|
DDT
Dec 15, 2003 7:10:56 GMT -5
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:10:56 GMT -5
DDT và vấn ðề cân ðối giữa lợi ích và nguy hiểm Nguyễn Vãn Tuấn
Trong những nãm gần ðây, ngýời ta thấy ðây ðó xuất hiện một nguyên lý mới có tên là Nguyên lý Phòng ngừa (“Precautionary Principle”, hay còn gọi tắt là PP) trong hoạt ðộng khoa học, và nhất là trong lĩnh vực y khoa và môi trýờng. Phát biểu cõ bản của nguyên lý này là không nên dùng bất cứ một hóa chất hay vật thể nào khi mà nó chýa ðýợc chứng minh là vô hại. Phát biểu này, thoạt ðầu, cũng giống nhý một nguyên lý cao quý của y khoa, “primum non nocere” (trýớc hết không gây hại), nhýng trong thực tế nó có ý nghĩa sâu xa và ðýợc vận dụng sâu rộng hõn. Những ngýời theo nguyên lý PP này thýờng là nhóm theo phong trào Xanh (Green movement). Ðối với nhóm ngýời Xanh này, Nguyên lý Phòng ngừa ðã trở thành một loại vũ khí lợi hại ðể gây ảnh hýởng trong trýờng chính trị, và tranh thủ sự ủng hộ của công chúng. Có thể nói họ ðã, ở một giai ðoạn ngắn hạn, thành công trong việc ngãn chận việc phát triển và dùng thực phẩm ðýợc chế biến bằng cách thay ðổi gene (tiếng Anh thýờng gọi là genetically modified food) ở Âu châu.
Gần ðây nhất, cũng dựa vào Nguyên lý Phòng ngừa này, và nhân danh bảo vệ sức khỏe con ngýời, một số ngýời trong các nýớc Tây phýõng ðã làm áp lực lên Liên hiệp quốc phải tẩy chay việc dùng hoá chất DDT trên thế giới. Nãm 1992, Tuyên bố Rio dýới sự chủ tọa và bảo trợ của Chýõng trình Môi trýờng thuộc Liên hiệp quốc (United Nations Environment Programme) ðề nghị loại bỏ việc dùng DDT trong các nýớc ðang phát triển trên thế giới. Ðến nãm 2000, trong vòng bàn thảo lần thứ tý, Liên hiệp quốc vẫn giữ nguyên ý ðịnh tẩy chay việc dùng DDT. Họ ðề nghị ðến nãm 2007, DDT phải ðýợc tuyệt ðối cấm dùng trên toàn thế giới.
Tuyên bố Rio ðã châm ngòi cho một cuộc tranh luận dai dẳng giữa giới y khoa và môi trýờng học hay nhóm Phong trào Xanh. Liền sau Tuyên bố Rio, một nhóm gồm 400 nhà khoa học và bác sĩ uy tín trên thế giới ký tên trong một bức thý ngỏ ðể phản ðối, mà trong ðó họ lý giải rằng DDT cần phải ðýợc dùng trong một số nýớc ðang phát triển ðể phòng chống bệnh sốt rét [1]. Có ngýời còn dùng ngôn từ “mạnh” hõn, cho rằng việc tẩy chay DDT một cách mù quáng là ðồng nghĩa với một cuộc diệt chủng (“DDT ban is genocidal”)! Nhóm theo phong trào Xanh thì cho rằng DDT là một hóa chất ðộc hại cho cá và môi trýờng, có thể gây ra ung thý cho con ngýời, do ðó, cần phải tuyệt ðối cấm dùng DDT trong bất cứ trýờng hợp nào. Nói một cách khác, giữa hai nhóm này không có một ðiểm týõng ðồng, quan ðiểm của họ ở hai thái cực hoàn toàn ðối nghịch nhau. Một bên thì vì lợi ích của hệ sinh thái, môi trýờng ( của các nýớc ðã phát triển), một bên thì vì tính mạng của con ngýời (của các nýớc nghèo ðói và ðang phát triển). Ðến ðây thì một số câu hỏi ðýợc ðặt ra: DDT là gì, mức ðộ ðộc hại ra sao, ðýợc dùng cho mục ðích nào, và có nên tẩy chay hoàn toàn DDT hay không.
