|
Post by Robot on Mar 16, 2004 13:38:02 GMT -5
CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ VIỆC XÂY DỰNG NGHỊ ĐỊNH THƯ VỀ AN TOÀN SINH HỌC
TRẦN LIÊN PHONG Cục Môi trường, Bộ KHCN&MT
Công nghệ sinh học là thành tựu chung của loài người. Trong hơn hai thập kỷ qua, đã có những bước tiến nhảy vọt và nhiều nước đã xác định và đầu tư xây dựng thành một ngành khoa học kinh tế và mũi nhọn. Qua trình phát triển của ngành công nghệ này đã cho thấy nhiều ưu việt và đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ đối với môi trường và sức khoẻ con người. Do đó cần phải xây dựng một khung pháp lý quốc tế cho vấn đề an toàn sinh học. Tại hội Nghị các nước tham gia Công ước về Đa dạng sinh học lần thứ hai (COP 2- Jakarta, Inđônêxia 11/1995 ) đã nhất trí phải xây dựng Nghị định thư về an toàn sinh học. Từ đó đến nay, Nghị định thư đã được xây dựng và hoàn chỉnh dần về nội dung. Theo quyết định của COP 4, Bratislava, CH Slovakia 5/1998, Ban thư ký công ước Đ D SH đã triệu tập Hội nghị bất thường các nước tham gia công ước để thảo luận nghị định thư an toàn sinh học (Ex- COP). Hội nghị đã diễn ra tại Colombia từ 11 đến 23/2/1999 với sự tham gia của hơn 600 đại biểu đại diện cho hơn 150 nước và các tổ chức quốc tế.
Về ưu điểm của công nghệ sinh học:
Công nghệ sinh học hiện đại cho phép người ta có thể chuyển gen từ loài này sang loài khác , thậm chí không có quan hệ họ hàng, thay đổi hẳn bản chất di truyền để tạo ra loài mới hay giống mới mang những đặc điểm mà nhà tạo giống mong muốn, điều mà di truyền học cổ điển không thể làm được, hoặc tạo ra những hoạt tính được sử dụng làm thuốc chữa nhiều chứng bệnh "nan y" như bệnh tiểu đường, mù bẩm sinh... nhiều bệnh di truyền mà trong tương lai gần chữa các loại ung thư, AIDS... Di truyền học hiện đại còn giúp chẩn đoán chính xác các đặc trưng các thể của mọi sinh vật, từ vi rút, vi khuẩn, thực vật, động vật đến con người. Do vậy giải quyết được nhanh chóng và chính xác hàng loạt vấn đề của thực tiễn sản xuất và xã hội như: chẩn đoán các bệnh nhiễm trùng, chẩn đoán trước sinh các bệnh di truyền, giúp khoa học chọn giống trở nên hiệu quả gấp hàng trăm lần, hàng nghìn lần, xác định quan hệ họ hàng, phả hệ và hỗ trợ hữu hiệu cho khoa học hình sự...
Nhờ những thành tựu của công nghệ sinh học, nhiều nước đã có những bước tăng trưởng quan trọng về kinh tế, đặc biệt trong nông nghiệp. Hiện nay toàn thế giới đã có khoảng 28 triệu ha đất canh tác được sử dụng những giống cây lương thực/ thực phẩm được chuyển các gen chống chịu sâu bệnh, chịu hạn, năng suất cao như lúa, ngô, khoai tây, đậu tương... Trong tương lai, chỉ có sử dụng các thành tựu của công nghệ sinh học mới giải quyết được nhu cầu lương thực cho loài người.
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 13:39:37 GMT -5
Về những nguy cơ đối với môi trường và sức khoẻ con người:
Đối với đa dạnh sinh học (Đ DSH): Các loài động vật, thực vật và vi sinh vật đã trải qua hàng triệu năm tiến hoá trên đất và thích nghi được như hiện nay. Việc đưa vào thiên nhiên những loài mới đã biến đổi di truyền sẽ phá vỡ sự cân bằng sinh thái vốn đã mỏng manh của nhiều vùng. Các loài côn trùng, chim và gió sẽ mang những hạt giống, phấn hoa của những loài này sang các vùng lân cận, tạo ra những loài mới. Không ai có thể sự đoán được những gì sẽ xảy ra do những loài này sẽ tác động tới các loài hoang dại và những mối liên hệ chủ yếu giữa động vật, thực vật và vi sinh vật của hệ sinh thái này. Chẳng hạn như người ta đã sử dụng một loại vi khuẩn đã biến đổi di truyền làm phụ gia cho sản xuất ethanol, mà phế thải được dùng để bón cho đất nhằm tăng độ phì và trồng ngô trên đất này, kết quả ngô chỉ mọc cao được 3 inchs (7,6 cm) là chết. ( the Oregonian, 8/1994).
