|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:03:06 GMT -5
4/1999
ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÀ CHỈ THỊ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ LÊ BÍCH THẮNG, LÊ BÍCH THUỶ Cục môi trường
GIỚI THIỆU CHUNG
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á với diện tích khoảng 330.369 km2 , dân số hơn 76 triệu trong đó khoảng 80% dân số làm nghề nông. Trong thời kỳ phát triển kinh tế hiện nay, mức tăng trưởng ngày càng cao (GDP từ 3-9% trong giai đoạn 1986 đến 1990, lên đến 7,6% GDP trong giai đoạn 1991-1993, và trên 8% trong những năm gần đây 1995-1998). Song song với sự phát triển của nền công nghiệp, nông nghiệp Việt Nam cũng đã có những tiến bộ vượt bậc, không những đủ cung cấp lương thực thực phẩm cho hơn 76 triệu dân mà còn xuất khẩu trên 3 triệu tấn gạo hàng năm và Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới.
Ở Việt Nam, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) đã được sử dụng từ những năm 40 của thế kỷ này để phòng trừ các loaị dịch bệnh. Đặc biệt trong những năm gần đây việc sử dụng thuốc BVTV đã tăng lên đáng kể cả về số lượng và chủng loại. Nếu những năm cuối của thập kỷ 80, số lượng thuốc BVTV sử dụng là 10.000 tấn/ năm, thì khi bước sang những năm của thập kỷ 90, số lượng thuốc BVTV đã tăng lên gấp đôi (21.600 tấn năm 1990), thậm chí tăng lên gấp ba (33.000 tấn năm 1995) năm 1998 ước tính 40.000 tấn và diện tích đất canh tác sử dụng thuốc BVTV cũng tăng lên khoảng 80-90%.
Thuốc BVTV khi sử dụng cho cây trồng được cây trồng hấp thụ một phần, còn một phần bị rửa trôi theo nước mưa xuống các sông ngòi hoặc thấm vào đất. Dư lượng thuốc BVTV trong đất, nước cao sẽ ảnh hưởng đến môi trường thiên nhiên như thay đổi thành phần của đất, tác động đến động vật thuỷ sinh trong các ruộng lúa, ruộng rau, thay đổi cấu trúc các loại côn trùng và có thể là nguyên nhân đã dẫn đến việc bùng nổ các loại dịch bệnh khác trong nông nghiệp... Đặc biệt việc sử dụng thuốc BVTV không có quy trình bảo hộ lao động ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của người như: gây rối loạn nội tiết, ung thư, sinh con dị tật, quái thai, thay đổi hệ miễn dịch, bệnh ngoài da, bệnh phổi... Hiện tượng ngộ độc do thuốc BVTV là một trong mười nguyên nhân gây chết cao nhất tại các bệnh viện chỉ sau các bệnh phổi, cao huyết áp, tai nạn giao thông...
Tình trạng sử dụng thuốc BVTV với số lượng lớn và nhiều chủng loại khác nhau ngày một gia tăng đã dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng và là vấn đề bức xúc hiện nay trong công tác quản lý môi trường và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:03:46 GMT -5
II.TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN THUỐC BVTV Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các loại thuốc BVTV rất đa dạng và sẵn có nên nông dân không phải mua thuốc BVTV để tích trữ tại nhà nữa mà thường mua vào lúc thời vụ. Tuy nhiên vẫn còn lượng thuốc BVTV được lưu giữ ở trong nhà của nông dân. Ví dụ: qua điều tra các hộ nông dân tại xã Tây Tựu, Nà Nội vẫn còn có lượng thuốc BVTV lưu giữ tại nhà trong đó nhóm lân hữu cơ nhiều nhất là Wofatox (trung bình mỗi hộ giữ từ 0,218-0,230 lít ); Monitor (0,108- 0,180 lít/hộ ); Dipterex (0,086-0,175 lít/hộ ); Bassa (0,013-0,118 lít/ hộ ); thậm chí một số hộ (15/200) còn giữ DDT.
