|
Post by Robot on Oct 30, 2004 12:14:04 GMT -5
Thế giới đang bị “nữ hóa”! Trong truyện “Tây du ký” của tác giả Ngô Thừa Ân, Tam Tạng phải trải qua nhiều thử thách mới đắc đạo. Trong chuyến đi này, ông phải đi qua vương quốc nữ giới - xứ sở không có đàn ông. Thay thế cho vai trò thiêng liêng của đấng mày râu là "nước sinh con". Khi muốn sinh con nối dõi, người phụ nữ chỉ cần uống nước và sau đó chờ ngày khai hoa nở nhụy.
Chuyện xưa là thế, chuyện nay đàn ông cũng đang có nhiều nguy cơ trở thành “động vật quý hiếm" và nếu không có biện pháp bảo vệ kịp thời thì không biết thế giới sẽ đi về đâu!
Giả thuyết chấn động thế giới
Gần đây, trên cơ sở các nghiên cứu, các nhà khoa học dự báo thế giới đang bị “nữ hóa”. Nói cách khác, đàn ông đang đi vào con đường... tuyệt chủng! Theo một giả thuyết về môi trường gây chấn động, hầu hết các hóa chất công nghiệp đều có tính estrogen (nội tiết tố nữ ), thậm chí một số chất còn có hoạt tính ức chế hoạt động androgen (nội tiết tố nam). Việc tiếp xúc lâu dài và với nồng độ cao sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển về giới tính và khả năng sinh sản của nam giới. Một số báo cáo gần đây tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới cho thấy một hiện tượng khá đặc biệt là cá đực (bộ nhiễm sắc thể XY) sống trên các dòng sông ô nhiễm nặng đã sản xuất ra trứng thay vì tinh trùng (!?).
Một số người “tin” rằng Thượng đế đã tạo ra đàn bà từ xương sườn của đàn ông (Kinh thánh), nhưng sinh học hiện đại đã cho chúng ta biết rằng trong tự nhiên, quá trình diễn ra gần như ngược lại. Ở người, tất cả các bào thai nam và nữ ban đầu đều phát triển giống như nhau. Ðến một giai đoạn nhất định, bào thai nam sẽ bị tác động bởi các yếu tố di truyền để bắt đầu phát triển “chệch” đi và tạo thành bé trai, các bào thai nữ do không bị tác động trên sẽ tiếp tục phát triển thành bé gái. Nói một cách khác, tất cả các bé trai đều khởi đầu từ một bào thai nữ. Hiện tượng này cũng xảy ra tương tự ở nhiều loài động vật. Như vậy, nếu trong quá trình phát triển bào thai, có một yếu tố bên ngoài tác động làm ức chế sự phát triển giới tính của bào thai nam, thai nhi sẽ phát triển bất thường về giới tính, hình thành yếu tố tiềm ẩn của nhiều bệnh lý đường sinh dục và ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh sản.
Người ta đã dùng cơ sở khoa học trên để giải thích hiện tượng “cá đực đẻ trứng”. Và "thủ phạm" chính là môi trường ô nhiễm nặng nề của dòng sông. Chính sự ô nhiễm này đã ngăn cản sự tác động của yếu tố di truyền và khiến cho cá đực mất cơ hội phát triển dù mang nhiễm sắc thể đực. Nguy hơn nữa, các nhà khoa học còn nhận thấy hầu hết các chất ô nhiễm của những dòng sông này đều có hoạt tính sinh học giống như nội tiết tố nữ (estrogen) đối với người và động vật. Ðã không có cơ hội phát triển yếu tố di truyền mà còn phải lớn lên trong môi trường giàu tiết tố nữ thì không là cá cái mới là… chuyện lạ!
Các nhà khoa học không hài lòng với kết quả nghiên cứu trên và cho rằng có thể còn nhiều nguyên nhân khác. Sau khi tìm kiếm, họ phát hiện ra rằng có nhiều chất chứa hoạt tính estrogen, trong đó có cả thuốc trừ sâu, diệt cỏ, các chất sử dụng trong công nghệ sản xuất và xử lý nhựa, công nghệ làm lạnh dân dụng. Nên biết rằng các chất này đều hiện diện trong máy giặt, tủ lạnh, truyền hình, điện thoại, ống dẫn nước, vật chứa bằng nhựa hàng ngày (túi nylon, hộp nhựa)… Chúng ta tiếp xúc với chúng mỗi ngày. Một số hóa chất, sơn dùng trong trang trí nội thất cũng có chứa hoạt tính estrogen. Tương tự là các chất bảo quản thực phẩm. Cuối cùng là hoạt tính estrogen có cả trong các chất thải công nghiệp.
|
|
|
Post by Robot on Oct 30, 2004 12:14:56 GMT -5
Bảo vệ môi trường sống là ưu tiên hàng đầu
Với các giả thuyết trên về sự ô nhiễm và độc hại của môi trường sống, bạn hãy tưởng tượng chúng ta đang sống như thế nào, đang thở gì, ăn gì và uống gì trong thế giới tiện nghi và hiện đại này từ lúc còn là bào thai đến khi trưởng thành?
Tại khoa vô sinh bệnh viện phụ sản Từ Dũ, số lượng nam giới đến khám vô sinh do tinh trùng yếu, dị dạng ngày càng đông. Ðây cũng là một thực tế đang được báo động tại nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, sự tiến bộ của y học nói chung và kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nói riêng đã giúp tăng khả năng duy trì nòi giống của nam giới lên rất nhiều. Theo các nhà sinh lý học, người chồng phải sản xuất hàng trăm triệu tinh trùng mỗi ngày để có thể có con bình thường. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản giúp người đàn ông có thể có con chỉ với một vài tinh trùng. Và đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phát triển mạnh trên thế giới trong hơn 20 năm qua.
Như vậy, với kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cho dù tinh trùng giảm với tốc độ chóng mặt theo các thống kê khoa học (1 - 2% mỗi năm), nam giới vẫn còn khả năng hoàn thành nghĩa vụ duy trì nòi giống trong vài trăm năm nữa. Chỉ buồn là không phải theo cách "tự nhiên, thoải mái" như cha ông thuở trước.
Nói chung, tác động của sự xuống cấp về môi trường đến cuộc sống của con người là rất sâu rộng, không chỉ ở vấn đề sinh sản, sức khỏe. Do đó, cải thiện môi trường sống là trách nhiệm của tất cả mọi người. Trên bình diện thế giới, nhiều tổ chức, nhiều quốc gia từ lâu đã đưa ra những chương trình hành động để bảo vệ môi trường sống.