Công nghệ sinh học hiện đại tạo ra những giống chủng sinh vật mới có giá trị kinh tế và năng suất sinh học nổi trội. Do vậy, người ta dễ từ bỏ các giống truyền thống đã hình thành hàng triệu năm, làm cho Đ DSH bị đe doạ.
Khoảng 57% các nghiên cứu của các Công ty Công nghệ sinh học tập trung vào phát triển những loài thực vật (cây lương thực và thực phẩm) có khả năng chống chịu được các loại thuốc chống sâu bệnh với liều lượng cao để diệt sâu, bệnh, cỏ dại thì cây lương thực, thực phẩm vẫn sống được. Người ta ước tính liều lượng thuốc trừ sâu bệnh phải tăng gấp 3 lần mới đạt. Kết quả các chất hoá học này trong lương thực và thực phẩm cũng tăng lên, mức ô nhiễm đất và nguồn nước cũng tăng theo.
Điều đáng lo ngại là, nếu những gen chịu đựng được các loại thuốc trừ cỏ bị truyền sang các loài hoang dại có họ hàng với cây trồng mang gen này thì dễ tạo ra những loài hoang dại có họ hàng với cây trồng mang gen này thì dễ tạo ra những loài hoang dại mới chịu được thuốc trừ cỏ hàm lượng rất cao. Hiện tượng này xảy ra ở Đan Mạch ( 1995, 1996) và Mỹ (1995). Người ta gọi đây là hiện tượng "ô nhiễm gen". Các nhà khoa học ở miền nam nước Mỹ đã chứng minh rằng trong phạm vi 50m cách khu trồng dâu tây có mang gen chịu được thuốc trừ cỏ, 50% số dâu tây hoang dại đều nhiễm loại gen này.
Đối với sức khoẻ của người và động vật Do đặc điểm của công nghệ truyền gen, các nhà khoa học thường phải đưa vào một "gen đánh dấu" cùng vơi gen mong muốn để tạo ra loài mới, hầu hết các "gen đánh dấu" này là một gen vi khuẩn có khả năng kháng thuốc kháng sinh thông thường như Ampicilline, tretracylline, peneciline... và những gen này còn lại trong các bộ phận của các loài cây lương thực, thực phẩm đã biến đổi di truyền. Chẳng hạn như đối với ngô, lúa, khoai tây, cà chua, bông... người ta đã sử dụng "gen đánh dấu" thuộc loại Bt (Bacilline, khi người và gia súc ăn loại ngô, lúa, đậu tương... này sẽ làm giảm khả năng chống nhiễm khuẩn của cơ thể. Loại Bt này phân bố khắp các bộ phận của cây trồng nên các loài côn trùng có ích và có hại đều bị diệt khi ăn các bộ phận của các loài cây này. khoảng 60% côn trùng ăn lá cây sẽ bị diệt.
Sáu tháng trước đây,Tiến sĩ Pusztai (Anh) đã công bố kết quả nghiên cứu cho chuột ăn khoai tây có mang gen đã biến đôỉ di truyền, kết quả là nhiều cơ quan trong cơ thể chuột có trọng lượng nhỏ hơn bình thường. Người ta lo ngại các thực phẩm được chế biến từ những loài cây mang gen đã biến đổi di truyền như đậu tương làm thực phẩm hoặc bột dinh dưỡng cho trẻ em... có thể có những tác hại khó lường trước đây. Vì vậy đã có những khuyến nghị cấm dùng các gen đóng dấu chống chịu kháng sinh từ nay đến năm 2001.
Tóm lại, Công nghệ sinh học hiện đại đã mang lại nhiều thành tựu lớn cho kinh tế- xã hội, nhưng đồng thời cũng xuất hiện những đe doạ đối với môi trường, sử dụng bền vững Đ DSH có hiệu lực, việc đầu tiên là phải hoàn chỉnh cơ sở pháp lý quốc tế để thực hiện một số điều khoản của Công ưóc và Ban thư ký đã đề xuất vấn đề xây dựng Nghị định thư về ATSH.