Qua các số liệu trên cho thấy, do chuyển sang cơ chế thị trường và do cơ chế khoán hộ, các gia đình phải tự lo liệu công việc bảo vệ cây trồng phòng chống dịch hại. Họ phải đi mua thuốc BVTV, tự pha chế theo kinh nghiệm của bản thân nhiều khi không theo quy trình hướng dẫn nghi trên bao bì và đi phun cho mảnh ruộng của mình. Các cửa hàng tư nhân bán thuốc BVTV đều không đúng quy định về vệ sinh môi trường, an toàn đối với hoá chất độc. Thường các cửa hàng này nằm trong khu dân cư, các loại bao, chai, gói không đảm bảo an toàn. Đặc biệt, các hộ nông dân rất tuỳ tiện trong việc bảo quản thuốc BVTV tại gia đình. Đây cũng là một trong các nguyên nhân gây ô nhiễm, ngộ độc cho các khu vực dân cư, cho người , gia súc, môi trường và đặc biệt đã tạo cơ hội thuận lợi cho sự đầu độc bằng thuốc trừ sâu.
Về cách sử dụng thuốc, kết quả điều tra cho thấy có 35% nông dân sử dụng mà không đọc nhãn thuốc, có tới 91% nông dân tìm hiểu cách sử dụng thuốc trực tiếp từ người bán thuốc. Trong số những người có đọc nhãn thuốc thì có tới 61% nói là họ không làm theo các chỉ dẫn, và có tới 39% số người đọc nhãn thuốc đã tăng nồng độ thuốc phun lên, thậm chí gấp đôi lượng theo chỉ dẫn.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:04:54 GMT -5
III.Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG DO THUỐC BVTV GÂY RA
Hiện trạng ô nhiễm môi trường do thuốc BVTV Sự lạm dụng thuốc BVTV cùng với phân vô cơ và hữu cơ đã dẫn đến hiện tượng một lượng N,P,K các chất hữu cơ dư thừa và dư lượng thuốc BVTV bị rửa trôi xuống mương, vào ao, hồ, sông và thâm nhập và nguồn nước, làm ô nhiễm nguồn nước. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng và nhóm Nitơ, phospho trong nước tưới, ruộng lúa, ao nuôi cá ở Mai Dịch, Từ liêm cho thấy hàm lượng các nguyên tố kim loại nặng, đặc biệt là Asen (as) trong nước mương tưới rau cao hơn hẳn so với ở ruộng lúa nước và ao nuôi cá.
Việc bảo quản và sử dụng thuốc BVTV không tuân thủ theo các hướng dẫn và quy định về vệ sinh môi trường đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm cục bộ ở nhiều địa phương. Kết quả điều tra 156 hộ nông dân ở Tiền Giang; 200 hộ ở Đan Phượng; 200 hộ ở Tây Tựu (Từ Liêm, Hà Nội) cho thấy 80% số hộ dùng xong vứt luôn vỏ bao bì, chai lọ tại ruộng, tại mương nước, gây ô nhiễm nguồn nước, thậm chí có hộ còn sử dụng lại bao bì vào mục đích khác của gia đình. Điều đó làm tăng nguy cơ nhiễm độc cho người và gia súc. Ở Tiền Giang, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Khánh Hoà, Quảng Trị, Nghệ An, Thái Bình, Hà Nội, Vĩnh Phúc... có khoảng 51% nông dân bán lại các vỏ thùng, lọ đựng thuốc BVTV.
Kết quả điều tra cho thấy 80% số người được hỏi khẳng định rằng sản phẩm rau quả của họ đem bán trên thị trường được thu hoạch với thời gian cách ly phổ biến là 3 ngày, không phân biệt là loại trừ sâu gì đa số nông dân được phỏng vấn đều cho biết gia đình họ có ruộng trồng rau riêng để ăn, mà trong ruộng đó họ không sử dụng thuốc hoặc sử dụng rất ít thuốc BVTV còn các ruộng khác trồng để bán thì họ sử dụng với nhiều loại thuốc BVTV tuỳ thuộc vào loại cây trồng , theo giá cả thị trường...
Dư lượng thuốc BVTV trong môi trường, trong nông sản thực phẩm và con người Khi phun thuốc trừ sâu, bệnh, cỏ dại... thuốc sẽ tạo thành lớp mỏng trên bề mặt vật được phun ( lá cây, trái cây, thân cây, mặt đất, nước) và một lớp chất lắng gọi là dư lượng ban đầu của thuốc.