DDT (dichlorodiphenyltrichloroethane) là một hóa chất có lẽ là thông dụng nhất trong các loại thuốc trừ sâu rầy trên thế giới. Nhýng kể từ thập niên 1960s trở ði, việc sử dụng DDT giảm dần vì một phần có nhiều hóa chất khác ðã ðýợc phát triển cho cùng mục ðích, và một phần ngýời ta nhận thấy DDT có thể làm hại cá và chim. Do ðó, ở Mỹ và Âu châu, DDT ðã bị cấm dùng trong nông nghiệp trên dýới 25 nãm qua. Tuy nhiên, ở các nýớc ðang phát triển ở Á châu, Phi châu, và Nam Mỹ thì DDT vẫn là một trong những hóa chất ðýợc dùng trong việc phòng chống sâu bọ chuyên phá hoại mùa màng.
|
|
|
DDT
Dec 15, 2003 7:11:48 GMT -5
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:11:48 GMT -5
Sự hữu dụng của DDT
Vì DDT là một hóa chất có công hiệu trong việc diệt trừ sâu bọ, nên tiềm nãng của DDT ðýợc khai thác trong việc phòng ngừa sốt rét ðýợc công nhận rất sớm. Thật vậy, ngoài việc dùng trong nông nghiệp, DDT còn là một hóa chất hữu hiệu nhất trong việc tiêu diệt loài muỗ⩠truyền bệnh sốt rét. Khi DDT ðýợc dùng lần ðầu tiên ở Naples vào tháng Một, 1944, 1.3 triệu dân nhý ðýợc phủi bụi, ngay cả vào giữa mùa ðông, số ngýời bị sốt ban giảm một cách nhanh chóng. Sau ðó, quân ðội và ngýời tị nạn ðýợc xịt DDT hay mặc quần áo ngấm DDT ðể chống lại sốt ban.
Hiệu quả của DDT trong việc trừ muỗi ðýợc ghi nhận nhanh chóng, và áp dụng cho khắp Âu Châu, sang Phi Châu, Mỹ Châu, và Ấn Ðộ, Sri Lanka, và Nam Mỹ. Khi xịt DDT trong nhà (thýờng là trên týờng nhà), số lýợng muỗi giảm một cách rõ rệt. Hiệu quả của DDT trong việc diệt muỗi và giảm tỷ lệ tử vong vì bệnh sốt rét một cách ngoạn mục. Ðiều quan trọng là khi DDT ngýng dùng, hay ðýợc thay thế bằng một hóa chất khác, thì số ngýời bị sốt rét và chết vì sốt rét lại tãng lên một cách rõ rệt. Một số trýờng hợp tiêu biểu về hiệu quả của DDT có thể kể ra nhý sau:
Ấn Ðộ. Trýớc thập niên 1960s, cả nýớc có khoảng 800 ngàn ngýời chết vì sốt rét hàng nãm. Sau khi có chýõng trình dùng DDT, số lýợng ngýời chết vì sốt rét giảm xuống còn 100 ngàn. Nãm 1999-2000, khi giảm dùng DDT, có 3 triệu ngýời bị sốt rét [2].
Sri Lanka. Trong thời gian từ 1934-35, có khoảng 2 ðến 3 triệu ngýời bị sốt rét, và 80 ngàn ngýời chết vì bệnh này hàng nãm. Nãm 1963, khi DDT ðýợc ðýa vào sử dụng phòng chống muỗi, số ngýời bị sốt rét giảm xuống chỉ còn 17 trýờng hợp! Ðến nãm 1994, khi DDT ðýợc thay thế bằng organophosphates và pyrethroids, số ngýời bị sốt rét tãng lên 360 ngàn [3].
Ý. Nãm 1939, có 55 ngàn ngýời bị sốt rét. Nãm 1940, khi DDT ðýợc dùng, không có trýờng hợp sốt rét nào ðýợc ghi nhận [4].
Nga và Liên Xô cũ. Nãm 1940, có 3 triệu trýờng hợp bị sốt rét ở bắc Moscow và Siberia. Ðến nãm 1950 – 1960s, khi DDT ðýợc ðýa vào phòng chống mủi, sốt rét hầu nhý bị xóa khỏi danh sách bệnh tật. Nhýng nãm 1996 khi DDT không còn dùng, số ngýời bị sốt rét tãng lên 15 ngàn trýờng hợp [4].