Hãy trở về với tự nhiên, cùng nhau bảo vệ môi trường là khẩu hiệu của mỗi người để bảo vệ chính mình và cùng bảo vệ nhân loại.
(Theo Cẩm nang tiêu dùng)
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:33:41 GMT -5
www.ttvnol.com/ttx/421602/trang-1.ttvnThỉnh thoảng tôi đọc được những sách trong đó người ta bàn tán rất nhiều với những từ ngữ'''' Hoc môn môi trường'''' ''''Sự rối loạn hệ nội tiết do các chất hoc môn môi trường''''....Mong được cùng các bạn suy nghĩ về những vấn đề này. Sau đây là một vài những điều tôi đọc được. Hoi nghi khoa hoc Nha Trang vao nam 1997 dinh nghia ve hormon moi truong nhu sau Hormon moi truong la nhung chat ngoai lai xam nhap vao co the, tac dong den qua trinh hop thanh, tiết ra, van chuyen, ket hop hay phan huy cac hormon trong co the sinh hoc, gay anh huong den kha nang hoat dong, sinh truong, va kha nang duy tri trang thai can bang cua sinh vat. Loi canh bao ve cac chat hormon moi truong tren Tg bat dau tu cuon sach {Our stolen future} do 3 nha nghien cuu he sinh thai nguoi My phat hanh vao nam 1996. ( Calborn, John Peterson Myers, Dianne Dumanoski) Tieng chuong canh bao ve hormon moi truong tiep theo la do dai phat thanh BBC cua Anh. Cung vao nam 1996 D. Cadbury chiu trach nhiem san xuat chuong trinh khoa hoc cua dai BBC da xuat ban cuon sach {The feminization of nature} ''''Our stolen future'''' có 316 trang và gây shock cho chúng ta là những hiện tượng không bình thường kô thể tin nổi đang xảy ra trong giới sinh vật hoang dã ngày càng nhiều .Ví du như: -Hiện tuợng mất khả năng sinh sản cua loài bald eagles ở Florida -Hiện tuợng teo nhỏ bộ phận sinh duc của alligator đực ở hồ Apopka Florida hay hiện tuợng giới tính trung gian -Hien tuong giảm mạnh số luợng loai Mink ở hồ Michigan -Hien tuong 2 chim cai chung song -Hiện tuợng số luợng vit troi cái o California chiem da so Hien tuong trong cơ thể cá voi đực trắng ở Canada, ngoài bộ phận sinh sản đực còn có cả bộ phận sinh sản cái như buồng trứng va tử cung -Hien tuong giảm mạnh số luợng Otter o chau Au va Anh( có nơi tuyệt chủng) -Hien tuong Azarasi (seal)chết hàng loạt ở biển Bắc Âu -Hien tuong cá heo chet hang loal ở Đia Trung Hải -Hien tuong dê ở miền Tây Australia không thụ thai hay so luợng dê chết non gia tăng -Phat hien chất PCB trong cơ thể gấu bắc cực va loài chim cánh cụt sống ở Nam cực -Hien tuong giảm mạnh số luợng ếch trên toàn thế giới .......... Và cả những hiện tượng đang diễn ra đối với con người như: -Hiện tượng giảm số luợng tinh trùng Our Stolen Future có giới thiệu kết quả nghiên cứu của các giáo sư ở truờng đại học Copenhargen vao năm 1992. Theo nhu ket qua nghien cuu đó, ko những là số luợng tinh trùng giảm mà có cả hiện tuợng đình lưu tinh trùng hay teo đuờng dẫn tinh. Năm 1940 số luợng tinh trùng trung binh ở người là 113 triệu tinh trùng /1ml tinh dịch nhưng vào năm 1990 so luong tinh trùng giảm đến mức chỉ còn 66 triệu/ml tinh dich, giảm khỏang 45 %. Va luợng tinh dich giảm 25%. Kết quả điều tra số luợng tinh trùng ở Scotland cũng đuợc giới thiệu nhu sau: So luong tinh trùng cua nam giới sinh vào năm 1940 khoảng 120 trieu /ml tinh dịch nhưng số luợng tinh trùng những nguời sinh vao nam 1969 giảm chi còn 75 trieu. Theo nhu so lieu so sanh ket qua điều tra cua Belgy doi voi 360 nguoi trong 3 nam 1990 –1993 va 3nam 1977 –1980 thi so luong tinh trùng giảm 28%, so luong tinh trùng co khả năng vận dộng giảm từ 53% xuong còn 33% Mat khac, ket qua dieu tra cua Phap cung duoc noi den. Nhom dieu tra Phap khong tin vao ket qua cua nhon giao su truong Copenhagen nen da doc lap dieu tra. Va ket qua cua cuoc dieu tra la nhung nguoi sinh vao nam 1945 khi 30 tuoi so luong tinh trung cua ho khoang 120 trieu, nhung nguoi sinh vao nam 1975 khi 30 tuoi so luong tinh trung giam chi con 51 trieu, Theo đà này, nhung nguoi sinh nam 2005 den khi 30 tuoi thi so luong tinh trùng cua ho chi khoảng 32 trieu, bang 1/4 so luong tinh trùng cua những nguoi sinh nam 1925. Như vậy, hiện tuợng giảm số luợng tinh trùng xảy ra ở các nuớc ..Nhom Colbon nhận dịnh nguyên nhân có thể là do tac dụng của các chất trong môi truờng vào giai đoạn hình thành thai nhi. Thu Lan
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:35:34 GMT -5
Đặc trưng của hormone môi truờng
Các chất hormone môi truờng gây nhiều tac dụng sinh hoc khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung.Để có thể lý giải nguyên nhân các hiện tuợng bất thường trong giới sinh vật, chúng ta thử tim hiểu cac điểm chung của các chất hóa học đuợc gọi là hormone môi truờng.
1.Đặc trưng
a.Các chất hormone môi truờng thường có cấu trúc vòng benzen như:2,3,7,8-TCDD[322] 2,3,7,8TCDF[306] 3,3'',4,4'',5-PCB[326] DDT[354] bisphenol A[228] stylen... ( CH3-CH-CH2-CH2)[210] p-nonilphenol [220] DEHP[391] BHT[220] và TBT(tributyltin)[220] dù ko có vòng bezen
b.Kích cỡ phân tử nhỏ, cấu trúc phân tủ đơn giản so với các phân tử sinh học trong cơ thể nhu chất protein, các loại đuờng, các chuỗi DNA,RNA
c.Khó tan trong nuớc va dễ tan trong mỡ( các chat protein, các loại đuờng, DNA, RNA đều dễ tan trong nứoc và các chất tạo thành nhu axit amin, đừơng gluco cũng dễ tan trong nuoc). Khi so sánh cấu trúc phân tử hormone môi truờng tiêu biểu và hormone giới tính thi chúng gần giống nhau (Trong cơ thể của chúng ta cũng tồn tại nhiều chất tan trong mỡ như cac chất béo, các chất tạo thành màng tế bào, hormone steroid )
d.Phân hủy sinh học thấp.
