|
Post by Robot on Apr 7, 2004 8:46:51 GMT -5
Bệnh tiểu đường www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/Sach-Y-hoc/2003/02/3B9CFDBD/LTS: "Tiểu đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa có xu hướng tăng rõ rệt trong những năm gần đây (ước tính đến năm 2010, thế giới sẽ có khoảng 216 triệu người mắc bệnh này). Đây là bệnh có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các rối loạn nội tiết. Tuy nhiên, nếu được hướng dẫn đầy đủ về chế độ ăn, chế độ tập luyện và sử dụng thuốc đúng, bệnh nhân vẫn có cuộc sống bình thường. Cuốn sách "Bệnh tiểu đường" (dịch từ tài liệu của Phân viện Nội tiết và Bệnh tiểu đường thuộc Học viện Y học Vacsava, Ba Lan) là cẩm nang điều trị tiểu đường tại nhà. Nó sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin cơ bản để có thể tự theo dõi và điều trị bệnh. Sách do Nhà xuất bản Y học ấn hành". Bệnh tiểu đường - đại họa đã gần kề! TT - Tiểu đường (TĐ ) là một bệnh nằm trong Hội chứng thế giới mới, là một trong những bệnh dịch không nhiễm trùng đang lây lan rất nhanh qua lối sống không hợp lý của cộng đồng. VN là một trong những nước dẫn đầu có tỉ lệ bệnh TĐ cao.Bệnh TĐ biểu hiện trong giai đoạn đầu với nhiều năm thầm lặng tăng đường trong máu và có hoặc không (hoặc chưa) đào thải đường theo nước tiểu. Xác định TĐ nhất thiết phải xét nghiệm máu. Đây là bệnh mãn tính, phức tạp, chữa trị tốn kém. Thế giới chi 1.030 tỉ USD cho việc điều trị, riêng nước Mỹ chi 98,2 tỉ. Có hai loại TĐ: týp 1 (phụ thuộc insulin) do tụy tạng không tiết insulin - nội tiết chuyển hóa đường; để có cuộc sống thì suốt đời người bệnh phải dùng insulin; bệnh gặp đa số ở trẻ em, người trẻ tuổi và chiếm 5-15% tổng số bệnh nhân TĐ; loại này chưa có cách phòng hiệu quả. TĐ týp 2 do tụy giảm tiết hoặc do cơ thể đề kháng với insulin làm giảm hoặc mất khả năng điều hòa đường huyết của nội tiết tố này; TĐ týp 2 chiếm đến 85-95% các trường hợp TĐ; thường gặp ở người trên 40 tuổi và cả ở những trẻ nhỏ 6 tuổi trở lên; hay gặp (80%) ở người lớn và trẻ em bị thừa cân/béo phì. TĐ thường gây ra các biến chứng không thể tránh khỏi. Có hai loại biến chứng: biến chứng cấp xảy ra đột ngột, dễ dẫn đến tử vong nếu không được cứu chữa kịp thời; biến chứng mãn: tổn thương các mạch máu lớn và nhỏ nhất gây nên các bệnh tim mạch trầm trọng, hoại tử chi, gây giảm thị lực, suy thận... Các biến chứng này luôn xảy ra liên tục, kín đáo, khi xuất hiện thường là đã ở giai đoạn muộn. Các chuyên gia quốc tế về TĐ đã kết luận: TĐ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ tư ở các nước phát triển. Ngoài AIDS, TĐ cũng sẽ là thảm họa của loài người trong những thập niên đầu của thế kỷ 21: dự tính 5,1% dân số thế giới mắc bệnh thì đến năm 2025 số người bị bệnh đã trên 333 triệu người. Tại VN bệnh đang phát triển nhanh ở các thành thị, năm 2002 có tỉ lệ bệnh toàn quốc là 2,7%, 4,4% ở thành thị, 2,1 - 2,7% ở nông thôn, miền núi và duyên hải. Trong cộng đồng hiện nay còn 50-64% bệnh nhân vẫn đang sống “vô tư” chưa được phát hiện bệnh TĐ, diện này cần phát hiện sớm vào danh sách điều trị, phòng ngừa biến chứng. Rất nhiều người khi thấy vết thương dù nhỏ mà lâu lành; nước tiểu thấy kiến bu; mắt mờ đi khám mắt, khát nước nhiều, ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy nhiều mới đi khám và biết đã bị TĐ. Một tình trạng rất lo ngại là 78,8% đối tượng nghiên cứu trong cộng đồng không biết gì về yếu tố nguy cơ gây bệnh, 76,5% không biết bệnh có thể phòng được và 57,7% không biết gì về cách phòng bệnh này. Phòng bệnh TĐ tích cực nhất là từ bỏ, tránh xa... những yếu tố nguy cơ gây bệnh. Trong các yếu tố nguy cơ, có những nguy cơ không thể can thiệp hiệu quả để phòng được bệnh, rất may nguy cơ này không nhiều như: yếu tố di truyền, tuổi cao (tỉ lệ bệnh tăng theo số tuổi tăng). Những nguy cơ có thể can thiệp: hầu