: ''Nhiều người tại Trung Quốc thiếu hiểu biết về tác động của các sinh vật ngoại lai đối với với hệ sinh thái và môi trường. Do vậy, họ không quan tâm tới vấn đề này. Thậm chí, một số người mù quáng tin rằng thực vật lạ tốt hơn thực vật bản địa (!). Hầu hết mọi loại hạt cỏ đều được nhập từ nước ngoài. Không có bất kỳ đánh giá nào về nguy cơ trước khi nhập các loài ngoại lai này. Cùng lúc đó, việc quản lý các loài mới không có hiệu quả''. Ông Tô đề xuất một số biện pháp bao gồm ban hành Luật về An toàn Sinh học, tăng cường năng lực đánh giá nguy cơ, nghiên cứu nhiều hơn về việc kiểm soát các loài sinh vật xâm hại và nâng cao ý thức của công chúng. Thái Lôi, thuộc Văn phòng An toàn Sinh học và Đa dạng Sinh học, Cục Bảo vệ Môi trường Quốc gia, cho biết: Ngoài việc soạn thảo Luật An toàn Sinh học, Trung Quốc cũng đang tiến hành nghiên cứu một hệ thống đánh giá rủi ro đối với việc du nhập các loài lạ. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 9:51:00 GMT -5
Một số vấn đề về sinh vật xâm hại Một loài xâm hại ngoại lai là loài được tìm thấy bên ngoài môi trường tự nhiên của nó. Nó được con người du nhập cố ý hoặc vô ý; sinh trưởng và gây ra những thay đổi rõ ràng trong các hệ sinh thái tự nhiên ở nơi đến.
Một hệ sinh thái tồn tại nhờ vào sự tiến hoá lâu dài. Những mối quan hệ chặt chẽ giữa các loài trong hệ sinh thái được phát triển bởi hàng trăm năm hoặc hàng nghìn năm cạnh tranh, đào thải, thích nghi và hợp tác. Sau khi xâm nhập vào một hệ sinh thái, các loài lạ bị hệ sinh thái đó loại trừ và chỉ có thể tồn tại với sự giúp đỡ của con người bởi chúng không có khả năng thích ứng với môi trường mới. Nếu không, chúng trở thành một kẻ xâm hại thực sự, làm đảo lộn sự cân bằng, thay đổi hoặc huỷ hoại hệ sinh thái địa phương do không có kẻ thù tự nhiên.
Tác động của các loài xâm hại là chúng trực tiếp làm giảm số lượng sinh vật bản địa và gián tiếp giảm số lượng các loài phụ thuộc khác. Chúng cũng gây ra những thay đổi trong hệ sinh thái và cảnh quan địa phương, đồng thời làm giảm sức đề kháng của sinh vật bản địa đối với sâu bệnh và hoả hoạn.
Đa dạng sinh học cung cấp ba dạng lợi ích chính: dịch vụ sinh thái, tài nguyên sinh học và lợi ích xã hội. Hơn 40% nền kinh tế thế giới và 80% nhu cầu của người nghèo trên Trái đất có nguồn gốc từ đa dạng sinh học. Hành động du nhập cố ý các loài lạ là một trong những chương trình nguy hiểm nhất ảnh hưởng tới đa dạng sinh học và các nền kinh tế.
Việc du nhập cố ý và lan truyền các sinh vật ngoại lai phải bị hạn chế trong khi các chuyên gia tiến hành nghiên cứu nghiêm túc về loài đó, nên du nhập nó vào đâu, số lượng, diện tích nó chiếm cứ, tính an toàn cho sức khoẻ và môi trường. Nên cấm du nhập các loài lạ vào hoặc gần kề Khu bảo tồn thiên nhiên. Ngoài ra, nên cấm sử dụng mọi loài lạ trong các chương trình phục hồi thực vật (chẳng hạt nhập cỏ của nước ngoài nhằm chống xói mòn), khuyến khích sử dụng các loài địa phương cũng như nghiên cứu sử dụng chúng theo cách bền vững.