Nam Phi. Nãm 1931-32, có 22 ngàn ngýời chết vì sốt rét. Trong thập niên 1940s và 1950s, khi DDT ðýợc ðýa vào chýõg trình phòng chống sốt rét, bệnh này hầu nhý bị xóa bỏ hoàn toàn. Nhýng ðến thập niên 90s, khi DDT ðýợc thay thế bằng organophosphates và pyrethroids, số ngýời bị sốt rét ðýợc ghi nhận khoảng 7 ngàn [5].
|
|
|
DDT
Dec 15, 2003 7:12:45 GMT -5
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:12:45 GMT -5
DDT ðộc hại nhý thế nào?
Có thể nói một cách ngắn gọn rằng chýa có bằng chứng thuyết phục nào ðể có thể phát biểu một cách dứt khoát về mối liên hệ giữa DDT và bệnh tật, dù nhiều ngýời, vì những ðộng cõ nào ðó, phát họa DDT nhý là một thảm họa cho sức khỏe con ngýời. Phần lớn những bản tin lýu truyền trong hệ thống truyền thông ðại chúng ðều, hoặc không ðúng với thực tế, hoặc sai lầm. Một vài ví dụ nhý sau:
DDT tồn tại trong lòng ðất rất lâu? Ðiều này không ðúng, vì những dữ kiện làm cõ sở cho phát biểu này ðều ðýợc lấy từ các vùng ôn ðới, không phải nhiệt ðới. Thực ra, theo một nghiên cứu ở Sudan, thời gian DDT tồn tại trong môi trýờng khá ngắn: sau 3 tuần lýợng DDT tồn tại trong ðất còn khoảng 50% [6].
DDT rất ðộc hại? Chýa có bằng chứng khoa học nào ðể phát biểu nhý thế. Thực ra, cãn cứ vào những thông tin ban ðầu về mức ðộ ðộc hại của DDT, ngýời ta có thể nói DDT không ðộc hại nhý nhiều ngýời lo sợ [7]. Ngay cả trong những ngýời uống DDT ðể tự tử (nhýng không thành công), thì sức khỏe cũng không có gì nguy hại ðến tính mạng. Trong những ngýời này, ngoài những triệu chứng nhý nhạy cảm lýỡi và miệng, chóng mặt, run, và ói mửa, ngýời ta không ghi nhận những tác hại nào khác.
DDT có thể gây ra ung thý cho con ngýời? Ðiều này cũng không ðúng. Chỉ có một nghiên cứu xem xét mối liên hệ giữa DDT và ung thý, nhýng nghiên cứu này dựa trên một nồng ðộ DDT rất cao (có thể nói là bất bình thýờng, ít khi nào có trong con ngýời). Vả lại nghiên cứu ðó dựa vào những bệnh nhân ðã chết vì ung thý, do ðó, không thể kết luận giữa nguyên nhân (DDT) và hậu quả (ung thý) ðýợc. Thực ra, một nghiên gần ðây theo dõi một nhóm bệnh nhân bị ung thý và một nhóm không bị ung thý (ðối chứng), và khi so sánh, các nhà nghiên cứu không tìm thấy một mối liên hệ nào giữa DDT và ung thý. Týõng tự, một nghiên cứu rộng lớn trong hõn 120,000 nữ y tá (còn gọi là Nurse’s Health Study) cho thấy nồng ðộ DDE (một chất chuyển hóa của DDT) trong 236 Phụ nữ bị ung thý vú (6.01 ± 4.56 ng/ml; số trung bình ± ðộ lệch chuẩn, hay mean ± standard deviation) không khác một cách ðáng kể so với những phụ nữ không bị ung thý vú (6.97 ± 6.00). Một nghiên cứu khác ở Âu châu cũng ði ðến một kết luận týõng tự: không có sự khác biệt nào về nồng ðộ DDE trong phụ nữ bị ung thý vú và phụ nữ không bị bệnh này. Một phân tích kết quả từ 6 cuộc nghiên cứu gần ðây cũng không tìm thấy mối liên hệ DDT và ung thý [ 8 ].
Týõng tự, một nghiên cứu về nồng ðộ DDT trong một nhóm phụ nữ Việt Nam bị ung thý vú (21 ngýời) và một nhóm phụ nữ Việt Nam cùng tuổi không bị ung thý vú (cũng 21 ngýời) cho thấy nồng ðộ DDT trong hai nhóm không khác nhau. Nồng ðộ trung bình của DDT trong nhóm ung thý vú là 15.9 ± 3.1 ng/ml và trong nhóm không bị ung thý vú là 20.9 ± ng/ml ( số trung bình ± ðộ lệch tiêu chuẩn, standard deviation). Do ðó không thể kết luận rằng DDT gây ra ung thý. Ðiều ðáng chú ý là khi chia nhóm theo nõi cý trú thì nồng ðộ DDT trong những ngýời phụ nữ sống ở thành thị (32.3 ± 6.1 ng/ml; số ngýời = 8) cao hõn trong những ngýời sống ở nông thôn (11.7 ± 2.2 ng/ml; số ngýời = 30). Tuy nhiên, vì nghiên cứu này quá nhỏ, những số liệu trên ðây chýa có sức thuyết phục cao, nên chýa thể rút ra kết luận nào ðáng tin cậy cả [ 9 ].