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 13:42:37 GMT -5
Sơ lược quá trình xây dựng nghị định thư
Để thực hiện một số Điều khoản của Công ước Đ DSH như:
Điều 15: Tiếp cận nguồn gen Điều 16: Tiếp cận và chuyển giao công nghệ . Điều 18: Hợp tác khoa học và kỹ thuật Điều 19: Quản lý công nghệ sinh học và phân phối lợi ích của nó, cần phải có những quy định cụ thể về pháp lý và kỹ thuật vì những Điều khoản này mới quy định ở mức nguyên tắc chung. Ngay tại COP 1 họp ở Nassau (Ba-hamas) tháng 12/1994, các nước đã thông qua quyết định thành lập một nhóm chuyên gia về ATSH (Open-ended Ad Hoc Working Group on Biosafety, viết tắt là BSWG) do ông Veit Koester (người Đan Mạch) được bầu làm trưởng nhóm và mỗi nước cử ít nhất một người tham gia .Tháng 7/1995,tại Madrid (Tây Ban Nha) nhóm chuyên gia này đã họp và đi đến thống nhất cần phải xây dựng một khung pháp lý quốc tế cho vấn đề ATSH thuộc Công ước Đ DSH.
COP II họp vào tháng 11/1995 tại Jakarta (Indonesia) đã quyết định xây dựng một Nghị định thư về ASTH. Trên cơ sở đó BSWG đã tiến hành soạn thảo nghị định thư và tổ chức 5 cuộc họp kỹ thuật BSWG ( trong khoảng thời gian từ tháng 7/1996- 8/1998) để thảo luận và hoàn chỉnh dần nội dung. COP 4 quyết định thành lập văn phòng BSWG do ông Veit Koester làm chủ tịch, thành viên của văn phòng gồm đại diện các nước: Ethiopia, Mauritania, Argentina, Bahamas, Hungari, CHLB Nga, Ấn Độ, Srilanca, New Zealand, Camorun để xem xét dẹ thảo lần cuối của nghị định thư và chuẩn bị cho COP bất thường họp tại Comlobia thảo luận. Việt Nam đã cử GS Lê Đình Lương, Chủ nhiệm Bộ môn di truyền học, Đại học Quốc gia Hà Nội tham gia nhóm GSWG.
Mục đích của nghị định thư
Tuân theo khuyến cáo trong nguyên tắc 15 của tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển, mục đích của nghị định thư là đảm bảo thoả đáng về bảo vệ an toàn trong chuyển giao, quản lý và sử dụng các sinh vật sống đã biến đổi về di truyền (LMOs) được tạo ra từ kết quả của công nghệ sinh học hiện đại, mà những sinh vật này có thể có hiệu quả ngược đối với bảo tồn và sử dụng bền vững Đ DSH, có tính đến những rủi ro đối với sức khoẻ con người và đặc biệt hướng vào việc vận chuyển qua biên giới.
Trong quá trình thảo luận tại Hội nghị, mục đích của Nghị định thư đã được các nước nhất trí. Nhưng nội dung cụ thể của một số điều khoản có nhiều ý kiến bất đồng, nó thể hiện sự bất đồng, nó thể hiện sự bất đồng về quyền lợi giữa 2 nhóm nước:
Các nước đanh phát triển, là những nước mà hiện tại và trong tương lai sẽ phải nhập công nghệ sinh học (gọi tắt là công nghệ ) là chính để phát triển kinh tế, nhưng cũng là nước yếu kém về trình độ khoa học, không thể hoặc rất khó kiểm soát công nghệ nhập, lại là những nước giàu có về tài nguyên sinh học. Những nước này sẽ chịu hậu quả khi những rủi ro về môi trường và sức khoẻ cộng đồng do công nghệkhông được kiểm soát gây ra.
Các nước phát triển, hiện là những nước xuất khẩu công nghệ tự do, chưa bị ràng buộc trách nhiệm bằng các cơ sở pháp lý quốc tế. Những nước này hiện có 2 xu thế:
+ Mỹ là nước tìm cách vận động các nước không tham gia ký Nghị định thư ,với lý do các điều khoản của Nghị định thư với lý do các điều khoản của Nghị định thư ,với lý do các điều khoản của Nghị định thư là vật cản các nước đang phát triển nhập khẩu công nghệ và cản trở các hiệp định thương mại.