hết các yếu tố nguy cơ của TĐ týp 2. Các yếu tố nguy cơ chính cần chú ý: béo phì, tăng huyết áp vô căn; trong gia đình có người bị TĐ ở thế hệ F1; tiền sử có TĐ khi thai nghén hoặc khi sinh con; sinh con có cân nặng trên 4kg; người từ trên 45 tuổi; người có rối loạn đường máu, lipid và cholesterol máu tăng. Người TĐ biết kiên trì điều trị, kiêng khem ăn uống, luyện tập vừa sức theo thầy thuốc hướng dẫn sẽ chung sống khá ôn hòa suốt đời với nó. Người TĐ vẫn có cuộc sống, học tập, làm việc, sinh hoạt tương đối bình thường (việc lấy vợ, lấy chồng, sinh con là hoàn toàn nên làm và còn có phần tốt cho chữa trị ). Việc tham gia các câu lạc bộ người TĐ là rất cần thiết. Hi vọng trong tương lai không xa khoa học sẽ giúp chúng ta phương cách hiệu quả nhất để tiêu diệt căn bệnh quái ác này. Cho dù TĐ nguy hiểm đến dường nào nhưng chìa khóa của việc bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của bạn luôn ở nơi bạn! BS NGUYỄN THÌN
|
|
|
Post by Oshin on Apr 21, 2004 14:28:55 GMT -5
Ăn ngũ cốc nguyên hạt giảm bệnh tiểu đường
Những người bị quá cân thường có nguy cơ cao mắc bệnh tiểu đường. Thực tế cho thấy chúng ta càng ngày càng ăn ít các loại ngũ cốc nguyên hạt, trong khi đó lại tiêu thụ nhiều hơn các loại tinh bột đã tinh chế, và điều này cũng góp phần làm gia tăng bệnh tiểu đường.
Càng ăn nhiều thực phẩm chứa ngũ cốc nguyên hạt thì lượng insulin trong máu càng thấp. Insulin là một loại hormone chịu trách nhiệm giữ cho lượng đường trong máu (đường huyết) không bị lên quá cao - vì đường huyết cao là dấu hiệu của bệnh tiểu đường. Lượng insulin thấp ở những người khỏe mạnh cho thấy hormone này hoạt động có hiệu quả. Lượng insulin vượt quá không được sử dụng để giữ cho lượng đường huyết cân bằng. Trong một công trình nghiên cứu mới đây, những người tham gia nghiên cứu đã được cho ăn mỗi ngày một bữa các loại ngũ cốc nguyên hạt, và kết quả cho thấy ngũ cốc nguyên hạt cho phép insulin hoạt động hiệu quả hơn. Tiểu đường là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra mù lòa. Nó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phải cắt cụt chi dưới cũng như gây ra bệnh thận nặng. Ngoài ra, tiểu đường cũng góp phần không nhỏ gây ra bệnh tim và đột quỵ.
BTV (Theo Naples Daily News)
Nên ăn ít muối để tránh bị tiểu đường Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ vừa được công bố trên tạp chí Diabetes Care, chế độ dinh dưỡng ít muối giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ở những người bị cao huyết áp.
52 bệnh nhân tham gia công trình nghiên cứu được chia thành ba nhóm: nhóm A: ăn theo chế độ dinh dưỡng thông thường; nhóm B: ăn theo chế độ dinh dưỡng cho người gầy, ít muối, ít rượu và có tập thể dục; nhóm C: chế độ dinh dưỡng như nhóm A nhưng được bổ sung trái cây, rau xanh và hạn chế chất béo (đặc biệt là chất béo bão hòa có nguồn gốc từ thịt đỏ ).
Kết quả: sau sáu tháng tình hình bệnh tật của những người thuộc nhóm A không có gì thay đổi, trong khi đó những bệnh nhân thuộc nhóm B đã giảm được lượng đường trong máu và những người ở nhóm C có mức độ nhạy cảm đối với insuline tăng 50%.
(Theo lejournalsante.com, BSGĐ )
|
|
|
Post by Oshin on May 18, 2004 16:03:53 GMT -5
Bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ bị Alzheimer rất cao
TTO - Một nghiên cứu mới của Mỹ cho biết những người bị bệnh tiểu đường có nguy cơ bị Alzheimer rất cao, khoảng 65%.
Các nhà nghiên cứu ở ĐH Rush (Mỹ ) tiến hành một nghiên cứu kéo dài 5 năm trên 824 người. Trong 151 đối tượng đang phát triển Alzheimer thì có tới 31 người bị tiểu đường. Nguy cơ mắc Alzheimer bệnh ở bệnh nhân tiểu đường cao hơn 65%.So với người bình thường.
Tiểu đường cũng có mối liên hệ với béo phì và một số bệnh khác như bệnh tim, suy thận, và suy giảm các chức năng, có thể là nguyên nhân làm cho lượng glucose trong máu cao bất thường.