Có ngýời cho rằng các hóa chất dùng trong nông nghiệp có thể gây ra ung thý cho trẻ em, nhýng ðiều này cũng không ðúng với thực tế. Trong một nghiên cứu trên 7000 trẻ em, các nhà nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ nào giữa các hóa chất dùng trừ sâu rầy và ung thý. Họ kết luận: “Nói chung, chúng tôi không phát hiện ðýợc mối liên hệ nào giữa thuốc trừ sâu và tỷ lệ ung thý trong trẻ em” (“We generally found no association between pesticide use density and childhood cancer incidence rates.” ) [10].
DDT làm giảm lýợng tinh trùng trong ðàn ông Âu châu? Ðiều này cũng không ðúng. Hiện týợng giảm tinh trùng trong ðàn ông ở Âu châu ðã xảy ra liên tục từ mấy mýõi nãm nay, ngay cả lúc DDT không còn dùng ở các nýớc này. Rất là khó mà biết hóa chất nào trong hàng trãm hóa chất gây nên hiện týợng trên [11].
Trong nýớc ngọt, DDT có thể làm chết cá và xâm nhập vào nguồn thực phẩm, nhất là trứng. Tuy nhiên, mức ðộ ðộc hại của DDT trong nhà thì chýa rõ ràng.
|
|
|
DDT
Dec 15, 2003 7:13:45 GMT -5
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:13:45 GMT -5
Vấn ðề cân ðối giữa lợi ích và tác hại
Nói tóm lại, DDT có thể gây nên vài ảnh hýởng ðộc hại cho môi trýờng ở liều lýợng cao, nhýng ảnh hýởng của DDT trong sức khỏe con ngýời có thể nói là ở ðộ rất thấp. Quan trọng hõn nữa, hoàn toàn không có bằng chứng nào ðể cho rằng DDT gây ra ung thý trong con ngýời. Những bằng chứng trên ðây cho thấy cán cân lợi ích và tác hại rõ ràng nghiêng về phần lợi ích cho y tế công cộng hõn là ðộc hại. Thực ra, ngay cả cái gọi là “ðộc hại” cũng, nhý các nghiên cứu y khoa trong khoảng hai mýõi nãm qua cho thấy, chýa hẳn là ðộc hại.
Mặc cho những bằng chứng trên, nhóm ngýời theo phong trào Xanh, bằng cách dùng Nguyên lý Phòng ngừa, ðã thành công trong việc gây áp lực cho Liên hiệp quốc tẩy chay DDT trên toàn thế giới. Nhýng cái sai lầm của “nguyên lý” này là chúng ta không thể chứng minh bất cứ một ðiều gì hay vật gì hoàn toàn an toàn. Không ai có thể loại trừ tai nạn và các sự kiện không tiên ðoán ðýợc. Thực vậy, không ai có thể chứng minh sự an toàn của một hành ðộng hay một sự việc. Cái mà ngýời ta có thể chứng minh ðýợc là hành ðộng ðó hay sự việc ðó chýa gây ra tổn hại. Do ðó, ðứng trýớc một sự việc hay hoạt ðộng, một thái ðộ ðúng ðắn nhất là ðánh giá nó với một sự thận trọng. Cần nhấn mạnh: thận trọng chứ không phải sợ hãi.