Kết quả phân tích dư lượng thuốc BVTV trong đậu đỗ và nho quả (trong 25 mẫu) được bán tại năm chợ nội thành Hà Nội, 5 hợp tác xã trồng rau lớn thuộc Hà Nội (1994-1995) và 5 chợ thuộc vùng trồng rau lớn của Hà Bắc (1996) cho thấy dư lượng Methamidophos (Monitor) đã vượt quá mức dư lượng tối đa cho phép của Tổ chức Nông lương Thế giới ( FAO) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Kết quả phân tích dư lượng thuốc BVTV ở Khánh Hoà ( 1996) cho thấy:
Trong 423 mẫu đất lấy phân tích có 39% số mẫu chứa tồn lượng thuốc trừ sâu vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 40 lần. Trong 144 mẫu không khí có 55% số mẫu chứa tồn lượng thuốc trừ sâu vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 10 lần. Trong 120 mẫu nước có 36,6% số mẫu chứa tồn lượng thuốc trừ sâu vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 50 lần. Trong 728 mẫu rau có 24,7% có mẫu chứa tồn lượng thuốc trừ sâu vợt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 6 lần. Do lượng thuốc BVTV đôi khi còn phát hiện cả trong sữa của các bà mẹ đang cho con bú khi thường xuyên tiếp xúc với thuốc trừ sâu. Kết quả xét nghiệm 47 bà mẹ đang cho con bú tại vùng trồng chè ở Phú Thọ cho thấy dư lượng thuốc BVTV nhóm lân hữu cơ từ 0,2 đến 0,5 mg/lít trong sữa mẹ. Phân tích sữa của 10 bà mẹ đang nuôi con bú tại vùng trồng nho và hành, tỏi ở Phan Rang và của 10 bà mẹ khác ở Phú Hải, Nha Trang cho thấy sữa của các bà mẹ đều có dư lượng thuốc trừ sâu nhóm lân hữu cơ và Clo hữu cơ từ 0,3- 0,53 mg/lít.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:06:47 GMT -5
Ảnh hưởng của thuốc BVTV đối với sức khoẻ cộng đồng
Đối với sức khoẻ con người, thuốc bảo vệ thực vật có thể gây rối loạn sinh lý, sinh hoá, ung thư, quoái thai và ảnh hưởng di truyền cho người tiếp xúc lâu dài. Con người mẫn cảm với hợp chất phốt pho hữu cơ, đặc biệt là wofatox. Sự mẫn cảm với hợp chất lân hữu cơ thể hiện bằng việc giảm hoạt tính của men Cholinestraza. Kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy sự giảm hoạt tính men Cholinestraza sau khi tiếp xúc với thuốc BVTV trong nhóm đối tượng làm nhiệm vụ phun thuốc BVTV.
Các số liệu điều tra ở một vùng có sử dụng nhiều thuốc trừ sâu như ở các vùng trồng rau cho thấy những triệu chứng chính do nhiễm độc thuốc BVTV, chủ yếu là do nhóm hoá chất lân hữu cơ gây ra . Hiện tượng ngộ độc do thuốc trừ sâu trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể, như:
Đầu tháng 1/1994, 41 người ở 3 xã Khánh Bình và Nhơn Hội, huyện An Phú tỉnh An Giang ăn cải bẹ bị ngộ độc phải đi cấp cứu tại cơ sở y tế xã Khánh Bình và bệnh viện khu vực Đồng Kỵ, trong đó có 17 người bị nặng.
Đầu tháng 5 năm 1994 ở Bà Rịa -Vũng Tàu có 123 người ngộ độc thức ăn từ rau phải đi cấp cứu ở bệnh viện, trong số đó có 25 người bị rửa ruột, 19 người bị rất nặng.
Ngày 7 tháng 1 năm 1997, tại xã Kim Nỗ (Đông Anh), 72 người (trong đó có 26 là trẻ em) bị nhiễm do ăn phải rau cải có phun thuốc sâu.
Năm 1997 thống kê được 6.103 người nhiễm độc cấp tính trong đó 292 người chết thuộc bệnh viện tuyến tỉnh.
Năm 1998 thống kê được 7676 người nhiễm độc cấp tính trong đó có 331 người chết.
Đây là kết quả điều tra mới nhất của Viện Y học lao động (Bộ Y tế ). Nhiễm độc mãn tính trong nông dân chiếm 18% trong số những người sử dụng hoặc tiếp xúc thuốc BVTV.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:07:55 GMT -5
IV. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ THUỐC BVTV
Việc sử dụng thuốc BVTV ngày một gia tăng mà không có sự quan tâm đúng mức đến việc quản lý và an toàn thuốc BVTV đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng về ô nhiễm môi trường nước, không khí, đất và gây ra các bệnh nguy hiểm như hiện nay.