Trong thời gian tới, các chuyên gia sẽ tiến hành những nghiên cứu xa hơn về quan hệ giữa tiểu đường và Alzheimer, đồng thời sẽ cho ra một phương pháp mới điều trị bệnh tiểu đường và có thể hạ thấp nguy cơ bị bệnh Alzheimer ở những bệnh nhân bị tiểu đường, Neil Buckholz, chuyên gia về lão hóa, chứng mất trí cho biết.
THY LÊ (Theo BBC News, AP, Reuters)
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 12:50:05 GMT -5
Bệnh tiểu đường
Tiểu đường là một bệnh nguy hiểm về lâu dài. Cần biết phát hiện sớm trước khi có biến chứng xảy ra như lao phổi, mờ mắt, suy thận, hoại thư chân, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, mù lòa...
Ngày nay, định nghĩa bệnh tiểu đường theo Tổ chức Sức khỏe thế giới không phải chỉ là tiểu ra đường mà là có lượng đường trong máu cao thường xuyên một cách bất thường.
Bệnh tiểu đường gặp ở mọi lứa tuổi, nam cũng như nữ. Trẻ sơ sinh cũng có thể mắc bệnh tiểu đường. Bệnh thường gặp ở người béo mập, ít lao động, sống ở đô thị. Bệnh thường gặp nhiều ở người:
- Quá 50 tuổi, ngoại hình mập mạp, ăn nhiều, cân nặng, huyết áp tăng, cholesterol trong máu thừa.
- Phụ nữ sinh con to, nặng trên 4 kg hay gặp khó khăn trong việc sinh nở: sẩy thai, sinh non, độc thai...
- Trẻ nhỏ thường đi tiểu đêm, đái dầm, gầy, biếng ăn, học kém, đau bụng vặt, buồn nôn, bụng đau như có lãi hay nghẹn ruột.
- Phụ nữ hay ngứa ngáy toàn thân hay ở bộ phận sinh dục.
- Thanh niên to khỏe nhưng yếu sinh lý. Bị viêm nhiễm tái đi tái lại khó trị dứt điểm ở bộ phận sinh dục, hệ thống hô hấp, thận, lao phổi.
- Bị nhồi máu cơ tim, huyết áp cao.
- Có ghẻ lở ngoài da, nấm mốc, da vảy nến.
- Tê bại, loét bọng đái, mắc bệnh thần kinh, tê chân, hoại tử chân, thấy mờ mắt.
Cũng cần dựa vào các yếu tố có thể đưa đến bệnh tiểu đường:
- Khi có cha mẹ bị bệnh tiểu đường, 5% các con của họ có thể mắc bệnh tiểu đường. Các con của người mắc bệnh tiểu đường cần được chăm sóc kỹ tránh các bệnh do siêu vi (cảm cúm, ho gà, quai bị, ban); các bệnh nội tiết (thượng thận, tuyến yên, tuyến giáp), béo phì, huyết áp cao, nghiền rượu, thuốc lá, lạm dụng vài loại thuốc như corticoid (trị nhức mỏi), progestérone (thuốc ngừa thai).
- Khi uống nước nhiều, đi tiểu nhiều. Uống ngày 3-4 lít nước, đi tiểu xối xả.
Nếu nghi ngờ bị tiểu đường cần xét nghiệm chẩn đoán. Xét nghiệm máu tĩnh mạch là phổ biến nhất. Làm xét nghiệm sáng sớm, lúc bụng đói.
Đã biết mắc bệnh tiểu đường phải đến bác sĩ chuyên khoa để:
- Phân tích bệnh tiểu đường loại gì: thiếu hay còn insulin...
- Đánh giá tình trạng sức khỏe. Phát hiện các biến chứng, tiên lượng các diễn biến về sau.
- Thảo qui cách chăm sóc, điều trị, ăn uống, sinh hoạt.
Bệnh tiểu đường phổ biến và nguy hiểm, thường dẫn đến biến chứng trên các cơ quan như mắt, thận, não, thần kinh, tim, da...
BS Phạm Văn Đảm
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 12:51:14 GMT -5
Theo dõi đường huyết tại nhà
Bệnh tiểu đường nếu được chẩn đoán và điều trị sớm và kiểm soát đường huyết tốt sẽ có diễn tiến thuận lợi, không biến chứng. Nếu không được kiểm soát tốt đường huyết do không sớm phát hiện bệnh (giai đoạn đầu bệnh diễn tiến âm thầm) hoặc không tuân thủ lời bác sĩ, người bệnh có thể bị nhiều biến chứng nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao.
Do đó, việc tự theo dõi đường huyết tại nhà giúp phát hiện sớm tiểu đường, kiểm soát tốt đường huyết, giảm biến chứng của bệnh.
Máy đo đường huyết tại nhà hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại, khi mua chúng ta nên lựa chọn những loại máy có các đặc điểm: gọn, nhỏ, dễ mang theo trong người; dễ sử dụng; giá rẻ.