Hõn 90% trýờng hợp bệnh sốt rét là cý dân ở các nýớc nhiệt ðới thuộc Phi châu và Á châu. Trong các nýớc nghèo này, mà giới chính khách và trí thức Tây phýõng “lịch sự” gọi là “các nýớc ðang phát triển” (developing countries), nhý Việt Nam, Cambodia, Lào, Nam Dýõng, Miến Ðiện, và phần lớn Phi châu, hàng nãm có khoảng 300 triệu ngýời có nguy cõ bị bệnh sốt rét, và trong số này có hõn 2 triệu ngýời chết vì bệnh này. Trong số tử vong, phần lớn là trẻ em. Thật vậy, thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization) cho thấy hàng nãm có khoảng 2 triệu trẻ em dýới 5 tuổi chết vì bệnh sốt rét. Tính trung bình, cứ 30 giây, có một trẻ em chết vì bệnh sốt rét thuộc các nýớc nghèo. Tại Zambia, sốt rét ðýợc xếp là kẻ sát nhân số một, vì số ngýời tử vong cao hõn nhiều so với tử vong do AIDS và các bệnh khác. Cứ mỗi 10 ngýời dân Zambia có hõn 3 ngýời mắc chứng bệnh sốt rét. Ở Luanda gần 4000 ngýời chết vì sốt rét nãm 2000. Riêng thủ ðô của Angola, nãm 2000, 3856 ngýời, chủ yếu là trẻ em, ðã chết vì sốt rét. Cứ mỗi 12 ngýời dân nýớc này có 1 ngýời bị nhiễm sốt rét, mà chủ yếu là trẻ em và phụ nữ có thai. (Theo AFP, tháng 4/2001)
|
|
|
DDT
Dec 15, 2003 7:14:28 GMT -5
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:14:28 GMT -5
Còn ở Việt nam?
Vào những nãm cao ðiểm của vụ dịch sốt rét (những nãm của thập niên 80s), những vùng dịch lýu hành (endemic areas), tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính là 46%. Theo báo cáo của Chýõng trình phòng chống bệnh sốt rét vùng Ðông dýõng (Regional Malaria Control Programme in Indochina), một dự án tiến hành tại một vùng có diện tích chiếm 22% so với diện tích toàn quốc (nãm 1996) thì tỷ lệ tử vong do sốt rét của vùng này chiếm 46% so với tỷ lệ tử vong của toàn quốc. Tử suất (mortality) của bệnh sốt rét toàn quốc nãm 1996 là 0,20/100 000 dân [12]. Ðến nãm 1999 thì diễn tiến của bệnh sốt rét ở Việt nam vẫn còn khá phức tạp. Theo báo cáo của Viện Sốt rét và Ký sinh trùng trung ýõng thì trong các tháng cuối nãm 1998, sốt rét có chiều hýớng gia tãng ðột ngột ở nhiều tỉnh, nhý Bình phýớc tãng 211% so với cùng kỳ nãm trýớc, Tây Ninh tãng 84%, Lạng Sõn tãng 90%. Trong vài nãm ðầu của thiên niên kỷ mới, một số vùng sốt rét lýu hành ðạt ðýợc những thành tựu ðáng kể trong công tác phòng chống bệnh sốt rét, nhý Kon tum: số ngýời mắc sốt rét của nãm 2001 giảm một nửa so với nãm 1998, tỷ lệ tử vong giảm xuống 5 lần, thì một số nõi bệnh sốt rét lại tãng lên. Nhý Thừa thiên-Huế, số ca sốt rét nãm 2001 tãng 23% so với nãm 2000, 20% dân số tỉnh nằm trong quần thể nguy cõ mắc bệnh (population at risk). Tỉnh Ninh Thuận, nãm 2001, số ca sốt rét ác tính tãng gấp ba lần so với nãm trýớc. chỉ trong một tháng 6 toàn tỉnh có thêm 1900 ca mới mắc (incidence). Cho ðến nãm 2001 toàn quốc còn 2,4 triệu ngýời bị mắc sốt rét chýa ðýợc ðiều trị. Theo kế hoạch nãm 2001, toàn quốc phải tiến hành chữa trị cho 3,5 triệu ngýời, nhýng thực tế chỉ có 1,1 triệu ngýời ðýợc nhận ðiều trị (32%). Dự án quốc gia tài trợ cho công việc phòng chống sốt rét nãm 2002 sẽ là 90 tỷ ðồng Việt nam.
Ở các nýớc này, việc dùng DDT ðể trừ muỗi và phòng ngừa bệnh sốt rét ðã ðạt ðýợc nhiều kết quả mỹ mãn. Quan trọng hõn là khi ngýng dùng DDT thì bệnh sốt rét lại xuất hiện ở số lýợng lớn trong dân chúng. Trong khi ðó, các hóa chất khác dùng diệt muỗi nhý organophosphates và pyrethroids lại không có kết quả ðáng kể và týõng ðối ðắt tiền [13]. Phần lớn các chuyên gia hàng ðầu về sốt rét, kể cả các chuyên gia trong quân ðội Mỹ, ðều ðồng ý rằng DDT rất hiệu nghiệm trong việc phòng chống bệnh sốt rét ở các nýớc nhiệt ðới, và cần phải tiếp tục dùng DDT ở các nýớc này [14]. Rất nhiều chuyên gia làm việc trong y tế rất quan tâm ðến lệnh cấm dùng DDT trong các nýớc ðang phát triển, vì họ cho rằng qua kinh nghiệm trong quá khứ, bệnh sốt rét sẽ trở nên một vấn nạn y tế công cộng cho các nýớc này nếu DDT bị tẩy chay.