2 Các chất hormone môi truờng gây tác dụng chỉ với một luợng rất nhỏ, nồng độ ppt
3.Các chất hormone môi truờng có tác dụng sinh lý giống như hormone nữ (estrogene) nên người ta gọi nhiều hormone môi trưòng là các chất tuơng tư như estrogene[tác dụng giả hormone(agonist)] Nhưng mặt khác, các chất hormone môi truờng ko có biểu hiện tác dụng như hormone nam giới (androgene) nhưng có những biểu hiện kháng lại hormone androgen, có nghĩa là làm ngăn trở hoạt động của hormone androgene. Biểu hiện này gọi là tác dụng kháng hormone (antagonist).
4.Hormone môi trường gồm:
Các loại chất dioxin PCB DDT HCH(BHC) hợp chất estrogen như thuốc tránh sảy thai (DES) TBT
Và có thể cả các hợp chất có xung quanh cuộc sống của chúng ta như: p nonilphenol, bisphenolA,chất làm mềm nhựa, chất chống oxi hóa,Stylen...
Giới thiệu về Hormone Vai trò chính của hệ nội tiết là các hormone Trong co the chung ta có cơ quan hợp thành các chất biểu thị các tác dụng sinh ly đặc biệt với một luợng rất nhỏ. Các chat hop thành đó trực tiếp ngấm vào máu, cơ quan tiết ra các chất như vậy đuợc gọi la tuyến nội tiết. Va cac chat duoc hop thanh do duoc goi la hormone. Vita min C voi mot luong rat nho cung bieu thi tac dung sinh ly nhung co the chung ta ko hop thanh vitamin C. Cho nên có thể nói hormone la nhung chat duoc he noi tiet hop thanh, ngấm vào trong máu, và cuối cùng la tao nen những tac dung sinh ly doi voi nhung te bao đuợc chỉ định nhất định
Cac loai hormone Hormon duoc hop thanh tu rat nhieu tuyen noi tiet,chia ra lam 5 loai chat theo cau truc hoa hoc nhu hormon Catecholamine, hormon Steroid, iodo axit amin, tiểu đường(oligo peptide), protein.
Cấu trúc màng tế bào Các tế bào đuợc bảo vệ khỏi sự xâm nhập của các chất bên ngoài nhờ màng tế bào. Cấu trúc mang te bao co ban la su ket hop 2 lop, lớp đầu là những chất có tinh tan trong nuớc, lớp sau la nhung chat có tinh tan trong mỡ. O te bao co chat protein duoc goi la tiep the (recepter) co nhiem vụ thu nhận những tín hiệu ngoài tế bào, ............
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:36:29 GMT -5
Hormone tồn tại trong máu có thể dến với những tế bào duoc chỉ định thi truớc tiên hormone phải ra vào qua thành mạch máu, mặt bên trong thành mạch máu đuợc bao phủ bởi các tế bào thành mạch máu nhưng giữa các tế bào thành mạch máu có một ít các khe hở để nuớc và các chất dinh duỡng có thể di qua ra ngoai mạch máu.Nhưng thành các mạch máu não thi ko có các khe hở đó để tránh sự xâm nhập của các chất bên ngoài vào, va đuợc bảo vệ một cách cẩn thận bởi các barrier mạch máu não. O thai nhi mới hình thành thì các barrier này vẫn chưa duợc hoàn thiện.
Cac hop chat phân tử lượng phân tử thấp co tinh tan trong mỡ du khong co nhung khe ho cua cac te bao van co the truc tiep di qua cac mang te bao thanh mach mau. Boi vi ben trong mang te bao cho cac chat tan trong mo di qua duoc .Chinh vi vay nen cac hop chat luong phan tu thap nhu (CH3CH2-O-CH2CH3), chloroform ( CH3Cl), toluene(C6H5CH3 ) xam nhap vao te bao than kinh gay te liet , me hoac than kinh nguoi benh. Thanh phan chinh cua dung dich sơn pha loãng là toluene(C6H5CH3 )
Hormon moi truong cung la nhung phan tu thap co tinh tan trong mo nhu cac chat tren.
He thong truyen dat thong tin toi ben trong cac te bao trong co the la cac tiep the -recepter-
Hormone trong mau do các tuyến nội tiết tiet ra, di qua thanh mach mau den những te bao chi dinh. Su truyen dat thong tin trong co the ngoai he than than kinh thi deu do cac chat hormone. Cac chat hormone moi truong gay ra su roi loan he noi tiet hormon trong co the
Hormon tới nhung te bao duoc chi dinh neu la nhung hormon co tinh tan trong nuoc nhu hormon protein hay hormon oligo peptide,sẽ ket hop voi nhung recepter lộ ra ở bề mặt các tế bào chỉ định. Hormone ko co kha nang ket hop voi tat ca mọi recepter. Su ket hop duoc voi recepter giong nhu viec bật công tác từ off sang on. Và đây là dau hieu bat dau hoat dong rat quan trong va chi co recepter đặc hữu cua hormon do moi ket hop duoc voi hormon do. Day la su ket hop dac biet, the hien su tien hoa trong sinh vat nen khong co su truyen dat nhung thong tin sai.
Khi cac hormone chat protein ket hop voi recepter, thi ben phan tu trong te bao co su thay doi trang thai lap the va cac chat gốc P ket hop voi recepter. Phan ung oxi hoa P xay ra lien tuc voi loat cac chat protein trong te bao. Chuoi phan ung oxi hoa P lien tuc la mot phuong tien truyen dat thong tin quan trong trong te bao. Va cu nhu the nay cac thong tin duoc truyen den nhan te bao va thong tin di truyen dua vao cac thong tin nay bat dau qua tinh hop thanh cac chat protein duoc chi dinh.
Recepter hormone steroid Trong truong hop hormon steroid nhu hinh ve 2-9 thong tin duoc truyen vao nhan te bao khong thong qua recepter tren be mat te bao. Vi hormon steroid la hop chat phan tu thap co tinh tan trong mo, tu do di qua mang te bao vao ben trong te bao
Hormon steroid di vao ben trong te bao, ket hop voi recepter ton tai ben trong te bao, tiep do bat cac gen di truyen hoat dong. Vi du menh lenh cua hormon steroid la lam long nguc moc va phat trien thi cac te bao goc long nguc se la te bao chi dinh den cuoi cung cua hormon, kích thích gen di truyen do va bat dau quá trình hợp thành long nguc.