+ Các nước Tây Âu và Canada thấy cần thiết phải có Nghị định thư, nhưng muốn giảm nhẹ hoặc loại bỏ sự ràng buộc của một số điều khoản .
Lập trường của các nước về vấn đề này hết sức đa dạng. Các nước xuất khẩu công nghệ là chủ yếu cố gắng tránh những ràng buộc pháp lý có thể có. Ngược lại, các nước nhập công nghệ lại cố gắng chuyển trách nhiệm về những hậu quả có thể có của việc sử dụng, chuyển giao các sinh vật đã biến đổi gen sang phía các nước xuất khẩu công nghệ. Giữa hai lập trường này có rất nhiều lập trường trung gian của các nước vừa xuất lại vừa nhập công nghệ. Ngoài ra, nhiều nước nhập công nghệ với nhu cầu rất cấp bách để bảo đảm ổn định kinh tế và an toàn lương thực lại có lập trường gần với các nước xuất khẩu công nghệ về quyền lợi quốc gia của họ.
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 13:45:36 GMT -5
Những nội dung (điều khoản) được thảo luận nhiều nhất
Điều 3 (Sử dụng các thuật ngữ trong Nghị định thư )
Các thuật ngữ liên quan trực tiếp đến phạm vi áp dụng của Nghị định thư:
Thuật ngữ "Products Thereof"là các sản phẩm từ những loài đã biến đổi di truyền (LMOs) có thuộc phạm trù khái niệm được hiểu kết hợp với LMOs và phạm vi quản lý của Nghị định thư hay không? Phạm trù này liên quan đến nội dung quy định của các Điều 12 (đánh giá rủi ro) và 13 (Quản lý rủi ro) và liên quan đến các ngành sản xuất công nghiệp thực phẩm và dược phẩm sử dụng nguyên liệu từ những loài cây nông nghiệp có mang LMOs .
Các nước xuất khẩu công nghệ (đặc biệt các công ty dược phẩm và công nghiệp thực phẩm) phản đối mạnh điều này với lý do các sản phẩm này không còn là sinh vật sống nữa nên không thể gây hại cho môi trường và Đ DSH. Vấn đề ảnh hưởng tới sức khoẻ con người đã được kiểm soát bởi các tiêu chuẩn của WTO (Tổ chức Y tế thế giới) và các tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế. Thực chất, nếu đưa nội dung "Producst Thereof" vào Nghị đinh thư thì chi phí cho kiểm nghiệm, đánh giá và thủ tục vận chuyển sẽ tăng lên rất nhiều và các công ty này phải chịu mọi rủi ro nếu có sự cố xảy rảtong khi các công ty bảo hiểm không chấp nhận đền bù theo tinh thần Nghị định thư. Do vậy chỉ nên giới hạn trong phạm vi những ảnh hưởng đến Đ DSH thuộc trách nhiệm Công ước Đ DSH.
Các nước đang phát triển vẫn muốn duy trì nội dung này trong Nghị định thư .
Điều 5 về áp dụng các thủ tục AIA (thoả thuận thông báo trước- Advance lnformed Agree-ment)
Bên nhập khẩu công nghệ (bên nhâp) có quyền yêu cầu bên xuất khẩu công nghệ (bên xuất) phải có thông báo trước bằng văn bản về các đặc trưng của LMOs, dự đoán có thể có những khả năng tác động ngược đối với môi trường và sức khoẻ con người, số lượng và chất lượng các LMOs (các thông tin cụ thể được quy định trong phụ lục I) mỗi khi tiến hành vận chuyển, chuyển giao, phát triển các LMOs cho bên nhập khẩu hoặc quá cảnh qua một nước thứ 3.
Bên xuất khẩu, muốn chỉ thông báo lần đầu tiên các thủ tục AIA cho bên nhập khẩu về một loại LMOs, sau đó không cần thông báo cho các lần nhập tiếp theo.
Điều 12 về đánh giá rủi ro; Điều 13 về quản lý rủi ro.