Ðối với Việt Nam, việc dùng thuốc trừ sâu, trong ðó có DDT (phần lớn những loại thuốc này ðã bị cấm bán ở các nýớc Tây phýõng, ðýợc lén lút nhập lậu qua ngả Thái Lan hay Trung Quốc), một cách bừa bãi có khả nãng làm xấu môi trýờng. Trong những nãm mới “ðổi mới”, có nõi, ðồng ruộng không còn cá ðể bắt! Một số ngýời bị chất vì nhiễm ðộc. Chýa ai biết ðýợc có bao nhiêu ngýời chết vì tình trạng dùng những hóa chất ðộc hại này. Tuy nhiên, nhà nýớc ðã có nhiều chýõng trình giáo dục về ảnh hýởng của thuốc trừ sâu, và cho ðến nay, qua trò chuyện với nông dân vùng Ðồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi cảm thấy nông dân ðã ý thức phần nào về tác hại của chúng.
Thay vì nhìn vào vấn ðề một cách tích cực và cẩn thận, gần ðây ðã có vài ngýời lợi dụng danh nghĩa cá nhân và tình trạng trên ðể gieo vào ðồng hýõng những thông tin thất thiệt [15]. Nhýng thiết nghĩ ðó là một việc làm phản khoa học và có chủ ý không lành mạnh. Những ngýời làm công tác khoa học nghiêm túc, ngoài việc nghiên cứu, họ còn có trách nhiệm chuyển thông tin chính xác cho ðồng hýõng và công chúng; họ phải nói rõ những thông tin nào ðã ðýợc xác ðịnh, những thông tin nào còn trong vòng nghi vấn. Giới nghiên cứu khoa học còn có trách nhiệm phân biệt cho công chúng biết những khác biệt giữa bằng chứng khoa học và giả thuyết. Giới truyền thông, giới chính khách không nên ðể cho những ngýời làm khoa học tài tử, những khoa học gia nửa mùa lợi dụng danh nghĩa khoa học ðể gây hoang mang trong công chúng một cách không cần thiết.
|
|
|
DDT
Dec 15, 2003 7:14:51 GMT -5
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:14:51 GMT -5
Tuy nhiên, khi ðýa vấn ðề lên bàn cân: sức khoẻ môi trýờng hay tính mạng con ngýời trýớc mắt, thì rõ ràng tính mạng của ngýời dân vẫn phải là một ýu tiên. Cái khó khãn trong việc phòng chống bệnh sốt rét cho cả thế giới là bệnh truyền nhiễm lây qua muỗi. Không dễ gì tiêu diệt ðýợc loại trung gian truyền bệnh này, một khi vùng khí hậu lý týởng cho chúng phát triển là nhiệt ðới và cận nhiệt ðới. Mọi biện pháp phòng ngừa bệnh sốt rét hiện nay ðều là thụ ðộng và gián tiếp. Hữu hiệu hõn cả là làm sao kiểm soát ðýợc nhân tố trung gian truyền bệnh – ðó là muỗi, bằng cách dùng hoá chất trực tiếp phun xịt hay gián tiếp tẩm qua mùng màn. Do ðề xuất DDT cần phải ðýợc loại ra khỏi danh mục sử dụng, thời gian gần ðây ðã có nghiên cứu ðề xuất của các khoa học gia Âu châu ðề xuất là tác ðộng lên cấu trúc di truyền của muỗi, nhằm mục ðích: (i) làm thay ðổi hệ miễn nhiễm của loài muỗi, ðể chúng không còn khả nãng mang mầm bịnh có thể lây truyền, (ii) làm thay ðổi khứu giác của loài muỗi, ðể chúng thay ðổi vật chủ ngýời, (iii) làm thay ðổi hệ sinh sản loài muỗi, ðể tạo ra nhiều muỗi ðực vô sinh trong quần thể muỗi. Tuy nhiên ðiều ðó còn là viễn ảnh. Hõn nữa, theo Tiến sĩ Susan Mayer, thuộc tổ chức Gene-Watch, một tổ chức hoạt ðộng về vấn ðề ðạo ðức trong công nghệ di truyền ðã cảnh báo về việc cân nhắc giữa ðiều lợi và hại thực kỹ lýỡng trýớc khi tung giống muỗi “chuyển gen” này vào môi trýờng, bà lo lắng về một ảnh hýởng lớn hõn ðến hệ sinh thái. Do ðó, việc dùng DDT ðể phòng chống bệnh sốt rét ở Việt Nam vẫn là một việc nên ðýợc tiếp tục tiến hành cho ðến khi nào có một biện pháp khác rẻ tiền và hiệu quả hõn DDT ðýợc phát triển và ứng dụng. Không có lí do gì ðể hi sinh sức khỏe và sinh mạng của ngýời Việt hay ngýời dân các nýớc nghèo ðể bảo vệ một ý týởng môi sinh có tính cách phục vụ nhu cầu và lợi ích “xa xỉ” của công dân các nýớc giàu có ở phýõng Tây.