That ra, o cac recepter cua hormon steroid co su ket hop cua chat control protein va phan ket hop voi AND tao thanh block nhung khi hormon steroid ket hop voi tiep the recepter thi chat control protein rơi ra và vi tri ket hop voi AND thi bo trống, phan trống do se ket hop voi DNA dac chung o trong nhan te bao. Va nhung thong tin duoc luu giu se duoc RNA sao chep. Cho nen recepter cua hormon steroid cung co tac dung trong viec sao chep thong tin.
Nhu vay phuong phap truyen dat thong tin den nhan cua hormon steroid thong qua recepter ben trong mang te bao don gian hon so voi cac cach truyen thong tin cua cac hormon khac
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:38:18 GMT -5
Sự quyết định giới tính
Ở người có 23 cặp nhiễm sắc thể, tổng cộng 46 nhiễm sắc thể.Trong đó nhiễm sắc thể giới tính nam là XY va nhiễm sắc thể giới tính nữ là XX. Điều lý thú là tế bào sinh dục trong lúc bào thai vừa có thể phân chia thành cơ quan sinh dục nữ và có quan sinh dục nam. Có nghĩa là lúc ban đầu ko có sự khác biệt về giới tinh. Bộ phận của cơ quan sinh dục mới đầu cũng chỉ là một loại tế bào sinh dục nguyên sinh, đều có khả năng phân chia thành cơ quan sinh dục nữ hoặc cơ quan sinh dục nam .Tuy nhiên trên 1 bộ phận của nhiễm sắc thể XY tồn tại một gen di truyền làm cho bộ phận cốt lõi của cơ quan sinh dục chưa hình thành phân chia thành túi tinh. Gen nay gọi là phần quyết định giới tính(SRY)
Trong thời kỳ chưa phân chia, tế bào sinh duc nguyên sinh có 2 giới tính,và được phân chia thành cơ quan sinh dục nữ hoặc cơ quan sinh dục nam .Đầu tiên, chất được hợp thành nhờ gen SRY làm biến đổi chất cốt lõi của tế bào sinh dục chưa phân chia thành túi tinh của thai nhi. Túi tinh này sẽ tiết ra testosteron và chất MIS- chất kháng âm vật (mầm của cơ quan sinh dục nữ ).Testosteron sẽ tác dụng lên cơ quan sinh dục nguyên sinh này phân chia thành cơ quan sinh dục ngoài của nam, hơn thế nũa testosteron và MIS đồng thời tác dụng lên cơ quan sinh dục ban đầu đê tạo thành cơ quan sinh dục trong của nam. MIS tác dụng lên cơ quan sinh dục nguyên sinh để cớ quan sinh dục nữ ko hình thành.
Nhiễm sắc thể XX do ko có SRY nên được làm theo chương trình sắp đặt ngay từ đầu. Đầu tiên tế bào cơ quan sinh dục phát triển thành cơ quan sinh dục ngoài của nữ và cơ quan sinh dục trong của nữ. Sau đó, pha^`n chat ngoài của tế bào sinh dục chưa phân chia sẽ tạo thành buồng trứng của thai nhi.
Như vậy, Giới tính cơ bản của người là nữ, nếu có gen SRY hoạt động thì hormon nam giới được tiết ra thai nhi trở thành nam. Sự quyết định giới tính này được diễn ra trong khoảng thời gian từ ngày thứ 40 đến 60 sau khi thụ tinh.
Sử trưởng thành của thai nhi
Cơ thể người mẹ cung cấp dinh dưỡng cho thai nhi qua nhau thai. Mạch máu của người mẹ và của thai nhi không trực tiếp với nhau mà được trao đổi qua rất nhiều cơ quan như màng dinh dưỡng, màng tử cung và mao mạch trung gian. Chính vì thế, chất dinh duong , oxi tu người mẹ cũng như chất thải và CO2 từ thai nhi được vẫn chuyển nhờ sự phân tán qua màng các bộ phận trung gian này.
Trong khoảng thời gian từ tuần thứ 8 đến thứ 12, mặc dù gen di truyền là nữ nhưng nếu nồng độ testosteron của androgen (hormon sinh dục nam) tăng cao thì cơ quan sinh dục sẽ phát triển thành co cơ quan sinh dục nam. Kết quả sẽ là hiện tượng nũ giả nam, có trường hợp ngoài cơ quan sinh dục nũ và buồng trứng còn có thêm cơ quan sinh dục ngoài của nam như dương vật chẳng hạn.Testosteron dư thừa có thể do tuyến thượng thận to , hoặc do người mẹ đã bị nhận mộtt lượng androgen lớn vào cơ thể.
Nếu túi tinh của thai nhi không bình thường, mặc dù gen di truyền là nam( XY) thì cũng có hiện tượng nam giới có cơ quan sinh dục ngoài của nữ.
Mặt khác, theo như báo cáo thí nghiệm trên động vật :nếu nồng độ estrogen trong cơ thể thai nhi cao làm sự phát triển của mào tinh bị hạn chế nên khi trưởng thành số lượng tinh trùng bị giảm xuống.
Như vậy hormon giới tính có ảnh hưởng rất lớn đến sự trưởng thành của thai nhi. Trong khi đó nếu có hormon giả thì kết quả sẽ ra sao, đó chính là ác mộng xung quanh vấn đề hormon môi trường.
Điều quan trọng là hormon môi trường kết hợp với các tiếp thể recepter khi nào, và ở đâu.Nếu trước khi hinh thai cơ quan sinh dục, đối với thai nhi mang nhiễm sắc thể XY( tương lai sẽ là nam ) bị hormon môi trường tác động lên tế bào cơ quan sinh dục thì có thể thai nhi đó sẽ mang cơ quan sinh dục nữ. Hay tác dụng của hormon làm phát triển tế bào tinh trùng bị cản trở bởi hormon môi trường thì số lượng tinh trùng sẽ bị gỉam. Sự phân chia giới tính của nao thai nhi trong tương lai sẽ phát triển thành nam giới chính là sự biến đổi từ androgen sang estrogen. Chính vì thế nếu có chất giống như estrogen xâm nhập vào tế bào thần kinh não của thai nhi nữ thì có thể đứa trẻ đó sẽ mang tính cách nam giới. Như vậy Hormon có thể ảnh hưởng đến rất nhiều thời kỳ nhưng nguy hiểm nhất là thời kỳ hình thành cơ quan sinh dục dến thời kỳ bú sữa. Nhưng những ảnh hưởng đó vẫn còn nhiều điều chưa được biết.