Cách sử dụng máy (thường giống nhau ở các loại máy):
- Rửa và lau khô bàn tay trước khi thử.
- Đâm kim vào ngón tay để chích máu xuống que thử.
- Chờ giấy thử đổi màu và so màu với thang màu có sẵn để biết nồng độ đường huyết (nếu chỉ dùng giấy thử ).
- Đưa giấy thử vào máy và chờ đọc kết quả trên màn hình (khi dùng máy). Thời gian cần thiết để đọc kết quả tùy thuộc từng loại máy, có máy chỉ cần vài giây, có máy cần vài phút. Trung bình là 1 phút.
- Ghi lại kết quả vào sổ để theo dõi.
Thời gian đo đường huyết thường là buổi sáng sớm trước khi ăn sáng hoặc 2 giờ sau khi ăn. Ngoài ra, có thể đo đường huyết vào một số thời điểm đặc biệt khác như trước khi đi ngủ, sau khi vận động, sau khi uống rượu...
Nếu đường huyết đang ổn định, có thể thử 1-2 lần/tuần. Nếu đường huyết đang dao động, có thể thử mỗi ngày hoặc theo chỉ định của bác sĩ.
Trị số đường huyết trung bình là 80-120 mg/100 ml (0,8-1,2 g/l).
Ngoài ra, ở những bệnh nhân tiểu đường, cần có chế độ ăn và vận động hợp lý. Chú ý: Ăn nhiều chất xơ, rau xanh; cữ mỡ, tránh thức ăn, thức uống có đường; đi bộ thường xuyên; tránh tăng cân.
BS Lê Thị Tuyết Nhung
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 12:55:22 GMT -5
Các biến chứng của bệnh tiểu đường
Nhiều bệnh nhân tiểu đường nhập viện trong tình trạng có những biến chứng nguy hiểm: hôn mê tiểu đường, nhồi máu cơ tim, loét và hoại tử nặng chân, đôi lúc phải cắt bỏ chân để cứu sống bệnh nhân. Nguyên nhân gây ra tình trạng nặng nề như vậy một phần do bệnh nhân đã không có chế độ điều trị và chăm sóc bệnh một cách hợp lý.
Biến chứng cấp tính hôn mê
Biểu hiện lâm sàng là rối loạn tri giác rồi đi vào hôn mê.
Hôn mê do tiểu đường thường gặp ở bệnh nhân có các yếu tố như:
- Không tuân thủ điều trị, tự ngưng thuốc đột ngột, đặc biệt ở những bệnh nhân đang được điều trị bằng insulin chính.
- Có thêm một bệnh lý cấp tính khác như: viêm phổi, nhiễm trùng tiểu, nhồi máu cơ tim, mang thai...
- Dùng thuốc bừa bãi không theo sự chỉ dẫn của bác sĩ, nhất là các loại thuốc có ảnh hưởng bất lợi đến diễn biến của bệnh như các loại thuốc lợi tiểu, kháng viêm, corticoid...
- Dùng thuốc điều trị tiểu đường quá liều, làm đường huyết giảm quá mức.
Các biến chứng lâu dài của bệnh tiểu đường
Biến chứng thần kinh: Là biến chứng thường gặp nhất trong bệnh tiểu đường. Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ xảy ra biến chứng thần kinh ở bệnh nhân tiểu đường là: thời gian mắc bệnh dài, đường huyết không được kiểm soát tốt, lên xuống bất thường, xơ mỡ động mạch...
Cần lưu ý, các biểu hiện của biến chứng thần kinh thường khởi phát từ từ, nặng dần theo thời gian. Lúc khởi bệnh, do triệu chứng mơ hồ làm bệnh nhân không chú ý đến, khi đã nặng thì khó khăn trong vấn đề điều trị.
Thường bệnh nhân hay có cảm giác tê tê châm chích ở bàn chân, đôi khi ở bàn tay, thỉnh thoảng có những cơn đau như xé thịt, như điện giật ở bàn chân, cẳng chân. Nếu nặng hơn, bệnh nhân bị mất cảm giác nhiều phần trong cơ thể. Kèm theo là nhiều rối loạn khác rất hay gặp:
- Rối loạn tiêu hoá: táo bón hoặc tiêu chảy, đau bụng, buồn nôn, khó nuốt, hay có cảm giác đầy bụng, ăn không tiêu.
- Rối loạn niệu dục: gây bất lực ở nam, tiểu khó, tiểu dầm, dễ bị nhiễm trùng tiểu. Giảm tiết mồ hôi lòng bàn tay, bàn chân.
- Yếu và teo cơ.
- Liệt các dây thần kinh sọ não: gây sụp mi, lé mắt, méo miệng...
Biến chứng tim mạch: Đây là một trong những nguy cơ gây tử vong ở bệnh nhân tiểu đường, biểu hiện rất đa dạng:
- Xơ cứng động mạch: Gây cao huyết áp, thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, đột quị...