Trong một xã hội tự do và dân chủ, ngýời ta bị ám ảnh bằng một khó khãn là một mặt họ ủng hộ cái ý niệm tự do mà trong ðó ngýời dân có quyền làm những chuyện có thể làm tổn hại ðến cá nhân, nhýng mặt khác họ không muốn mở rộng sự buông thả này ðể gây tổn hại cho ngýời khác. Do ðó, có thể nói rằng, các quốc gia giàu có ở Tây phýõng, một mặt họ hoàn toàn có ðủ tiền của ðể phòng ngừa những mối hiểm nguy týởng týợng, nhýng mặt khác, nếu họ ðóng vai trò hào hiệp của Ðon-ki-sốt ðể áp ðặt sự ðiên rồ ðó cho các quốc gia nghèo khó là một hành ðộng ngạo mạn, phách lối.
|
|
|
DDT
Dec 15, 2003 7:15:22 GMT -5
Post by Oshin on Dec 15, 2003 7:15:22 GMT -5
Tài liệu tham khảo và chú thích: 1. Bệnh Sốt rét (tiếng Anh: malaria, marsh fever, paludism) là một bệnh truyền nhiễm do muỗi Anopheles lây truyền lýu hành phổ biến trong các vùng nhiệt ðới và cận nhiệt ðới. Khi ngýời bệnh bị muỗi mang mầm bệnh ðốt, ký sinh trùng sốt rét (Plasmodium) này ðýợc ðýa vào cõ thể, vào máu, và ký sinh trùng sẽ theo giòng máu ðến gan và các cõ quan khác ðể sinh sản. Sau một thời gian, thýờng là 12 ngày ðến 10 tháng, ký sinh trùng trở lại giòng máu và xâm nhập vào hồng huyết cầu. Chúng sinh sản rất nhanh, tiêu hủy các tế bào của hồng huyết cầu, và phóng thích ra nhiều ký sinh mới, có khả nãng gây nhiễm các hồng huyết cầu khác. Ðiều này gây ra các cõn sốt ngắn, run, và ra mồ hôi, và gây ra tình trạng thiếu máu vì mất nhiều hồng huyết cầu khỏe mạnh. Biến chứng nguy hiểm của Sốt rét là sốt rét ác tính (malignant malaria) hay gặp ở loại ký sinh trùng Plasmodium falsiparum, các thể nào, gan, thận làm bệnh nhân chết rất nhanh, và tỷ lệ tử vong của loại sốt rét ác tính này rất cao. Biến chứng xa là bệnh có tính mãn tính (chronic), vì ký sinh trùng sốt rét có thể lýu lại trong cõ thể con ngýời ðến 10 nãm (chýa kể bị頴ái nhiễm), gây nên chứng sốt rét mãn tính nếu không ðiều trị triệt ðể. Xõ gan, lách to, thiếu máu, suy dính dýỡng là những biến chứng thýờng gặp trong sốt rét mãn tính. 2. Sharma GK. A critical review of the impact of insecticideal spraying under NMEP on the malaria situation in India. Journal Communicable Diseases 1987; 19:187-290. 3. Litsios S. The tomorrow of malaria. Pacific Press, 1996. 4. Chwatt B, et al. The rise and fall of malaria in Europe. Oxford University Press, 1980. 5. Sharp BL et al. Malaria in South Africa: the past, the present, and selected implications for the future. South African Medical Journal 1996; 86:83-89. 6. El Zorgani ED. Persistence of organochlorine insectisides in the field in the Gezira soil under cotton. Bulletin of Environmental Contamination and Toxicology 1976; 15:378-382. 7. Smith AG. Chlorinated hydrocarbon insectisides, trong sách “Handbook of pesticide toxicology” do EJ Hayes và EJ Law biên soạn, San Diego: Academic Press 1991; trang 731-915. 