Thu Lan
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:40:14 GMT -5
Mặc dù hormon môi truờng là những hợp chất phân tử thấp, tan trong mỡ nên dễ dàng xâm nhập vào bên trong tế bào, và một vài hormon môi truờng có tác dụng giống hormon estrogen nên có khả năng kết hợp với recepter hormon estrogen.
Nhưng trong cơ thể chúng ta có hệ thống phòng vệ loạii trừ các chất ngoại lai.
Vậy mà hormon môi trường vẫn có thể đi qua?
Và Hormon môi truờng khác với các chất độc khác như thế nào?,
Sự xâm nhập của chất ngoại lai vào bên trong cơ thể.
Nếu trong thức ăn và nước uống có lẫn các chất có hại thì những chất đó sẽ vào cơ quan tiêu hóa. Hoặc sẽ vẫn giữ nguyên trạng thái hoặc bị men tiêu hóa phân giải và sẽ bị hấp thụ vào mạch máu trong ruột non. Các hormon môi truờng là hợp chất phân tử thấp, tan trong mỡ , chúng sẽ đi qua các khe hở giữa các tế bào và màng tế bào. Nhưng để ion Na di vao bên trong tế bao thì cần phải có năng luợng. Các chất được hấp thụ qua đừơng thức ăn vào bên trong cơ thể một cách dễ dàng đều phải nhờ transporter gluco
Cac chất có tinh tan trong nuớc khi vào trong mạch máu thì chảy theo mạch máu, nhưng những chất tan trong mỡ thì sẽ kết hợp với các chất protein albumin hoac buloburin đi vào mạch máu. Nhung chat protein này gọi là những chất kết hợp. Nhưng không phải bất kỳ chất nào cũng kết hợp với chất kết hợp protein này mà chỉ là một phần nên những chất không kết hợp với chất protein này se đi qua màng tế bào.
Ngoài ra, các chất ngoại lai có thể xâm nhập qua đừong hô hấp, qua cac tế bào phổi đi vào mạch máu Các chất xâm nhập qua da chỉ có những chất tan một ít trong nuớc va dễ tan trong mỡ như chất nitrogriserin. Thông thuờng trên bề mặt da có lớp chất sừng bảo vệ.
Trong cơ thể chúng ta có mạng luới miễn dịch quan trọng nhu chất kháng thể, lymph node...làm nhiệm vụ xử lý các chất lạ Cac loại virut, khuẩn gây bệnh xâm nhập vào cơ thể sẽ bị loại trừ bởi hệ thống miễn dịch này.
Nhung khi hệ thống miễn dịch không phân biệt đuợc là chất lạ xâm nhập, các chất lạ sẽ từ đuờng tiêu hóa đến gan. Tại gan các chất lạ sẽ bị bao tủa va chịu xử lý hoá học. Gan không chỉ là cơ quan tạo ra chất protein, corestron cần thiết duy trì sự sống cho cơ thể mà còn là nơi xảy ra các phản ứng hoá học cần thiết để giải các chất độc
Giải độc ở gan
Phuong pháp giải độc ở gan là oxi hóa các chất khó tan trong nuớc、phản ứng thêm nuớc để làm cho chất đó dễ tan trong nuớc ( phản ung thay thế buớc 1 ) Khi chất đó dễ tan trong nuớc , bên trong dịch thể của tế bào phản ứng hóa học sẽ dễ xảy ra nhờ men xúc tác P450 ( tên gọi chung của tập hợp các men, do người Nhật đặt tên)
So voi cac men khác, men P450 lớn hơn, các loại men P450 có phản ứng men với rất nhiều chất lạ khác nhau. Ở nguời men P450 khoảng 20 loại men , va có thể phản ứng với khoảng trên 1 triệu hợp chất có tính tan trong mỡ.
Buớc thu 2 la phản ứng của những nhóm chất dễ hòa tan trong nuớc như nhóm hidroxyl(-OH) va cacboxyl(-COOH), amino(-NH2) kết hợp với các chất xâm nhập. Nhờ phản ứng này tính hòa tan trong nuớc của các chất đựoc tăng cao.
Tại gan của thai nhi, phần lớn chất estrogen cua mẹ đều nhờ phản ứng loại này nên dễ tan trong nuớc và những thai nhi nam đều truởng thành nam tính do không bị ảnh huởng estrogen của mẹ,
Khi các chất tan trong mỡ đi vào gan se qua 2 cấp phản ứng trên và sẽ bị gan thải ra ngoài . Phản ứng hòa tan trong nuoc như thế này đóng 1 vai trò quan trọng trong chức năng giải độc của gan.
Nhưng đáng tiếc, không phải chất nào cũng đều có thể bị thay đổi tính tan trong mỡ sang tính hòa tan trong nuớc nhờ phran ứng men. Điều đáng ngạc nhiên, cũng có truờng hợp sau khi qua 2 cấp phản ứng trên tính chất hóa học chất đó bị thay đổi, và độc tính mới bắt đầu xuất hiện,
Vi dụ như chất benzen vào cở thể qua phổi, sẽ chịu phản ứng thay thế va bị thải ra ngoài qua đuờng nuớc tiểu, nhưng một phần sẽ đi theo mạch máu đến tủy sống, tại đó phản ứng thay thế diễn ra và chất thay thế đó gây ra biến đổi gen đối với hồng cầu Hoặc chất DDT, sau khi qua phản ứng thứ 1 tạo thành chất DDE có độc tính.
Sự bài tiết.
Các chất sau khi bi gan xử lí thành các chất có tinh tan trong nuớc nếu phân tử lớn hơn 500 thi se theo dịch mật ra ngoài . Nếu phân tử có luợng nhỏ hon 500 hoặc các chất có tính tan trong mỡ chưa chịu xử lí hoá học sẽ bị giữ lại tại thận và lại quay trở lại mạch máu, tích tụ o cơ quan lưu mỡ , nếu ở đó các chất này chịu tác dụng của các men oxi hóa hay thêm nước thì sẽ bị phân hủy và đi ra ngoài cơ thể.
Nhưng các chất không mấy chịu các phản ứng phân giải hay phản ứng nuớc hóa nhu các chất hormon môi trường thì ngày càng tích tụ dần ở các cơ quan lưu mỡ. Dần dần chúng sẽ phân tán trong máu, đến sữa mẹ, làm rối loạn hệ thống nội tiết của cơ thể.