Nguyên nhân chủ yếu về an toàn thuốc BVTV là do thiếu phổ cập thông tin, kiến thức, ý thức, thiếu sự giám sát trong khi phun thuốc, thiếu các qui định cụ thể hoặc việc không phát huy hiệu lực của các văn bản pháp qui và việc bán tự do các loại thuốc có độc tính cao.
Những người sản xuất, lập công thức hay dán nhãn và đăng ký thuốc BVTV với các nhà chức trách trong nước, cần đảm bảo rằng các sản phẩm bán ra hay phân phối phải được dán nhãn và viết bằng thứ tiếng của khu vực tiêu thụ, các chỉ dẫn về an toàn trong sử dụng phải dễ hiểu, báo trước các nguy hại, nghi rõ các thành phần hoạt tính cũng như tất cả các thành phần khác của thuốc đó và đưa ra những chỉ dẫn cho việc cấp cứu ban đầu trong trường hợp bị nhiễm độc ( và cả thuốc giải độc).
Ở nước ta, Nhà nước cũng đã có những quan tâm nhất định về quản lý và an toàn thuốc BVTV, phân cấp các chức năng quản lý cho các bộ, ngành trong từng lĩnh vực mang tính chuyên ngành như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý công tác an toàn bảo hộ lao động, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý phân bón, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp ...
Để tăng cường công tác quản lý, các văn bản pháp quy đã được ban hành như Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luật bảo vệ Môi trường và một số văn bản pháp qui về lĩnh vực này trong đó có qui định được nghiêm cấm lưu hành sử dụng hai mươi ba (23) loại thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam.
Tuy nhiên trong lĩnh vực quản lý an toàn thuốc BVTV và môi trường còn một số vấn đề tồn tại sau:
Tính đồng bộ của các văn bản pháp qui chưa cao, có sự chồng chéo trong chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành trong các văn bản đã ban hành ( đối chiếu các bộ luật Lao động, Luật BVMT, Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật...)
Tính chồng chéo của công tác thanh tra- kiểm tra hoặc thực hiện các văn bản pháp qui của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Hiện nay các cơ sở sản xuất chịu sức ép của nhiều đoàn thanh tra: thanh tra môi trường, thanh tra an toàn, bảo hộ lao động... mà chưa có hiệu quả cao.
Các văn bản pháp qui đã ban hành phục vụ cho quản lý thuốc BVTV và an roàn thuốc BVTV chưa đầy đủ và đồng bộ trong nền kinh tế và thị trường ở nước ta hiện nay.
Vì vậy, các cơ quan chức năng của Chính phủ cần rà soát lại hệ thống các văn bản pháp qui liên quan đến việc quản lý và sử dụng thuốc BVTV từ trước đến nay, xây dựng một hệ thống kiểm soát thuốc BVTV từ khâu sản xuất, vận chuyển đến sử dụng và tiêu huỷ chúng.
Sự hợp tác giữa các bộ trong lĩnh vực sức khoẻ, nông nghiệp, môi trường và vệ sinh nghề nghiệp là rất cần thiết nhằm bảo đảm tất cả các mặt có liên quan tới việc sử dụng thuốc BVTV được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:09:43 GMT -5
V. CHỈ THỊ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VIỆC SỬ DỤNG THUỐC BVTV VÀ CÁC CHẤT HỮU CƠ GÂY Ô NHIỄM KHÓ PHÂN HUỶ (POPS)
Ngày 25 tháng 8 năm 1998. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 29/1998/CT-TTg về tang cường công tác quản lý việc sử dụng thuốc BVTV và các chất hữu cơ gây ô nhiễm khó phân huỷ (POP) trong Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ những việc cần tập trung giải quyết trong công tác này là:
Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển và sử dụng các loại thuốc BVTV nguy hiểm đã bị cấm sử dụng mọi vi phạm phải xử lý theo Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định số 26/ CP ngày 26/4/1996 qui định xử phạt hành chính về bảo vệ môi trường, Nghị định số 78/CP ngày 29 tháng 11 năm 1996 về sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật và các văn bản pháp luật liên quan khác. Tổ chức, cá nhân vi phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường theo qui định của pháp luật, nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự .
Tổ chức thu gom kịp thời và triệt để các loại thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng, tiến hành xử lý, tiêu huỷ các loại thuốc BVTV này theo đúng quy trình, công nghệ xử lý các chất thải nguy hại, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Tiến hành các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường do các kho thuốc BVTV cũ gây ra.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về tác hại của thuốc BVTV đối với môi trường và sức khoẻ con người. Vận động nông dân bỏ thói quen sử dụng tuỳ tiện và thải bỏ bừa bãi các vỏ bao thuốc BVTV sau khi đã sử dụng, sử dụng các phương tiện và quần áo bảo hộ lao động trong khi phun các loại thuốc BVTV và thực hiện đúng các qui trình sử dụng thuốc BVTV đã được Nhà nước ban dành.