- Viêm động mạch chi dưới: Gây đau chân, da chân lạnh có thể có màu tím đỏ, teo cơ và cuói cùng dẫn đến hoại tử chân, phải cưa chân.
- Loét chân: Đặc biệt hay xảy ra ở bệnh nhân bị mất cảm giác, khi có vết thương nhỏ do kim đâm, đứt chân, giẫm phải thủy tinh mà không biết, dẫn đến loét chân.
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 12:56:41 GMT -5
Đáng lưu ý, biến chứng ở thận là một biến chứng thường gặp và gây tử vong nhiều nhất trong bệnh tiểu đường. Bệnh nhân sẽ bị phù, cao huyết áp, đi tiểu ra chất đạm (nước tiểu màu trắng đục có nhiều bọt), cuối cùng dẫn đến suy thận và tử vong. Thường dấu hiệu sớm nhất của biến chứng này là sự xuất hiện lượng nhỏ protein trong nước tiểu, gọi là tiểu đạm.
Biến chứng ở mắt: Là nguyên nhân chính gây ra mù loà ở nhiều người bệnh, đặc biệt tại các nước phát triển. Biến chứng ở mắt được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: mù đột ngột, đục thủy tinh thể (nhân dân ta hay gọi là cườm khô), tăng nhãn áp, xuất huyết, xuất tiết trong mắt.
Biến chứng da xương khớp: Da hay sậm màu ở mặt trước cẳng chân. Đau nhức xương khớp, cứng khớp cũng có thể xảy ra.
Biến chứng nhiễm trùng: Bệnh nhân tiểu đường sức đề kháng cơ thể giảm, rất dễ bị nhiễm trùng, thường gặp các bệnh lao phổi, nhiễm trùng tiểu, nhiễm trùng sinh dục.
Để hạn chế tối đa các biến chứng này, cần lưu ý những vấn đề sau đây:
1. Phải nghe theo sự chỉ dẫn của bác sĩ điều trị.
2. Không được tự ý ngưng thuốc đột ngột.
3. Không được tự ý tăng liều thuốc mà chưa có sự đồng ý của bác sĩ điều trị.
4. Phải đến bác sĩ khám bệnh ngay khi có bất kỳ triệu chứng bất thường nào xảy ra.
5. Có chế độ kiểm soát đường huyết tốt, không để xảy ra tình trạng đường máu tăng hoặc giảm quá mức.
6. Phải được thăm khám định kỳ tình trạng: tim mạch, mắt, nước tiểu, da, xương, khớp.
7. Chăm sóc bàn chân mỗi ngày.
8. Có chế độ dinh dưỡng và rèn luyện cơ thể hợp lý.
Trước đây, người ta cho rằng đã mắc bệnh tiểu đường thì đương nhiên sẽ bị nặng lên vì các biến chứng của nó. Nhưng ngày nay, khoa học đã chứng minh nếu được phát hiện sớm, điều trị tích cực, kiểm soát đường huyết chặt chẽ thì sẽ giảm đáng kể hầu hết các biến chứng.
BS Lê Thị Tuyết Phượng
|
|
|
Post by Oshin on May 23, 2004 12:59:21 GMT -5
Bệnh võng mạc tiểu đường
Võng mạc tiểu đường là một bệnh của các mạch máu võng mạc do tiểu đường gây ra. Bệnh võng mạc tiểu đường là nguyên nhân hàng đầu gây mù loà ở các nước phát triển. Ở Việt Nam, xu hướng trên phát triển tương tự. Tỷ lệ của bệnh võng mạc tiểu đường gia tăng với thời gian bị tiểu đường. Khoảng 60% bị bệnh tiểu đường 15 năm hoặc hơn và sẽ có vài tổn thương mạch máu và có một tỷ lệ nguy cơ phát triển thành mù loà.
Bệnh võng mạc tiểu đường cơ bản là giai đoạn sớm của bệnh võng mạc tiểu đường và tiến triển chậm chạp trong nhiều năm. Võng mạc thường cho thấy dấu hiệu của những đốm nhỏ hoặc những lắng đọng mỡ. Phần lớn bệnh nhân không bị mất thị lực, ngoại trừ việc mờ dần dần và thường không được chú ý. ở một vài bệnh nhân, các mạch máu rò rỉ tại điểm vàng, nơi chịu trách nhiệm cho thị lực trung tâm, gây mất thị lực.
Một phương pháp chụp hình đặc biệt rất có ích trong việc phát hiện sớm những ảnh hưởng của bệnh võng mạc tiểu đường là chụp mạch huỳnh quang và được chỉ định bởi bác sĩ nhãn khoa. Thủ thuật gồm có tiêm một chất nhuộm màu qua tĩnh mạch ở cánh tay vào dòng máu. Khi chất nhuộm màu được mang đến mắt, những bức ảnh của võng mạc sẽ được chụp, cho thấy những vùng bị rò rỉ hoặc những vùng tưới máu kém.