Thu Lan
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:40:28 GMT -5
UNG THƯ
Trong truờng hợp ung thư do các hợp chất hóa học, thông thuờng các chất hóa học đó sau khi tham gia phản ứng thay thế bởi men P450 của gan, những chất qua phản ứng trung gian đuợc tao thành sẽ kết hợp với DNA trong tế bào , gây ra những biến đổi hóa học đối với DNA, Những DNA bị tổn thuơng do các phản ứng hóa học, thông thuờng với khả năng tự khôi phục của mình sẽ khôi phục phần bị tổn thuơng. Khi không thể khôi phục thì những tế bào đó là những tế bào tiền ung thư, nhung cung có nhiều truờng hợp không phát triển thành ung thư. Tuy nhiên nếu có chất hóa học xúc tác thì các tế bào tiền ung thư sẽ qua nhiều giai đoạn phát triển thành ung thư.
Khi dioxin vào trong tế bào gan, chúng sẽ kết hợp với tiếp thể recepter Ah. Va khi do,su thúc đẩy việc sao bản gen di truyền CYP1A1 đuợc tiến hành, men epoxy hóa hợp chất trong gia đình P450 sẽ hợp thành. Chat men đuợc tạo thành có thể eposy hóa rất nhiều hợp chất hóa học. Phản ứng của hợp chất eposy hóa tuơng đối cao, có thể kết hợp với DNA và là nguyên nhân gây ra hiện tuợng quái thai hay ung thư.
Hơn thế nữa, cũng có giả thiết bysphenol A ( có trong nhựa tổng hợp) sau khi bi eposy ho''a tại gan, sẽ thành bysphenol -O-quinone, và ket hợp với ADN.
Chất P450, như ví dụ của dioxin, tùy thuộc vào chất xâm nhập sẽ bắt đầu quá trình kết hợp. Dựa vào chất này nhiều phản ứng trung gian đuợc tạo thành và có thể ngày càng bị các chất độc tấn công. Nói tóm lại, vì dioxin kết hợp với tiếp thể recepter Ah, nen nhiều men P450 đựoc sinh ra , va những hợp chất dễ phản ứng voi DNA đựơc sinh ra. Vì thế gen di truyền có những biến chứng, dẫn đến hiện tuợng ung thư& quái thai .
Thu Lan
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:40:48 GMT -5
Não và hormon môi truờng
Trong não hormon steroid cũng đuợc hợp thành, đó là những noron thần kinh steroid. Trên màng tế bào thần kinh có tồn tại tiếp thể recepter của chất truyền đạt thần kinh GABA. Cấu trúc tiếp thể của GABA có kênh cho ion Cl đi qua., GABA nếu kết hợp với recepter chỉ định thì ion Cl se đi vào bên trong tế bào thần kinh làm cân bằng điện ly trong màng tế bào. Cho nên các xúc động, hưng phấn của thần kinh sẽ bi ức chế, có thể ngủ đuợc, hay có thể làm giảm những lo lắng căng thẳng.
Tiếp thể recepter của GABA đuợc cấu thành bởi 4-5 loại chất protein. Không chỉ GABA mà cả noron steroid đều kết hợp với các loại protein cấu thành recepter. Chính vì thế GABA lúc có tác dụng ức chế hưng phần thần kinh lúc thì có tác dụng gây hưng phấn như antagonist.
Hiện nay thuốc an thần kiểu agonist như penzodiazepine hay thuốc kháng hormon antagonist, đều dùng để trị liệu bằng cách điều chỉnh sự đóng mở của kênh ion Cl. Thuốc trừ sau DDT, - HCH là loại chất thuốc antagonist không cho ion CL di qua mạng tế bào thần kinh con trùng. Khi chúng ta rơi vào trạng thái bất an hay lo lắng, cũng như khi căng thẳng, các noron steroid tăng lên, kênh ion Cl bị đóng . Trạng thái antagonist của GABA sẽ làm tăng cao học lực , khả năng trí nhớ còn trạng thái agonist sẽ làm giảm trí nhớ.
Mặt khác trứơc thời kỳ trứng rụng, nồng độ estrogen tăng cao, khả năng đọc sách cũng như tốc độ hội thoại cũng tốt hơn và ngược lại nồng độ hormon phát triển trứng ( hormon progesteron ) cao trong thời kỳ phát triển trứng làm giảm tốc độ khả năng trên. Androgen làm cho tính cách mạnh mẽ. Nhưng hormon giới tính này không chỉ thông qua sự hoạt động của recepter GABA, có truờng hợp lại thông qua sự hoạt động của recepter bên trong tế bào thần kinh. Như vậy hệ nội tiết không chỉ là tác động đến hệ sinh dục có liên quan sâu sắc đến mạng luới hệ thần kinh, hệ miễn dịch.
Chính vì đó, những tác động và ảnh huởng của hormon môi truờng đến hệ thần kinh cũng rất đuợc quan tâm, chú ý.
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 12:42:04 GMT -5
Các nguồn hormon môi trường xung quanh
1.Từ không khí ( khói bụi, khí thải..)
Hormôn môi trường xâm nhập vào cơ thể chúng ta qua không khí hầu hết là những chất thuộc loại dioxin,
Sau đây là một vài số liệu về lượng phát sinh dioxin hàng năm ở Mỹ và Nhật. Đơn vị: g-TEQ( lượng quy đổi sang độc tính dioxin 2,3,7,8-TCDD)
Ở Mỹ Thiết bị đốt rác công cộng :1100 Thiết bị đốt rác tại gia đình:1000 Vụ hoả hoạn tại bãi chôn lấp:1000 Cơ sở luyện đồng:541 Lò đốt rác thải y tế:447 Cháy rừng, ruộng:208 Sản xuất ximăng: 171
Ở Nhật Khí thải lò đốt:2800 Bụi lò đốt:2500 Sản xuất giấy( làm trắng giấy)5 Khói thuốc lá:16 Khí thải xe hơi:0.1
Ở các nước Đông Nam Á, do vẫn còn dùng các thuốc trừ sâu loại Clo hữu cơ nên khi phun, thuốc này theo luồng không khí, gây o nhiễm ở nhiều vùng xung quanh
2.Từ nước
Trong nước các chất dioxin thường lắng đọng o đáy sông, ao hồ, hay bám trên thực vật, plankton thực vật , trước hết gây ảnh hưởng đến các sinh vật hoang dã, sau theo chuỗi thức ăn, có thể gây ảnh hưởng đến con người.
Đây là kết quả nghiên cứu nồng đọ chất PCB trong cơ thể sinh vật sống trong và xung quanh hồ Ontario( theo Colbon trong ''''Our stolen future'''') Nồng độ trong nước nếu =1 Trong plankton thực vật:250 Trongplankton động vật:500 Trong tôm tép nhỏ:45,000 Trong cá nhỏ:830,000 Trong cá to:2,800,000 Trong cơ thể chim sea gull:25,000,000
3.Từ thực phẩm và những thứ liên quan( thực phẩm:cá, thực vật, dụng cụ đựng bằng nhựa hay đồ hộp, thuốc tẩy rửa, chất làm mềm trong nhựa..)