8. Có thể xem các báo cáo sau ðây: (a) Plasma organochlorine levels and the risk of breast cancer, do DJ Hunter và ðồng nghiệp công bố trong Tập san New England Journal of Medicine, 1997; số 337: trang 1253-8; (b) Breast cancer and serum organpchlorines: a prospective study among white, black and Asian women, do N Krieger và ðồng nghiệp công bố trong [Tập san] Journal of the National Cancer Institute, 1994; số 86: trang 589-99; và (c) Organochlorines in the environment and breast cancer, do T Key và Reeves G công bố trong Tập san British Medical Journal, 1994; số 308: trang 1520-21. 9. Xem báo cáo Blood levels of DDT and breast cancer risk among women living in the North Vietnam, do A. Schecter và ðồng nghiệp công bố, Tập san Archive Environmental Contamination Toxicology 1997; số 33: trang 453-456. 10. Xem báo cáo Childhood cancer and agricultural pesticide use: an ecologic study in California, P. Reynolds và ðồng nghiệp công bố, Tập san Environmental Health Perspective 2002, số 110: trang 319-324. 11. Xem bài xa luận Another DDT connection? Tác giả: SM Sharp, Tập san Nature 1995; số 375: trang 538-9. 12. Ðịa chỉ: www.mekong-malaria.org, truy nhập 3 tháng 4 nãm 2002. 13. Xem các báo cáo sau ðây: (a) Malaria control: bednet or spraying: background and trial in Tanzania, tác giả: Curtis C, Tập san: Trans R Soc Trop Med Hyg 1999; số 93: trang 453-4; (b) Malaria control: bednet or spraying, tác giả: Mnzava AEP, Tập sanTrans R Soc Trop Med Hyg 1999; số 93: trang 455-6; và (c) Malaria control: bednet or spraying, tác giả: Misra SP, tập san: Trans R Soc Trop Med Hyg 1999; 93:456-7. 14. Xem chẳng hạn nhý bài báo DDT house spraying and re-emerging malaria, tác giả: DR Roberts, S Manguin, và J Mouchet, tập san: Lancet 2000; số 356: trang 330-2; và How toxic is DDT? Tác giả:AG Smith, Tập san Lancet 2000; số 356: trang 265-6. 15. Gần ðây trong cộng ðồng ngýời Việt hải ngoại, xuất hiện một nhóm ngýời tự nhận là “khoa học gia” cũng lặp lại y chang luận ðiệu trên của nhóm theo phong trào Xanh ðể nhằm tẩy chay việc dùng DDT ở Việt Nam. Những ngýời này dùng con số thống kê về số lýợng DDT do Bộ Y tế Việt Nam nhập cảng và tuyên bố rằng Việt Nam ðang ðứng trýớc thảm họa về ô nhiễm môi trýờng, dù họ không hề ðýa ra một bằng chứng khoa học nào ðáng tin cậy cả. Thay vào những bằng chứng khoa học, họ cắt xén cóp nhặt những bài báo ðãng trong các báo ở trong nýớc và liên tiếp phóng lên internet hàng chục bản tin mang tựa ðề “Việt Nam nhiễm ðộc”. Thực ra, nếu chỉ cãn cứ vào các bản tin tức báo chí ðể ði ðến một kết luận “nhiễm ðộc” thì ở bất cứ nýớc nào cũng ðang nhiễm ðộc! Lý do ðõn giản là những bản tin nhý thế xuất hiện hàng ngày. Cách ðây một tuần, nhật báo Sydney Morning Herald của Úc cũng loan tin một tai nạn mà trong ðó có khoảng 100 ngýời bị nhiễm ðộc vì thức ãn. Tất nhiên, không ai, ngay cả những ngýời thờ õ với lý trí, lại có thể dại dột ðể cho rằng “Úc nhiễm ðộc”. Thực ra, những bản tin nhý thế cho chúng ta biết về nhận thức của tác giả của chúng hõn là cho chúng ta một sự thực.
|
|