Còn đối với võng mạc tăng sinh, phát triển từ bệnh võng mạc cơ bản và chịu trách nhiệm làm hầu hết những trường hợp mất thị lực ở bệnh nhân tiểu đường. Những mạch máu mới mọc (tăng sinh) trên bề mặt của võng mạch và thần kinh thị giác. Những mạch máu còn non này có khuynh hướng bị vỡ và máu chảy vào khoang pha lê thể. Những mô sẹo có thể mọc từ những mạch máu vỡ và sẽ làm co kéo trên võng mạc, làm bong võng mạch và kết quả là mất thị lực.
Những mạch máu mới tăng sinh còn có thể mọc trên mống mắt và gây ra mặt dạng tăng nhãn áp và từ đó sẽ đưa đến mù loà. Khi chảy máu xảy ra ở bệnh võng mạch tăng sinh, bệnh nhân thấy như nhìn qua làn khói hoặc mất hoàn toàn thị lực. Dù không có triệu chứng đau, hình thái nghiêm trọng này của bệnh võng mạc tiểu đường đòi hỏi phải điều trị ngay.
Điều trị
Về điều trị, việc kiểm soát đường huyết và huyết áp rất quan trọng, nhưng bệnh võng mạc có thể tiến triển xấu bất chấp tất cả các nỗ lực điều trị nội khoa.
Nếu bệnh võng mạc tiểu đường được phát hiện sớm, quang đông võng mạc bằng laser có thể ngừng phát triển của tổn thương.
Ngay cả trong thời kỳ tiến triển của bệnh, laser có thể làm giảm bớt nguy cơ mất thị lực nghiêm trọng. Điều trị laser được dùng để hàn gắn lại hoặc loại trừ những mạch máu bị rò bất thường. Thủ thuật này làm hội tụ nguồn năng lượng của ánh sáng laser trên võng mạch bị tổn hại. Những nốt đỏ của năng lượng laser hàn gắn lại những mạch máu bị rò và tạo nên những sẹo nhỏ trong mắt. Những sẹo này làm giảm việc sinh ra tân mạch và làm cho những tân mạch đã có sẵn bị co lại và đóng hẳn lại.
|
|
|
Post by Oshin on Jun 6, 2004 10:56:51 GMT -5
Mướp đắng chữa bệnh tiểu đường? Mẹ cháu bị bệnh tiểu đường, cháu nghe nhiều người khuyên là nên ăn nhiều trái mướp đắng (khổ qua). Cháu không biết có nên cho mẹ cháu ăn mướp đắng hằng ngày không? Liệu có nên tin vào điều này không? (Trần Văn Tiến, Cao Thắng, Q.3, TP.HCM)
- Các nghiên cứu của y học hiện đại gần đây cho thấy mướp đắng có hoạt tính sát khuẩn, có tác dụng diệt vi khuẩn, virus, chống lại các tế bào ung thư và ngăn cản sự phát triển của HIV ở các tế bào mới bị lây nhiễm. Nước ép mướp đắng tươi có tác dụng chữa tiểu đường tuýp 2 mới mắc (khi chưa phải dùng thuốc tây y), phối hợp với các loại sulfamid chữa tiểu đường tuýp 2 để tăng tác dụng (đồng thời giúp phòng chống các bệnh tim mạch, thần kinh, ung thư, lão hóa, giảm tác hại của tia xạ với người bệnh).
Cách làm: Mướp đắng tươi rửa sạch, cắt nhỏ (bỏ hạt), xay nhỏ. Vắt lấy nước, đun sôi 15 phút (nước 1). Bã cho thêm nước (1 kg quả tươi ban đầu thì cho 500 ml nước) đun sôi, đun 15 phút (nhỏ lửa), lấy ra để nguội, vắt lấy nước (nước 2). Bã lại cho thêm nước, đun sôi 15 phút (nhỏ lửa), lấy ra để nguội, vắt lấy nước (nước 3). Gộp cả nước 1, nước 2, nước 3 đun sôi trong 15 phút.
Mỗi ngày uống 1 liều (tương đương 100g quả tươi) sau bữa ăn. Phần còn lại bảo quản lạnh để dùng dần. Không dùng mướp đắng cùng với huyền sâm hoặc các chế phẩm có huyền sâm.
BS Thanh Vân
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 12:27:02 GMT -5
Những loại rau quả tốt cho ngýời bệnh tiểu ðýờng
Cách ðây hõn 2.000 nãm, Ðông y ðã ðề cập ðến bệnh này trong phạm vi chứng "tiêu khát". Các lýõng y tích lũy ðýợc nhiều kinh nghiệm sử dụng rau quả ðể phòng chống tiểu ðýờng. Tác dụng của nhiều loại rau quả ðã ðýợc y học hiện ðại chứng minh.