Các dụng cụ trong gia đình như đồ đựng thức ăn, ống nước bằng nhựa,đồ chơi nhựa,bình sữa nhựa, núm ngậm của trẻ, đồ hộp, cốc đựng mỳ ăn liền...đều có thể là nguồn gây ra hormon môi trường.
4.Từ sữa mẹ, bình đựng sũa, đồ chơi Có nghiên cúu cho thấy nồng độ dioxin trong sữa mẹ cao hơn trong sữa bò khoảng 30 lần. Khi các chất dioxin vào cơ thể người mẹ, tích tụ dần trong các lớp mỡ, và được cô đọng trong sữa mẹ. Và gần một nửa số lượng dioxin trong cơ thể mẹ sẽ sang con khi nuôi con bằng sữa mẹ
Từ1986-1989, trong 1g mỡ sữa mẹ người Đức có 28-37pg dioxin, Năm 1992-1993 :15-16pg Năm 1998:12-14pg
Từ kết quả trên, nếu mỗi ngày trẻ em uống 120ml sữa mẹ / kg khối lượng cơ thể thì mỗi ngày trẻ hấp thụ khoảng 70pg dioxin, cao hơn 7 lần so với lượng cho phép do bộ Y tế công báo.
5.Từ thuốc và vật dụng y tế
Nếu các thuốc như thuốc tránh thai không được xử lý đúng cách sau khi sử dụng cũng có thể là một trong những chất trong danh sách hormon môi trường.
Các dụng cụ trong y tế như túi đựng máu, ống dẫn tiếp nước, đạm ...đều có sử dụng chất chất làm mềm. Ở Mỹ có nghiên cứu cho thấy chất hàn răng cũng có chứa chất hormon môi trường.
Thu Lan
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 13:17:43 GMT -5
www.giaodiem.com/doithoai/nvt_dioxin2.htm Tai nạn và ảnh hưởng của dioxin ở Seveso (Ý) Vào tháng Bảy, năm 1976, một hãng sản xuất thuốc diệt cỏ 2,4,5-trichlorophenol (TCP) tại vùng Seveso (Ý) bị cháy, nổ tung, và thải ra môi trường chung quanh khoảng 30 kí lô dioxin. Chính quyền địa phương và các nhà chức trách y tế Ý nghi ngờ là dân cư sống trong vùng có thể bị nhiễm độc chất dioxin. Do đó, kể từ năm 1977, Chính phủ Ý đã thành lập một nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học và bác sĩ chuyên nghiên cứu về tác hại của dioxin trong sức khỏe của dân cư trong vùng Seveso và phụ cận. Cho tới năm 1996, các nhà nghiên cứu này đã thu thập đầy đủ các số liệu lâm sàng và mẩu máu (dùng để xác định độ tích tựu chất dioxin) của nhiều cư dân; trong đó có 296 bà mẹ và 239 người cha. Trong vòng 20 năm, có 328 em trai và 346 em gái sinh ra từ 535 cha mẹ này. Tính trung bình, độ tích tụ dioxin trong máu được ghi nhận là 96,5 ppt trong các người cha và 62.5 ppt trong các bà mẹ. Để tiện việc so sánh, nhóm nghiên cứu chia các cha mẹ thành hai nhóm: nhóm A gồm các cha mẹ không sống trong vùng bị nhiễm hay sống trong vùng bị nhiễm nhưng có mức tích tụ dioxin trong máu dưới 16 ppt; và nhóm B gồm các cha mẹ sống trong vùng bị nhiễm với mức tích tụ dioxin trong máu từ 16 ppt hay cao hơn. Trong các người cha thuộc nhóm A, tỷ lệ sinh con trai là khoảng 56%; và nhóm B, chỉ 44%. Trong các bà mẹ thuộc nhóm A, tỷ lệ sinh con trai là 47%; và nhóm B, 49%. Tuy nhiên, nếu cả cha và mẹ bị nhiễm (tức thuộc nhóm B), tỷ lệ sinh con trai chỉ 44%. Như vậy, ảnh hưởng của dioxin trong các người cha nghiêm trọng hơn trong các bà mẹ. Phân tích trong nhóm các người cha bị nhiễm dioxin cho thấy mức độ tích tụ dioxin trong máu càng cao càng có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sinh con trai. Chẳng hạn như trong các ngừơi cha có mức độ dioxin từ 61 tới 117 ppt, tỷ lệ sinh con trai là 47%; và dioxin từ 118 trở lên, tỷ lệ nam giới giảm xuống còn chỉ 40%! Quan trọng hơn nữa, các nhà nghiên cứu còn nhận xét rằng những người cha bị nhiễm dioxin trong độ tuổi dậy thì có tỷ lệ sinh con trai chỉ khoảng 40%. Điều này cho thấy ảnh hưởng của dioxin bắt đầu rất sớm và thể kéo dài một cách vĩnh viễn. Ngoài khám phá trên đây của các nhà nghiên cứu Ý, vài cuộc điều tra khoa học trong khoảng mười năm qua ở Mỹ và Tô Cách Lan (Scotland) cũng đi đến một kết luận tương tự. Trong một nghiên cứu được tiến hành ở một khu kỹ nghệ thuộc nước Scotland [3] được xem là bị ô nhiễm môi trường nhất nhì Aⵠchâu năm 1992, các nhà khoa học cũng ghi nhận tỷ lệ sinh con trai ở vùng này thấp hơn trung bình. Bốn năm sau đó, một nghiên cứu khác ở tiểu bang Minnesota (Mỹ ), các nhà khoa học Mỹ cũng nhận xét là những người cha hay gần gũi với các hóa chất diệt cỏ (như công nhân trong hãng thuốc diệt cỏ, công nhân dùng thuốc diệt cỏ, v.v.) có tỷ lệ sinh con trai thấp hơn trung bình (4). Có thể nói tất cả những nghiên cứu này cộng với các dữ kiện của Giáo sư Paolo Mocarelli là những bằng chứng đáng tin cậy cho sự tác hại của dioxin trong vấn đề làm mất cân bằng tỷ lệ giới tính, nhất là trong đàn ông. Cũng cần nói thêm là trên thế giới, tỷ lệ giới tính tương đối ổn định: cứ 100 trẻ em nữ thì có 106 trẻ em nam được sinh ra, hay nói theo ngôn ngữ thống kê, tỷ lệ nam giới là 51.4%. Tuy nhiên, ở các nước có nền kỹ nghệ tiên tiến như Mỹ, Gia Nã Đại, Đan Mạch, Thụy Điển, và Hoà Lan, tỷ lệ sinh con trai đã giảm từ 51.6% trong thập niên 70 còn 51.3% trong thập niên 90. Giới nghiên cứu môi trường cho rằng vấn đề ô nhiễm ở các nước này là một