Trên hết, các quốc gia nên xây dựng hệ thống cảnh báo sớm về các loài xâm hại cũng như hệ thống thông tin về các loài lạ, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Xây dựng Công ước hạn chế sự lây lan của các loài này cũng là ưu tiên hàng đầu.
Minh Sơn
|
|
|
Post by Robot on Jul 9, 2004 10:21:24 GMT -5
Không nên thả cá cảnh ra biển
Việc thả cá cảnh ra biển khõi có thể có hậu quả nghiêm trọng ðến hệ sinh thái ðại dýõng và các loài sinh vật tự nhiên - ðó là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học biển thuộc Ðại học Tổng hợp Washington vừa công bố hôm 30.6.
Họ ðã theo dõi các loài cá lạ trong vùng biển rất xa nõi sống tự nhiên của chúng và ngờ rằng chúng ðýợc thả ra từ các bể cá cảnh. Con ngýời trả tự do cho cá cảnh với những ý ðịnh rất tốt ðẹp, nhýng việc thả không ðúng môi trýờng sống lại dẫn tới hậu quả trái ngýợc. Nếu con cá ðó sinh sản và tạo ra một quần thể ở môi trýờng mới, nó có thể gây hại tới các sinh vật tự nhiên ở ðó.
Chẳng hạn loài cá sý tử vốn chỉ có ở Thái Bình Dýõng, Ấn Ðộ Dýõng và Biển Ðỏ, giờ ðã ðýợc tìm thấy ở vùng biển Florida tới New York của Mỹ. Loài cá này cực kỳ nguy hiểm bởi chúng sãn các loại cá, tôm và cua tự nhiên ở ðây.
V.N (Theo Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Oct 1, 2004 6:30:28 GMT -5
Ễnh ương, động vật xâm hại toàn cầu Số ễnh ương ở Bắc Mỹ đang bùng nổ. Tuy nhiên, đây là tin tức chẳng có gì tốt lành khi loài ếch này thoát khỏi môi trường bản địa của chúng. Ễnh ương trong ao. Theo nhà sinh học Cecil Schwalbe thuộc ĐH Arizona (Mỹ ), ễnh ương là một trong những loài lưỡng cư thành công nhất trên thế giới. Chúng đang gây rắc rối ở nhiều quốc gia. Là loài bản địa ở Bắc Mỹ, phía đông dãy núi Rocky, ễnh ương hiện có mặt khắp nơi trên thế giới. Ở nhiều khu vực ngoài môi trường bản địa, ễnh ương cạnh tranh với nhiều loài địa phương và ăn gần như mọi thứ trên đường đi. Tại các vùng ở Arizona nơi Schwalbe nghiên cứu loài lưỡng cư này, ễnh ương loại trừ gần như hoàn toàn loài rắn garter ở Mexico và ếch báo Chiricahua. Thậm chí trong một chuyến đi gần đây tới Nhật Bản, Schwalbe cho biết đã nghe thấy tiếng ộp ộp quen thuộc của chúng ở mọi nơi. Nghiên cứu mới đây cho thấy ễnh ương có thể là loài mang nấm chytrid. Nấm Chytrid là thủ phạm chính làm số ếch trên toàn thế giới suy giảm. Tuy nhiên, ễnh ương lại miễn dịch với nấm. Cú nhảy siêu dài của ễnh ươngTheo các nhà sinh học, ễnh ương bắt đầu cú nhảy vòng quanh thế giới vào năm 1898 khi chúng được nhập khẩu vào California để thoả mãn nhu cầu ăn chân ễnh của người tiêu dùng. Các chuyến hàng nhập khẩu tương tự đã phát tán loài ễnh ương này tới châu Á, châu Âu và Nam Mỹ. Trong môi trường bản địa của chúng, các loài ăn thịt chẳng hạn rắn nước lớn, cá sấu và rùa kiểm soát ễnh ương trưởng