Sau ðây là một số cách sử dụng rau quả cho bệnh nhân tiểu ðýờng:
- Mýớp ðắng (khổ qua) có 3 cách dùng: dạng týõi rửa sạch làm rau ãn hằng ngày, mỗi ngày 50-100 g hoặc nấu canh với thịt trai; dạng khô tán thành bột uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 10 g; dạng trà hãm nýớc sôi uống hằng ngày, lýợng tùy thích.
- Bí ðỏ 250 g, rửa sạch thái miếng, ninh nhừ ãn hằng ngày, liên tục trong 1 tháng.
- Bí ðao 100 g, nấu ãn hằng ngày hoặc rửa sạch ép lấy nýớc uống.
- Củ mài 30 g, bí ðao 100 g, lá sen 30 g. Sắc uống hằng ngày.
- Vỏ bí ðao 15 g, vỏ dýa hấu 15 g. Sắc uống hằng ngày.
- Dýa hấu 500 g, ãn hằng ngày.
- Củ cải 5 củ, gạo tẻ 60 g, nấu thành cháo, chia làm vài lần ãn trong ngày. Hoặc củ cải 500 g, bào ngý khô 50 g, nấu ãn cách nhật, liên tục trong 15-20 ngày.
- Cà rốt týõi lýợng vừa phải, gạo tẻ 60 g, nấu cháo ãn hằng ngày.
- Ðậu ðỏ khô (có vỏ ) 50 g, nấu ãn hằng ngày.
- Ðậu ván trắng 30 g, mộc nhĩ ðen 30 g. Sấy khô tán bột, uống mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần 3-5 g.
- Ðậu xanh 30 g, lá hồng 30 g. Sắc nýớc uống hằng ngày.
- Sắn dây 30 g, gạo tẻ 60 g. Nấu thành cháo chia ãn vài lần trong ngày.
- Hạt quả vải sấy khô tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10 g.
- Lê týõi tùy lýợng, rửa sạch giã nát, ép lấy nýớc nấu cùng với mật ong thành dạng cao. Uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 thìa với nýớc ấm. Hoặc mỗi ngày ãn 1 quả lê.
- Ổi chín ãn mỗi ngày 4-5 quả, hoặc ép lấy nýớc uống hằng ngày (khoảng 250 g ổi ). Hoặc lá ổi khô 15-30 g sắc lấy nýớc uống thay trà.
- Mắt mía (giá nhãn) 120 g, sắc lấy nýớc uống hằng ngày thay trà.
- Rau chân vịt 100-200 g, kê nội kim 15 g. Sắc uống hằng ngày.
- Cọng rau muống 100 g, râu ngô 50 g. Sắc uống hằng ngày.
BS. Thanh Trà, Sức Khỏe & Ðời Sống
|
|
|
Post by Robot on Nov 9, 2004 11:39:59 GMT -5
Thịt bò, thịt cừu, hot dogs làm tăng nguy cơ bị tiểu đường
TTO - Các món ăn của phương Tây trong đó có thịt đỏ (thịt bò, thịt cừu) và thịt qua chế biến (như hot dog), các làm tăng từ 26 đến 40% nguy cơ bị tiểu đường, nghiên cứu mới đây của các chuyên gia ở Đại học Sức khỏe cộng đồng Harvard (Boston, Mỹ ) cho biết.
Các chuyên gia tiến hành phân tích dữ liệu của 70.000 phụ nữ trong suốt 14 năm. Tất cả họ đều không bị tiểu đường khi bắt đầu nghiên cứu. Sau 14 năm, khoảng 2.700 phụ nữ phát triển bệnh tiểu đường type 2.
Kết quả phân tích cho thấy những người thường ăn các món ăn phương Tây như thịt rán, thịt nướng, xúc xích, thịt đỏ và những món thịt đã chế biến, ngũ cốc đã tinh chế như bột mì trắng, có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường trong vòng 14 năm cao hơn những người ít ăn các món này. Phân tích cụ thể khẩu phần ăn, các chuyên gia nhận thấy nếu ăn thêm thịt đỏ một lần trong ngày thì nguy cơ mắc bệnh tăng 26%, ăn thêm thịt đã chế biến nguy cơ bị bệnh cao gần 40%.
Các nhà nghiên cứu cũng tập trung vào những phụ nữ có một thực đơn gồm nhiều cá, đậu, trái cây, rau xanh, kết quả cho thấy ở những phụ nữ này nguy cơ bị tiểu đường giảm.
"Phát hiện này cho thấy chúng ta nên ăn thịt đã qua chế biến ở mức ít nhất có thể và nên ăn ít thịt đỏ", tiến sĩ Teresa T. Fung, phụ trách nghiên cứu cho biết. Bà giải thích, khi thịt đã qua chế biến, thịt đỏ và một số thức ăn nhiều chất béo được nấu ở nhiệt độ cao, chúng sinh ra những chất nào đó, đẩy mạnh quá trình phát triển của bệnh tiểu đường và nguy cơ bị tiểu đường.