trong những yếu tố gây ra sự mất cân bằng trong giới tính. Vì thế, một số nhà nghiên cứu y học đề nghị lấy tỷ lệ giới tính làm một chỉ tiêu về mức độ nhiễm độc tử cung, hay một chỉ tiêu về sự bất bình thường trong quá trình sinh sản. Nguyên nhân? Nhưng câu hỏi được đặt ra là tại sao? Khoa học nghiên cứu về giới tính vẫn còn đang trong giai đoạn phôi thai, và vì thế nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra sự mất cân bằng giới tính chỉ là những suy luận, chứ ít khi nào dựa vào các số liệu cụ thể. Cho đến nay, chưa ai hiểu rõ tại sao dioxin lại có ảnh hưởng đến sự thay đổi tỷ lệ giới tính như thế. Ngay cả nhóm nghiên cứu của Giáo sư Paolo Mocarelli cũng không giải thích được hiện tượng này, và cũng không đưa ra một giả thuyết nào đáng tin cậy. Tuy nhiên, một "hiện tượng" sinh học mà các nhà nghiên cứu y khoa đã ghi nhận từ lâu là trong mỗi giai đoạn sống, ngay cả từ lúc thụ tinh, phái nam có tuổi thọ trung bình ngắn hơn phái nữ. Và nếu dioxin có khả năng ảnh hưởng từ giai đoạn thụ thai, thì hiện tượng thất thoát nam giới là một điều có thể hiểu được. Nhưng bất kể vì lý do sinh học gì, một thực tế khó phủ nhận được là dioxin có nhiều tác hại đến sức khỏe con người, không những chỉ giới hạn trong việc làm thay đổi tỷ lệ giới tính, mà còn gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm khác, nhất là ung thư. Trong một báo cáo khoa học mật sắp được đệ trình lên Quốc hội Mỹ (nhưng đã bị tiết lộ ra ngoài báo chí gần đây), các nhà nghiên cứu Mỹ đã khẳng định rằng dioxin gây ra nhiều ung thư trong con người, kể cả ung thư máu và ung thư phổi. Họ cũng đề nghị Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (Environmental Protection Agency, EPA) phân loại lại dioxin là độc chất số một, tức độc hại nhất trong các hóa chất. Tưởng cần nhắc lại là trước đây, EPA chỉ phân loại dioxin như là một chất "có thể gây ra ung thư". Như vậy, qua bản tường trình này và các nghiên cứu trong vài thập niên qua, dioxin đã từ từ lộ nguyên hình là một độc chất nguy hiểm nhất do con người tạo ra và biết đến. Nguyễn Văn Tuấn (Trích bài viết Dioxin và tỷ lệ giới tính)
|
|
|
Post by Robot on Dec 8, 2004 10:56:23 GMT -5
Ăn đậu nành, con trai biến thành... con gái?
Nhiều người rỉ tai nhau rằng, nếu dùng hàng ngày, sữa đậu nành sẽ khiến trẻ em trai biến thành... con gái. Điều này có đúng không? Bản thân đậu nành là một loại thực phẩm bổ dưỡng. Đây là một vấn đề đã được khoa học đề cập từ lâu. Từ thập niên cuối của thế kỷ 20, một số báo cáo khoa học cho rằng đậu nành có thể gây nên tình trạng nữ hóa cho người sử dụng. Theo một cuộc nghiên cứu, cá tầm đực nuôi bằng bột đậu nành đã bị mất tính đực. Tác giả của các nghiên cứu trên cho biết, nguyên nhân của hiện tượng này là trong đậu nành có nhiều phytoestrogen, một loại oestrogen thực vật có cấu trúc hóa học tương tự như oestrogen (hoóc môn sinh dục nữ).
Cuối năm 2003, theo kết quả nghiên cứu tiến hành với chuột đực cho ăn thức ăn giàu đậu nành, có biến đổi rõ rệt ở cơ quan sinh dục của chuột đực con theo chiều hướng xấu: tuyến tiền liệt to ra, trong khi tinh hoàn nhỏ lại. Tuy nhiên, những ý kiến về khả năng nữ hóa do ăn đậu nành vẫn chưa được đông đảo giới khoa học thế giới công nhận. Theo TS Petra Peeters thuộc ĐH Utrecht (Hà Lan), người tổng hợp các công trình nghiên cứu về đậu nành, nỗi lo sợ về thành phần oestrogen thực vật trong đậu nành là không có cơ sở, vì oestrogen thực vật không gây hại cho người sử dụng. Các cơ quan quản lý thuốc, Cục Thuốc và Thực phẩm (FDA) của Mỹ và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng không hề có khuyến cáo nào về việc nam giới sử dụng sữa đậu nành.
Một thực tế mà ai cũng nhận thấy là đậu nành được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á khác, với các món ăn như tương, đậu phụ, chao, tào phớ, sữa đậu nành... Vậy mà chất lượng dân số vẫn được đảm bảo, chứng tỏ sản phẩm làm từ đậu nành không độc như nhiều người nghĩ, mà ngược lại. Trong 100g đậu nành bỏ vỏ có 34g protein, trong khi trong 100 g thịt lợn nạc chỉ có 19g, thịt bò nạc 31g, trứng gà 14,8g, còn bản thân các loại đậu khác cũng chỉ có từ 21g đến 25g. Ngoài ra, đậu nành còn chứa nhiều axit béo chưa bão hòa, vitamin, chất khoáng đa lượng và vi lượng cần thiết cho cơ thể.
Vậy đậu nành có độc hay không? Câu trả lời là có, nếu đậu nành chưa được nấu chín. Trong trường hợp đó, đậu nành có thể gây bướu cổ, tổn thương gan, kiềm chế cơ thể phát triển. Trong hạt đậu nành sống, người ta tìm thấy có enzyme chống lại sự hoạt động của tripsin (men tiêu hóa protein) và có soyin (albumin độc tính). Tuy nhiên, các độc tố này rất dễ phá huỷ nếu bị xử lý bằng nhiệt. Như vậy, chỉ cần đun kỹ thì chúng ta sẽ khử hết độc tính, đồng thời tăng hiệu quả sử dụng của đậu nành.
(Theo KHĐS)
|
|
|
Post by Robot on Jan 12, 2005 12:48:15 GMT -5
|
|