thành. Trong khi đó, cá đớp nòng nọc. Tuy nhiên, phía tây Bắc Mỹ và các vùng khác trên thế giới thiếu vắng kẻ thù tự nhiên của ễnh ương. Không có kẻ thù tự nhiên, khả năng mắn đẻ của ễnh ương cho phép chúng sinh sôi mạnh. Một ễnh ương có thể đẻ 20.000 trứng mỗi ổ trong khi ếch bản địa Arizona đẻ 2.000-3.000 trứng. Theo nhà sinh học Phil Rosen tại ĐH Arizona, nòng nọc của ễnh ương cũng không mấy hấp dẫn dối với các loài cá bản địa ở bang này. Phần lớn các loài cá bản địa ăn nòng nọc của ếch báo. Nòng nọc thành công tới mức hệ sinh tại Arizona bị tàn phá hoàn toàn bởi ễnh ương đủ kích cỡ. Nghiên cứu ruột của ễnh ương cho thấy loài lưỡng cư này ăn hầu hết mọi thứ có thể lọt vào miệng chúng: chim, chuột, rắn, thằn lằn, rùa, cá, các loại ếch khác và đặc biệt là chúng xơi lẫn nhau. Tại Nam Arizona, các loài động vật có xương sống phổ biến nhất trong ruột ễnh ương lại chính là ễnh ương. Các oài ếch khác cũng ăn thịt song không thể bì với ễnh ương trưởng thành. Chừng nào nòng nọc và ễnh ương con có đủ tảo và côn trùng để ăn, chúng là một nguồn thức ăn đáng tin cậy cho ễnh ương trưởng thành. Dennis Suhre là một thực tập sinh làm việc với Schwalbe và Rosen tại ĐH Arizona. Theo Surhe, thói quen ăn thịt đồng loại này, cùng với khả năng cạnh tranh các nguồn thức ăn khác, tạo động lực cho ễnh ương trẻ hơn tránh xa đồng loại đói khát của chúng. Và chúng đã nhảy. Bằng cách đánh dấu cũng như tái bắt giữ ễnh ương trong và gần vườn quốc gia Buenos Aires tại Arizona, Suhre đã phát hiện ễnh ương con có thể di chuyển 10km trong vòng vài tuần. Thời tiết càng ẩm ướt chúng di chuyển càng xa. Kiểm soát ễnh ương Thiếu kẻ thù tự nhiên, bản chất mắn đẻ và động lực di cư làm cho ễnh ương trở thành một loài xâm hại khó có thể diệt trừ. Hiện chưa có phương pháp nào tỏ ra hiệu quả trong việc loại trừ chúng. Có thể phun Rotenone và các hoá chất độc hại khác xuống ao để diệt nòng nọc và cá. Tuy nhiên, ễnh ương đối phó lại bằng cách nhảy ra khỏi nước. Schwalbe lưu ý rằng không nên sử dụng các độc tố như vậy đối với những khu vực có các loài bản địa bị đe doạ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã có những thành công nhất định trong việc kiểm soát ễnh ương tại vườn Buenos Aires. Họ tát cạn ao đầy ễnh ương trong mùa khô và giết nòng nọc. Ao cạn sẽ đầy trở lại khu mùa mưa tới. Lúc đó, các nhà sinh học có thể thả ếch báo bản địa. Vấn đề là ễnh di cư rất xa. Nếu chương trình diệt trừ không được tiến hành trên quy mô đủ lớn, ễnh ương sẽ quay trở lại. Theo Rosen, các loài côn trùng ăn thịt chẳng hạn bọ cánh cứng dưới nước có thể hạn chế dân số ễnh ương. Tuy nhiên, cho tới nay, cá bass miệng rộng là loài hiệu quả nhất trong việc giết nòng nọc ễnh ương tại Arizona. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|