Cấm đổ bừa bãi các loại dầu biến thế, các loại dầu thải các sản phẩm có chứa chất Polychlorinated Biphenyl (PCBs) ra môi trường xung quanh, hạn chế và tiến tới cấm sử dụng các sản phẩm công nghiệp có chứa chất PCBs. Kiểm soát nghiêm ngặt để bảo đảm việc thải và vận chuyển các sản phẩm có chứa PCBs theo đúng các qui định vệ sinh môi trường và qui chế quản lý các chất thải nguy hại.
Mọi vi phạm đều bị xử lý theo Luật Bảo vệ Môi trường, Nghị định số 26-CP ngày 26/4/1996 qui định xử phạt hành chính về bảo vệ môi trường và các qui định pháp luật liên quan khác. Tổ chức, cá nhân vi phạm gây ra thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường, nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tổ chức thu gom, xử lý và tiêu huỷ các loại dầu cặn, các chất thải công nghiệp và các sản phẩm có chứa PCBs theo qui trình công nghệ xử lý đối với cháat thải nguy hại.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:09:58 GMT -5
Về tổ chức thực hiện, Chỉ thị này cũng phân công rõ trách nhiệm của các bộ như sau:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Hàng năm ban hành và thông báo rộng rãi danh mục các loại thuốc BVTV được phép sử dụng và cấm sử dụng; Tổng hợp, báo cáo Chính phủ tình hình quản lý thuốc BVTV trong phạm vi cả nước , thống kê số lượng các loại thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng ở Việt Nam hiện đang còn tồn đọng tại các địa phương.
Phối hợp với Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học, Công nghệ và môi trường và các Uỷ ban nhân dân địa phương trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, nghiêm ngặt về các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV khác theo đúng qui định của pháp Lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật. Tăng cường công tác thanh tra, phát hiện, xử lý nghiêm khắc và kịp thời các vụ việc vi phạm trong mọi lĩnh vực hoạt động về thuốc BVTV. Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan kiểm tra, đôn đốc các địa phương tổ chức thực hiện thu gom triệt để số lượng các loại thuốc BVTV tồn đọng ddêt xử lý, tiêu huỷ theo đúng qui trình, công nghệ bảo đảm không gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng sức khoẻ con người.
Khẩn trương bổ sung, sửa đổi qui chế quản lý thuốc BVTV đã được ban hành theo pháp Lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật.
Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, với các Hội nghề nghiệp, các Đoàn thể và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc tuyên truyền, vận động và hướng dẫn nông dân sử dụng thuốc BVTV thực hiện đúng qui trình và sử dụng đầy đủ các biện pháp bảo hộ lao động.
Bộ công nghiệp: Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và môi trường, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng các phương án để thực hiện nhiệm vụ quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng, vận chuyển, thải các sản phẩm công nghiệp có chứa PCBs, tổ chức thu gom và xử lý các chất thải của sản phẩm này ở Việt Nam.
Bộ Y tế : Chịu trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát việc sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, sử dụng hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt chuột, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực y tế; Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các bộ, ngành và địa phương có liên quan trong việc thu gom, xử lý và tiêu huỷ các loại thuốc BVTV đã cấm sử dụng ở Việt Nam; Thường xuyên cập nhật tình hình nhiễm độc thuốc BVTV đối với sức khoẻ con người để có biện pháp phòng ngừa và điều trị có hiệu quả.
Bộ Thương mại: Phối hợp với Tổng cục Hải quan, các bộ, ngành có liên quan tăng cường kiểm tra, giám sát việc xuất khẩu, nhập khẩu các loại thuốc BVTV đã cấm sử dụng ở Việt Nam nói riêng, các loại dầu và sản phẩm công nghiệp có chứa PCBs ở Việt Nam.
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường: Khẩn trương ban hành qui chế quản lý các chất thải nguy hại, trong đó có các loại thuốc BVTV, PCBs; Tổ chức nghiên cứu, xây dựng và hướng dẫn thực hiện các qui trình công nghệ xử lý, tiêu huỷ các loại thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng và thuốc BVTV nguy hiểm nhập khẩu trái phép vào Việt Nam, các loại dầu và sản phẩm công nghiệp có chứa PCBs; Tổ chức đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do việc sử dụng các loại thuốc BVTV; độ tồn lưu dư lượng các loại thuốc bảo vệ thực vật nguy hiểm và các chất hữu cơ gây ô nhiễm khó phân huỷ (POPs) trong nông sản, thực phẩm, môi trường đất và nước và đề ra các biện pháp khắc phục.