T.L (Theo Reuters Health)
|
|
|
Post by Robot on Nov 21, 2004 11:11:16 GMT -5
Đái tháo đường - căn bệnh của thế kỷ 21 Tập thể dục đều đặn và ăn uống đúng cách giúp ngăn ngừa bệnh đái tháo đường
Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ ) đang là một trong số 10 bệnh gây tử vong nhiều nhất. Tỷ lệ ĐTĐ type 2 tại các nước phát triển khoảng 6,2% và dự đoán sẽ gia tăng lên 7,6% vào năm 2025. Các nước đang phát triển có tỷ lệ mắc bệnh khởi điểm tương đối thấp, khoảng 3,5%, đến năm 2025 dự báo tăng 4,9%. Tại Việt Nam, năm 2000, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ trên toàn quốc khoảng 2,7%. Hiện nay, tỷ lệ ĐTĐ tăng nhiều nhất tại các nước vùng đảo Thái Bình Dương và Nam Á (Ấn Độ ).
Một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự gia tăng tỷ lệ ĐTĐ là sự thay đổi lối sống đột ngột từ tình trạng đói nghèo hoặc đủ ăn sang thừa ăn, từ vận động nhiều sang lối sống tĩnh tại, ít vận động.
Các chuyên gia đã xác định ra một số yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ: tuổi già, tình trạng ít vận động, béo phì, nhất là kiểu béo bụng, tăng huyết áp, rối loạn mỡ trong máu, gia đình có cha mẹ hoặc anh chị em bị ĐTĐ. Phụ nữ sinh con to (cân nặng lớn hơn 4 kg lúc sinh) cũng dễ bị ĐTĐ về sau. Những người thuộc các nhóm trên nên kiểm tra đường huyết thường xuyên (ít nhất mỗi năm 1 lần) để phát hiện bệnh sớm (nếu có). Tại TP Hồ Chí Minh, Hội Đái tháo đường và nội tiết đã phối hợp cùng Bộ môn Nội tiết Trường ĐH Y Dược thực hiện một chương trình tầm soát bệnh ĐTĐ trên những người có ít nhất 2 yếu tố nguy cơ kể trên. Tỷ lệ mắc bệnh thô thay đổi từ 5,5% - 12%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ bệnh trên dân số chung.
Bệnh ĐTĐ type 2 dẫn đến nhiều biến chứng gây tàn phế và tử vong như mù, suy thận, loét chân, nhồi máu cơ tim... Nhưng trong một thời gian dài bệnh diễn ra âm ỉ, không có triệu chứng gì khác lạ nên bệnh nhân khó nhận biết để điều trị, đến khi bệnh nặng thì việc chữa chạy rất khó khăn và tốn kém.
Tích cực điều trị, bệnh sẽ được cải thiện rất nhiều. Trong vòng 5-10 năm gần đây, nhiều nghiên cứu về phòng ngừa các biến chứng của bệnh ĐTĐ đã được công bố tại các nước châu Âu và Bắc Mỹ:
- Giảm bệnh lý tim mạch hơn 1/3 khi điều trị bệnh nhân ĐTĐ bằng nhóm Statin.
- Thuốc ức chế men chuyển làm giảm diễn tiến của bệnh thận ĐTĐ.
- Kiểm soát đường huyết chặt chẽ làm giảm 25% biến chứng mạch máu nhỏ nói chung.
- Kiểm soát huyết áp tốt giảm được 25% biến chứng võng mạc của bệnh nhân ĐTĐ.
- Kiểm soát đường huyết tốt giảm được 40% biến chứng võng mạc của bệnh nhân ĐTĐ.
- Giảm hoặc làm chậm diễn tiến của tất cả các biến chứng khi điều trị phối hợp nhiều khía cạnh của bệnh ĐTĐ như tăng đường huyết, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa mỡ.
Điều đáng mừng là đã có bằng chứng cho thấy có thể ngăn chặn được sự xuất hiện của bệnh ĐTĐ type 2 trên các đối tượng có nhiều yếu tố nguy cơ (còn gọi là phòng ngừa tiên phát bệnh ĐTĐ type 2). Ăn uống đúng cách, tập luyện thể dục đều đặn có thể làm chậm sự xuất hiện của bệnh ĐTĐ từ 31-58%.
Nên tích cực áp dụng chế độ dinh dưỡng ít chất béo, giảm đường, bột. Bệnh nhân ĐTĐ nên chọn theo dõi điều trị đều đặn tại một cơ sở y tế. Ngoài khía cạnh chuyên môn, điều trị một bệnh mãn tính cần rất nhiều sự hỗ trợ của gia đình và xã hội. Tổ chức Sức khỏe thế giới (WHO) kêu gọi sự hỗ trợ của Nhà nước cho các cơ sở y tế và các hội chuyên khoa để tăng cường việc phòng ngừa, chăm sóc, giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân và điều trị bệnh ĐTĐ, căn bệnh của thế kỷ 21.
PGS - Tiến sĩ Nguyễn Thy Khuê (Bộ môn Nội tiết - ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh)
|
|