Cả 2 điều khoản này đều quy định bên xuất khẩu phải có trách nhiệm tiến hành đánh giá rủi ro tại nước nhập khẩu và cùng với bên nhập khẩu xây dựng các biện pháp, cơ chế thích hợp để ngăn chặn những tác động ngược của LMOs đối với môi trường trong phạm vi lãnh thổ của nước nhập khẩu.
Nội dung và các thủ tục đánh giá rủi ro phải tuân theo quy định của phụ lục II.
Một số nước cho rằng để ngăn ngừa rủi ro, cần phải bổ sung nguyên tắc khuyến cáo trước về các sản phẩm có khả năng gây tác động ngược đối với môi trường.
Bên xuất khẩu đòi loại bỏ các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến và sược phẩm sử dụng nguyên liệu của các loại có chứa LMOs ra khỏi phạm vi kiểm soát của Nghị định thư về việc đánh giá và quản lý rủi ro cho đối tượng này rất tốn kém, đồng thời các loại sản phẩm này đã bị kiểm soát bởi các quy định quốc tế khác.
Điều 15 về quản lý sử dụng, vận chuyển, đóng gói và cấp chứng nhận.
Một số ý kiến cho rằng các quy định về thủ tục cho phép vận chuyển và cấp chứng nhận là quá phức tạp, cản trở buôn bán.
Một số cho rằng có thể đơn giản thủ tục nhưng phải đảm bảo nguyên tắc an toàn khi vận chuyển.
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 13:45:50 GMT -5
Vì có nhiều ý kiến bất đồng, nên phiên họp COP chiều ngày 22/2/1999 đã quyết định uỷ quyền cho ông Bộ trưởng Bộ Môi trường Colombia (Chủ tich Ex. COP) lập một nhóm 10 người thuộc 10 nước, đại diện cho các quan điểm khác nhau để cùng xem xét lại dự thảo Nghị định thư. Sau 2 ngày thảo luận căng thẳng dưới sự chủ trì của Chủ tịch ExCOP các ý kiến bất đồng vẫn không được giải quyết. Như vậy ExCOP lần này đã thất bại mặc dù số đông cho rằng bản thảo Nghị định thư được đưa ra thảo luận là tương đối tốt, nó bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển.
Nghị định thư liên quan nhiều đến quyền lợi cụ thể của mỗi quốc gia khi xuất khẩu hay nhập khẩu coong nghệ sinh học hiện đại, buôn bán các sản phẩm nông nghiệp và dược phẩm có mang các LMOs.
Nghị định thư tuy chưa được thông qua tại ExCOP Colombia, mặc dù đã có một sửa đổi để dung hoà quyền lợi giữa khối các nước phát triển và đang phát triển, nhưng vẫn là một văn bản chuẩn bị pháp lý quốc tế, ràng buộc trách nhiệm của bên xuất khẩu công nghệ đối với bên nhập khẩu công nghệ. Do vậy nước ta cần theo dõi những thay đổi trong nội dung của Nghị định thư này từ nay đến Hội nghị các bên tham gia Công ước Đ DSH (COP5).
Dù Nghị định thư có được các nước có chấp nhận tại COP 5 sắp tới hay không, để bảo đảm chủ quyền quốc gia và ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến môi trường và sức khoẻ công đồng, nước ta vẫn rất cần tổ chức một nhóm chuyên gia liên ngành xây dựng Nghị định về quản lý ATSH của nước ta trên cơ sở tham khảo nội dung Nghị định thư và Hiệp định của ASEAN về vấn đề này để trình Thủ tướng Chính phủ ký, làm cơ sơ pháp lý cho các cơ quan trong nước khi phối hợp giải quyết các nội dung liên quan đến ATSH.
ATSH là một vấn đề còn quá mới đối với nhiều cơ quan quản lý của nước ta, nó không chỉ là vấn đề khoa học kỹ thuật và bảo vệ môi trường, mà còn lien quan đến các hiệp định thương mại, kiểm soát của Hải quan qua cửa khẩu do vậy cần thông tin kịp thời với các Bộ, ngành có liên quan đến thực thi Nghị định thư sau này để giới thiệu trước nội dung cơ bản của Nghị định thư và dự thảo Hiệp định của ASEAN về vấn đề này và đưa ATSH vào nội dung nâng cao nhận thức chung về bảo vệ môi trường và bảo tồn/ sử dụng bền vững Đ DSH.
|
|