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Y tế... xây dựng thông tư liên bộ hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 29/TTg ngày 25 tháng 8 năm 1998 về tăng cường công tác quản lý việc sử dụng thuốc BVTV và các chất hưũ cơ gây ô nhiễm khó phân huỷ (POPs) và phối hợp phổ biến chỉ thị này trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngày 16 tháng 7 năm1999, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 155/1999/QĐ -TTg về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy hại (xem trang sau). Đây là một vaen bản có tính pháp lý cao, giúp cho công tác quản lý CTNH tốt hơn trên địa bàn toàn quốc trong đó có quản lý thuốc BVTV, đặc biệt phòng ngừa, quản lý những loại thuốc BVTV nhập khẩu trái phép, kém phẩm chất đang được lưu hành ở nhiều địa phương.
|
|
|
Post by Robot on Nov 7, 2004 8:37:52 GMT -5
Thuốc trừ cỏ mới an toàn với môi trường
Công ty Hoá chất Dainichiseika Colour và Chemical của Nhật Bản vừa đưa ra một loại sản phẩm diệt cỏ mới có tên Ekitai Maruchi, được áp dụng rất thành công. Sản phẩm Maruchi là một dung dịch màu đen đơn giản chứa nước, các bon và tinh bột. Người nông dân chỉ phun chất lỏng này 3-4 lần sau khi cấy, màu đen của dung dịch sẽ tạo lớp trên mặt ruộng ngăn bớt ánh sáng mặt trời, làm cỏ khó mọc. Màu đen của dung dịch còn hấp thụ bớt ánh sáng mặt trời giúp cho cây lúa phát triển tốt hơn và làm cho nước ruộng đỡ lạnh. Sản phẩm này phù hợp với môi trường, vì các bon cũng thường được sử dụng như phân bón.
Sản phẩm Ekitai Maruchi được một cơ sở thuốc nhuộm cỡ vừa của Nhật Bản sản xuất. Họ nghiền mịn các bon thành hạt có kích thước rất nhỏ, rồi trộn với nước. Khi cho tinh bột vào trộn lẫn, các hạt các bon đen sẽ làm cho dung dịch có màu đen.
Maruchi được thử nghiệm tại miền Bắc Nhật Bản từ 6 năm nay, chủ yếu để chống rét cho lúa, song trong quá trình thực hiện, người ta phát hiện nó còn có tác dụng làm cho cỏ không mọc được. Sau khi thu được kết quả này, Công ty Danichiseika đã chuyển sang thực hiện ở vùng tây bắc Tokyo (vùng canh tác lúa chủ yếu của Nhật Bản). Tại đây, Maruchi đã chứng tỏ được hiệu quả diệt cỏ rất tốt.
Hiện nay, Maruchi đã được sử dụng ở 30 điểm canh tác lúa ở Nhật Bản. Cũng có những phản ứng của người áp dụng phương pháp này còn khác nhau như còn một vài loại cỏ chưa bị chết hoàn toàn, có lẽ do chưa tạo điều kiện hoàn toàn thích hợp giúp Maruchi phát huy hết tác dụng. Trên thực tế, muốn Maruchi có tác dụng cao, phải tháo nước vào ruộng giữ ở độ sâu 8cm. Còn đối với những ruộng không đáp ứng được yêu cầu này thì Maruchi không thể diệt được hết các loài cỏ. Còn đa số cho rằng, Maruchi là chất thân thiện với môi trường, không có nguồn gốc hoá chất độc hại, cho hiệu quả diệt cỏ cao.
Theo nhận định của một số chuyên gia, Maruchi đặc biệt hấp dẫn đối với những khu vực canh tác lúa có hàm lượng chất hữu cơ cao. Hiện ngày càng có nhiều nông dân nhạy cảm với vấn đề môi trường và thực phẩm đang rất quan tâm đến Maruchi, và còn bởi sử dụng Maruchi sẽ làm giảm nhẹ bớt công việc nhà nông. Dự tính Công ty Danichiseika sẽ tiến hành sản xuất để bán ra thị trường với giá 6USD/kg.
Nguồn tin: NTNN
|
|